Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
phiếm
Chủ đề:
Cuộc đời
Tác giả:
Đặng Hưng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu: Câu chuyện này vừa được chuyển
đến tay tôi từ một người bạn. Nội dung gồm nhiều uẩn khúc có tính
giả tưởng (“fictional”) – Có lẽ vì thế mà tác giả đã đặt tên tựa
bài là “Chuyện Đùa Như Thật” chứ không phải là “Chuyện Thật Như
Đùa.” Tuy nhiên, tình tiết của câu chuyện, theo tôi, rất ly kỳ có
thể làm người đọc đi từ ngạc nhiên đến thích thú (!?) – Tôi cũng
mạn phép chỉnh lại vài lỗi chính tả và văn phạm để bài viết được
trong sáng, dễ đọc hơn... Tóm lại, đây là một bài viết đáng đọc
và có thể giúp quý vị giây phút giải trí vào cuối tuần.
Trần Văn Giang
Mấy
ngày đầu mùa thu thời tiết thay đổi, trời đất và tuổi tác làm cho
trái tim vốn đã mệt mỏi lại thêm u sầu. Tôi quyết đi chơi xa một
chuyến để kích thích sự sống còn sót lại trong cái cơ thể đang
lụi tàn của tuổi sáu mươi.
Bắt đầu chuyến đi từ trưa về đến thành
phố Ninh Bình thì trời đã tối. Đón tôi là một người học trò cũ,
nay làm nghề bốc mả chuyên nghiệp, làm ăn được nên tình cũ nghĩa
xưa vẫn không hề phai nhạt. Gọi là học trò nhưng anh ta cũng đã
gần bốn mươi, bặm trợn và từng trải... Đặc thù nghề nghiệp còn
cho anh ta một vẻ ngoài vừa bí hiểm và tối tăm, vừa ám muội và
liêu trai...
Sau bữa ăn đầy rượu thịt kiểu như của các hảo hán thời cổ đại
Trung Hoa, gã học trò đưa tôi về nhà. Gọi là nhà nhưng thực chất
nó là một căn phòng để cho người quản trang trong bãi tha ma của
thành phố. Trời tối, không biết xung quanh ra sao tôi thây kệ
không quan tâm mình đang ở đâu, miễn có chỗ ngả lưng là tốt rồi.
Lạ giường, lạ nhà, tuổi già khó ngủ,
thêm nữa ở góc phòng tối om là giường của tay bốc mả, gã nằm im
thin thít như không thở, cũng không nói chuyện đưa đẩy gì với
tôi. Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, tôi phá vỡ sự im lặng chết
chóc, bắt chuyện hắn.
–Này, thức hay ngủ?
–Dạ em thức.
–Sao nằm im vậy, tôi làm phiền cậu à?
–Ôi chết, không ạ. Em mắc bệnh nghề
nghiệp thầy ạ. Làm nghề này nó vậy. Xin thầy thông cảm. Thầy
xuống đây với em là phúc tổ bảy mươi đời nhà em đấy thầy ạ.
Rồi hắn kể:
–Học xong lớp 12, em đi tu, ba năm sau
người ta xây chùa mới to lắm ở Ninh Bình. Vì khoẻ mạnh và chăm
chỉ, em được về ban xây dựng chùa. Đường tu đang sáng ngời, bỗng
đâu sét đánh ngang trời, em phải lòng đứa con gái một ông đại gia
họ Trần, một trong những người góp vốn xây chùa. Chuyện vỡ lở, em
bị đuổi khỏi chùa. Xấu hổ, em xin cô người yêu nói với bố cô ta
cho em một ân huệ cuối là được vào nghĩa trang thành phố làm nghề
bốc mả.
Tôi
khơi chuyện để anh ta có đà:
–A Di Đà Phật...! Thế làm cái công việc
bốc mộ có gì ghê gớm hay lạ lùng gì mà cậu nói là bị bệnh nghề
nghiệp. Mà làm sao cậu lại dính vào đứa con gái kia?
–Úi giời ơi... thầy ơi, người ta có số
đấy thầy ơi... Nó theo mẹ nó lên chùa cúng dường cho nhà chùa.
Nhiều lần gặp rồi thành quen thân, nó rủ em ra phố mua đồ chay
cho nhà chùa, thế rồi em dính chưởng lúc nào chả biết. Chưa xây
xong chùa, từ ông sư em thành thằng bốc mả, đau quá thầy ạ! Còn
cái nghề bốc mả này em làm gần hai mươi năm nay rồi. Thôi để hôm
nào rảnh em kể cho thầy nghe. Hôm nay thầy đi xa mệt, thầy nghỉ
đi. Mai em cũng có việc quan trọng phải làm.
–Mai cậu bận việc gì vậy? Tôi xuống đây
chơi cậu không nghỉ chơi với tôi một buổi được sao?
–Dạ thưa thầy, mai thành phố này có đám
ma to lắm, đám ma của chính ông đại gia là bố vợ hụt của em đấy.
Em vốn trước đây làm sư trong chùa, nhà chùa lại là thành phần
quan trọng của đám tang ma ngày mai. Biết em có nghề, thạo việc
đào bới chôn cất, họ mời... Em tính mai mời thầy tham dự luôn cho
vui.
–Tiên sư
anh... Đám ma nhà người ta mà anh lại bảo đi cho vui.
Tôi mồm chửi nhưng trong bụng lại thấy
vui vui thật. Hình như máu hiếu sự và ham sống trong tôi đang cựa
quậy. Tôi mừng thầm là mình đã có cơ hội tham gia một sự kiện
quan trọng đáng nhớ.
Hôm sau chúng tôi dậy sớm đi đám ma.
Ông học trò quý của tôi trở dậy và đi khỏi nhà từ sớm lắm, hình
như cậu ta mặc áo thầy tu. Công nhận đám ma to thật. Có rất nhiều
sư tham dự.
Tôi chụp được một cái ảnh có tới hàng trăm ông sư xếp hàng trong
đám tang, trong đó có cả thằng học trò của tôi. Tôi cho lên fb và
bảo rằng “Sư chùa Thiếu Lâm còn thua xa sư ở đây...” Mấy người
quen tôi xem xong chẳng hiểu gì, bực mình quá!!!
* * *
Chiều
hôm ấy, tôi về phòng nghỉ trước, cậu học trò của tôi còn ở lại về
sau vì khúc vĩ thanh việc chôn cất là phận sự của anh ta.
Một mình. Chiều trong nghĩa trang thật
buồn.
Dạo bước
trên những lối nhỏ quanh co bên mấy hàng bia mộ cũ, nhìn những
chiếc lá rơi xoay xoay trong gió. Tự nhiên lòng tôi cảm thấy
lạnh, trống rỗng và cô đơn vô tận. Tự nhiên tôi thấy thương cho
kiếp người: Sống, Chết, Vinh quang và Điếm nhục... Ôi cõi người!
... Tối mịt hắn mới về. Tôi lặng lẽ
nhìn hắn – Cậu học trò của tôi. Tôi khoái chí vì chợt nhận ra ở
thằng này có nhiều cái thú vị mà bây giờ mình mới biết. Hôm qua,
lúc nó đón tôi, với bộ quần áo tàng tàng chắc chắn xuất xứ từ
những thùng hàng “si đa,” đặc biệt là cái đầu trọc, đôi mắt ốc
nhồi thao láo thấp thoáng những tia máu nhỏ ở lòng trắng, mồm phà
phà hơi rượu... Trông hắn đúng là một thằng bốc mả chuyên nghiệp.
Vậy mà hôm nay, vẫn con người ấy, vẫn cái đầu trọc ấy, chỉ khác
mỗi cái áo hôm nay nó mặc là cái áo của ông thầy chùa. Trời ạ!
Nhìn hắn đúng là một nhà sư đường bệ uy nghi.
Tắm rửa, thay quần áo, cậu ta mời tôi
đi ăn. Suốt cả bữa ăn nó chẳng nói chẳng rằng. Nửa con gà luộc,
một cái chân giò luộc một đĩa thịt bò xào, một chai “vốt ka” Hà
Nội loại to, cơm, canh... Bữa ăn dành cho hai người sạch nhẵn.
Kinh thật!
Về
tới nhà, lên giường nó lại nằm im lìm như hôm qua. Tôi nghĩ ngày
nó làm việc căng thẳng nên nó mệt. Vậy mà không đúng như tôi
nghĩ. Sau nửa tiếng nằm im như không thở, nó chủ động khơi chuyện
với tôi.
–Thầy
đã ngủ chưa?
–Chưa.
–Thầy
có mệt không?
–Không. Tôi có làm gì đâu mà mệt, chỉ sợ anh làm việc căng thẳng
mệt mỏi nên tôi không muốn làm phiền đấy thôi. Anh cứ nghỉ đi.
–Ấy chết, em lại quên mất, lại sống với
thầy bằng cái bệnh nghề nghiệp rồi hỉ hì. Thầy trò mình nói
chuyện nhé.
Anh ta lồm cồm trở dậy đun nước pha trà, cẩn thận mời tôi ra bàn
ngồi.
Tôi chủ
động hỏi:
–Hôm
nay ở lai có việc gì không? Vất vả không?
Rít một hơi thuốc thật sâu, đầu điếu
thuốc đỏ loè, không nói không rằng, tợm một ngụm nước trà, súc
miệng òng ọc... Hắn lặng lẽ đứng lên, đi về phía giường ngủ của
hắn. Lúi húi lục lọi một lúc, hắn mang ra bàn nước một cái túi
vải bẩn bẩn, đổ ra bàn. Oa! Tôi không tin vào mắt mình, toàn
vàng... Mấy miếng vàng cây của Sacombank, Oceanbank... lẫn trong
đấy là nhiều vàng cục nhỏ, vàng trơn loại một hai chỉ, lại còn có
cả những hạt đá quý lóng lánh long lanh... Tôi tròn mắt nhìn hắn
chờ một câu giải thích.
Hắn thủng thẳng nói:
–Em nhặt được đấy thầy ạ. Lúc làm lễ
tang, người ta chỉ xếp vòng hoa lên mộ thôi, chưa lấp đất lên
quan tài đâu, xong lễ, mọi người về hết mới là công việc của bọn
em. Đất cho vào huyệt được một đoàn xe tải mới cứng chở đến. Đất
lấp huyệt trộn lẫn nhiều vàng và cả đá quý, chỉ có xe trên cùng
là đất không thôi. Bốn xung quanh xa vài chục mét, người gác cẩn
thận giăng hàng ngang. Chỉ có mình em và một thằng thầy chùa nữa
làm cái việc lấp đất. Chắc người ta nghĩ là sư thì không để ý đến
việc vàng thật hay giả, mà cũng chẳng ăn cắp để làm gì... Em mặc
áo thầy chùa ở ngoài, bên trong lại có cái áo ba túi; túi lại to
mới sướng chứ trời ạ! Em nhặt như điên, sướng quá thầy ạ.
Tôi lặng lẽ nhìn đống vàng và đá quý
của cậu học trò. Tự nhiên dở hơi lại thấy vui vui... Đúng là giàu
có số thật.
Tôi hỏi:
–Được
nhiều vàng thế, sao từ lúc về cậu lại có vẻ không vui lắm nhỉ?
–Dạ thưa, em cũng không tham đâu thầy
ạ. Được số vàng này em đang nghĩ xem hay là nhờ thầy, thầy làm
cách nào từ thiện đến được với mấy người nghèo khổ giúp em.
Ái chà! Vụ này nghe có vẻ phức tạp rồi
đây. Tôi đã mệt mỏi với cuộc sống lắm rồi; nhưng nghĩ lại, có cơ
hội làm việc tốt thì cũng nên.
Hai thầy trò cất dọn đồ rồi lên giường
đi ngủ. Nằm được một lúc, thấy tôi cựa quậy, hắn vọng sang hỏi:
–Thầy ngủ chưa?
–Chưa.
–Thầy có biết nhiều về đàn bà không?
–Mày điên à, sao lại hỏi thầy như vậy?
Im lặng một lúc, hắn nói:
–Đàn bà lạ lắm thầy ạ. Đàn bà thường có
hai loại: một là thiên thần, hai là ác quỷ. Thường thì thiên thần
nhiều hơn ác quỷ, vậy mà... (ngập ngừng một lúc) trưa nay trong
đám tang em thấy những người đàn bà có mặt lúc ấy, thiên thần thì
ít mà ác quỷ thì nhiều thầy ạ.
Tiên sư khỉ (tôi chửi thầm trong bụng).
Cái thằng học trò ranh con, cái thằng sư sổng chuồng này, mày lại
dám triết lý về đàn bà với thầy mày mới ghê chứ. À chắc hôm nay,
ở đám tang kia, chàng gặp lại cô nàng ngày xưa chăng? Vô lý nếu
thế thì nó đã kể...
–Thế tại sao anh lại nói với thầy như
vậy hử? Về đàn bà nghe có vẻ anh hiểu hơn thầy đấy?
–Thầy ơi, em làm nghề bốc mả em biết,
ông sư phụ truyền nghề cho em dạy em là ngày xưa ấy, đàn bà lúc
chết chôn ba năm cải táng, lúc đem cái xương cùng rửa sạch, nếu
có một cái chấm đen ở cái xương cùng ấy, bài vị của người đàn bà
đó mới được đem thờ chung với các tiền nhân trong dòng họ, còn
nếu có từ hai chấm trở lên là vứt thầy ạ.
–Sao vậy, mà sao cậu lại nói với tôi
những chuyện này?
–He he... (hắn cười một cách khoái chí)
Đúng thầy kém về đàn bà thật.
(... Tiên sư thằng này láo quá, rõ ràng
là nó dám coi thường cả thầy nó cơ chứ!...)
–Thầy biết không, đàn bà mỗi lần ngủ
với một người đàn ông mới, xương cùng sẽ in một cái chấm đen. Hai
người là hai chấm. Vậy đấy.
–Thế bây giờ anh đi làm có thấy đúng
vậy không?
–Úi
trời ơi... Đúng chứ thầy, chỉ có điều bây giờ ít người xương cùng
có một chấm lắm thầy ạ. Thậm chí có người còn đen sì chả đếm
hết... ặc ặc... (hắn cười...)
–Kinh nhể! Thế nhưng nó liên quan đếch
gì đến cánh đàn bà trong đám tang hôm nay?
–Vấn đề là thế đấy thầy ơi. Em còn có
cái võ là nhìn mặt thôi cũng biết những người đàn bà kia ngủ với
bao nhiêu thằng cơ. Cũng khổ, vì thế mà em khinh bọn họ lắm, cứ
nhìn mặt thôi là đã thấy ghét rồi.
–A Di Đà Phật... Thiện tai! Thiện tai!
Thôi ngủ đi ông tướng ơi, mai tôi về sớm đấy nhé.
–Ối chết thầy ơi. Thầy đừng về, thầy ở
đây với em. Em sẽ kể chuyện bốc mả cho thầy nghe.
Tôi nhắm mắt, im lặng, không trả lời.
Tôi ngủ và tôi mơ. Trong giấc mơ tôi thấy mình như một ông vua.
Còn thằng học trò bốc mả thì như nàng công chúa Seherazat trong
truyện “Một nghìn lẻ một đêm.” Đêm nào nó cũng ngồi ở cái giường
góc nhà quản trang tối om. Nó kể cho tôi nghe chuyện đời bốc mả
của nó. Mỗi đêm một câu chuyện.
* * *
–Thầy
ngủ chưa?
–Chưa...
...
Thế là chẳng dự tính gì, tôi cũng đã ở chơi với cậu học trò cũ
của mình được năm ngày rồi. Sống mà có hứng thú một chút thì thời
gian nó trôi qua cũng nhanh và nhẹ nhàng. Nhớ lại mấy hôm trước
còn ở nhà, thời gian trôi chậm như cái kim ngắn của đồng hồ. Chán
chết.
Suốt ba
hôm vừa rồi, tôi đi chơi lang thang như một thanh niên. Cứ sáng
ngày ra, cậu chủ nhà đi làm là tôi cũng lên đường. Thầy trò chỉ
gặp nhau từ bữa ăn tối. Thế cho nó tiện. Cần gì tôi sẽ gọi điện
thoại cho cậu – Tôi bảo với cậu ta thế – Cậu ta nhìn tôi có vẻ
ngại ngại, chắc là sợ tôi già, hoặc như thế sẽ không chu đáo với
thầy. Tôi phẩy tay cương quyết:
–Tính tôi thế, anh yên tâm! Thế là tôi
tự do suốt ngày. Đúng như lời cậu ta hứa với tôi, tối nào cũng
vậy, trước khi ngủ cậu ta bao giờ cũng tìm cách dẫn dắt để kể cho
tôi nghe những câu chuyện liên quan tới cái nghề bốc mả gớm chết
của cậu ta. Thật lòng, tôi là người rất thích hóng chuyện, đã thế
những câu chuyện của cậu ta cũng rất lạ. Tối nào tôi cũng hồi hộp
nằm đợi cậu ta hỏi câu hỏi quen thuộc.
–... Thầy ngủ chưa?
Sau đó cậu ta bắt đầu vào vai nàng
Seherazat... Và đây là câu chuyện của đêm nay.
–Thầy có biết gì về phong thuỷ không?
–Có biết chút chút, nhưng tôi không
thích lắm nên cũng chẳng để ý làm gì.
–Úi trời! Em tưởng thầy thế nào...
Hắn im lặng một chút như để cho tôi
thấm thía sự thương hại của nó dành cho sự “kém hiểu biết” của
tôi.
Rồi nó
thủng thẳng:
–Từ thời cụ Cao Biền, cụ Tả Ao người ta đã tinh thông thuật phong
thuỷ lắm rồi thầy ạ. Hồi còn đi tu em cũng được sư phụ truyền dạy
một số kiến thức về thuật phong thuỷ.
Tôi hỏi cắt ngang, không giấu sự mỉa
mai:
–Trình độ
của cậu chắc cao lắm nhỉ!
Giọng của cậu ta hơi nhỏ lại, vẫn tự
tin nhưng có vẻ cảnh giác:
–Dạ cũng tàm tạm thầy ạ.
–Bây giờ tôi chôn mười cái nhẫn vàng
của cậu, ra mười cái mộ bất kỳ ngoài kia; cậu dùng mắt nhìn phong
thuỷ của cậu, có chỉ ra được ngôi mộ nào có chôn vàng không?
Thằng học trò bốc mả la lên ngạc nhiên
thích thú:
–Ái
chà! Thầy cũng biết tới thứ công phu này của thuật phong thuỷ cơ
ạ, vậy chắc thầy cũng là bậc cao thủ?!
Tôi hỏi lại với giọng khiêu khích và
cũng không hề giấu sự thích thú khi thấy ông học trò láo toét
không dám coi thường mình nữa. (mặc dù tôi có dốt thật)...
–Anh có tìm được không?
–Tìm được chứ thầy (đến lượt tôi giật
mình). Thầy không nhớ hôm trước em nhặt được nhiều vàng và đá quý
thế là vì sao à. Hì hì... Người thường bới bới tìm tìm còn lâu
mới được một nắm, em nhìn thấu được dưới lớp đất kia chỗ nào có
cục to cục nhỏ, vì thế mới bốc được nhiều thế chứ.
Ừ có lý. Tôi biết là đã đến lúc nên nằm
yên để mà nghe. May mà nó không tự ái vì thái độ của tôi, khi tự
ái dễ mất hứng, câu chuyện sẽ mất hay, cái lẽ thường ở đời là
vậy.
–Thầy có
biết, cái vùng đất này có gì đặc biệt không?
–Không.
–Mấy ngày đi chơi thầy có ăn bữa thịt
dê nào chưa?
–Rồi.
–Ngon
không?
–Ngon.
–Thầy có thấy cái lâu đài nào không?
–À, cái đấy thì có. Tôi thấy ba bốn cái
ở ngay hai bên đường đi, to và đep lắm.
–Đúng rồi. Quanh vùng này thôi cũng có
dễ tới gần chục cái cơ đấy thầy ạ! Cái độc đáo của vùng đất này
là vậy đấy. Trên cả đất nước Việt Nam của mình, đây là nơi duy
nhất có nhiều những cái lâu đài to đẹp tới mức tầm cỡ thế giới
đấy.
–Đùa hay
thật đấy ông tướng?
–Em nói “có hoá đơn” đấy thầy ạ.
–Ái chà! Kể cũng gớm đấy chứ nhỉ. Đúng
là chuyện lạ thật chứ chả đùa tí tẹo nào. Ừ thì cứ cho là thật
đi, nhưng nó liên quan gì tới cái chuyện phong thuỷ của cậu?
–Đất này toàn núi đá với dê đấy thầy ạ.
Đất này có thể nói là cố đô cổ nhất và đẹp nhất Việt Nam. Thầy có
tin là nhờ có núi đá và thịt dê mà vùng này có những toà lâu đài
đẹp nhường ấy không.
Tôi tưởng ở đâu, cái gì cũng vậy, do
con người chứ.
–Thầy muốn hiểu sao cũng được. Em thấy
người ta đào đá đem bán, đem thịt dê bán... Vậy em nghĩ thế đấy.
Hai phần ba số lâu đài kia là do em xem hướng, định ngày, xem
giờ, thượng điền, hạ thuỷ, khai môn, trấn trạch cho đấy thầy ạ.
Nói thật, em không định kể những chuyện này đâu, làm nghề này,
những người non tay thì hay bốc phét, khoe khoang, để tiếp thị
bản thân. Riêng như em, trình độ khắp cả nước này, xem ra chỉ có
vài người, em phải giấu nghề thầy ạ. Ít người được em cho biết và
giúp phong thuỷ cho họ lắm. Do có nghề cao tay, được họ nhờ vả,
em biết nhiều chuyện thâm cung bí sử ở đằng sau những toà lâu đài
nguy nga tráng lệ kia lắm thầy ạ...
Kinh nhỉ! Tôi nghĩ thầm. Mình cứ tưởng
ông tướng này chỉ biết mỗi một môn bốc mả; giờ này nó lại còn
biết cả “bách ban võ nghệ” thế này thì kinh thật. Tôi chen ngang:
–Thôi mấy cái lâu đài của cậu để lúc
khác đi. Cậu có biết xem long mạch, xem huyệt đất để đặt mộ cho
người ta khi chết không?
–Trời! Đúng ngành dọc luôn thầy ơi.
Nghề tay phải của em đấy thầy à. Khu sinh phần của mấy ông có máu
mặt vùng này toàn một tay em chỉ cho đấy. Nhưng với thầy em chẳng
dám giấu, em nói thật, nghề xem phong thuỷ là nghề giúp người,
giúp đúng người, hợp lẽ đạo trời đất thì còn có phúc có phần,
giúp không đúng người, nhằm phải những loại chả ra gì, nó làm rối
loạn đạo trời đất là mình bị tội oan đấy thầy ạ.
–Ý cậu là gì?
–Thầy hỏi em xin khai thật. Đa số những
huyệt đất em được thuê tìm, đều của bọn làm giầu bất lương. Chỉ
có chúng nó mới có tiền. Người dân bình thường, chỉ mong có mảnh
đất chôn sạch sẽ là được. Ai đâu có điều kiện mà xem phong thuỷ
với phong thiếc... Khi đi cắm đất cho bọn giàu có bất lương ấy,
em cứ lựa theo lẽ trời, em chỉ cho bọn nó chôn vào những thế đất,
kiểu gì thì kiểu, cuối cùng cũng rơi vào cái thế “Bật ván thiên,
chìm ván địa” nghĩa là, sớm muộn gì chúng nó cũng bị người đời
đào cây đánh rễ nhà chúng nó lên thầy ạ.
–Thế cái đám hôm nọ cậu có đặt mộ huyệt
cho nhà người ta không?
–Chả em thì còn ai vào đấy nữa thầy ơi.
Em xem cho nhà nó từ hơn năm nay rồi. Mới hôm qua cũng có người
gọi nhờ em ra Hà Nội làm một đám. Nghe đâu cũng một người làm to
lắm đấy thầy ạ. Bấm độn xem, thấy người này chết phạm vào giờ
xấu, chắc kiếp trước ăn ở cũng chẳng ra gì. Em chả thèm đi trực
tiếp, chỉ gọi điện thoại chỉ đạo thôi.
... Tôi nhìn sang chỗ giường nằm của
thằng bốc mả ở góc phòng. Tối om và lặng lẽ im lìm...
Nó nằm im lặng. Nó nằm và thở đều đều
trên cái giường của nó, ở cái góc phòng tối đen của ngôi nhà
giành cho người quản trang, ở giữa cái nghĩa trang rộng và nhiều
gió... Một lúc sau tiếng thở của nó chuyển thành tiếng ngáy khàn
khàn. Sau mỗi âm phát ra có tiếng rung rung nhẹ nhẹ, như một thứ
âm thanh rên rỉ, mệt nhọc, buồn bã, như tiếng vọng về từ đâu đó
rất xa. Tự nhiên tôi thấy thương sự đa đoan vất vả của nó, tôi
thương cả cái thân tôi, tôi thương cả cái cuộc đời láo nháo và
hỗn độn này... Buồn.
* * *
Mấy hôm
rồi trời chuyển gió mùa đông bắc, tôi và gã học trò quý của mình
chẳng hẹn mà cùng nhau lăn ra ốm. Người trẻ với người già ốm cũng
chẳng giống nhau, tôi thì ho sù sụ, người ngợm đau mỏi khật khừ,
ăn chẳng thiết ăn, ngủ không ra ngủ. Ông tướng bốc mả thì mặt đỏ
phừng phừng vì sốt, mũi dãi chảy lòng thòng như trẻ con. Lạ là
hắn vẫn làm việc và ăn uống như bình thường, thậm chí còn khoẻ
hơn trước. May quá, sáng nay hắn bảo với tôi là hắn khỏi ốm rồi.
Gió mùa đông bắc vẫn thổi vi vu ở trên
những ngọn cây trong nghĩa trang. Ở trong nghĩa trang hình như
gió lạnh và khô hơn ở ngoài phố đằng xa kia.
Chiều nay gã học trò bốc mả của tôi về
sớm hơn mọi ngày. Y xách về một đùm to thịt dê và can rượu thơm
phức. Vừa sắp xếp đồ ăn ra một mâm đầy ụ, hắn vừa giải thích:
–Trời lạnh thầy ạ. Chẳng đi ra quán làm
gì. Từ nay thầy trò mình ăn ở nhà cho tiện. Cái món thịt dê này
tốt cho sức khoẻ lắm thầy ạ. Hi hi.
–Nhà anh làm cái việc liên quan đến thế
giới tâm linh mà ăn phàm uống tục như bọn Tây đen ấy. Kinh bỏ mẹ.
Có lúc tôi thấy anh còn mặc áo nhà chùa, vậy mà anh ăn uống phàm
tục như thế không sợ phải tội à?
–Úi trời ơi! Em tưởng thầy cấp tiến lắm
cơ chứ... Mà thầy mắng em cũng phải, thầy già rồi... Thầy ơi,
thời buổi bây giờ... Mà thôi, em mời thầy ra ăn đi thôi. Hi hi.
Hắn bỏ lửng câu “thời buổi bây giờ...”
đầy ẩn ý.
Tôi
miễn cưỡng tham gia bữa ăn tối cùng với thằng học trò trời đánh.
Lạ là nó ăn uống kinh người thật: dê nướng tảng, dê tái chanh, dê
quấn sả bọc mỡ chài, chân dê hầm thuốc bắc, nầm dê hấp lá tía tô,
cơm cháy sốt dê... Trời ạ! Cả mâm thức ăn đầy, cả can rượu to
vật, vậy mà không hiểu sao lại hết được. Tôi có ăn cùng hắn thật,
nhưng tôi cam đoan là không ăn nhiều lắm.
–Thầy ngủ chưa ạ?
–Chưa.
–Thưa thầy. Theo ý thầy. Ở thời buổi
bây giờ. Phúc hoạ người ta từ đâu mà đến ạ?
–À, ờ... Theo tôi nghĩ... là do tài
năng, do học vấn, có khi cũng còn do may mắn, do cả sự ưu ái của
ông trời.
–Đấy! Hắn vỗ đùi đánh đét một cái (thằng này lại chuẩn bị láo
đây!) Em biết ngay mà, không phải thế đâu thầy ơi. (Láo thật rồi!
nó lại chuẩn bị coi thường ông thầy già của nó đây. Tôi tức lắm
nhưng cố nằm im để hóng chuyện).
... Và thế là bằng một cái kiểu diễn
đạt như rao giảng, chẳng giống ai. Hắn vào chuyện:
Khoảng những năm thịnh trị nhất của
thời nhà Lê, ở vùng Thanh Nghệ có một nho sinh tên là Lê Học Sĩ.
Sĩ là người thông minh sáng láng, tinh thông kinh sách, trí tuệ
hơn người... Ông nội của Sĩ là Lê Thiện, một người giàu có, hay
giúp đỡ những người nghèo khổ. Lê Thiện được dân quanh vùng gọi
một cách kính trọng là “Thiện lão lão.” Từ thuở còn hàn vi cha
con Thiện lão lão thường cày ruộng trồng lúa. Ở ruộng nhà họ có
một ngôi mộ vô chủ, mỗi lần cày tới đó, Thiện lão đều bảo con
chừa ra một khoảng, tránh làm tổn hại tới ngôi mộ. Một ngày kia
có người khách phương xa tới xin được mang phần mộ ấy về quê, hỏi
ra mới biết đấy là phần mộ của một nho sinh, trên đường đi vào
kinh thành dự thi, bị ốm mà chết. Từ ấy nhà Thiện lão lão làm ăn
phát đạt lắm, chỉ mấy năm sau trở thành gia đình khá giả trong
vùng.
Năm Lê
Học Sĩ mười chín tuổi kinh thành mở khoa thi. Sĩ dắt theo thư
đồng vào kinh dự thi. Ngày lên kinh, cả họ, cả làng tiễn chàng
đi, họ đều cầu mong cho chàng sẽ công thành danh toại, vinh quy
bái tổ.
Trên
đường vào kinh, Sĩ cùng thư đồng tá túc trong một ngôi chùa có
tên Pháp Vân Tự. Buổi tối hôm ấy, Sĩ trằn trọc không sao ngủ
được, bỗng nghe tiếng đàn vẳng lại từ ngoài cửa sổ. Khoác áo bước
ra ngoài, dưới ánh trăng, Sĩ thấy một thư sinh, tay ôm đàn ngọc,
thần thái phiêu diêu tựa như tiên nhân. Vốn tinh thông âm luật,
nghe tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt réo rắt thật là tuyệt diệu, Sĩ
bước tới gần lễ phép chào hỏi:
“Thật hay quá, giống như âm nhạc nơi
cõi trời vậy. Dám xin hỏi danh tính huynh đài là gì?”
Chàng trai trẻ ngưng đàn, ngẩng đầu
nhìn Sĩ rồi đáp:
“Tại hạ là Điền nhất Sinh, quê ở Thành
Nam, nay trên đường tới kinh thành dự khoa thi, đêm nay nghỉ lại
nơi này, chợt lòng hứng khởi, gảy khúc tiêu dao, huynh đài nếu
không cười chê xin mời qua đây cùng đàm luận.”
Sĩ bước tới ngồi xuống cùng Điền Sinh
trò chuyện như thân thiết tự bao giờ. Hai người cùng trao đổi về
sở học văn tài. Sĩ vô cùng thán phục tài học của Điền Sinh, chàng
cảm thấy so với Điền Sinh chàng còn thua xa một trời một vực. Vốn
lần này đi thi chàng ôm mộng trạng nguyên, nay không thể không
giật mình ta thán “Núi cao còn có núi cao hơn... Người tài còn có
người tài hơn ta...”
Suốt chặng đường còn lại vào kinh
thành, Sĩ ra sức trau dồi những kiến thức mà Điền Sinh trao đổi,
học vấn của chàng tiến bộ không ngừng. Đến ngày khai hội, Điền
Sinh đột ngột chia tay Lê Học Sĩ để về quê chịu tang mẹ. Ngày
chia tay ngậm ngùi nuối tiếc, dặm hồng bụi cuốn, người về kẻ ở
như hư như thực... Buồn ơi là buồn.
Hội thi năm ấy, đề bài vừa phát tới
tay, Lê Học Sĩ đọc sơ một lượt, cảm thấy vô cùng phấn chấn vì đề
bài vừa hợp với khả năng, chàng hạ bút thành chương, lời văn bay
bổng như gấm như hoa thật là đắc ý. Câu cuối cùng của đề bài là
một câu đối. Vế trước của câu đối là:
“Than đen, lửa hồng, tro như tuyết.”
Lê học Sĩ đọc xong không khỏi giật
mình. Đây là vế đối khó, bảy chữ này chỉ một sự vật, sự vật ở đây
có ba màu sắc, thật là câu đối hiểm hóc. Sĩ vắt óc nghĩ mãi chẳng
ra, mướt cả mồ hôi. Sĩ bỗng cảm thấy rùng mình như bị trúng gió,
chàng ta gục xuống bàn ngủ thiếp đi, trong mơ, Sĩ thấy có người
đến vỗ vai chàng, một giọng nói, nghe quen quen, nhỏ nhẹ nhưng
rất rõ bên tai, “chàng trai trẻ, bài văn của cậu còn mấy chỗ chưa
ổn lắm...” Rồi giọng nói ấy lại chỉ... thế ấy, thế ấy, thế ấy...
Sĩ thấy những chỉ bảo của người vô hình
kia thật là uyên bác, chàng vội thưa luôn:
“Thưa tiên sinh vế đối năm nay khó quá,
tiểu sinh nghĩ mãi chưa ra...”
Giọng nói vô hình hỏi lại:
“Nhà ông cha ngươi có cày ruộng bao giờ
không?”
“Có
ạ.”
“Cày ruộng
làm gì?”
“Trồng lúa ạ.”
Giọng nói như cười khe khẽ và bảo:
“Như vậy ngươi chưa hiểu được sao? Lúa
màu gì, còn trấu, cám, gạo xay ra thì sao?”
Sĩ từ trong mộng như choàng tỉnh chỉ
thấy mình vẫn đang ngồi làm bài thi. Những tình tiết trong mơ như
vẫn còn trước mắt. Chàng chợt hiểu, liền cầm bút viết ngay câu
đối:
“Lúa vàng
cám đỏ gạo tựa sương.”
Kế đó chàng nhanh chóng sửa bài cho
hoàn hảo như gợi ý của người vô hình trong giấc mộng.
Khoa thi năm ấy Lê Học sĩ đỗ trạng
nguyên, áo gấm vinh quy về quê. Sau đó Sĩ được bổ làm quan to
trong triều, ông quan này để lại một sự nghiệp sáng chói trong
thời đại của ông và cả nhiều thời sau. Ông ta chết đã lâu nhưng
cho tới nay và còn sau nữa, người đời vẫn ca ngợi, khâm phục và
biết ơn những gì ông để lại. Thế đấy...! Hừm hừm...
–Thầy ngủ chưa? Thầy có hiểu ý nghĩa
câu chuyện em vừa kể không?
Tôi vẫn thức, tôi hiểu câu chuyện nói
gì, tôi thích cái cách thằng bốc mả này quan niệm và nghĩ về cuộc
đời. Nhưng thật khó chịu về cái kiểu đắc chí của nó, nhất là cái
cách nó hỏi tôi. Mẹ kiếp, tiên sư cái thằng này láo quá cơ. Tôi
giả vờ đã ngủ rồi, giả vờ không nghe nó hỏi.
Im lặng...
Nó tưởng tôi ngủ thật, tức quá thở phì
phì rồi một lát sau nó ngáy đều đều.
Nó đã ngủ rồi. Còn các bạn, các bạn có
hiểu ý nghĩa của câu chuyện nó vừa kể không?
Ai mà nói được đúng ý nghĩa câu chuyện
này, tôi hứa sẽ nói với thằng học trò của tôi khuyến mại cho bạn
dịch vụ của nó... He he... Đùa thôi. Tôi sẽ mời bạn cà phê và sẽ
cúi đầu khâm phục đấy.
* * *
Tôi
thức giấc sớm hơn mọi khi. Câu chuyện tối hôm qua của cậu học trò
mang đến cho tuổi già của tôi một cảm giác như là thiếu tự tin.
Tôi thấy cái cách tôi hiểu biết về cuộc sống, cái cách tôi nhìn
nhận mọi chuyện, cả ở những chuyện đơn giản, tôi cứ nghĩ là đã
thấu đáo đầy đủ... Hoá ra cũng chưa hẳn thế.
Trong ánh sáng lờ mờ của một ngày mới,
nhìn vào cái góc phòng tối om, cậu học trò của tôi vẫn nằm im,
tiếng thở vẫn đều đều, chắc vẫn ngủ... Hệ lụy của can rượu và
đống thịt dê hôm qua đây. Tôi cười thầm và nghĩ xa xôi đến cái
chuyện nó nói với tôi về việc người dân ở đây đào đá núi và xẻ
thịt dê bán để xây lâu đài.
... Buổi sớm cuối thu, đầu đông trời
lạnh lạnh, sau mấy ngày ốm, cảm giác khoẻ khoắn đã trở lại, đi
dạo trên những con đường nhỏ quanh co bên những hàng bia mộ, tự
nhiên tôi thấy giữa hai thế giới, thế giới của những người đang
tồn tại và thế giới của những người đã chết nằm dưới kia thật hoà
hợp, gần gũi và bình yên.
Hôm nay là chủ nhật, tôi chợt nhớ là
mình còn có ý định, nhân tiện lần xuống chơi ở đây, tôi sẽ đi
thăm một người bạn già, ông là một linh mục ở bên Kim Sơn, nơi có
nhà thờ đá nổi tiếng của xứ Bùi Chu Phát Diệm ngày xưa. Là bạn bè
từ thuở còn trai trẻ, vậy mà chỉ thi thoảng, những khi buồn vui
bất chợt, chúng tôi viết thư, gọi điện thoại cho nhau. Thời còn
trẻ khi ông linh mục mới về giáo phận này, chúng tôi thường hay
gặp gỡ. Vậy mà thấm thoắt cũng nhiều chục năm rồi chưa gặp lại.
... Đi dạo về, thằng học trò quý của
tôi đã ngủ dậy từ lâu. Không biết có việc gì mà hôm nay nó lại
mặc áo của nhà chùa. Anh ta lại đường bệ uy nghi như một vị hoà
thượng chân tu. Nhìn ông sư trước mặt tôi, đố ai dám tưởng tượng,
vừa mới tối qua ông sư này đã xơi hết vài cân thịt dê cùng cả can
rượu gần ba lít... A Di Đà Phật! Biết tôi đi chơi với ông bạn
linh mục, nó gọi xe “taxi”, chuẩn bị chu đáo cho tôi lên đường,
tiễn ra tận xe nó còn ân cần nói:
–Thầy đi chơi vui vẻ ạ.
Đón tôi tận ngoài đường cái, ông bạn
dẫn tôi thẳng về nhà thờ, đường làng quanh co, hàng quán phục vụ
cho đám khách du lịch nhà thờ đá san sát như phố thị. Sau cái bắt
tay và gật đầu cười lúc đón khách xuống xe, bạn tôi thong thả đi
trước, trên suốt quãng đường dài từ đường cái về đến nhà thờ, chỉ
thi thoảng ông linh mục gật đầu đáp lễ khi có người chào ông. Tôi
thấy thật thú vị khi phát hiện ra cái phong thái nghiêm trang cao
quý như đang làm lễ trong nhà thờ của người bạn Công giáo. Bước
rảo lên ngang với ông, tôi như muốn bắt chuyện, như để tỏ sự vui
mừng khi lâu ngày bè bạn gặp nhau, ông bạn già chỉ như hơi nhoẻn
miệng cười, ông khẽ nắm tay tôi và vẫn thư thả đi về trước. Đi
ngang qua cái sân thật rộng của nhà thờ, tôi cảm giác lạ lạ như
đang đi từ thế giới này sang một thế giới khác. Chỉ khi đẩy cánh
cửa to và nặng nề của nhà thờ, bước vào bên trong giáo đường rộng
ngợp, người bạn già của tôi mới như trở lại con người tôi biết từ
trước. Vui vẻ, khẽ ôm vai tôi, đẩy nhẹ tôi ngồi vào cái ghế ở
hàng trên cùng của giáo đường. Nơi ông và tôi thường thích ngồi
với nhau trò chuyện mỗi khi có dịp...
–Uống chút nhé... Bạn uống gì nhỉ? Hì
hì... Sao hôm nay chúa lại mở cửa thiên đàng cho bạn về thăm tôi
vậy. Vui quá đi hì hì...
Phì cười và cảm động trước sự vui vẻ,
vồ vập của người bạn, tôi cũng vui vẻ gật đầu và hứng thú chỉ tay
về góc giáo đường trên tầng hai, nơi có cây đàn Piano mấy trăm
tuổi.
–Ha ha
vẫn còn nhớ hả, rồi, OK...
Với tay lấy cái gậy nhỏ như cái dùi
trống của trẻ con, gõ khẽ vào cái chuông ở góc bàn. Cánh cửa nhỏ
nơi góc lễ đường mở ra. Một người nữ tu trẻ và đẹp như các “Ma
sơ” trong phim ảnh phương tây xuất hiện, nàng mang theo một cái
xô nhỏ có chai rượu vang đã mở nút, ngâm trong đá, hai cái ly pha
lê viền vàng lấp lánh. Người nữ tu khẽ cúi chào và khéo léo rót
rượu mời khách. Tôi và ông bạn cụng ly, tiếng ly kêu lanh canh
trong trẻo, ngân nga trong vòm nhà nguyện như lời tụng ca tình
bạn hữu của chúng tôi. Tôi thấy vui, lòng nhẹ nhõm như quên đi
những ưu phiền của cuộc sống.
Sau ly rượu, người bạn già thư thả đi
lên tầng hai của lễ đường, Và rồi âm thanh của tiếng đàn piano
tràn ngập giáo đường. Ave Maria...
Tôi rất thích nghe tiếng đàn Piano
trong nhà thờ. Tôi không phải là người công giáo. Nhà thờ công
giáo thờ chúa và những ngôi chùa thờ phật, với tôi chỉ đơn giản
là nơi thiêng liêng, nơi để người ta tôn thờ, xưng tụng và ngợi
ca những giá trị tốt đẹp của Đạo đức Con người... Tôi chỉ thích
nghe nhạc, nghe tiếng đàn Piano trong nhà thờ, thế thôi.
Rượu vang và âm nhạc trong giáo đường
nhà thờ làm tâm hồn tôi như ngất ngây. Tôi đi dạo quanh nhà thờ
đá. Tôi chợt phát hiện ra một điều kỳ thú, những viên đá xếp bên
nhau từ đã rất lâu, cùng với thăng trầm thời gian, đá ở đây như
có linh hồn. Những viên đá như đang lặng lẽ kể chuyện. Như những
số phận con người ở quanh đâu đây. Đá mang gương mặt người, thấp
thoáng ẩn hiện. Tôi ngồi xuống tựa vào đá và ngủ thiếp đi, tôi
mơ... Trong giấc mơ tôi, đá kể cho tôi nghe những câu chuyện của
đá, có chuyện vui, có cả chuyện buồn. Tôi như nghe ai đang hát
“... Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...”
Tỉnh giấc, tôi thấy người bạn già ngồi
bên từ bao giờ. Ánh mắt hướng xa xăm về nóc tháp chuông nhà thờ,
không biết bạn tôi nhìn thấy gì ở đó. Tôi biết ở tháp chuông đó
có một quả chuông rất to, tiếng của nó vang xa khắp cả xứ đạo
này.
Chúng tôi
cứ ngồi yên lặng bên nhau như thế, lâu lắm... Người bạn già phá
vỡ sự im lặng làm tôi giật mình:
–Có chuyện gì hả ông?
–Không... Có gì đâu, mà sao ông lại hỏi
tôi vậy?
Lại
im lặng.
–Ông
có nhớ thằng bé hồi trước tôi định gửi ông trông nom hộ không?
–Nhớ chứ, nhưng mà sao? Có chuyện gì về
nó à?
–À...
ờ... không... À mà cũng có chuyện muốn kể với ông về nó, chuyện
vui vui thôi nhưng...
Thế là tôi và người bạn già ngồi bên
nhau ôn lại câu chuyện về Nó.
... Ngày xưa, lâu lắm rồi, hồi tôi mới
học xong trường sư phạm, tôi đi dạy học trên miền núi. Cái thời
ấy cả cái đất nước này đều khó khăn, thiếu đói. Trên những chuyến
xe khách tôi đi mỗi ngày cuối tháng, khi được nghỉ về thăm nhà,
tôi thường nghe người ta nói về nghề dạy học của chúng tôi bằng
giọng thương hại lẫn cả coi thường. Lần ấy, về nghỉ tết cuối năm,
tôi gặp một thằng bé, cậu bé người miền núi, nói tiếng kinh chưa
sõi. Bị gã phụ xe trợn mắt ra sức quát đuổi xuống xe không cho về
xuôi, không hiểu sao thằng bé cứ bám vào tay tôi như cầu cứu, và
chả hiểu trời xui đất khiến thế nào, tôi nhận mua vé cho nó đi
cùng.
Tết, nó
ăn tết ở nhà tôi. Hết tết, nó theo tôi trở lại ngôi trường mà tôi
dạy học. Nó không có nhà cửa, cũng chẳng có ai thân thích. Nghe
mấy người trong cái bản gần nơi tôi bắt xe về tết hôm ấy nói, nó
là con của một cô giáo dưới xuôi lên đây dạy học, nghe đâu nhà cô
dưới ấy cũng chẳng còn ai, cô có con với một anh lái xe đường
dài. Sợ tai tiếng, sợ nhà trường phạt kỷ luật... cô đẻ giấu đẻ
diếm rồi gửi vào bản nhờ người nuôi.
Lúc đầu, mỗi tháng cô đều gửi gạo gửi
tiền vào nuôi con. Được hơn một năm sau, cô giáo kia bị lũ cuốn,
mất xác... Người nuôi thằng bé nghèo quá, nay nhờ người này, mai
nhờ người khác cho nó ăn, bữa đói bữa no. Thằng bé trở thành con
chung của cả cái bản nghèo cho đến ngày tôi gặp nó. Nghiễm nhiên
thằng bé ở với tôi ở trường, tôi làm giấy khai sinh cho nó, tên
bố là tên tôi, tên mẹ là tên bà vợ anh hiệu trưởng cho nó hợp
pháp thôi; và ai cũng nghĩ như vậy là phải. Tôi dạy nó nói tiếng
kinh, dạy nó học, tôi chia sẻ cuộc sống khó khăn của tôi với nó.
Lạ là nó không bao giờ coi tôi là bố nuôi, nó chỉ gọi tôi là thầy
xưng em. Tôi cũng chưa muốn làm bố nên chẳng ý kiến gì.
Hai năm sau tôi chuyển công tác về
xuôi, thằng bé theo tôi về. Nó ở với tôi tới năm nó học lớp mười
một. Tôi muốn lấy vợ nhưng người ta cứ dị nghị nó là con tôi. Mấy
lần đi hỏi vợ toàn bị từ chối khéo, đau thật. Tôi nói chuyện ấy
với nó, nó cười cười. Tôi bảo, thầy gửi mày vào trung tâm giáo
dục thường xuyên của bạn thầy nhé, ở đó cũng được học chữ và còn
học cả nghề nữa. “Không.” Nó trả lời lạnh tanh, nó không cười
nữa. tôi không hiểu lúc ấy nó nghĩ gì...
–A, chính hồi ấy vì thế ông mang nó
xuống gửi tôi ở đây phải không? Thì tôi đã tìm được gia đình cho
nó rồi đấy thôi. Mà tôi nghĩ nó cũng ổn đấy chứ. Sao lại?...
–Ừ, hồi ấy cuộc sống khó khăn quá. Tôi
nghĩ mãi mới dám nhờ ông. Cũng mừng là sau này ông lại dò hỏi,
tìm được tung tích người lái xe năm nào mà trả cháu nó về với gia
đình.
–Cũng
may cho nó, nếu không tìm được gia đình nó, bây giờ nó đi học làm
linh mục, theo đạo công giáo như tôi thì... hà hà... cũng hay đấy
nhỉ.
–Nó không
làm linh mục ông ơi... Nó làm thầy chùa. Giờ nó lại đi trông coi
nghĩa trang trong thành phố kia kìa ông ơi...
–Giê su ma! Lạy chúa tôi... Ông vừa nói
gì vậy?
Tôi kể
cho ông bạn già nghe phần tiếp theo cuộc đời của nó.
–Tìm được gia đình nó cũng vui. Như ông
biết rồi đấy, quê nội nó hoá ra là ở Ninh Bình, nhà cũng tương
đối, gã lái xe ngày xưa khi biết nó là con, xin với bà vợ cả cho
nhận mang về nhà đoàn tụ ngay. Chuyện coi như xong xuôi. Chia tay
nó, tôi cũng hơi bùi ngùi, nó thì chỉ im lặng. Tôi cũng không
hiểu nó nghĩ gì. Thời gian trôi nhanh quá. Bẵng đi một thoáng mà
đã mấy chục năm. Nó bảo với tôi khi gặp lại, học xong lớp mười
hai, nó đi tu, rồi bị đuổi khỏi chùa, nó bây giờ làm đủ nghề,
trông nghĩa trang, xem phong thuỷ đất cát, bốc mả, cúng bái...
Tóm lại là nó bây giờ lạ lắm, tôi đang ở chơi với nó đây ông ạ.
–Vậy thì cũng tốt chứ sao ông lại...?
–Thì tôi có bảo không tốt đâu. Tôi kể
chuyện là một phần cũng để ông mừng cho nó. Mà này, ông ơi, ông
có tin vào số phận không? Ông có tin vào chuyện con người ta,
ngay từ khi mới sinh ra đã phải gánh vác một thiên chức gì đó mà
chúa hay ông trời giao phó cho không?
–Ha... ha... ha... Bạn tôi ơi, già rồi,
lẩm cẩm đến nơi rồi. Tôi là linh mục đây, tôi nói thật nhé, có
Chúa đấy, có ông Trời đấy bạn ạ. Có điều, Chúa, ông Trời, ông
Phật... là ở trong lòng người mà ra cả thôi ông ơi. Số phận,
thiên chức, gì gì đấy, đều do con người mình tạo ra mà thôi.
–Thì tôi vẫn nghĩ thế; nhưng lạ là bây
giờ già, cứ hay nghĩ lẩn thẩn, chán thật.
Câu chuyện của chúng tôi bỏ ở đó. Tôi
chưa hết băn khoăn, nhưng mà thôi.
Hai chúng tôi khoác vai nhau đi về giáo
đường... Rượu vang... Tiếng đàn Piano quý phái tràn ngập không
gian... Thấp thoáng sau cánh cửa nhỏ có ánh mắt dịu dàng, bí hiểm
của những thiên thần choàng khăn màu tối...
Chia tay ông bạn già. Tối mịt hôm ấy
tôi mới quay về với căn phòng trong khu nghĩa trang thành phố.
Thằng bốc mả vẫn ngồi đợi tôi về ăn tối. Nó vẫn mang trên người
tấm áo của nhà sư. Mâm cơm hôm nay cũng lạ lạ, không nhiều khủng
khiếp như mọi khi, lại còn có nửa mâm là đồ chay. Thấy tôi nhìn,
nó hiểu ý nói ngay:
–Em mời thầy xơi cơm đi. Hôm nay nhà
chùa cho mời em vào, sư trụ trì bảo là hội Phật giáo đã quyết
định cho em trở lại chùa thầy ạ.
–Thật vậy hả... vậy là...
–Dạ vâng, từ mai em lại là thầy chùa
rồi thầy ạ. Nhưng em xin với thầy cả, cho em vẫn ở đây, em vừa
tu, vừa tiện coi sóc công viêc tang lễ cũng tốt cho mọi người.
Tôi không nói gì nữa. Tôi lặng lẽ ăn.
Hôm nay tôi ăn mặn, cậu học trò của tôi ăn chay.
Bạn có hiểu tôi đang kể chuyện gì
không?
Hồi còn
trẻ, tôi có đọc ở đâu đó, một câu, tôi cứ nghĩ là đúng: “Cái áo
không làm nên ông thầy tu...” Bây giờ sao tôi thấy hoang mang
quá. Tôi già thật rồi.
Bạn tôi bảo:
–Chúa và thiên đàng có tồn tại không?
Chúa và thiên đường chỉ có trong niềm tin của mỗi chúng ta.
Học trò của tôi thì nói rằng:
–Phật và cõi niết bàn có tồn tại không?
Phật chỉ có trong tâm của mỗi người.
Tôi thì nghĩ lẩn thẩn:
–Phải chăng, hành trình suốt cuộc đời
nhọc nhằn, láo nháo, và hỗn độn này, chúng ta chỉ có thể dựa vào
chính mình?
Vậy còn các bạn, các bạn nghĩ sao...???
* * *
... Hắn
mặc áo nhà chùa, ngồi dãi thẻ trên giường cẩn thận sắp xếp, đếm
đếm.
Chiều
cuối thu đi dạo, thiên nhiên thật êm đềm dễ chịu. Vừa bước chân
vào đến cửa tôi nhìn hắn ngạc nhiên hỏi:
–Cậu làm gì vậy?
–Dạ thưa thầy, em sửa soạn, sắp xếp lại
cuộc đời... Hì hì... Quyết tâm làm lại thầy ạ. Thầy giúp em một
tay với ạ...
–Ừm... Tôi thì giúp được gì nào?
–Đây ạ, chỗ này là tiền mặt đây ạ...
Hơn bốn tỷ ạ... Gói này là vàng và đá quý, có cả mấy hạt kim
cương đấy thầy ạ.
–Trời! Cậu làm gì lắm của vậy... mà sao
lại giở ra...
–Hì hì... (vờ như không chú ý tới thái độ và câu hỏi của tôi) hắn
chỉ vào đống sách vở. Nhiều phết thầy ạ. À, Thầy thử đọc mấy bài
này của em xem được không. Em định bỏ đi nhưng lại tiếc.
Hắn đẩy về phía tôi một chồng giấy khổ
“a4” gói ghém cẩn thận. Tôi chưa hết kinh hãi về số tài sản khủng
của hắn. Tay bê chồng giấy, vừa đi lùi về giường của tôi, vừa
nhìn hắn như cách người ta nhìn một thằng ăn cướp.
–Thầy đọc thử đi nhé, một phần đời của
em đấy. Em nhặt nhạnh gom góp lại, những bài thơ, những câu
chuyện, cả chuyện riêng của em, cả những câu chuyện em nhặt được
trong đời... Biết đâu có khi thầy đọc xong lại thấy hay, lại thấy
đỡ buồn, hì hì... Đừng cười em đấy nhé.
Mồm hắn nói và tay xếp mấy quyển sách;
nó vẫn làm như không biết gì đến thái độ của tôi.
Tôi chợt thoáng trong đầu ý nghĩ sẽ về
Hà Đông vào chuyến xe sáng ngày mai.
Hờ hững tôi rút một tờ giấy đầy chữ,
một bài thơ được viết bằng bút mực, chữ rất đẹp, đúng là chữ của
nó:
“...
Đơn giản là tôi muốn
Muốn chạm tay vào người con gái xinh đẹp
Thứ ham muốn đã sinh thành minh triết
Và
từ đó đức phật khai sinh
Đơn giản như
biết bao lần tôi bị đánh lừa
Khi nỗi
buồn em đem giấu kín trong chiếc khăn màu ngũ sắc
Và khi em yêu
Sự làm dáng có hào quang
bảy sắc cầu vồng
Chia tay em ở cuối mùa
xuân
Em thắp vội vàng lên nắng mùa hạ
Và bây giờ ở cuối mùa thu
Tôi ngơ ngẩn
chờ lời hẹn của mùa đông
Mọi thứ kiến
thức chỉ đủ cho tôi nói một lời ngu si
Giục em lấy chồng....
Chiều đã cạn rồi
Lòng chẳng muốn vào đêm
Trở lại hồng
hoang muốn làm tù trưởng người Cơ Tu
Đi
săn máu giữa rừng chỉ trông bắt được em.”
Ui da... Một bài thơ tình, thơ của một
người mặc áo nhà chùa đây sao? Chắc là bài thơ này anh ta có được
qua cuộc tình với cô con gái nhà họ Trần đây. Vốn dị ứng với thứ
thơ rẻ tiền nhan nhản quanh tôi từ đã lâu, tôi đọc lướt bài thơ
nhưng vẫn lờ mờ nhận thấy có cái gì đó lạ lạ. Nó giống như một
nỗi đau, nỗi đau được nói bằng thứ ngôn từ kiêu hãnh, xót xa mà
chân tình lắm... Mà hình như, đằng sau những câu chữ kia, còn
chứa chất điều gì đó vượt ra ngoài câu chuyện tình yêu trai gái?
Tờ thứ hai, cũng vẫn là một bài thơ,
không phải chữ của nó... chữ của con gái, chắc là của cô gái họ
Trần nào đó...:
“...
Những lời này cho anh
Ta bỏ ta chưa nửa
cuộc tình
Khi đam mê thể xác căng đầy
Hương lửa chưa đầy sao lòng nghe đắng cay
Những lời này cho anh
Ta hận ta khi đối
mặt đời
Đêm đơn côi chợt thấy đêm dài
Tay bỏ tay rồi nên lạc lõng đôi ta
Từ đó
đôi mình buông xuôi tất cả
Như hai kẻ lạ
Anh gặp em ngoảnh mặt, em gặp anh gục đầu
Thoáng dài buồn hun hút đoạn buồn một lần qua
Những lời này cho anh
Ta đợi ta khắc
khoải nửa đời
Ôi đam mê thể xác rã rời
Trên giữa đọa đày khi tàn mộng đôi ta...”
Hay. Thơ hay
quá! Tôi nhớ lại câu chuyện tình của ông thầy chùa trẻ người non
dạ, với cô gái con nhà một ông đại gia mà tôi được nghe kể hôm
nào. Trời ạ. Tôi nhìn chồng giấy “a4” đen đặc chữ, tôi biết mình
đang có trước mặt, bản thảo những câu chuyện thú vị, về cuộc đời
kỳ lạ của gã học trò làm nghề bốc mả kiêm thầy chùa này.
Nấn ná mãi rồi tôi cũng phải trở về nhà
mình. Bà vợ già và mấy đứa con dù biết tính tôi xưa nay vốn ưa tự
do tự tại nhưng cũng đã hết kiên nhẫn với những cuộc điện thoại
triệu hồi liên tục réo rắt.
Hắn thấy tôi nghe điện thoại xong, hắn
nhìn tôi lo lắng, dò hỏi có vẻ tuyệt vọng:
–Thầy quyết về thật à?
–Ừ... ự... Tôi cũng thấy muốn về rồi.
Già rồi... Ở với anh tôi thấy cũng thú vị lắm, nhưng có tuổi rồi,
cũng không nên để cho vợ con họ lo lắng cho mình nhiều quá anh ạ.
Giọng hắn nhỏ lại, xúc động:
–Thầy ở luôn đây với em, em chăm sóc
thầy được mà... Em muốn được báo đáp, phụng dưỡng thầy...
Tự nhiên tôi cũng xúc động. Tôi hiểu
cậu học trò của mình đang nghĩ gì.
Chúng tôi ngồi lặng lẽ với nhau rất
lâu, những kỷ niệm ngày xưa hình như cũng lặng lẽ trở về. Hai
người đàn ông tự nhiên ngồi như hai khúc gỗ. Tôi thấy hình như có
một trong hai người chảy nước mắt...
... Nó đứng lên, nó nói với tôi là đi
chuẩn bị đồ cho tôi. Hôm trước tôi xuống đây chỉ có mấy bộ quần
áo, mấy thứ đồ dùng cá nhân lặt vặt, tất cả chỉ cho vào một cái
túi vải nhỏ; bây giờ, cậu ta sắm cho tôi một cái túi du lịch.
Thấy lạ lạ, tôi hỏi thì hắn nói:
–Có mấy gói thuốc Nam để thầy ngâm
rượu. Số tiền em tích lũy được, số vàng, cả số đá quý lần trước
may mắn nhặt được... em gom lại, em nhờ thầy quản lý hộ. Thầy có
thể tuỳ ý chi dùng, phần để thầy chi dùng cho cuộc sống hàng ngày
của thầy, còn ra, để thầy giúp cho những người nghèo khó mà thầy
biết...
–Ấy
chết! Thế còn cậu, cậu để mà dùng chứ... Tôi có gia đình...
–Thầy ơi. Em từ nay trở đi không còn là
em của ngày hôm qua nữa đâu. Thầy còn ở với em, em mới cần đi làm
thêm để phụng dưỡng, báo đáp ơn thầy. Thầy về, em chỉ còn mỗi một
việc là hoằng dương chánh pháp giúp bá tánh và chăm chỉ tu hành
thôi. Ăn chay, niệm Phật có nhà chùa lo thầy ạ.
Tôi hỏi giọng không hề giấu diếm sự băn
khoăn:
–...
Tiền ở đâu ra mà nhiều thế?
–Dạ thưa thầy, tiền em tích góp được
đấy ạ, công sức bao nhiêu năm làm nghề bốc mả, xem đất cát, phong
thuỷ, rồi lễ lạt... cho người ta đấy thầy ạ.
–Sao nhiều vậy?
–Tất cả đều là mồ hôi, công sức chính
đáng của em đấy thầy ạ. Thầy ơi, so với công thầy ngày xưa cứu
vớt cưu mang em chưa thấm gì...
Tôi nhìn ánh mắt cậu học trò lúc ấy, nó
tha thiết, khẩn khoản và quyết liệt lắm... Tự nhiên nó gợi cho
tôi về cái ánh mắt cậu bé năm nào ở cái vùng miền rừng nghèo đói
ngày xưa... Biết có nói đi nói lại cũng không khác được nên tôi
im lặng.
–...
À mà thưa thầy... có việc quan trọng nữa...
Tôi hỏi:
–Gì vậy?
–Dạ thưa thầy, em muốn toàn tâm toàn ý
cho nghiệp tu, bởi vậy tất cả số sách vở, giấy tờ, cả những gì
liên quan đến đời sống trần tục của em, em có được suốt từ những
năm tháng qua, em xin gửi thầy giữ cho em, em không biết nói sao,
nó là một quãng đời em. Xin thầy coi như em tặng thầy làm kỷ
niệm.
Tôi lặng
lẽ gật đầu... Tôi không nói gì, nhưng lòng tôi xúc động lắm. Tôi
biết gã học trò trước mặt tôi đang nói những lời từ gan ruột nó.
Phải chăng nó đang nói những lời từ biệt tôi để rồi chúng tôi sẽ
xa nhau, xa như ngày nào tôi dứt tình với nó để nó về với ông bố
đẻ là gã lái xe...
Tôi không biết gã thầy chùa trước mặt
tôi có thành chính quả trên con đường tu nghiệp hay không. Tôi
ngồi lặng im. Xa lắm có tiếng còi tàu trôi vào trong gió. Tàu
xuôi về hướng nam.
Đặng Hưng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Tin Vo chuyển
Đăng ngày Thứ Tư,
September 2, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang