Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ký
sự
Chủ đề:
tiền đồn tống lê chân
Tác giả: MĐ
Phan Nhật Nam
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Khi
người dân trên toàn thế giới rung chuông, mở rượu, tung giấy ngũ sắc
để chào mừng Hòa Bình Việt Nam, cùng lúc đó tại một hóc hẻm của Việt
Nam, trên ngọn đồi cao năm mươi thước giữa ranh giới hai tỉnh Tây
Ninh, Bình Long, một cứ điểm quân sự trông xuống hai con suối bắt
đầu nổ súng như tia chớp giữa ngày quang.
*** (SGtt)
Đây là vùng đất gần biên giới Việt Nam – Campuchia, vì vậy có rất
nhiều người địa phương gốc Khmer. Họ gọi vùng này là Tonlé Tchombe.
Tonlé tiếng Miên có nghĩa là nơi có nước. Nơi đây chính là nơi giao
nguồn của 2 nhánh sông nhỏ thượng nguồn của sông Sài Gòn, vì vậy có
tên gọi như trên.
Trận đánh Tống Lê Chân bắt đầu nặng độ. Lợi
dụng ngưng bắn, bọn cộng sản bắc việt ra mặt tấn công ngày. Không ai
trên thế giới biết đến, tất cả muốn xóa đi, bỏ qua tai nạn cục bộ
của một Việt Nam rắm rối. Hòa Bình – thứ rượu nhạt mà thế giới hằng
lâu không được uống.
Tống Lê Chân – trận chiến cuối mùa và cô
đơn nhất của dòng thời gian binh lửa. Tính đến nay, căn cứ bị vây
đúng 17 tháng hay 510 ngày. Không ai trong chúng ta nghĩ đến con số
nhỏ bé ghê gớm này. Chúng ta cũng là những kẻ có tội.
Stalingrad bị người Đức bao vây 76 ngày, người Mỹ giữ cứ điểm Bataan
66 ngày, quân lực Anh và khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk 241
ngày, và ở Việt Nam, “địa đàng” của chiến tranh, nơi binh đao tung
hoành không giới hạn, chúng ta cũng đã có những nơi chốn với tên gọi
để đời như Điện Biên Phủ bị bao vây tới số lượng 57 ngày.
Gần
gũi và còn được nhớ là những trận đại chiến khởi đi trong mùa hè
1972, những trận đánh vượt qua hẳn chiến sử thế giới với các địa
danh: Kontum, An Lộc, Quảng Trị. Nhưng Delta, Charlie ở Kontum cũng
chỉ kéo trong vài ngày, An Lộc 110 ngày, và Quảng Trị thực sự đến
ngày 25/7/1972 đã được giải tỏa phần lớn. Thế nên, Tống Lệ Chân với
510 ngày bị vây hãm phải được xem là trận đánh dai dẳng nhất lịch sử
chiến tranh nhân loại.
Căn cứ nhỏ bé đó từ ngày 10/5/1972 đã
bị mờ khuất sau làn khói dậy lên từ An Lộc, Quảng Trị, Kontum, và
đến nay – sáu tháng sau ngày hòa bình độc hại, chiếc tiền đồn lại
càng có khuynh hướng bị xóa mờ để che giấu và vô hiệu hóa tội ác của
bọn cộng sản bắc việt.
Chúng ta phải nhỏ xuống giọt nước mắt
để cầu nguyện cho một nhóm người trong 510 ngày đã phấn đấu để chứng
tỏ cùng thế giới: Tội ác đã đồng nghĩa cùng người Cộng sản. Tống Lê
Chân, giọt nước mắt tinh tuyền từ sức đối kháng vô bờ của người Việt
miền Nam.
Căn cứ được thiết lập trên ngọn đồi cao năm mươi
thước, trông xuống hai con suối Takon và Neron, những nhánh nguồn
đầu tiên của sông Sài Gòn, dầy đặc khắp miền Tây Ninh, Bình Long,
nằm trên đường ranh của hai tỉnh này, cách An Lộc mười lăm cây số về
phía Đông–Bắc và ở phía nam biên giới Việt–Miên khoảng mười ba cây
số. Điểm nhọn của chiếc Mỏ Vẹt, đại bản doanh của Cục R, Trung Ương
Cục Miền Nam chiã thẳng vào căn cứ.
Tống Lê Chân trước kia
là một trong những trại Dân Sự Chiến Đấu thuộc Lực Lượng Đặc Biệt mà
người Mỹ đã thành lập từ năm 1967. Trong lãnh thổ Quân Khu III dọc
theo biên giới Việt–Miên từ Tây Ninh qua Phước Long có những trại
Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân, Lộc Ninh, Quản Lợi, Bù Gia
Mập; chỉ riêng trại Bến Sỏi nằm trong nội địa Tây Ninh.
Các
trại còn lại làm thành một hàng rào song song với biên giới hệ thống
tiền đồn ngăn chặn, báo động lần xâm nhập, điều động của bọn phỉ
quân cộng sản từ bên kia biên giới, nơi có những địa danh đã một lần
vang dội như Lưỡi Câu, Mỏ Vẹt. Hệ thống trại còn là nơi phát xuất
những cuộc hành quân tuần tiểu phát hiện và tiêu diệt các đơn vị
địch trong vùng.
Vùng hoạt động của trại cũng là chiến khu
của bọn phỉ quân bắc việt xâm lược: Chiến khu C, và cũng như hệ
thống đường liên tỉnh mà chính quyền Tổng Thống Diệm đã thành lập từ
những năm 1960, 1961, những trại Lực Lượng Đặc Biệt, sản phẩm đắc ý
của Tổng Thống Kennedy.
Nhưng đến bây giờ, năm 1973 tại Việt
Nam, lúc người Mỹ đã quay phi cơ về Clark Field, Guam, bỏ lại xứ sở
Đông Dương mịt mù tiếng đạn trong âm vọng hòa bình giả tạo. Các trại
kia chỉ còn lại là những chiến trường địa phương bị cô lập với thế
giới bên ngoài đành đoạn.
Không phải là chiến tranh nữa, đây
chỉ còn là những cơn sốt vỡ da cho “Hòa Bình” nguy hiểm. Tống Lê
Chân, cơn sốt cuối cùng và dai dẳng. Dưới chân đồi căn cứ về phía
bắc còn có đường 246 nối Tây Ninh và Bình Long, xuyên qua lớp rừng
xanh lá, đây là con lộ huyết mạch để Mặt Trận nối liền hai vùng sinh
tử, khu C và khu D.
Tống Lê Chân cũng là yết hầu chặn ngang
đường dây Bắc–Nam nối bản doanh cục R và vùng Dầu Tiếng, để từ đây
xâm nhập xuống Bình Dương – Gia Định. Với vị trí chiến thuật quan
trọng như thế, Tống Lệ Chân không còn là mục tiêu quân sự thông
thường, căn cứ nhỏ bé này có một tầm quan trọng khẩn thiết. Kiểm
soát được bốn hướng Tây–Đông, Bắc–Nam của toàn hệ thống giao liên
quan trọng trong lòng căn cứ địa đối phương. Từ ngày thành lập, Tống
Lệ Chân chưa hề có một ngày thanh bình.
Tên địa phương là
Tonlé Chombé, vị Chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu tá Đặng Hưng Long,
gọi trại thành Tống Lê Chân, binh sĩ nói thành Tống Lệ... Những
người ngoài binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt phần đông gọi theo danh từ
hàm súc này. Tống Lê Chân – tên tiền định cho số kiếp nghiệt ngã.
Năm 1970, trong chương trình cải tuyển binh chủng, binh sĩ trại
phần đông là dân sự chiến đấu thuộc sắc dân Stiêng tình nguyện ở lại
cùng căn cứ để biến cải thành Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên
Phòng. Tháng 4/1972 song song với các cuộc cường tập vào Lộc Ninh,
An Lộc, bọn phỉ quân bắc việt đã có ý định “ủi láng” hết dãy căn cứ
biên phòng trên để rộng đường điều quân, cùng chuyển vận quân nhu,
quân cụ.
Tình hình khẩn trương của thời gian ấy đã khiến Bộ
Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu III quyết định rút hết lực lượng
thuộc bốn căn cứ: Thiện Ngôn, Katum, Tống Lê Chân, và Bù Gia Mập.
Nhưng người chỉ huy của Tống Lê Chân đã có câu trả lời sau khi nhận
được lịnh:
– Xin ở lại để chiến đấu bảo vệ căn cứ. Di tản
tiếc quá, Biệt Động Quân mà di tản yếu quá...
– Tình hình có
giữ nổi không?
– Tất cả binh sĩ đều xin ở lại bằng mọi giá để
bảo vệ uy tín binh chủng!
Định mệnh đã điểm giờ phút đó, lực
lượng nhỏ bé của Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Phòng trở nên
những anh hùng lặng lẽ của trận đánh cuối cùng làm sáng tỏ sức chiến
đấu bền bỉ của người cho Hòa Bình.
Hòa Bình Việt Nam, giấc mơ
tội nghiệp của một dân tộc được tưới thêm máu nóng của những người
lính vô danh Tiểu Đoàn 92 BĐQ trong một hóc của núi rừng Miền Đông
Nam Bộ. Thế giới giữ được cân bằng trên hòa bình vất vả này. Toàn
thể nhân loại có biết thế không?
Giữ một vị thế trọng yếu
trong hệ thống giao liên giữa căn cứ địa của địch, bảo vệ được cạnh
sườn phía tây cho An Lộc, Tống Lệ Chân trên bản đồ hành quân của Ban
Tham Mưu Cục R đã được xác định là một mục tiêu cần phải “dứt điểm”.
Ngày 10/5/1972, bọn phỉ quân bắc việt dồn lực lượng đánh trận
biển người vào căn cứ có chiến xa yểm trợ sau khi đặc công đã xâm
nhập được vào vòng đai phòng thủ. Nhưng căn cứ vẫn đứng vững được
như lời nguyền, người chỉ huy của trại mang tên Lê Văn Ngôn với số
tuổi khiêm nhượng, 25 tuổi, đã giữ được lời thề.
Ngôn thuộc
khoá 21 Đà Lạt ra trường năm 1966, bây giờ – tháng 9/1973, Ngôn
mang cấp bậc trung tá. Một thời gian kỷ lục nhưng không ai tị hiềm.
Không thể tị hiềm được vì hình như quân sử thế giới không có một đơn
vị nào bị vây trong thời gian 510 ngày vẫn còn đơn độc chiến đấu.
Ngôn và Tiểu Đoàn 92 của anh là một biệt lệ, hiện thực ý niệm cao cả
về trách nhiệm và giá trị mà người lính muôn đời hiện thực.
Những người lính khắp nơi của thế giới đã nhiều lần chứng tỏ tầm vóc
vĩ đại của mình trên đảo Saipan, nơi buồng lái của những chiếc máy
bay Zéro, trong những phi vụ trên vùng trời Âu Châu được đan kín bởi
một lưới lửa đạn phòng không suốt đệ nhị thế chiến. Ở Việt Nam, trận
Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971, và suốt năm 1972, nhiều đơn vị, nhiều
người lính đã chứng tỏ phẩm chất vĩ đại cao cả của mình. Trên tất cả
mọi cao điểm đó, Tống Lệ Chân rực rỡ với ánh sáng của riêng mình.
Ngày 8/6/1972, An Lộc được chính thức giải tỏa sau khi Tiểu Đoàn
6 Nhảy Dù “bắt tay” được với Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù, lực lượng cực nam
của cửa ngõ vào An Lộc, bọn tàn quân cộng phỉ bắc việt rút chạy về
phía tây để bồi dưỡng và chuẩn bị đánh lớn. Dãy căn cứ bạn đã di
tản, Tống Lệ Chân còn lại mỗi mình, bọn công trường 9 phỉ quân cộng
sản bắc việt dùng lực lượng cơ hữu thay phiên nhau nhồi Tống Lệ
Chân trong suốt một năm dài.
Ngày 27/1/1973 Hiệp Định Ba Lê
được ký kết để tái lập Hòa Bình tại Việt Nam. Ngày 25/1/1973 cũng là
ngày N (1) của cuộc tấn công cường tập vào Tống Lệ Chân, Cộng quân
muốn “ủi láng” căn cứ để hoàn toàn kiểm soát vòng đai biên giới từ
Tây Ninh qua Lộc Ninh, cuộc tấn công không thành và bây giờ – tháng
9/1973 – tám tháng sau ngày “ngưng bắn”, theo thống kê chính xác của
người lính ngồi dưới hầm trốn pháo, theo bài tính cộng của viên sĩ
quan hành quân tiểu đoàn:
Căn cứ bị pháo kích 233 lần, 20 lần
bị tấn công biển người, 7 lần đánh đặc công, và chiếc đồn trơ trọi
trên đỉnh cao 50 thước đó đã nhận 14,500 trái đạn đủ loại nổ liên
tục trong tám tháng hay 220 ngày được gọi là “Hòa Bình” trên đất
nước Việt Nam!
Cuộc bao vây đã diễn ra trong 510 ngày dài,
binh sĩ bị thương và chết lên đến gần con số 100, phần lớn bị thương
không di tản được. Bất chấp luật lệ quốc tế, bất chấp cả lòng nhân
đạo giữa những sinh vật gọi là người, và rất trái ngược với “tinh
thần hòa giải và hòa hợp dân tộc” mà từ tên lính gác ở bờ bắc sông
Thạch Hãn đến gã thượng tá tóc bạc ngồi ở bàn hội nghị luôn luôn mồm
nói lên với vẻ trang nghiêm cẩn mật.
Máy bay trực thăng tải
thương là mục tiêu thực tập cho các đơn vị phòng không Cộng sản dựng
dầy đặc quanh căn cứ. Ngày 10/8/1973 phi vụ tản thương chót không
thực hiện được, chiếc UH1 của Phi Đoàn 233 bị đốn ngã, phi hành đoàn
phải ở lại căn cứ và những người này chỉ có thể trở ra khi những
người bạn cùng phi đoàn đã thực hiện được một chuyến bay không giống
bất cứ một phi vụ trực thăng nào của cuộc chiến mười năm.
Phi
vụ bắt đầu lúc 12:00g đêm từ phi trường Biên Hòa và mục tiêu là Tống
Lệ Chân. Phi vụ này còn có nhiệm vụ mang số tiền thưởng của quân
dân Vùng III tặng Tiểu Đoàn 92 và cặp lon trung tá cho Ngôn. Phi
tuần trưởng của chuyến bay này là Thiếu tá Bảo, bạn cùng khoá với
Ngôn.
Nhưng tình trạng bi tráng này đã nảy nở ra một khía
cạnh khác, trong sổ bảy mươi lăm người bị thương, con số xin ở lại
lên đến bốn mươi. Đến một lúc nào đó, trong một hoàn cảnh thích hợp,
sự can trường trở nên như một tính chất tổng quát và chung của cộng
đồng. Bịnh sốt rét và phù thủng đã khống chế toàn trại nguyên do bởi
thiếu dinh dưỡng và cuộc sống chật chội quá lâu dưới hầm đất.
Trong tháng 7/1973 các cuộc tiếp tế thả dù tưởng chừng như không
thể thực hiện được. Chiếc móc nối kiện hàng và bộ phận phối hợp trên
máy bay không còn nữa. Cuộc họp của các giới chức cao cấp nhất về
tiếp vận và không trợ đã diễn ra dồn dập để giải quyết vấn đề “cái
móc”, mà một bộ phận chính là đoạn dây cable dài chừng một tấc.
Đoạn dây cable này có nhiệm vụ giữ palette (tấm sắt làm đế của
kiện hàng thả dù) với hệ thống phối hợp; khi máy bay đến địa điểm
thả dù, bộ phận cắt sẽ được bấm nút để chặt xuống đoạn dây này,
palette mang kiện hàng sẽ lăn ra cửa máy bay trên hệ thống bánh xe.
Từ trước đến nay, các cơ quan thả dù không quân chẳng ai để ý
đến đoạn dây ngắn ngủi này vì quá thừa thãi. Khi Tống Lê Chân bị
vây liên tục, đồ tiếp liệu, tiếp tế phải thả dù, nên đến một lúc
người ta khám phá đoạn giây cần thiết này bị thiếu! Muốn gởi mua ở
Mỹ phải gởi đúng nơi sản xuất nó qua một hệ thống đặt hàng phức tạp,
trước một thời gian dài, đoạn dây cũng phải được gọi bằng ám số lê
thê, hãng chế tạo mới cung cấp đúng.
Phe ta, vốn truyền thống
“gì cũng được” nên đến lúc cần mới bật ngử, không làm sao cấp thời
giải quyết được. Nhưng cái khó không bó cái khôn, dây lớn đúng cỡ
không có thì biến chế bằng hai sợi dây nhỏ kết vào nhau...
Và
kết quả, dù thả mười cái hết sáu cái rơi ra ngoài căn cứ! Khoảng
trống giữa hai sợi dây nhỏ kết lại đã làm thời gian cắt đoạn giây
dài hơn vài giây. Vài giây của tốc độ hơn hai trăm dặm giờ khi phi
cơ thả dù đã làm cho chiếc dù bay ra khỏi chiếc đồn nhỏ bé. Bi thảm
hơn, có những ngày bị Cộng quân pháo kích và tấn công liên tục, toàn
căn cứ phải nhịn đói hoặc bắt gián ở các hầm cầu để nướng ăn thay
cơm!
Nhưng dù thiếu thức ăn và sống dưới hầm lâu trong 510
ngày, cùng một lúc sức chiến đấu lại tăng trưởng theo chiều cao,
theo cường độ tấn công và pháo kích của giặc. Tống Lê Chân bắt chúng
ta suy nghĩ khi biết được Gilles, viên tướng nhảy dù lừng danh của
Quân Đoàn viễn chinh Pháp đã nói cùng Cogny và Navarre:
“Hãy
móc tôi ra khỏi đấy (Điện Biên Phủ), tôi vừa sống sáu tháng ở ‘ổ
chuột’ Na Sản... Tôi quá sợ những điểm bưng bít như thế này!” – sáu
tháng ở cứ điểm Na Sản trong vị thế của một người chỉ huy cùng với
phương tiện vật chất thừa thãi cũng đủ làm cho ông tướng gốc người
Corse phải kinh khiếp.
Thế nhưng trên ngọn đồi năm mươi
thước, dưới hầm sâu lạnh tanh, viên trung tá trẻ nhất Quân Lực Miền
Nam, Lê Văn Ngôn, đã sống đến ngày thứ 510 cùng Tiểu đoàn Biệt Động
với quân số thiếu hụt và thực phẩm phải dè sẻn từng túi cơm sấy.
Đau đớn hơn tất cả, Ngôn chiến đấu trong hòa bình giả tạo và
gian dối mà đối phương cùng thế giới đang nhân danh mỗi giờ, mỗi
phút. Những giờ phút Tiểu Đoàn 92 ẩn mình dưới giao thông hào đợi
cơn pháo qua, giờ phút của 510 ngày thiếu ánh mặt trời.
Vậy
vấn đề được đặt ra cùng sự kiện như đã trình bày: Chúng ta phải làm
gì cho số người nhỏ bé cao cả trên cao điểm năm mươi này? Ngăn chặn,
phát hiện địch, giữ căn cứ để làm bàn đạp tung quân tuần tiểu, tấn
công và truy kích địch, những mục tiêu đầu tiên mà ý niệm hành quân
đã đặt để cho căn cứ không còn nữa.
Chúng ta chỉ còn lại một
biểu tượng bi tráng, chỉ có một chiến trường phi lý để những người
anh hùng âm thầm ngã xuống trong lặng lẽ, làm sáng tỏ cách tàn ác,
khiếp nhược của một hòa bình độc hại. Chúng ta sẽ là gì nếu bỏ qua
hay thụ động buông thả để duy trì tình trạng phi lý độc địa này.
Phiên họp đặc biệt cấp Trưởng Đoàn ngày 17/3/1973 do Việt Nam
yêu cầu và Hoa Kỳ chủ vị, chính thức đặt Tống Lệ Chân lên bàn hội
nghị. Trưởng Đoàn Việt Nam Cộng Hòa, Tướng Dư Quốc Đống đề nghị ba
biện pháp cấp bách:
– Cử ngay một Tổ LHQS/4B Trung Ương đi
Tống Lệ Chân để điều tra vi phạm, sau khi có thỏa thuận tại hội
nghị.
– Nếu hai phe Cộng sản không thỏa thuận đề nghị, Hoa Kỳ
trên tư cách chủ vị gửi văn thư yêu cầu UBQT cử người đi điều tra.
– Yêu cầu phía Mặt Trận Giải Phóng ra lệnh ngay cho các đơn vị
của mình chung quanh Tống Lệ Chân phải ở nguyên vị trí không được
bắn lên phi cơ của UBQT khi đến điều tra.
Nhưng lọc lừa là
tính chất cơ bản, phía MTGP biết chắc phiên họp đặc biệt này sẽ thảo
luận một vấn đề nghiêm trọng mà họ chưa có chỉ thị để giải quyết; dù
Trần Văn Trà mang quân hàm trung tướng chăng nữa ông ta cũng không
bao giờ quyết định được một vấn đề gì, dù vấn đề đó chỉ thuộc về
nguyên tắc, thủ tục nếu chưa có chỉ thị trước, nên Trà đã vắng mặt
để cho viên Đại tá Đặng Văn Thu đại diện họp thay.
Trước ba
đề nghị xác đáng của một vấn đề cụ thể, Thu không ngập ngừng, bối
rối né tránh với tố cáo: Việt Nam Cộng Hòa đã vi phạm ngưng bắn tại
Đức Phổ, Sa Huỳnh, (Quảng Ngãi), Đức Cơ (Pleiku)... Và kết luận ung
dung: Chính VNCH vi phạm tại các địa điểm trên! Không một lời nói,
không một từ ngữ nhắc đến sự kiện, địa danh Tống Lê Chân.
Trưởng phái đoàn Bắc Việt gật gù tán đồng, lặp lại lời phát biểu
của MTGP với thứ tự từ ngữ địa danh được nói khác đi một chút. Bài
học đã được học từ nhà, các cậu học trò Cộng sản lặp lại không sai
một chữ bất chấp nội dung rõ rệt của ba đề nghị – Ý kiến – Yếu tố
không bao giờ có trong đầu của cá nhân người Cộng sản khi chưa “hội
ý”!
Thấy hai phái đoàn Cộng sản không đá động gì đến ba đề
nghị vừa trình bày. Phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa lặp lại đề nghị lần
thứ hai: Nếu Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên Trung Ương chưa thống
nhất ý kiến thì yêu cầu Hoa Kỳ gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế để Ủy
Ban này đi điều tra.
Mặt Trận Giải Phóng cùng Bắc Việt lại
hát lên một nội dung: “Không đồng ý việc gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc
Tế vì tình hình chưa rõ rệt, chưa có an ninh không tiện lợi cho Ủy
Ban Quốc Tế đến để điều tra...” Phiên họp ngưng ở kết luận này.
“Tinh thần nhất trí” của văn bản Hiệp Định. Tính chất không bao giờ
có ở bàn hội nghị!
Cho chắc ăn hơn nữa, phía Cộng sản mớm lời
cho hai phái đoàn Ba Lan, Hung Gia Lợi, khi tiếp nhận văn thư của
Hoa Kỳ yêu cầu đi điều tra Tống Lê Chân: “UBQT không đồng ý đi điều
ra ở một nơi khi nơi đó chưa được an ninh!” Muốn chắc hơn, hai phái
đoàn quốc tế Cộng sản này lại đưa thêm điều kiện: Sẽ chịu đi nếu
phái đoàn MTGP cử sĩ quan liên lạc tháp tùng cùng trực thăng. Lẽ tất
nhiên điều kiện không được thực hiện, vì MTGP chắc chắn không bao
giờ đồng ý cử sĩ quan liên lạc tháp tùng.
Một tuần trôi qua,
kể từ phiên họp 17/3/1973, tất cả nỗ lực về Tống Lệ Chân đều bị chắn
lối bởi hai ngón đòn “Tình hình Tống Lệ Chân chưa rõ rệt. Phái đoàn
MTGP chờ chỉ thị của thượng cấp” và đòn “Vì MTGP không cử sĩ quan
liên lạc đi cùng nên Ủy Hội Quốc Tế không thể đến điều tra...” Mặt
Trận Giải Phóng, Bắc Việt, Ba Lan, Hung Gia Lợi nương vào nhau nhồi
trái banh vô liêm sỉ, né tránh hẳn vấn đề.
Ngày 23/3/1973,
chỉ còn bốn ngày nữa là hết thời hạn sáu mươi ngày làm việc của Ban
Liên Hợp Quân Sự bốn bên, Hoa Kỳ thúc dục phái đoàn Gia Nã Đại (Chủ
Tịch Ủy Ban Quốc Tế) trực tiếp thu xếp với MTGP để sớm điều ra sự
kiện Tống Lê Chân, MTGP trốn không nổi, đành đưa Đại tá Võ Đông
Giang, Phó Trưởng đoàn ra gặp Đại tá Lomis (Gia Nã Đại), thỏa thuận
cử sĩ quan liên lạc của Mặt Trận theo Ủy Ban Quốc Tế đến Tống Lê
Chân vào ngày 24/3/1973.
Nhưng rốt cuộc cũng chỉ là trò đánh
tráo, theo thỏa thuận của Giang, sĩ quan Mặt trận sẽ từ Tân Sơn Nhất
đi Tống Lê Chân tiếp xúc với lực lượng Cộng sản ở đây, xong trở về
Biên Hòa (Biên Hòa là khu V Liên Hợp Quân Sự, tức là vùng III của
VNCH) để đón Ủy Ban Quốc Tế vào Tống Lê Chân.
Gã sĩ quan liên
lạc của Mặt Trận nhận
[được]
chỉ thị trước, nên thay vì từ Tống Lê Chân, y trở về hẳn Tân Sơn
Nhứt, Ủy Ban Quốc Tế đợi ở Biên Hòa suốt ngày 24/3/1973. Cuộc điều
tra Tống Lê Chân của Ủy Ban Quốc Tế không bao giờ có thể thực hiện
được: Không bao giờ.
Về phía Liên Hợp Quân Sự, sau một tuần
cố gắng liên tục kể từ phiên họp 17/3/1973, Việt Nam Cộng Hòa buộc
Mặt Trận Giải Phóng phải cử sĩ quan liên lạc đến Tống Lê Chân để
thực hiện tản thương.
Nhưng ngày 23/3/1973, thay vì xuống
Tống Lê Chân như đã dự liệu, viên sĩ quan Mặt Trận xuống Sóc Con
Trăn cách Tống Lệ Chân muời cây số về hướng Tây, viên sĩ quan này
lấy cớ phải liên lạc với “địa phương” y trước, sau một hồi tìm kiếm
trong rừng, y trở lại trực thăng lấy cớ vì bom Mỹ và VNCH đã đánh
đứt đường dây, y không tìm ra ai!
Chiếc trực thăng trở về Sài
Gòn, không một thương binh được di chuyển. Phái đoàn VHCH vẫn kiên
trì yêu cầu MTGP phải thuận để Việt Nam Cộng Hòa tản thương ở Tống
Lê Chân, Mặt Trận Giải Phóng hết cớ từ chối, ngày 24/3/1973, hai
mươi thương binh đầu tiên và cũng là cuối cùng được di tản. MTGP
“hòa hợp, hòa giải, dân tộc” với giá máu này một lần độc nhất. Tống
Lê Chân đóng của vĩnh viễn với nỗi bi hùng của nó.
Cấp Trưởng
Phái Đoàn, cấp Trưởng Tiểu Ban liên tiếp họp để dọn sạch vấn đề Tống
Lê Chân. Nhưng sự thực là một việc và cách nhìn của người Cộng sản
lại là một việc khác, nên sự kiện quân đội Cộng sản bao vây, cường
tập tấn công vào vị trí của ta biến thành... Một cuộc hành quân của
quân đội Sài Gòn lấn chiếm Tống Lệ Chân, nơi nằm sâu từ lâu trong
vùng giải phóng của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời! Kèm thêm luận cứ,
lực lượng Mặt Trận Giải Phóng pháo vào trại là rất tự kiềm chế vì
phải cảnh cáo đơn vị trong đồn muốn “nống lấn” ra ngoài khu vực của
Chính Phủ Lâm Thời (Một đơn vị chỉ hơn hai trăm người có thể nào tấn
công vào vòng vây của một sư đoàn?!)
Về việc gọi loa đầu
hàng, Mặt Trận Giải Phóng giải thích: Đó là giảng “Đạo lý Hiệp Định”
cho binh sĩ trong đồn biết: Đạo lý về Hòa Hợp, Hòa giải Dân Tộc! Ý
nghĩ đích thực của ngôn từ đã biến mất trên lưỡi của người Cộng sản.
Nhưng điều vô lý thô bỉ đã được dựng đứng, đài phát thanh Việt cộng
ào ào tố cáo, Trần Văn Trà, Lê Quang Hòa gởi kháng thư tố giác, các
thành viên Hung Gia Lợi, Ba Lan nghiêm chỉnh nghiên cứu kháng thư.
Và biết đâu trên thế giới có một số đông người tin vào kháng thư
gian dối đó.
Không hiểu Đức Giáo Hoàng khi đọc bản tin của tờ
báo Tòa Thánh đề cập đến bản kháng thư đó Ngài có biết đến những con
mắt nổ lửa dưới hầm sâu Tống Lê Chân đang mong ngày mau đến. Đau đớn
hơn hết khi tại Sài Gòn, nơi chỉ cách Tống Lê Chân trăm cây số đường
chim bay, có những người đã không biết hoặc không muốn biết những
người lính Việt Nam
[Cộng Hòa]
đang ở trong chiếc đồn bị vây vào ngày thứ 510.
Và nhiều kẻ
lại nhìn vấn đề ngược lại: Như đám Ngọc Lan, Chân Tín, thứ chính
khách đối lập Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường, Trương Gia
Kỳ Sanh... (Những Nghị sĩ, Dân biểu được MTGP nhắc nhở nhiều lần ở
bàn hội nghị khi muốn tố cáo chánh quyền VNCH) Những người này là gì
trong khi đồng lõa với tội ác ngập máu này?
Tính đến ngày của
phiên họp đầu tiên đề cập đến Tống Lệ Chân, hai mươi ngày sau ngày
Hòa Bình 28/1/1973, căn cứ có thêm bốn chết và hai mươi hai bị
thương. Những người này chết cho ai? Phải chăng để bảo vệ miền Nam,
trong đó có những người vừa kể trên, những kẻ nhân danh Hòa Bình...
Quả tình chúng ta ở trong một trạng thái hòa bình sau hơn hai
mươi năm nghe súng nổ và lửa cháy. Chúng ta đã nghe quen tiếng nổ
đại bác, hỏa tiễn, chúng ta cũng dần quen với độ cao của ngọn lửa
Mậu Thân, hơi nóng từ An Lộc, Quảng Trị, nên hình như khi hưởng được
sự yên ổn đau đớn của những ngày hôm nay, chúng ta đã quá vội vã
muốn xóa tan vết tích chiến tranh, muốn quên đi những hình ảnh tàn
khốc của tháng kia, năm trước.
Và từ, với hạnh phúc tội
nghiệp này, giữa lòng cơn lốc túng đói, chúng ta đã không có khả
năng để nhớ đến, để nghĩ đến hình ảnh một căn cứ: một căn cứ lẻ loi
cố gắng để khỏi bị hủy diệt, thể hiện ý muốn “sống trong tự do và
hòa bình”, nỗi mơ ước của toàn dân tộc... Mơ ước đó có ta dự phần.
Vậy, chúng ta phải làm gì được cho Tống Lê Chân?
Tôi viết lên
tiếng kêu bi hùng về Tống Lê Chân vào tháng 6/1973, thời gian quân
đội Cộng sản đang chuẩn bị trận dứt điểm vào căn cứ trong dịp mùa
mưa sắp tới của năm 1973. Suốt năm 1973, chiếc đồn nhỏ bé này đã
đứng vững được trước hàng chục lần tấn công và bị pháo hơn vạn quả
đạn, viên chỉ huy căn cứ, Trung Tá Lê Văn Ngôn, hình như định mệnh
đã gắn chặt tên anh cùng chiếc đồn bé nhỏ đó, lời nói quyết chí của
ngày tử thủ đầu tiên đã được giữ trọn như tên anh đã định trước:
Ngôn Một lòng sắt son giữ mãi một lời nói. Trong nguy nan của
mỗi giờ sát cùng cái chết, người anh hùng lặng lẽ với số tuổi quá
nhỏ so với chiến trường kia quả đã hiện thực hình ảnh linh diệu kết
tinh bởi sức chịu đựng vô bờ của dân tộc. Ngòi bút viết ra cũng hổ
thẹn trước nỗi can trường này.
Những phiên họp của tháng 3,
tháng 4, 1974 tại Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên Trung Ương, phía Việt
Nam Cộng Hòa lại lớn tiếng báo động Công Trường 9 nhứt định rút ưu
khuyết điểm của năm qua, tập dượt trên sa bàn cùng trung đoàn 271
quyết ủi láng trại... Trung Đoàn 271 sẽ được yểm trợ trực tiếp bởi
một trung đoàn pháo, một trung đoàn phòng không và một lữ đoàn chiến
xa, không kể thành phần trừ bị và chặn viện.
Một năm trời
thử lửa, một, hai tháng thực tập trên sa bàn, và trên địa thế tương
tự quân cộng sản dùng địa đạo chiến, công kiên chiến khởi đi từ
5/4/1974 đến 01:00g ngày 11/1/1974 đoạt được đồn! Ngôn làm gì được
với quân số 259 người với năm mươi người bị thương từ trước, hai
chục người bị thương ở đợt tấn công sau cùng?!
Tiểu Đoàn 92
BĐQ đã chiến đấu can trường hơn tất cả mọi đơn vị bộ chiến của lịch
sử chiến tranh con người, Ngôn hơn hẳn những người anh hùng của
chiến trận nhơn loại, Alamo, Saipan, Wake, hàng trăm ngàn chiến binh
thế giới đã dựng nên gương sáng can trường về bổn phận cao cả của
người lính, Ngôn và Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân dựng chắc tấm bia
lớn nhứt, rực rỡ nhứt.
Cao quý hơn tất cả, Ngôn và 259 Biệt
Động Quân của Tống Lê Chân là những chiến sĩ chiến đấu cho hòa bình:
Hòa Bình của quê hương Việt Nam. Chúng ta trong thành phố bình yên
có nghĩ gì khi hay tin Tống Lệ chân đã bị đoạt mất, Tiểu Đoàn 92 BĐQ
BP mở đường máu rời căn cứ. Chỉ còn giọt nước mắt. Phải, chỉ còn một
dòng nước mắt ngập bi hùng.
Phan Nhật Nam
tháng 11/1974
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, March 15, 2025
tkd
Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH