Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
hành quân lam sơn 719/hạ
lào–1971
Tác giả:
Phan Nhật Nam
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Đại tá Nguyễn Văn Thọ Lữ
đoàn trưởng Lữ Đoàn III Nhảy Dù bị bắt tại Hạ Lào
ngày
25/2/1971 cùng các sĩ quan Dù khác đang được đưa ra trình diện
trước báo chí ở Hà Nội.
Ngày 12 Tháng 5, 2015, Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng
Lữ Đoàn III Nhảy Dù trở về cõi vĩnh hằng nơi Sydney, Úc hưởng thọ
87 tuổi. Ông là sĩ quan cấp bậc cao nhất của Quân Lực VNCH bị bắt
tại trận địa, Mặt Trận Hạ Lào, Hành Quân Lam Sơn 719 – Tháng 2,
1971. Bài viết như một lời chào kính cuối cùng gởi đến Người Lính
Lớn – Chiến Binh Nhảy Dù Cố Gắng. Cũng nhân cơ hội nhìn lại một
chiến dịch quân sự để thấy ra những biển lận hiểm độc chính trị
đối với vận mệnh Việt Nam nói chung và Quân Lực VNCH nói riêng.
Từ Đông Hà, thị trấn cực bắc lãnh thổ
miền Nam, Đường số 9 bắt đầu chạy về hướng Tây qua những vùng đồi
Cam Lộ, Hương Hóa, Lao Bảo để cuối cùng đến Khe Sanh với tiền
đồn Làng Vây, sát biên giới Việt–Lào. Qua biên giới, con đường
tiếp tục đi dọc sông Tchépone một đoạn dài khoảng 40 cây số,
giao tiếp với đường Hồ Chí Minh tạo nên vùng hậu cần quan trọng
thuộc hệ thống Binh Trạm 604, 611 (lưu ý các phiên hiệu 604; 611
– Có nghĩa, cơ sở đã thành hình từ những năm 1960, 1961 – Thời
điểm dựng bảng hiệu Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, 19/12/1960) của
đường dây chuyển vận Bắc–Nam, nguồn huyết mạch sinh tử đối với
binh đội cộng sản. Thế nên Bộ Tổng Quân Ủy Miền Bắc quyết chiếm
giữ, duy trì vùng tiếp vận quan yếu này bằng mọi giá trong suốt
cuộc chiến tranh xâm nhập, lật đổ Miền Nam.
Tổng Công Kích đợt I Mậu Thân đầu năm
1968, miền Nam đã có hơn 19,000 người chết gồm dân và lính (số
chính xác là 4,959 quân nhân VNCH tử trận và 14,300 thường dân
thiệt mạng) Và đến năm 1970, toàn bộ sào huyệt hậu cần, từ chiến
khu C, D miền Đông Nam Bộ đến Trung Ương Cục Miền Nam trên đất
Miên bị phá vỡ... Giới chức Việt–Mỹ ước đoán tiềm lực xâm lược
miền Nam của phía cộng sản phải có dấu hiệu đình hoãn, hoặc suy
giảm, và chiến dịch đánh qua đất Lào (đầu năm 1971) được hình
thành để thực hiện quan niệm: Cắt đứt đường tiếp vận Bắc–Nam với
tên thường gọi, Đường mòn Hồ Chí Minh. Nhưng không đúng với thực
tế, bởi đã là một hệ thống đường có khả năng để chiến xa hạng
nặng di chuyển với ống dẫn dầu, hệ thống tiếp liệu, tiếp vận quan
trọng bố trí dày đặt tại điểm sinh tử Tchépone để đổi lấy một số
thời gian an toàn đủ hoàn thành các đợt rút quân; ký kết Hiệp
Định Paris trên thế lợi, tiếp rút khỏi Đông Dương như ứng cử viên
tổng thống (tháng 10/1968) Nixon đã từng hứa hẹn với cử tri Mỹ.
Sự thật không xảy ra như ước tính và
hy vọng (!), dù với tỷ lệ khả thể nhỏ nhất. Để yểm trợ cho những
mặc cả chính trị tại Hội Nghị Ba–Lê đang đi vào thời điểm quyết
định (mà sau này sẽ thấy rõ hơn ở năm 1972), phía Hà Nội lại
chuẩn bị cho lần xâm lược mới qua việc thành lập Quân Đoàn 70B
chỉ huy hành quân ba sư đoàn 304, 308 và 320 – những đơn vị phụ
trách toàn vùng Nam Lào, bao gồm khu Phi Quân Sự, lãnh địa cực
Nam của Miền Bắc. Tướng Võ Nguyên Giáp từ Tháng 10/1970 đã ra chỉ
thị cho những đơn vị trên chuẩn bị kế hoạch phản công trường hợp
quân đội miền Nam tiến đánh vùng Nam Lào qua việc thiết lập những
vị trí pháo, khu vực phục kích, những vùng trực thăng (có thể) đổ
quân... Có nghĩa: Phía Bắc quân đã chuẩn bị kế hoạch phản công từ
khi chưa có lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 trước những bốn tháng!
Một.
Lam Sơn 719, Như thế nào? Để làm gì?
Kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 719 được
thiết lập và Ngày 8 Tháng Hai, 1971, chiến dịch bắt đầu với vùng
hậu cần Tchépone là mục tiêu cần phải đánh chiếm, giữ vững trong
một thời hạn đủ để phía cộng sản phải giảm mức tấn công tại Miền
Nam (do thiếu tiếp vận, yểm trợ chuyển đi từ Miền Bắc). Thêm một
lần, vùng địa đầu Quảng Trị “được” chọn lựa làm nơi chốn cho cuộc
huyết chiến, giao tranh. Nhưng cũng không hẳn như trên đã kể, bởi
cuộc hành quân này tự khởi đầu được trù định theo yêu cầu chiến
lược của phía Mỹ: Chính phủ Mỹ thiết kế chiến lược và quân Nam là
nhân tố thực hiện chiến thuật.
Từ phòng tuyến Khe Sanh, đại quân Miền
Nam được tổ chức nên thành ba lực lượng tấn công chính với ba
hướng tiến quân, lấy đường số 9 làm địa giới trung tâm khu vực
trách nhiệm. Giai đoạn thứ nhất của cuộc hành quân khai diễn đúng
ngày 8 tháng 2. Hai Tiểu Đoàn 39, 21 và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn I
Biệt Động; Tiểu Đoàn 2, 3 Dù và Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III Dù do Đại
tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy được trực thăng vận xuống chiếm đóng,
thiết lập, trấn giữ những căn cứ hỏa lực từ bắc xuống nam, tả
ngạn sông Tchépone, nơi các cao điểm được đặt tên: Ranger North
(39BĐQ); Ranger South (21BĐQ); Căn cứ hỏa lực 31 (TĐ3ND); Căn cứ
hỏa lực 30 (TĐ2ND) để bảo vệ mặt bắc trục tiến quân trung phong
trên Đường số 9. Từ căn cứ Hàm Nghi, đông Khe Sanh, Lữ Đoàn 1
Thiết Kỵ (đặt thuộc quyền hành quân Bộ Tư Lệnh SĐ Dù) có Tiểu
Đoàn 8 Dù tùng thiết theo đường bộ tiến tới Bản Đông, tên quân
sự: Căn cứ A Lưới, do Tiểu Đoàn 9 và pháo binh Dù thiết lập căn
cứ hỏa lực; Căn cứ Béta (Bravo), hay Bắc Bình do Tiểu Đoàn 1 Dù
(sau này tăng cường TĐ7 Dù), bộ chỉ huy Lữ Đoàn I Dù chỉ huy
tổng quát cánh quân này.
Sư Đoàn 1 Bộ Binh chịu trách nhiệm cánh
quân mặt Nam Đường 9, hữu ngạn sông Tchépone, trực thăng vận các
tiểu đoàn cơ hữu vào vùng, thiết lập các căn cứ hỏa lực Hotel,
Don, Delta và Delta–1 để bảo vệ cạnh sườn trục tiến quân trung
tâm mà chủ yếu để nhịp tiến quân của Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ và Lữ
đoàn I Dù đến đúng mục tiêu Tchépone như đã dự liệu. Sư Đoàn Thủy
Quân Lục Chiến làm thành phần trừ bị ở giai đoạn này.
Tướng Abrams đã thay thế Tướng
Westmoreland từ giữa năm 1968, và bắt đầu áp dụng chiến thuật
“Chiếm và Giữ” thay vì “Lùng và Diệt” của Westmoreland. Với chiến
thuật mới, Abrams chỉ cần khai triển những đơn vị tương đối nhỏ
(không tập trung quân vào những chiến dịch lớn với những đại đơn
vị, như người tiền nhiệm) và quan trọng hơn hết là chuẩn bị những
đợt rút quân từ tháng 6 năm 1969, với những đơn vị vùng châu thổ
sông Cửu Long, nơi được đánh giá là tình hình an ninh tương đối
ổn định, cụ thể trong Mậu Thân 1968, không có thành phố, tỉnh lỵ
nào bị cộng sản chiếm cứ và gây tác động tổn thất lớn như ở Huế,
Sài Gòn. Ngày 8 tháng 6, 1969 kế hoạch rút 25,000 quân chính thức
được công bố với đơn vị đầu tiên, Sư Đoàn 9 Bộ Binh rời khỏi Căn
Cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Tiếp theo, 29 tháng 9, quân số Mỹ ở Thái Lan
rút đi 6,000 người.
Ngày 9 tháng 10, sau nhiều tính toán
đầy kịch tính, Bộ Trưởng Quốc Phòng Melvin Laird công khai trình
diễn màn kịch lớn – Việt Nam Hóa Chiến Tranh – Viên đá tảng của
chiến lược Nixon.
Cũng cần nói rõ thêm về yếu tố chính
trị đã dẫn đến Hành Quân Lam Sơn 719. Không phải đến thời điểm
1969, 1970 này, Tổng Thống Mỹ Nixon, người được Billy Graham
đánh giá và mô tả chính xác: “người được chuẩn bị kỹ nhất để làm
tổng thống nước Mỹ” đã phát hiện và xây dựng nên kế hoạch. Nhưng
đúng ra từ tháng 10, 1968, đang trong giai đoạn vận động tranh
cử, Nixon đã nhận ra “ẩn số” của vấn đề Việt Nam – Rút quân đội
Mỹ khỏi chiến trường – Lời giải phương trình này không do ai xa
lạ làm nên, chính tổng thống đảng Dân Chủ, Johnson đã gióng trước
qua Thông Cáo Chung Manila ngày 25 Tháng 10, 1968 (được hoàn
thành với nguyên thủ các nước tham chiến tại Việt Nam gồm Phi,
Úc, Đại Hàn, Tân Tây Lan, và Thái Lan) – Với điều khoản trụ cột:
Quân Mỹ và Đồng Minh sẽ rút hỏi miền Nam Việt Nam cùng lần quân
với Bắc Việt. Hà Nội cũng phải cam kết không xâm nhập, yểm trợ
lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam (?!).
Tuy đánh giá kế hoạch này là “không
tưởng” với các phụ tá trong ban tham mưu tổ chức tranh cử, nhưng
Nixon, con người với mẫn cảm chính trị tinh tế cũng đã nhận ra
giải pháp thật sự có khả năng thực hiện để giải quyết mối rối
Việt Nam – Cũng là phương cách hữu hiệu và an toàn nhất để “tháo
gỡ” mối liên kết Nga–Hoa, đánh vỡ phần cân bằng cố kết của phe
cộng sản trong chiến lược chính trị thế giới. Việt Nam Hóa Chiến
Tranh Đông Dương với sự rút đi của quân lực Mỹ là bước chiến
thuật vô cùng tinh tế lợi hại (lẽ tất nhiên phải chịu những hậu
quả bất lợi cục bộ ban đầu) để tổ chức lại, tái phối trí lực
lượng quân sự Mỹ ở vùng Châu Á–Thái Bình Dương (vấn đề Miền Nam
có tồn tại được hay không theo sau kế hoạch này là một chuyện
khác). Hành Quân Lam Sơn 719 với xương máu Lính Việt nơi vùng heo
hút Khe Sanh, Tchépone là “nền tảng ban đầu xây dựng nên Trật Tự
Thế Giới Mới” hôm nay, với sự biến mất không cơ hội hồi phục của
lực lượng cộng sản đệ tam. Qua thế kỷ 21, chúng ta có thể nói
chắc như thế mà không sợ sai lầm.
Tiến vào Lào
Trở lại với chiến trận, bắt đầu từ giai
đoạn chuẩn bị lệnh hành quân đến ngày N của chiến dịch đã có
những sự kiện “bất thường” tai hại để sau này biến thành tai họa
vô lường đối với các đơn vị tham chiến. Lấy lý do bảo mật, Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn I, cơ quan chỉ huy tổng quát cuộc hành quân hạn
chế tối đa nhân sự tham dự việc soạn thảo lệnh, chỉ gồm những
giới chức cao cấp (Phòng Ba, Hành Quân và Phòng Hai, Quân Báo),
ban tham mưu quân đoàn dưới quyền Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, có
tham dự của Trung tướng James W. Sutherland, Tư Lệnh Quân Đoàn
XXIV, đơn vị Mỹ trách nhiệm không, pháo yểm và tiếp liệu cho
chiến dịch với hậu cần ở Đông Hà, Ái Tử, Quảng Trị, Đà Nẵng.
Điển hình cho sự hạn chế này, Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn Dù, đơn vị giữ nhiệm vụ nỗ lực chính cuộc hành quân
chỉ được thông báo vào “Ngày 2 Tháng Hai – Một tuần trước khi
chiến dịch khai diễn”. Sĩ quan tham mưu, chỉ huy các đơn vị trực
thuộc của Sư Đoàn Dù ra đến Đông Hà, chuẩn bị vào vùng hành quân
mới biết nhiệm vụ đánh qua đất Lào – Tin tức do dân chúng truyền
rao! Nhưng thực tế, “bảo mật” đã là một điều bi hài, sau khi
chiến dịch kết thúc, cơ quan CIA tổng kết, lượng giá kế hoạch,
diễn tiến hành quân, đã phát hiện ra điều nguy biến đầu tiên và
chính yếu: Toàn bộ lệnh, phóng đồ hành quân, những căn cứ hỏa lực
dự trù, điểm đổ quân, thậm chí vị trí hỏa tập tiên liệu, lẽ tất
nhiên tọa độ phi pháo yểm (của phía Hoa Kỳ, tùy thuộc vào mức độ
thông báo từ phía Mỹ đối với bộ tư lệnh Quân Đoàn I)... Tất cả
tài liệu “bảo mật” này đồng được chụp lại, sao y phó bản từ nơi
in ấn lệnh hành quân!
Cũng không loại bỏ nguồn tin bị thất
thoát từ bộ Tổng Tham Mưu ở Sài Gòn, nơi Phủ Tổng Thống đường
Công Lý. Sau 30 Tháng Tư, 1975, những điều tồi tệ tai họa này đã
là sự kiện đương nhiên được xác định.
Cũng trong ý hướng bảo mật cuộc hành
quân, Bộ Tư Lệnh Quân Đội Mỹ ở VN, MACV, ra lệnh “cấm phổ biến”
đối với báo chí, phát ngôn viên quân sự được lệnh không đề cập
đến diễn tiến cuộc hành quân. Nhưng, tất cả đã là một “lầm lẫn
vụng về”, như Kissinger mô tả về việc “cấm vận tin tức”, vì những
nguồn tin đã lan tràn khắp nơi, bắt đầu từ nhiều nguồn mối. Và
khi báo lên khuôn ở Hoa Thịnh Đốn đã có đầy đủ tin tức, kể cả tin
về vụ việc “cấm vận”. Cuối cùng, Ngày 4 tháng Hai, lệnh cấm vô
ích này được chính thức bãi bỏ. Thật sự, từ Ngày 2, Tháng Hai,
một tuần trước “Ngày N–Ngày Khai Diễn” của chiến dịch, tin tức và
lời tố cáo “hành vi xâm lăng Lào” đã tràn đầy trên trang nhất của
báo chí Mỹ cũng như toàn thế giới.
Dân biểu George Aiken, Tiểu Bang
Vermont, dẫu từ dưới thời Johnson vốn là người yểm trợ chính
quyền đối với sách lược thực hiện ở Việt Nam, nhưng đối với cuộc
hành quân lại đặt nên vấn đề với quốc hội “Dân Mỹ có quyền ‘phải’
được biết về tin tức mà cả thế giới đã biết theo như Tu Chính Án
Thứ Nhất ấn định...”
Ngày N–8 Tháng 2, 1972 Lệnh Hành Quân
Lam Sơn 719 đã là một “bạch văn” phổ biến rộng rãi khắp thế giới,
chỉ trừ những người lính đổ bộ xuống bãi đáp đang bị pháo kích,
trên Đường Số 9 dày đặc mìn chống chiến xa mà bộ đội cộng sản đã
có một thời gian lâu dài để chuẩn bị chôn dấu. Cuối cùng, tai họa
đã thực sự xảy ra khi chiếc trực thăng chở phái đoàn báo chí
ngoại quốc có Đại tá Phạm Vy, Trưởng Phòng 4, kiêm Tham Mưu Phó
Tiếp Vận Quân Đoàn bị bắn rơi trong tuần thứ hai khi chiến dịch
đang khai diễn – Toàn bộ hồ sơ trận liệt, diễn tiến hành quân đã
bị phía cộng sản thâu giữ – Sự kiện Lệnh Hành Quân Lam Sơn 719 bị
mất không hề được báo cáo! Thế nên vấn đề “bảo mật” của cuộc hành
quân thật sự đã là một hài kịch thảm hại, và Người Lính Quân Lực
Việt Nam Cộng Hoà gánh hết phần hậu quả tai họa oan khốc này.
Đối lại với kế hoạch trên của phía
Việt–Mỹ, Đoàn 70B với ba sư đoàn cơ hữu thuộc vùng giới tuyến và
Hạ Lào, 304, 308, và 320; với thành phần yểm trợ tác chiến gồm
một trung đoàn pháo, một trung đoàn chiến xa, quân số tổng cộng
khoảng 36,000 người. Do có được đầu mối từ nhiều nguồn tin mật
như phần trên vừa trình bày, Hà Nội rất mực yên tâm dồn quân vào
vùng chỉ để một đơn vị, Trung Đoàn 64, Sư Đoàn 320 giữ mặt Bắc
vùng phi quân sự. Do được bảo mật tối đa, áp dụng kỹ thuật ngụy
trang tinh vi, quân cộng sản bố trí một trận địa pháo dày đặc từ
cối 80, pháo tầm xa 130ly, hỏa tiễn 122ly theo một chiến thuật
mới mẻ, “phân tán pháo binh–tập trung hỏa lực” để khi muốn tấn
công một căn cứ hỏa lực, nhiều vị trí pháo đổ xuống cùng một lúc,
phía quân Miền Nam khó lòng chỉ định mục tiêu phản pháo.
Song song với trận địa pháo, Bắc quân
thiết lập một hệ thống phòng không chung quanh các bãi đáp, đường
tiếp cận của phản lực khi yểm trợ, hoặc của trực thăng khi đáp
xuống một căn cứ, ngoài đại liên phòng không 12.7ly thông thường,
còn có những đại bác phòng không hạng trung và hạng nặng 23, 37
và 57ly. Quan trọng hơn hết là chiến xa T54 lần đầu tiên được
dùng vào chiến trường Miền Nam, loại chiến xa hạng nặng này vượt
trội khả năng lẫn hỏa lực so với chiến xa M41 thường dùng của
quân đội miền Nam, chỉ chiến xa M48 mới có khả năng đương cự
tương đương.
Đối với T54, bộ binh miền Nam với hỏa tiễn chống chiến xa M72
không thể triệt hạ được. Thế nên sau này, khi trận chiến bùng
vỡ, trước T54, người lính chỉ còn phương tiện duy nhất – Dùng
chính thân xác mình với lựu đạn tay để phá hủy chúng mà thôi.
Với chuẩn bị chiến trường chu đáo, bảo
mật tuyệt kỹ, quân số vượt trội, hỏa lực áp đảo, Bắc quân bắt đầu
trận đánh với chiến thuật tập trung tấn công từng cụm căn cứ hỏa
lực theo hướng từ Bắc xuống Nam.
Hai.
Trận chiến
Căn cứ Hỏa lực Delta 1 cách biên giới
khoảng 9 dặm trên đất Lào.
Căn cứ Ranger North của Tiểu Đoàn 39
Biệt Động Quân bị tấn công trước nhất. Sau nhiều ngày thám sát,
dò đường chung quanh căn cứ, sáng ngày 19 tháng Hai, 1971, Trung
Đoàn 102, Sư Đoàn 320 (tỉ lệ 4 đánh 1) sau nhiều giờ pháo kích
bằng đại pháo tầm xa 130ly, đến lượt sơn pháo bắn thẳng che cho
bộ binh tấn công từ mặt đông căn cứ, nơi tuyến phòng thủ mỏng
manh nhất. Với yểm trợ hữu hiệu của pháo binh bạn từ những căn
cứ xung quanh và phi cơ oanh tạc, tác xạ sát cận tuyến phòng thủ,
Biệt Động Quân giữ vững căn cứ qua ngày thứ hai, mãi đến đêm tối
trận chiến mới tạm chấm dứt.
Tin căn cứ TĐ39 BĐQ bị đánh bay về Sài
Gòn, Tổng Thống Thiệu ra lệnh Trung tướng Lãm tạm đình chỉ kế
hoạch tiến chiếm Tchepone như trù liệu vơi Lữ Đoàn I Dù và thiết
kỵ?! Nhưng cũng có ý kiến sáng suốt, đấy là Tướng Abrams đã thúc
dục Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên hãy ra lệnh Tướng Lãm đừng để
phí thời gian, lúc cộng sản chưa chuẩn bị đủ. Ngày 14, Abrams quá
nóng ruột, đích thân cùng Tướng Viên ra Đông Hà gặp Tướng Lãm và
Sutherland để quan sát tại chỗ và giục ông Lãm hãy khai triển gấp
Sư Đoàn 1 Bộ Binh trên những cao độ nam Đường 9 để bảo vệ cạnh
sườn cho Nhảy Dù và Thiết Kỵ tiến chiếm Tchépone như kế hoạch, dự
liệu trong vòng ba đến năm ngày. Tướng Lãm đã để khoảng thời gian
quý giá này trôi qua cho đến ngày 18, 19 như vừa nói trên.
Chẳng hiểu quá vâng lời ông Thiệu hay
không đủ tự tin, Tướng Lãm đình chỉ lực lượng thiết giáp ngưng
tiến quân, không có một quyết định, ý kiến nhỏ về, từ thực tế
chiến trường. Hơn thế nữa, mối liên hệ “không cộng tác” giữa
những viên tướng tư lệnh sư đoàn (Tướng Đống, Nhảy Dù; Tướng
Khang, TQLC) với Tướng Lãm lại là yếu tố tai hại ảnh hưởng không
nhỏ đến những quyết định quan trọng tại chiến trường.
SĐ320 cộng sản thay đổi các đơn vị cơ
hữu tiếp đánh vùi TĐ39, quyết dứt điểm Ranger North để có khí thế
ban đầu. Ngày 20, trực thăng cố vào vùng để tản thương và tiếp tế
đạn cho TĐ39, xạ thủ phòng không cộng sản bắn hạ một trực thăng
tản thương, y tá Dennis Fujii phải ở lại cùng căn cứ. Trong cái
rủi có điều may, Fujii trở thành y tá của căn cứ kiêm luôn nghiệp
vụ hướng dẫn phi cơ oanh kích cận phòng. Cuối cùng, Fujii cũng
được móc ra, nhưng trực thăng chở anh lại bị trúng đạn phải đáp
khẩn cấp xuống Ranger South.
Viên y tá trở nên là nhân chứng sống
cho cuộc chiến đấu kiên cường của Biệt Động Quân, khi sau này có
những tay viết báo muốn khai thác khía cạnh bất lợi đối với quân
miền Nam. Đã có nhiều lúc, những phi công F4 Phi Đoàn 40 Chiến
Thuật nhìn thấy binh sĩ TĐ39 nằm trong màn lửa bom Napalm do họ
thả xuống chung quanh căn cứ. Không được tiếp tế đạn, lính TĐ39
Biệt Động phải sử dụng lại súng, đạn của kẻ địch để tiếp tục
trận chiến. Cuối cùng, chiều tối ngày 21 tháng Hai, sau hơn ba
ngày đêm đương cự, với 178 người chết và bị thương nặng, quân số
Tiểu Đoàn 39 chỉ còn 107 người, kể cả bị thương nhẹ có thể chiến
đấu; quân cộng sản sử dụng một lực lượng (không phải gấp ba,
bốn lần hơn như những ngày đầu trận đánh) tới 2,000 người với vũ
khí mới trang bị, để thay thế cho hơn sáu trăm xác bỏ lại lền
khên quanh căn cứ (không ảnh đếm được số chính xác là 639), quyết
trả hận biệt động quân.
Nửa đêm, nương bóng tối, TĐ39 phải bỏ
căn cứ rút về Ranger South. Cộng quân không chịu mất đà, dồn nỗ
lực pháo cối dập xuống căn cứ Nam (Ranger South). Để giữ tinh
thần chiến đấu cho binh sĩ còn lại và đỡ gánh nặng cho Tiểu Đoàn
21, một cuộc hành quân không vận với phối hợp chặt chẽ giữa phi
cơ chiến thuật và trực thăng võ trang, 13 trực thăng đã hoàn tất
một cuộc tải thương chớp nhoáng, lấy ra được 112 thương binh kể
cả anh chàng “tiền sát viên bất đắc dĩ” Fujii. Tiểu Đoàn 21 sau
khi mất điểm tựa phía Bắc (Ranger North), cùng thành phần còn lại
của TĐ39 rút về Đồi 31 của Nhảy Dù, sau đó được di tản khỏi vùng
hành quân.
16
dặm bên trong lãnh thổ Lào, điểm xâm nhập sâu nhất mà quân Nam VN
vào được trong 3 tuần đầu, các binh sĩ Nam VN theo dõi hai cuộc
không kích của Mỹ. Một là cuộc dội bom B–52 xuống các vị trí quân
địch ở một sườn đồi bên cạnh, xa chưa tới 3 dặm. Mặc dù bị không
kích dữ dội như vậy, quân Bắc Việt đã tái lập được căn cứ pháo
binh của họ trong vùng mục tiêu và đã tiếp tục pháo kích từ nơi
đó chỉ 12 giờ đồng hồ sau.
Chiến sử Lam Sơn 719 đoạn đầu với Biệt
Động Quân được Tướng Sutherland đánh giá: “Một chiến thắng lớn
của Biệt Động Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”, cho dù có những
bôi bẩn ác ý do đám phóng viên tụ tập tại Khe Sanh khai thác hình
ảnh ăn khách “lính bám càng trực thăng” trở về từ Hạ Lào do một
vài binh sĩ trong cơn hốt hoảng, nhân lần tải thương kể trên đã
bỏ trốn khỏi vùng hành quân. Ngoài ra, có một sự kiện xảy ra nơi
xa nhưng quả thật đã ảnh hưởng trực tiếp đến chiến trường Hạ Lào
– Nếu như Tướng Đỗ Cao Trí không tử nạn máy bay (đến giờ này vẫn
còn là một nghi vấn) và ông có mặt tại Khe Sanh trong ngày 23
Tháng Hai – Ngày Biệt Động Quân rời bỏ căn cứ thì có lẽ tình thế
Lam Sơn 719 đã đổi khác. Bởi đã hơn một lần, với những đơn vị
biệt động như những Tiểu Đoàn 21 và 39 này, năm 1970, Tướng Trí
đã một lần tạo nên kỳ công ở chiến trường Campuchia. Lịch sử rất
nhiều lần bị biến đổi hẳn do những nguyên nhân rất nhỏ và bất
ngờ. Bi kịch Hạ Lào tiếp diễn với lực lượng Nhảy Dù nơi Đồi 31 và
30 khi mặt Bắc hoàn toàn trống trải nguy nan.
Trong vụ không kích khác tại cùng khu
vực, các phản lực cơ Không quân Mỹ ném bom napalm vào quân địch.
Lần này mục tiêu, được đánh dấu cho các phản lực cơ bằng trái
khói, là một điểm tập trung bộ đội Bắc Việt đang chuẩn bị tấn
công. Thông tin về cuộc tấn công sắp xảy ra được cung cấp bởi một
tù binh Bắc Việt gần chết, là người đã bị thương và bị bắt trong
đêm hôm trước.
Dư luận chính trị thế giới nói chung và
riêng nước Mỹ thật không hề công bằng đối với quân lực Mỹ và Việt
Nam Cộng Hòa; không phải những tiếng lời phát xuất từ số đông
quần chúng bình dân hoặc những bài báo độc địa, xuyên tạc của đám
ký giả ngoại quốc hạng nhì, nhâng nháo nơi những quán rượu Sài
Gòn; nhưng khởi động từ những nhân vật có thế lực, ảnh hưởng, tác
động đến cục diện toàn cầu như Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc U Than;
Trưởng Khối Đa Số Thượng Viện Mỹ, Mike Mansfield... Tất cả những
nhân vật tiếng tăm này đồng dấy lên chiến dịch tố cáo: “Quân đội
Mỹ tấn công chiếm đóng Lào!”, tức hàm ý cáo buộc lực lượng Mỹ của
Tướng W. Sutherland qua hành quân Dewey Canyon, yểm trợ quân đội
Miền Nam thực hiện Lam Sơn 719.
Cần nói thêm một lần để xác định: Bộ
binh Mỹ không hề vượt qua biên giới Việt–Lào ở địa điểm Làng Vây.
Lẽ tất nhiên, những lời cáo buộc trên được lặp lại nguyên bản
với bộ máy tuyên truyền khổng lồ của Liên Xô, Trung cộng và Hà
Nội. Cụm từ ngữ “Chiến tranh đế quốc xâm lược Mỹ” dần trở nên là
một “thực thể” của diễn tiến chính trị thế giới – qua báo chí
(cũng nơi đất Mỹ) – thúc giục những đám phản chiến xuống đường
kêu gào “hòa bình” và “giết Nixon cùng tất cả những kẻ nào chận
bước tiến (của chúng ta) tới... tự do”. Những lời đao búa này
của David Hilliard, thủ lãnh nhóm Báo Đen được Washington Post
tán tụng: “... Xuyên sâu những ngôn từ mạnh mẽ hùng hồn này,
chúng ta khám phá ra những điều kỳ lạ và đẹp đẽ biết bao. Họ
(những kẻ phản chiến) đã là hỗ trợ cho những điều tốt lành nhất
đối với đất nước!”.
Tất cả những cáo buộc sai lạc hàm hồ
này được thành hình từ đầu Tháng 2, 1971, khi lực lượng VNCH còn
ở trong lãnh thổ Việt Nam. Những kẻ trên hoàn toàn không biết (do
ngu muội) hoặc không muốn biết (do ác ý) sự kiện: “Quân xâm lược
thực thụ phải là đoàn quân có danh hiệu Quân Đoàn 70B của cộng
sản Bắc Việt. Để sau 1975 được chính Tổng Bí Thư Lê Duẩn hãnh
diện xác nhận: Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên
Xô”.
Nhắc lại
thêm một lần cũng không thừa: Binh đoàn quân đội chính quy cộng
sản Bắc Việt đã thành hình và có mặt nơi đất Lào từ năm 1970.
Chính phủ Lào ở Vạn Tượng cũng không nói những gì khác và đúng
hơn về những điều gì đang xảy ra trên đất nước họ.
Cánh quân trung phong gồm Lữ Đoàn I
Nhảy Dù với các Tiểu Đoàn 1, 8, 9 và Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ từ căn cứ
Hàm Nghi tiến chiếm những những mục tiêu Bravo, Alpha, A–Lưới
trên Đường 9 không mấy khó khăn dù hướng tiến quân đã bị gài đặt
mìn bẫy từ nhiều ngày qua. Căn cứ tiền phương A Lưới, cách
Tchépone khoảng dưới mười dặm được thiết lập vào buổi chiều ngày
8 đúng như dự định, bộ phận bộ binh Bắc Việt giữ chốt trên Đường
9 không ngăn nổi sức tiến quân nhanh chóng, thần tốc của Nhảy Dù
và Thiết Giáp. Hơn thế nữa những pass B52 đánh theo yêu cầu chiến
thuật của lực lượng dưới đất, dọc hai bên con đường đã hủy diệt
phần lớn cánh quân phục kích này. Các đơn vị Nhảy Dù trên Đường
9 khám phá nhiều kho tàng vũ khí quan trọng, gồm 3,000 xe đạp
mới, cũ, kho nhiên liệu xăng, dầu cặn, áo quần, lương khô Trung
cộng, Nga lần đầu tiên được sử dụng ở chiến trường miền Nam và
hằng trăm, ngàn xác chết vương vãi không toàn thây của những đơn
vị Bắc Việt.
Về chiến trường mặt bắc Đường 9, Tiểu Đoàn 2 và 3 Dù được trực
thăng vận xuống hai Đồi 30, 31; hai căn cứ hỏa lực được thiết lập
với chỉ danh của hai cao độ này. Nhưng chiến trường không hề
thuận tiện như những ngày đầu vì Bắc quân đã gióng trước với lính
Dù qua máy truyền tin: “... chúng mầy sẽ biết thế nào là trận địa
pháo của quân giải phóng!” Lời đe dọa không hề là giả thiết và
cảnh địa ngục thật sự đã mở ra.
Chúng ta hãy chứng kiến một đoạn về
trận chiến nơi Đồi 31, căn cứ hỏa lực Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III Dù,
cũng là vị trí đầu cầu của Tiểu Đoàn 3 Dù, dưới quyền chỉ huy của
Trung úy Phạm Đồng (tác giả Phan Hội Yên) được lệnh chiếm đóng
trong những ngày đầu của chiến dịch. Viên Trung úy Trung đội
trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 33, kể lại trong tập truyện “Hạ sĩ
Khinh Binh”: “Tôi phất tay cho trung đội đồng loạt ném hết số mìn
chiếu sáng về phía trước... Tách! Tách!... Xoè... xoè... Bốp,
bốp... Ngọn lửa bùng lên dữ dội rồi lan nhanh về phía địch quân;
râu tóc mặt mày chúng tôi cũng cháy nám khét lẹt. Thế thượng
phong ngàn năm một thuở... Lửa cuộn trong tiếng quân reo. Lửa
tràn lên theo cỏ tranh giòn giã, khói bốc mịt mù... Khói làm màn
che cho quân ta tiến tới. Vùng vẫy trong bão lửa, quân xông lên.
Lưỡi lửa liếm một vòng cung, thắt gọn
vị trí địch trong vùng hỏa công dữ dội. Những căn hầm được ngụy
trang kỹ lưỡng bằng cỏ tranh tiệp màu bỗng chốc trở thành mồi
ngon cho ngọn lửa. Hầm đạn nổ tung tóe, cả vùng đồi nhanh chóng
ngập tràn biển lửa. Địch quýnh quáng tung hầm tháo chạy, có kẻ
trên lưng đang bốc khói.
Tổ khinh binh tràn lên đỉnh đồi chiếm
lĩnh trận địa, thanh toán nhanh những ổ kháng cự yếu ớt còn sót
lại... Làm sao có thể chống cự được, khi trước mặt là lửa táp,
khói thốc theo luồng gió lùa vào mồm, mũi... Chưa kịp dụi mắt,
ngáp gió, lấy hơi, quân ta đã tiến tới, lưới đạn càn quét, quyết
liệt... Trong ráng chiều chưa tắt, nắng xuyên qua khói, lửa rải
xuống chiến trường những giải vàng lóng lánh, thấp toáng bóng
quân chạy dọc ngang trên đỉnh đồi như phút giây linh thiêng hào
hùng sông núi chuyển mình...”
Sau khi trung đội của Trung úy Phạm
Đồng đã chiếm lĩnh được mục tiêu với lần mất đi sinh mạng những
chiến hữu thiết thân, những khinh binh Chí, đề–lô pháo binh Tâm,
và chỉ dấu thua thiệt lớn nhất: Đại úy Lê Thành Bôn, đại đội
trưởng, tác giả của trận đánh hỏa công của đoạn viết kể trên. Đồi
31 trở nên cảnh chết tàn khốc vào ngày 25 tháng Hai: “Sau trận
tập trung pháo kích, xe tăng địch lập tức ào ạt xung phong...
Hai, ba, năm... bảy, tất cả mười một chiếc bỏ lại bộ binh (của
phía Bắc quân), cùng lao xuống đồi về phía chúng tôi. Một chiếc
đang bò ngang chông chênh trên sườn đồi lãnh ngay một trái 105
trực xạ, hất nhào xuống vực thẳm. Nhưng đoàn xe tăng vẫn tiếp tục
vừa bắn vừa tiến và chiếm dần bãi trực thăng.
Hạ sĩ nhất Chính và tiểu đội khinh binh
lãnh nhiệm vụ đón đánh đợt đầu khi tăng tiến qua bãi đáp, tiến
vào yên ngựa hẹp (giữa hai đỉnh đồi) trước khi bám đánh khu vực
phòng thủ trung tâm căn cứ. Chính dẫn theo Bình, Tám, Ngôn, mỗi
người thủ sẵn một cây M72 (hỏa tiễn chống chiến xa) đã ở vị trí
chờ kích hỏa; Chuẩn úy Nghĩa, trung đội phó, đòi đi theo tổ
khinh binh; mắt anh hừng hực uất hận bởi thấm đau từ lần đụng
trận đầu tiên của đời lính, đã hiểu nghĩa tận cùng cào xé trước
xác thân đồng đội.
Mỗi người chúng tôi quả có tâm lý của
kẻ không đường trở lại, phải tiến lên phía trước, vượt qua hèn
mọn của chính mình... Mất đi ý niệm phân biệt sống, chết. Mà có
khi phải chết còn thanh thản hơn được sống! Hai chiếc tăng ùn ùn
tiến vào khu vực trung tâm, Nghĩa nhảy phắc lên chiếc thứ hai,
thảy gọn trái M26 vào lòng pháo tháp. Anh chưa kịp nhảy xuống thì
trúng đạn, nằm chồng lên xác địch thủ. Cùng lúc, có tiếng nổ
‘bục’ tức tối, khói từ trong chiếc tăng bốc lên... Nhưng sao nó
vẫn tiếp tục chạy! Quờ quạng được một đoạn ngắn, chiếc chiến xa
nổ tan làm hai mảnh, pháo tháp bật ngược ra sau cùng xác Nghĩa.”
Và trận đánh kết thúc với cảnh tượng vô
vàn bi tráng mà phải là người trong cuộc mới có thể viết nên với
những dòng đẫm máu như sau:
“... Ba phần tư ngọn đồi đã nằm trong
tay địch, chúng tôi (Đại đội 31 và 33) chỉ còn giữ được một phần
bộ chỉ huy Tiểu đoàn và Lữ đoàn, nhưng không còn ai trong những
vị trí hầm chỉ huy cả, tất cả đã ra ngoài, sát vai tác chiến cùng
khinh binh, xạ thủ nơi tuyến đầu; hệ thống truyền tin chỉ huy vẫn
được duy trì ở cấp trung đội, dù trên thực tế, mỗi trung đội còn
không quá mười người...
Tất cả khái niệm sống, chết đã trở
thành vô nghĩa. Và cũng không còn thì giờ hoàn cảnh để chọn lựa.
Những người lính còn lại của lữ đoàn đồng hăm hở lao lên trong cố
gắng tuyệt vọng... Bắn... bắn, thụt thêm một trái M72 đi. Lựu
đạn... lựu đạn... Những bóng áo rằn ri nhảy lên pháo tháp xe tăng
địch, những thân người vùng vẫy cào cấu, lắt lẻo trên thành xe,
tan nát dưới lườn xích sắt. Bây giờ bộ binh địch đã phối hợp
cùng chiến xa, tràn lên căn cứ... Mặt đối mặt với lưỡi lê, báng
súng, lăn xả vào nhau, bắn giết, đâm chém... Hoặc loay hoay với
những khối sắt không làm sao phá vỡ với tay trần, với vũ khí cá
nhân.
Bom bầy,
pháo lũ dội xuống... Bom của ta, pháo của địch, lưới lửa của cả
hai bên đồng chụp xuống một chỗ, lính hai bên cùng chia nhau lãnh
đạn... Những chiếc nón sắt rơi lông lốc, những đôi dép râu đứt
quai nhầy nhụa trong dòng nước đỏ ối, đậm đặc đang dần kết thành
giải suối máu lăn lóc chảy chậm xuống sườn đồi!
Cuối cùng, hai Đại Đội 33, 34/TĐ3ND
không thể nào giữ được Căn Cứ Hỏa Lực Đồi 31 do quân Bắc Việt tập
trung toàn bộ lực lượng bộ binh của mặt Bắc Đường 9 được pháo
130ly yểm trợ, chiến xa T54 dẫn đầu... Những chiến xa hạng nặng
này cày vỡ tất cả công sự chiến đấu của Đồi 31, đè sập hầm chỉ
huy của Lữ Đoàn III nên Đại tá Thọ đã yêu cầu Pháo binh Nhảy Dù
bắn tiêu hủy ngay trên vị trí phòng thủ. Trung tá William. N.
Peachey, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ158/Không Vận Mỹ từ trên chứng kiến
những giây phút bi thảm cuối cùng của Đồi 31. Đến một lúc, lính
Bắc Việt không cần phải nổ súng bởi những chiếc T54 chỉ việc đè
lên những người lính Nhảy Dù trấn giữ đồi 31.
Cuối cùng, toàn bộ sĩ quan Lữ Đoàn III,
Tiểu Đoàn 3 Dù, Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh gồm Đại tá Nguyễn Văn Thọ,
Trung tá Trần Văn Châu, Thiếu tá Trần Văn Đức, Đại úy Lê Đình
Châu và nhiều sĩ quan trung cấp, hạ sĩ quan, binh sĩ bị bắt sống,
phần đông đã bị thương, mất năng lực chiến đấu, hết đạn, vũ khí
không còn sử dụng vào những ngày trước khi căn cứ bị tràn
ngập.”
Lực
lượng Nhảy Dù quả đã hẳn ưu thế chiến đấu khi bị bó chặt nhiệm vụ
trên những cao độ không còn được yểm trợ liên hoàn, do để trống
mặt Bắc khi các Tiểu Đoàn Biệt Động 21, 39 phải rời bỏ căn cứ như
đã trình bày ở đoạn trên. Sự kiện mất căn cứ Đồi 31 cũng có
nguyên do là đoàn chiến xa M41 thuộc Thiết Đoàn 17 Lữ Đoàn 1
Thiết Kỵ có hai đại đội Tiểu Đoàn 8 Dù từ căn cứ A Lưới được lệnh
di chuyển tăng cường cho Đồi 31 đã không đến kịp điểm hẹn. Toán
quân này lại bị phục kích vào ngày sau khi trên đường tiến gần
mục tiêu, cuối cùng nhờ B52 đã can thiệp hiệu quả bằng cách dội
bom tiếp cận đội hình tiến quân, phá vỡ trận địa phục kích của
Bắc quân. Sau hai pass B52, chiến trường hoàn toàn yên lặng,
người sống sót nằm ngất trên mặt đất bị đào xới tung tóe lầy nhầy
thịt xương người của các đơn vị bộ đội thuộc Sư Đoàn 320. Tổng số
800 xác chết là số lượng đếm được về đơn vị cộng sản bị giết bởi
B52.
Căn cứ
Đồi 31 thất thủ, Đồi 30 do Tiểu Đoàn 2 Dù trấn giữ còn lại trơ
trọi suốt một vùng mặt Bắc Đường 9, và biến thành điểm lửa của
toàn bộ hệ thống hỏa tập Bắc quân. Nhưng kỳ diệu thay, do bản
lĩnh riêng của viên tiểu đoàn phó và sĩ quan hành quân, Thiếu tá
Nguyễn Văn Mạnh, Đại úy Trần Công Hạnh, tiểu đoàn đã cầm cự được
suốt một tuần sau và chỉ rời bỏ căn cứ khi Hotel (danh hiệu
truyền tin của Đại úy Hạnh) trực tiếp liên lạc với phi hành đoàn
của các phi cơ yểm trợ chiến thuật và trực thăng Mỹ để tác xạ
trực tiếp và dội bom lên ngay tuyến phòng thủ đơn vị...
Nương theo khe hở sống chết này, Tiểu
Đoàn 2 rút khỏi vòng vây với quân số chỉ bị tổn thất tương đối.
Hơn thế nữa, đơn vị này trên hướng di tản khỏi căn cứ còn mở
đường cứu vây Tiểu Đoàn 7, đơn vị vào tăng cường cho TĐ1 và TĐ8,
hai tiểu đoàn này cũng đã bị tổn thất nặng trong tuần lễ cố giải
vây cho Lữ Đoàn III Dù ở đồi 31 (Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Văn Phan
tử trận; hai tiểu đoàn phó, Trần Đăng Khôi, TĐ7; Đào Thiện Tuyển,
TĐ8 bị thương nặng, phải di chuyển khỏi vùng hành quân). Cuối
cùng, lệnh tiến chiếm Tchépone như dự trù với lực lượng Nhảy Dù
và Thiết Kỵ trên đường 9 không hề được thi hành. Lời thúc giục,
khuyến cáo của Tướng Cao Văn Viên, Abrams với Tướng Lãm tại Đông
Hà ngày 16 tháng Hai về việc thực hiện quan niệm hành quân trên
đã không hề được quan tâm. Nghi án sự chậm trễ và thay đổi kế
hoạch điều động các đơn vị đến nay vẫn còn là một ẩn số chưa có
lời giải thích thỏa đáng.
Ba.
Tchépone,
Chiếc bẫy sập đóng lại
Crossroads at
Tchepone – Ngã ba đường tại Sê–pôn.
Khi lực lượng Nhảy Dù và Thiết Kỵ bị
cầm chân ở A–Lưới thì việc tiếp tục tiến chiếm Tchépone với bộ
binh chỉ còn là một “mục tiêu bề mặt”, cốt để biện hộ một cách
tai hại về một ước tính quân sự sai lầm, nhằm mục đích yểm trợ
cho một sách lược chính trị. Sách lược ấy được nhận ra, khi Toà
Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn báo cáo về Hoa Thịnh Đốn một nội dung khả
thể, đêm 7 tháng 4 Tổng Thống Nixon có thể nói cùng dân chúng Mỹ:
“Đêm nay tôi có thể báo cáo rằng chính sách Việt Nam Hóa đã thành
công!”, nhằm trấn an những nhóm biểu tình phản chiến, đòi cải
thiện chế độ an sinh xã hội cho người da đen ở các tiểu bang miền
Nam nước Mỹ.
Ngày 3 tháng Ba, hai Lữ Đoàn A, B Thủy Quân Lục Chiến từ Khe Sanh
được đưa vào thay thế các đơn vị Sư Đoàn 1 Bộ Binh thuộc vùng
trách nhiệm hai căn cứ Delta và Hotel. Như thế, mặt trận Hạ Lào
chỉ còn một Lữ đoàn TQLC làm thành phần trừ bị; cũng có nghĩa
tương tự đối với toàn bộ lực lượng quân sự miền Nam. Những tiểu
đoàn bộ binh thuộc Sư Đoàn 1 rời bỏ vùng vừa bàn giao, tiến sâu
về phía Tây, lập các căn cứ hỏa lực Sophia, Liz, và LoLo trên các
cao độ 748, 690, và 723, Đông–Nam mục tiêu Tchepone. Lolo thực sự
chỉ là một bãi đáp chứ không hẳn là một căn cứ hỏa lực.
Ngày 6 tháng Ba, một phi đội khổng lồ
gồm 120 trực thăng Huey được trực thăng võ trang Cobra và phản
lực chiến đấu yểm trợ bao vùng đổ quân bộ xuống bãi đáp Hope, bốn
cây số Đông–Bắc Tchépone, sau khi B52 đã trải thảm dọn sạch khu
rừng rậm hằng trăm năm không dấu vết người chung quanh bãi đáp.
Cuộc không vận được xếp hạng là một trong những hành quân đường
không lớn nhất chiến sử Đông Dương; năm 1954, lực lượng không
quân vùng Tây–Bắc của Tướng Cogny chỉ có đúng hai trực thăng
Alouette cho Chiến Dịch Castor để chiếm đóng Điện Biên Phủ.
Cuộc không vận đưa Tiểu Đoàn 4/Trung
Đoàn 1 và Tiểu Đoàn 2/Trung Đoàn 2 vào vùng lửa Tchépone, đây là
hai đơn vị ưu tú nhất của Sư Đoàn 1 do Trung tá Lê Huấn và Trung
tá Trần Ngọc Huế chỉ huy; cả hai cùng Khoá 18 Trường Võ Bị Đà
Lạt và được đánh giá là những sĩ quan xuất sắc của khoá. Nhưng dù
hai tiểu đoàn trên có gồm những người lính can trường, được chỉ
huy bởi những sĩ quan xuất chúng bao nhiêu, cứ điểm Hope mà hai
đơn vị có nhiệm vụ đổ bộ xuống để rồi sau đó làm đầu cầu đột kích
trong im lặng tuyệt đối vào “thị trấn Tchepone” đã là một nơi
hoang vắng với những thây chết rải rác cũng có nghĩa “Kế Không
Thành” mà Bắc quân giương ra đã hoàn tất.
Toàn bộ các bãi đáp, địa điểm này đã
là những “điểm hỏa tập tiên liệu” của pháo, cối, hỏa tiễn diện
địa của bộ đội cộng sản. Kết quả bi thảm đương nhiên xảy đến,
Tiểu Đoàn Trưởng Lê Huấn tử trận, Trần Ngọc Huế bị bắt sống...
Hai tiểu đoàn tan vỡ như những mảnh vụn của những khẩu pháo 105
thả xuống ở các căn cứ Hope, Sophia, Liz... Có những khẩu chưa hề
bắn được một viên đạn, vì những lưới đạn quả thật chưa hề được
thả xuống kịp trước khi các căn cứ tan vỡ. Ông Thiệu ra lệnh “rút
quân” sau “chiến thắng Tchepone”, bất chấp lời khuyến cáo từ phía
Tướng Abrams – Tăng cường Sư Đoàn 2 Bộ Binh cho mặt trận Hạ Lào
và giữ chặt nút chận Tchépone để hoàn thành mục tiêu chiến lược –
Cắt đứt đường tiếp vận Bắc–Nam của quân đội cộng sản.
Cuộc rút quân không chuẩn bị tất nhiên
biến thành lần tháo chạy, khi các căn cứ lần lượt bị đánh vỡ, mất
hẳn thế “yểm trợ liên hoàn – viên đá tảng cột trụ của chiến thuật
Căn Cứ Hỏa Lực”. Sau Sư Đoàn Nhảy Dù của giai đoạn đầu, Sư Đoàn 1
Bộ Binh ở giai đoạn hai, tiếp theo, đến lượt Sư Đoàn TQLC chịu
lần phanh thây trên những đỉnh núi trần trụi dưới cơn mưa lũ đại
pháo của Bắc quân được chuẩn bị từ một năm trước, năm 1970.
Thủy Quân Lục Chiến tham dự cuộc hành
quân Lam Sơn 719 với toàn bộ Sư đoàn. Tiểu đoàn 3 pháo binh yểm
trợ.
Lực lượng
Thủy Quân Lục Chiến nhận vùng trách nhiệm, bố trí các tiểu đoàn
theo hướng Bắc–Nam. Tiểu Đoàn 4, 7, Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A có pháo
binh Tiểu Đoàn 2 Pháo yểm trợ. Căn cứ hỏa lực chính được Tiểu
Đoàn 2 “Trâu Điên” bảo vệ, đồng thời làm thành phần trừ bị. Phía
Nam, Lữ Đoàn A, hai tiểu đoàn 3, 8, có nhiệm vụ phá thế trận cộng
sản bao vây, chia cắt. Nhưng tất cả phối trí chiến thuật này đã
trở nên bất khả dụng, bởi phe cộng sản đã chuẩn bị đủ cho chiến
trường, từ quốc tế đến quốc nội, với biểu ngữ của đám biểu tình
phản chiến ở Mỹ đến Dinh Độc Lập ở Sài Gòn.
Withdrawn
[Lui]
Cụ thể nơi mặt trận Hạ Lào, quân cộng
sản đã bắn không trật một viên đạn ra ngoài các căn cứ hỏa lực.
Và sau khi các căn cứ Nhảy Dù ở mặt Bắc bị tràn ngập; Sư Đoàn 1
Bộ Binh phải rút bỏ sau cái gọi là “chiến thắng chiếm đóng
Tchépone”; vùng trách nhiệm của TQLC gánh khối nặng còn lại của
trận chiến vô lý bi thảm này... Lữ đoàn A TQLC với Tiểu Đoàn 2
“Trâu Điên” của Tiểu Đoàn Trưởng, “Robert Lửa” Nguyễn Xuân Phúc
trở nên thành tụ điểm tất cả nguồn lửa lớn của chiến trường.
Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Xuân Phúc nói
với Đạt, chỉ huy trưởng pháo binh, đơn vị pháo còn lại duy nhất
của trận địa: “Ông khỏi yểm trợ cho ai nữa, hạ nòng súng xuống,
‘cua’ nó lên con nào, ông nướng con ấy cho tôi”.
“Cua”, Phúc dùng chữ với ý khinh miệt
hơn nghĩa khôi hài để nói về những chiến xa của Bắc quân. Và đến
lúc cuối cùng, Phúc hét lớn qua máy truyền tin: “Khỏi cần hỏi
lệnh tôi, còn bao nhiêu đạn ông cứ chơi hết bấy nhiêu...” Hai
Tiểu Đoàn 4 và 7 ở vùng ngoài căn cứ vùng vẫy tuyệt vọng giữa đám
kẻ thù say máu như con hổ trọng thương bị loài kên–kên rúc rỉa.
Phúc hướng dẫn từng phi tuần từ hạm đội bay vào cứu bạn. Những
viên phi công Mỹ dần quen với giọng nói của “Foxtro” (ám danh đàm
thoại không–lục của Phúc với phi công Hạm Đội 7), để đến một
đêm... Đêm hỏa ngục lật ngược để bày ra trên trần gian nguồn lửa
lênh láng hung tàn không hề cạn. Lửa rùng rùng lay động suốt dãy
núi rừng ầm vang tiếng nổ. Tiếng nổ của đại pháo, hỏa tiễn bắn
từng đợt, từng tràng một lần mười, hai mươi trái, từ bốn, năm vị
trí. Trong chuỗi âm động quái dị ấy, súng tay đì đẹt nhỏ nhoi như
một loại pháo lép và cuối cùng với những đợt bom. Bom ném một
lượt từ ba phi tuần phản lực nối cánh nhau như cảnh tượng trong
các phim chiến tranh. Phi cơ Mỹ bao vùng suốt từ sáng sớm, Đà
Nẵng, Thái Lan, Hạm Đội 7, Guam qua chiều vào đêm, bay đến...
Đêm đến, Bắc quân từ hang ổ, đường
thông thủy, giao thông hào, điạ đạo theo xe tăng tấn công lên đồi
tiêu diệt Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A, Tiểu Đoàn 2 Pháo qua hàng rào
phòng thủ của “Trâu Điên”. Và Tiểu Đoàn 2 TQLC quả thật là một
con trâu điên đơn độc đương cự giữa bầy sài lang nanh vuốt. Phúc
đã theo dõi và thấm hiểu nỗi đau những lần thất thủ của các đơn
vị bạn, những Tiểu Đoàn 37 Biệt Động, Tiểu Đoàn 2, 3, Lữ Đoàn III
Dù... Hai tiểu đoàn 4, 7/TQLC ngoài căn cứ chỉ còn một đường liên
lạc qua hệ thống truyền tin của Tiểu Đoàn 2. Phúc hướng dẫn phi
cơ Mỹ thả trái sáng để hai đơn vị này lần đường về phía Nam, nơi
các Tiểu đoàn 3 và 8 đang đợi “bắt tay”. Bộ chỉ huy lữ đoàn hoàn
toàn tê liệt, pháo binh cũng chỉ còn những viên đạn cuối cùng,
Đạt báo cáo với Phúc... “Tụi nó tràn ngập vị trí, tôi phá súng!”
Và cuộc hỗn chiến trong đêm bắt đầu.
Tiếng súng lớn đồng im bặt, tiếng súng nhỏ cũng không còn, chỉ âm
động của da thịt người bị xé rách, đâm nát, vỡ nhầy dưới xích xe
tăng. Trong bóng tối chập chờn tàn lửa, nghi ngút khói của những
trận pháo càn từ bao ngày qua, từ giờ trước... Những bóng người
nhào vào nhau, tìm đường chạy hoặc cách giết người hiệu quả để
được lần sống sót. Phúc hằng tiên liệu rõ tình huống tuyệt vọng
gớm ghê này, nên anh đã ra lệnh cho toàn đơn vị “tay áo phải xắn
cao, tay áo trái thả dài xuống”, làm dấu hiệu nhận bạn giữa đêm
tối, vượt nỗi chết. Và từ vũng sâu cảnh địa ngục trần gian kia,
người ta nghe rõ tiếng hét lớn lặp lại nhiều lần... “I’m crazy
buffalo battalion commander, đ... m... tao ground chief... go
ahead, do it please...”
Bầu trời, mặt đất cùng bị vỡ tung,
những quả bom chạm nổ ngay khi vừa rời khỏi cánh tàu bay. Phúc
nương theo đợt dội bom, hứng đủ trận bom, bảo vệ bộ chỉ huy Lữ
đoàn, Tiểu đoàn 2 pháo và đơn vị rút khỏi căn cứ. Trong bản ghi
dữ kiện của máy bay, toạ độ Phúc yêu cầu dội bom cũng là toạ độ
của Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn A TQLC mà Hạm Đội 7 đã yểm trợ từ bao ngày
qua.
Bốn giờ
sáng, Phán, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ8 TQLC từ trên đỉnh ngọn Cô–rốc,
đỉnh núi cao nhất vùng, nhìn suốt hai bên sườn Đông, Tây Trường
Sơn, lắng nghe tiếng nói khẽ, đứt khúc của Phúc... “mầy... mầy
thắp đèn cầy (trái sáng), tao dẫn tụi thằng 4, 7 và con cái tao
về...”.
Tại cứ
điểm 31, binh sĩ QĐNDVN đứng trên đỉnh hầm chỉ huy đã bị đánh sập
của Lữ III Dù QLVNCH.
Chín giờ sáng hôm sau, Phán xuống núi,
Phúc đang dìu Đại tá Thông bước chập choạng. Giữa đám quân tan
tác, Phúc là người nhỏ, thấp, gầy nhất. Nhưng quả tình anh là
người cao, bền hơn hẳn. Như Người Lính không hề chết. Và nếu họ
có mất đi hình hài cũng chỉ để Tổ Quốc hằng muôn thuở tồn sinh.
Tổng kết trận Hạ Lào, Trung tá Pháo
Binh Nhảy Dù Bùi Đức Lạc nhận xét: “Máu của Người Lính đã đổ
xuống Hạ Lào, thịt xương họ không vun trồng màu mỡ quê mẹ mà làm
tươi tốt cho đồng, rừng xứ người. Nhưng đau thấm thía, lâu dài
hơn khi trận Hạ Lào bị cơ quan truyền thông ngoại quốc che mờ
bằng màn khói bại trận, lại được tô son chuốc lục bởi phóng viên
người Việt với màu tang trắng quê hương...”
Lam Sơn 719 là cuộc hành quân thiệt hại
nặng nhất của Quân Lực VNCH trong cuộc chiến tranh VN: trên 1,500
binh sĩ chết, 6,000 bị thương. Phía Mỹ chỉ yểm trợ về không quân,
vì họ không được tham chiến bằng bộ binh ngoài lãnh thổ VN (Quốc
Hội Mỹ không cho phép, theo Đạo luật Cooper–Church Amendment).
Thiệt hại về phía Mỹ là 215 chết, 1,149 bị thương, và 108 máy bay
trực thăng bị bắn rơi.
Hôm nay bốn mươi–bốn năm qua
(1971–2015) kể từ buổi binh đao tàn khốc kia, Thắng, Bại; Công,
Tội của những bên lâm chiến đã được lịch sử chứng minh. Chỉ riêng
Người Lính – Những Người Lính không trở về – Những Người Lính
sống sót cùng Nỗi Đau không hề chấm dứt với khổ nạn Quê Hương.
Đại tá Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn III Nhảy Dù Nguyễn Văn Thọ là một
trong những người lính phẫn hận kia.
Sau lần sống sót dưới cơn bão dữ đạn
bom của cả hai phía, Đại tá Nguyễn Văn Thọ, Trung tá Trần Văn
Châu, Thiếu tá Trần Văn Đức, các Đại úy Lê Đình Châu, Nguyễn
Văn Thương, Nguyễn Quốc Trụ... thuộc bộ chỉ huy Lữ Đoàn III, Tiểu
Đoàn 3 Pháo Binh ND được lệnh di chuyển ra Bắc với chân trần,
trên thân người vết thương còn tươi máu. Tại Hà Nội, họ được đưa
ra trình diện báo chí (của miền Bắc và khối cộng sản) để làm
chứng cứ: Quân đội Mỹ–Ngụy tấn công lãnh thổ của nước Lào (gọi
là) trung lập. Đồng thời viên cán bộ chính trị cao cấp điều hành
buổi họp báo cũng lên tiếng: “Cực lực bác bỏ lời tố cáo của báo
chí miền Nam: ‘Cộng sản Bắc Việt xâm lăng miền Nam qua ngã Lào
(!)’” Đài phát thanh Hà Nội lớn tiếng rêu rao: “Trận chiến Đường
9 Nam Lào là một đòn sấm sét của lực lượng nhân dân yêu chuộng
hòa bình của ba nước nước Đông Dương đã đoàn kết chiến đấu, đập
tan âm mưu của tập đoàn thực dân mới Mỹ nhằm mưu định chiếm đóng
Đông Dương mà ngụy quyền Sài Gòn là tay sai đắc lực nhất.”
Lời cáo buộc được cả thế giới “tin cậy”
nên từ Hội Nghị Paris (1968–1973) trở về Hà Nội, bí thư Xuân Thủy
được Đức Giáo Hoàng Paul VI tiếp kiến do những nỗ lực gọi là
“tái lập hòa bình ở VN” của y ta đại diện cho Hà Nội tại bàn hội
nghị. Chưa hết, thế giới lại “rất sáng suốt” trao giải Nobel (gọi
là) Hòa Bình cho Lê Đức Thọ. Đây cũng là viên bí thư chiến dịch
Hồ Chí Minh lần tiến chiếm Sài Gòn (4/1975) với 16 sư đoàn bộ
binh cộng sản Bắc Việt như lời than vãn của Kissinger, kẻ đồng
nhận giải Nobel Hòa Bình với Thọ.
Trong chiều hướng “tin cậy đối với cộng
sản Bắc Việt”, Hiệp Định Ba Lê ký kết ngày 27 Tháng 1, 1973 đã
long trọng xác nhận “Hai bên miền Nam Việt Nam trao trả cho nhau
những nhân viên quân sự được bắt giữ...” Với định nghĩa này,
toàn bộ các sư đoàn bộ binh, khối lượng vũ khí khổng lồ gồm xe
chiến xa, đại pháo của cộng sản miền Bắc nơi mặt trận Hạ Lào đồng
được “hóa không” để trở thành “quân đội giải phóng Lào yêu nước”
hoặc của “lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam”! Và hệ quả tiếp
theo là: “Không có tù binh VNCH nào của mặt trận Đường 9 Nam Lào
trong danh sách trao trả theo Nghị Định Thư về Tù Binh của Hiệp
Định Paris 1973.”
Văn bản được long trọng ký kết trước
cộng đồng thế giới, được 13 nước ký Định Ước Bảo Đảm Thi Hành bao
gồm Liên Xô, Trung cộng! Màn dối gạt ngang ngược vô liêm sỉ đối
với thế giới tiếp tục hiện thực trong Ngày 30 Tháng 4, 1975 với
sự đồng thuận của chính phủ Mỹ. Cuối cùng, chỉ một năm sau, 1976,
nhóm người tù miền Nam trong một buổi đi ra Đoàn (Đoàn 776) ở Yên
Báy để lãnh gạo. Chúng tôi nhận ra người tù Hạ Lào: Đại tá
Nguyễn Văn Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn III Nhảy Dù, Trung tá
Trần Ngọc Huế, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/2/SĐ1BB và nhiều anh em tù
binh khác thuộc các binh chủng TQLC, BĐQ, BB, Thiết Kỵ, đông đảo
nhất là những Biệt Kích Quân, tổng số của những tù binh VNCH rơi
ra ngoài danh sách trao trả theo Hiệp Định Paris. Đại tá Thọ giữ
nhiệm vụ chăn nuôi, Trung tá Huế dầm suối chuyển cây gỗ... Chúng
tôi đứng nghiêm chào kính: Chào Đại tá! Ông trầm giọng buồn
phiền: Các em cố gắng nghe! Vâng, tụi em cố gắng!
Năm 1996, người viết qua Úc, nói chuyện
ở Sidney, gặp lại Người Lính Nhảy Dù không mệt mỏi, đến góp
tiếng với “thằng em”. Tôi khám phá ra một điều cao thượng bất
biến: Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 8; Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn III
ND; Tù Binh Hạ Lào; Người già tỵ nạn nơi đất Úc... Tất cả luôn ở
trong một tình trạng “cố gắng”.
Nhảy Dù Cố Gắng! Đích Thân về cõi Phật
bình an (*).
Thiếu úy Phan Nhật Nam
Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù, KBC 4919
(*)
Đích thân: Người Chỉ Huy – Ám danh đàm thoại của các đơn vị tác chiến Nhảy Dù.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, August 3,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang