Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Ma
Bình Giã
Tác giả:
Ngô Viết Trọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Tác giả: Viết thay hiền nội của tôi để nhớ những ngày sống ở vùng kinh tế mới. –NVT
Sau ngày chính quyền VNCH sụp đổ, chồng tôi phải đi
tù bảy năm. Mãn tù, theo yêu cầu của chính quyền địa phương,
chồng tôi đưa gia đình đến sống ở một xã kinh tế mới thuộc tỉnh
Phước Tuy cũ, đó là xã Xuân Sơn. Hồi ấy, xã này mới được khai
phá, đất đai còn hầu hết là núi đồi hoang dã, ngay cả cái tên xã
cũng còn xa lạ không mấy ai biết đến. Nhưng xã Xuân Sơn lại nằm
giáp cạnh một xã khác danh đã nổi như cồn, gần như cả miền Nam
đều có nghe tới: xã Bình Giã.
Bình Giã là một xã được thành lập đầu
thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dân chúng hầu hết là người bên kia vĩ
tuyến 17 di cư vào, theo đạo Chúa
[công giáo]. Vùng này đất đai
mầu mỡ, người dân lại siêng năng chăm chỉ, nên Bình Giã trở thành
một xã tương đối giàu có. Dân Bình Giã lại có tinh thần đấu
tranh mạnh, rất đoàn kết, nên chính quyền mới vẫn từ tốn dè dặt
trong việc áp dụng chính sách cai trị mới để tránh sự khích động
không hay. Sinh hoạt dân chúng địa phương này trước sau vẫn không
thay đổi mấy.
Trong khi ở những xã khác, chính quyền áp dụng chính sách thu mua
sản phẩm nông nghiệp khá triệt để thì riêng ở Bình Giã lại được
nới lỏng rất nhiều. Người dân chỉ bán cho chính quyền một phần
sản phẩm vừa phải, còn bao nhiêu họ giữ lại để sử dụng khi cần.
Việc buôn đi bán lại của người dân Bình Giã có phần được buông
thả hơn những nơi khác.
Bình Giã đã thật sự nổi danh sau một
trận đánh lớn giữa quân đội Cộng Hòa và bộ đội Cộng sản mà cả hai
bên đều thiệt hại rất nặng. Chiến trường đã xảy ra không phải
chỉ trong phạm vi xã Bình Giã mà lan tận các vùng núi rừng chung
quanh. Chính xã Xuân Sơn trước đấy còn đầy rừng núi là nơi còn
chứa nhiều dấu tích của trận chiến đó. Mà thói thường, mỗi dấu
tích càng lâu lại càng dễ đẻ ra nhiều huyền thoại, do đó nơi đây
huyền thoại không thiếu gì. Một hố bom, một vài cây cổ thụ, một
con dốc đều có thể có huyền thoại riêng của nó. Người ta thấy
không ít các trường hợp “lên đồng” dã chiến. Như một người đàn
bà đang ngồi nói chuyện với vài người hàng xóm bỗng nhiên mặt đỏ
lên, mắt đờ đẫn khác thường, tuyên bố mình là lính Thủy Quân
Lục Chiến đã chiến đấu nơi đây. Rồi chị ta chỉ chỗ kia nói có
mấy người bộ đội ở, chỗ nọ có mấy lính Cộng Hòa ở... Một đứa trẻ
đang ngồi xắt rau để nấu cháo cho heo bỗng vươn mình đứng dậy ú ớ
nghe não nuột “Nhớ mẹ quá đi trời ơi! Ôi cái kiếp sinh Bắc tử
Nam! Tôi là bộ đội bác Hồ đây, ai thương xin cho điếu thuốc!”.
Một thanh niên nghe nói vậy, thử lấy bao thuốc và hộp quẹt đưa
cho. Ngờ đâu đứa trẻ ngậm luôn một lần bốn điếu châm lửa lên mà
hút một cách sung sướng... Thế nào sau đó, những người dân sống
gần đó cũng lén đốt giấy, cúng vái để cầu an...
Từ Xuân Sơn đến Bình Giã, phải đi qua
một cánh đồng, trên con đường giao thông chính dài độ bảy cây số.
Đoạn đường khá thẳng, được bắc cao, tráng nhựa, rộng vừa đủ cho
hai xe đò tránh nhau, đã chia cánh đồng làm hai. Chính đoạn đường
này được người ta kể như là một nơi ma quỷ hay hiện hình nhất. Có
người nói vào ban khuya, họ hay thấy những đoàn người lố nhố đuổi
đánh nhau giữa đồng, nghe luôn cả tiếng hò hét hoặc rên la nữa.
Giữa đường thì thỉnh thoảng họ gặp khi một toán lính Cộng Hòa,
khi thì năm bảy anh bộ đội Cộng sản, áo quần tả tơi, vẻ người
xanh xao hốc hác. Một vài hồn ma vẫn hay ngửa tay xin thuốc hút
hoặc xin nước uống...
Những lời đồn ấy đã khiến cho những
người yếu bóng vía, nhất là đàn bà con gái rất hoang mang lo sợ
khi đi qua cánh đồng này ban đêm. Dù cần thiết gấp gáp tới mức
nào, họ cũng phải tụ tập năm bảy người rồi mới dám đi. Chỉ một
đoạn đường ấy thôi mà đã ớn như thế...
Xã Xuân Sơn ngoại trừ một thôn người
Thượng chuyên đi săn thú và kiếm của rừng, ít sản xuất, còn lại
ba thôn phần đông dân chúng đều làm rẫy. Thôn ba chúng tôi, dù
chỉ là vùng đồi núi nhưng là đất mới khai khẩn nên còn khá mầu
mỡ, hoa mầu trồng ra vẫn thường khá đạt. Nhưng làm ra của mà rất
khó việc tiêu thụ của cho xứng với công lao của mình. Chính
quyền địa phương đặt trạm thu mua khắp xã và thu mua với một giá
mà không một người dân nào bằng lòng. Nhân viên công an, du kích
kiểm soát các trạm giao thông hết sức chặt chẽ. Những người mang
bắp, đậu ra khỏi xã từ hai ký trở lên đều bị tịch thu không bao
giờ châm chước.
Người dân đã phải tìm cách này cách
khác đưa hoa mầu ra khỏi xã để bán với một giá khá hơn. Ngoại trừ
hạng con buôn chuyên nghiệp rành rẽ đã tìm cách đút lót cho nhân
viên các trạm, những người bình thường chuyển hoa mầu đi rất khó
khăn. Một người mang lên xe đò chừng năm bảy ký đậu xanh hay đậu
phộng, thường phải phân ra từng gói nhỏ, gởi quanh các hành khách
khác mỗi người một ít cho đến tận nơi cảm thấy an toàn mới thâu
gom lại.
Xã
Xuân Sơn bấy giờ mới chỉ có hai cái chợ. Một cái chợ nhỏ ở thôn
một, thôn giáp ranh với cánh đồng Bình Giã, buôn bán rất sơ sài,
chưa có gì đáng kể. Muốn mua bán nhiều hơn, người dân thôn một
vẫn phải đi chợ Bình Giã hoặc chợ xã.
Chợ xã, mở gần trụ sở xã tại thôn hai,
là trung tâm của xã, buôn bán có phần phồn thịnh hơn nhiều. Chợ
có đủ cả vải vóc, thịt, cá khô, mắm muối, các loại trái cây, rau
cỏ, nông cụ, thuốc trừ sâu, phân tro... Chúng tôi là dân thôn ba,
thôn trong cùng, vẫn kéo nhau ra chợ này mua bán.
Chợ xã có điểm đặc biệt là lấy thuế rất
ngặt, bất cứ ai đến bán thứ gì dù ít dù nhiều đều phải đóng thuế
theo định mức tùy tiện của người thu. Để làm cho người dân không
dám trễ nải, thiếu sốt sắng khi bị đòi thuế, chính quyền địa
phương đã khôn ngoan giao cho một gã mắc bệnh cùi làm nhiệm vụ
đó. Hắn tên Hoàng, bị bệnh cùi lở cả hai tay, cụt nhiều đầu ngón,
trông vẻ người rất gớm ghiếc. Trước 1975 hắn vẫn đi ăn xin, người
ta vẫn quen gọi là Hoàng Cùi. Từ khi gặp cơ hội đổi đời, cặp mắt
lúc nào cũng nhuốm vẻ bi thương của Hoàng Cùi bỗng biến đổi thành
cặp mắt cú vọ, sắc lạnh của một viên chức chính quyền cách
mạng. Nhiều người lạ mới gặp bị hắn chiếu mắt một cái là phải
rùng mình. Ai cũng sợ hắn đến gần, họ sợ cả vi trùng bệnh lẫn mùi
tanh tưởi. Vì thế, khi Hoàng Cùi cầm cái biên lai thuế đưa cho ai
người đó thường vội vàng xì tiền ra mà không dám kêu ca một
tiếng. Một vài người buổi sáng bán hàng chưa được, trong lưng
không có xu nào cũng phải mượn những người chung quanh sẵn để khi
Hoàng Cùi tới là nộp liền để hắn nhanh chóng đi cho khuất mắt.
Hoàng Cùi hoạt động rất năng nổ, không bao giờ bỏ sót thuế một
người bán hàng. Ban đầu còn có một vài người dám giấu giếm che
đậy hàng để giảm được tiền thuế. Nhưng gặp Hoàng Cùi mắt sắc như
dao và rất tàn nhẫn, nếu hắn phát hiện được sự gian dối là mớ
hàng đó bị tịch thu ngay. Không bao giờ hắn châm chước cho lại ai
một cái gì. Vì thế, người dân ai cũng chạy mặt Hoàng Cùi.
Cứ gặp mặt Hoàng Cùi là tôi mất hết
bình tĩnh. Lần đầu gặp hắn tôi đang bán một gánh rau, thấy
hắn tới, tôi luống cuống như gà gặp rắn. Hắn chìa tờ phiếu biên
lai thuế mà tôi vẫn đứng ngớ người. Mặt hắn nhăn lại với vẻ
nghiêm khắc bực bội và nói gì tôi không nghe được. Một người đứng
gần đó bảo tôi:
– Đóng tiền thuế mười đồng kìa!
Tôi không có mười đồng mà chỉ có tờ hai
chục, tôi lấy ra đưa cho hắn. Hắn đếm mớ tiền lẻ toan thối lại,
nhưng nhìn thấy mấy ngón tay của hắn, tôi hoảng sợ khoát tay:
– Khỏi! Khỏi thối! Lần sau khỏi đóng!
Hắn đi rồi tôi mới thấy mình hớ. Một
người bán gần đó hỏi tôi:
– Cất biên lai thuế chưa? Không chừng
hắn trở lại đòi một lần nữa đấy!
Một người khác bỉu môi:
– Nó có đòi lại thì đòi chứ cho ba vạn
tôi cũng không dám giữ cái biên lai ấy trong người.
Tôi ngẩn ngơ ra, không biết khi nãy
mình có nhận biên lai không, nếu có nhận cũng đã vứt đâu mất
rồi...
Từ đó,
ngoại trừ những khi chẳng đặng đừng tôi mới đi chợ xã.
Dần dần tôi
bắt quen và tháp tùng với những người chuyên gánh hàng đi đêm ra
xã Bình Giã để bán. Bán đậu hay bắp ở Bình Giã đều được giá hơn
bán ở Xuân Sơn rất nhiều. Tuy phải thức/ngủ sớm, nhưng đi đêm mát
mẻ ít mệt, lại khỏi hồi hộp lo sợ vì các trạm kiểm soát đều nghỉ
hoạt động. Tuy thế, thỉnh thoảng người ta cũng gặp phải những anh
cán bộ túng thiếu phải rình mò để “xơ múi”. Khi gánh đậu hay bắp
đi bán, muốn cho chắc ăn, người ta phải ngụy trang phủ lên trên
một lớp rau lang.
Cứ bắt đầu từ buổi tối, tôi chuẩn bị
gióng gánh với hàng bán cẩn thận sẵn sàng. Tôi đã ước hẹn với ba
cô bạn trẻ, trên đường đi phải ngang qua nhà tôi, hằng đêm ghé
lại kêu tôi cùng đi. Tôi thường khởi hành khoảng ba giờ sáng. Dần
thành thói quen, cứ trước ba giờ là tôi đã thức dậy ngồi chờ.
Đêm đó, không hiểu vì sao đó, tôi đang
ngủ bỗng nghe tiếng kêu:
– Dậy mà đi thím Lý ơi!
Tôi giật mình thức giấc. Nhà không có
đồng hồ nên tôi không rõ lúc đó mấy giờ. Tôi đứng dậy vớ cái áo
lạnh khoác lên người. Nhưng chồng tôi níu kéo tôi trở lại giường:
– Dậy làm chi sớm thế? Đã ai đi đâu giờ
này!
– Tụi nó
mới kêu đó. Không theo kịp tụi nó rồi làm sao dám chạy một mình?
Tôi cũng hơi lạ sao hôm nay chúng nó
không ngừng trước cửa nhà tôi đợi tôi như mọi khi. Có lẽ vì dậy
hơi muộn nên chúng phải chạy gấp chăng? Thế là tôi bỏ vội mấy bó
rau đã chuẩn bị sẵn lên mặt hai thúng hàng rồi cất gánh
lên vai. Nhưng ra đến đường cái tôi không thấy bóng dáng một
ai. Nghĩ rằng bọn bạn đã đi xa rồi, tôi cứ cắm đầu mà chạy cho
kịp. Tới khi đến dốc Bình Linh mà không thấy ai trước mặt, tôi
bắt đầu lạnh người.
Cũng xin nói thêm một chút: Thôn ba
chúng tôi là thôn ở trong cùng của xã Xuân Sơn, phải qua thôn
hai, thôn một rồi mới tới Bình Giã được. Trên đoạn đường thôn ba
tới thôn hai lại phải qua một cái dốc gọi là dốc Bình Linh. Khu
vực này lúc đó chưa có nhà cửa gì cả. Đất thì đã được phát quang
để trồng trọt nhưng còn có hai cây bình linh rất lớn, cao nghều
nghệu đứng gần nhau chưa ai hạ nổi. Phần thân gần mặt đất dễ
chừng đường kính đo trên bốn mét. Tàn cây lớn, ngọn cây quá cao
nên lúc nào trông lên cũng thấy nó rung rinh rung rinh và phát
tiếng kêu vi vu vi vu nghe thật ghê rợn. Người ta lấy tên hai cây
cổ thụ này mà đặt tên dốc. Người ta cũng đồn đại rằng dưới hai
cây này đêm hôm vẫn thường có ma hiện ra với bao nhiêu hiện tượng
kỳ quái. Bình thường đi với nhiều người tôi không để ý tới chuyện
đó, nhưng bây giờ chung quanh chẳng có ai, tôi thấy ớn xương sống
vô cùng. Tôi định quay trở lại nhưng không hiểu sao chân tôi cứ
bước tới. Dốc này hơi cao, thường tôi vẫn phải bước rất chậm
nhưng lúc ấy vì quá sợ, tôi đã qua lúc nào không hay...
Phải nói rằng tôi đã chạy quá nhanh,
đến độ giữa đêm mà thân thể vẫn toát mồ hôi. Trước mặt vẫn không
một bóng người. Khi đã tới khu vực dân cư, tuy bớt sợ nhưng người
tôi mệt lắm. Bình tĩnh trở lại, tôi biết rằng mình đã mơ lầm
tiếng ai gọi mà đi sớm mất rồi. Ngồi nghỉ đây để chờ bọn bạn ư?
Không thể được. Rủi gặp anh du kích nào đi tuần thì tiêu ngay mấy
chục ký đậu xanh và còn bị phiền phức nữa! Tôi lẩm bẩm lập lại
một câu mà nhiều người đi Bình Giã ban đêm thường nói “Mồ hôi
nước mắt, mất nó là con đói. Ma âm phủ không tác hại thực tế bằng
ma trần gian!”. Thế là tôi lại bước thật nhanh như sợ ai đuổi
theo sau mình. Không phải sợ ma nữa mà sợ đồng bọn của Hoàng Cùi.
Tôi cố bước thật nhanh cho chắc ăn...
Khi thấy cánh đồng Bình Giã hiện ra
trước mắt tôi mới biết ngay mình đang ở trạm kiểm soát cuối cùng
của xã Xuân Sơn. Đã ra khỏi Xuân Sơn nhưng tôi vẫn thấy khó tính.
Cánh đồng Bình Giã đầy ma như người ta vẫn đồn, bây giờ một mình
tôi đàn bà yếu đuối làm sao mà đi đây? Nghỉ tạm đây hoặc trở lui
cũng không được, ma trần gian vớ được thì khốn. Thôi, cứ mặc ma
âm phủ muốn làm chi thì làm! Người tôi đã quá mệt vì gánh nặng
lại chạy nhanh không nghỉ trên một quãng đường quá dài. Chỉ cần
qua được cánh đồng Bình Giã thì thật sự an toàn. Nghĩ thế rồi tôi
lại tiếp tục chạy. Tôi cố tập trung sức chạy để đầu óc khỏi rảnh
rỗi mà sợ hãi. Nhưng đến khoảng giữa cánh đồng thì chân tôi muốn
khuỵu xuống. Tôi biết sức mình không thể gắng thêm, đành đặt gánh
xuống và ngồi bệt bên vệ đường. Ngồi thở chốc lát tôi mới thấy đỡ
mệt một chút. Tôi đưa mắt nhìn quanh, định nghỉ thêm vài phút
nữa. Bỗng tôi thấy từ ngoài xa đường lộ, một toán người lố nhố
đang chạy về phía tôi. Hoảng hốt, tôi lại đặt gánh lên vai và
tiếp tục cắm đầu chạy. Hình như có tiếng người thình thịch đuổi
theo sau lưng. Tôi sợ quýnh lên và vẫn cố chạy. Bỗng tôi lại thấy
trước mặt một toán người khác cũng đang lố nhố chạy về phía tôi.
Sau có người đuổi, trước có người chận, tim tôi đập mạnh, người
tôi run lên bần bật. Thế rồi tôi ngã xuống và không biết gì
nữa...
Bỗng
tiếng bánh xe lăn lộc cộc và tiếng chân bò nện trên đường đã
khiến tôi tỉnh dậy. Tôi nghe tiếng một người đàn ông hỏi lớn:
– Cái chị bán rau sao lại nằm giữa
đường thế này?
Không biết tôi đã ngất đi bao lâu. Tôi
mở mắt ra thì thấy chiếc xe bò đang ngừng. Con bò có vẻ thèm
thuồng mớ rau lang của tôi. Nó đang hướng mắt tới những bó rau
non mà liếm mép. Tôi vùng đứng dậy rồi đặt gánh lên vai. Trời đã
hơi hưng hửng. Nhìn lại phía sau tôi thấy một đoàn người cũng
đang gánh hàng nói cười oang oang. Lần này tôi nghe rõ cả tiếng
những người quen. Đó đúng là những người vẫn thường đi với tôi,
tôi đứng lại chờ họ.
– Chà, thím Lý bữa ni không thèm đợi
tụi tôi, bỏ mà đi trước!
– Đi sớm một mình như vậy cô không sợ
ma à?
– Ma
trần gian mới đáng sợ chứ ma âm phủ ngán chi cô Lý hỉ!
Người này một câu, kẻ khác một câu đã
thâu ngắn đoạn đường còn lại...
Khi trở về Xuân Sơn, tôi quan sát kỹ
hai bên cánh đồng Bình Giã nơi hồi khuya những đám người lạ
đã xuất hiện chỉ thấy rất nhiều bụi cây nhỏ mọc lố nhố từng
hàng trên các bờ ruộng. Chợt một ý nghĩ chớm lên trong đầu: Có
lẽ chính những bụi cây ấy đã khiến tôi nhìn thành những bóng
người trong lúc tâm thần hoảng hốt chăng?
Ngô Viết Trọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Ngô Viết Trọng chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, May 14,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang