Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Chú Tiểu thông minh
Tác giả:
Ngô Viết Trọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Sư Khánh Vân đang dạo
bước ngắm hoa ở sân sau chùa bỗng nghe tiếng ồn ào đâu phía
trước. Chú tiểu Công Sơn lật đật lại gần sư thưa:
– Bạch thầy, không biết ai đã đem một
đứa bé trai bỏ trước cửa chùa. Nó khóc dữ quá. Một số thôn dân
đang đứng quanh đấy bàn tán xôn xao, xin thầy ra xem thử.
– Mô Phật, để đó thầy ra xem sao!
Sư thong thả đi trước, tiểu Công Sơn
cũng nối gót theo sau. Những người dân đang đứng quanh đứa trẻ
thấy sư Khánh Vân ra đều hướng về sư chắp tay xá và nói như đồng
loạt:
– Nam mô
A Di Đà Phật!
– Mô Phật, chào các đàn việt!
Một người đàn bà thưa:
– Bạch thầy, không biết con ai đem bỏ
đây, nó khóc quá mà ai bồng nó cũng không chịu. Chúng con đều thử
cả rồi nhưng không thể nào làm nó nín. Tội nghiệp thằng nhỏ trông
kháu quá!
Đứa
trẻ được đặt nằm ngửa trên một tấm vải thô màu nâu, đang quơ tay
quơ chân khóc dữ dội. Sư Khánh Vân tiến lại gần đứa trẻ, đứng
nhìn nó. Đứa trẻ bỗng im bặt chăm hẳm nhìn lại sư rồi vươn tay
lên như đòi bồng. Mọi người ngạc nhiên lắm. Sư quay lại hỏi:
– Thế các đàn việt có ai biết đây là
con ai và người nào mang nó lại bỏ đây không?
Một người đàn ông thưa:
– Bạch thầy, con đang gánh củi ngang
qua đây thì thấy một người đàn bà từ nơi này đi ra có vẻ hấp tấp
lắm. Ban đầu con không để ý làm gì nhưng sau đó con nghe tiếng
trẻ khóc, con ngạc nhiên nhìn lại thì thấy đứa trẻ này, khi ấy
người đàn bà đã khuất dạng. Con để củi xuống, bước lại gần thì
đứa trẻ càng khóc thét lên, con phải dội ra. Kế đó những người
này kéo lại, thấy đứa nhỏ dễ thương ai cũng muốn bồng nhưng hễ ai
đưa tay đến là thằng nhỏ lại hét lên. Không ngờ bây giờ thấy thầy
nó lại im thin thít và đòi bồng như vậy, kể cũng là một sự lạ.
Con nghĩ có thể đứa trẻ này có duyên với chùa.
Nhà sư ngồi xuống cạnh đứa trẻ. Nó mỉm
cười vói tay lên nhưng nhà sư không bồng mà nói với mọi người:
– Các đàn việt gắng dò tìm người nào đã
đem bỏ đứa bé lại đây. Tìm ra, thầy sẽ có cách nói chuyện, an ủi,
giúp đỡ họ. Thầy nghĩ ai đó hẳn có một nỗi khổ tâm. Trong khi chờ
đợi tìm ra tông tích đứa bé, nhờ đàn việt nào tình nguyện đem nó
về chăm sóc tạm. Nếu cần gì, chùa sẽ hỗ trợ một tay. Thầy xem
tướng đứa trẻ này không phải tầm thường. Nào, nó nín khóc rồi,
đàn việt nào muốn lại bồng nó về đi!
Một người đàn bà tiến lại:
– Thầy để con lo việc này cho!
Nhưng khi người đàn bà đưa tay toan bế
đứa trẻ thì nó giẫy nẩy và khóc thét lên. Người đàn bà cố gắng
mấy lần nhưng vô hiệu.
– Thôi, con xin chịu!
Mấy người khác đều thay nhau thử bồng
nhưng đứa trẻ nhất quyết không chịu và cứ một mực đòi sư Khánh
Vân. Sư Khánh Vân gọi chú tiểu Công Sơn lại bế thử thì người ta
lại ngạc nhiên thấy đứa nhỏ nín khóc chịu cho bồng. Mọi người đều
cười:
– Thôi,
quả là thằng nhỏ có duyên với Phật rồi!
Sư Khánh Vân lấy làm lạ bèn khiến tiểu
Công Sơn bồng đứa nhỏ vào chùa. Khi được tiểu Công Sơn bồng đi
vào cổng thì thằng bé nhoẻn miệng cười có vẻ thích chí. Sư Khánh
Vân thấy vậy cũng cười, quay lại nói với mọi người:
– Mô Phật, bây giờ tạm thời cứ yên yên
như vậy đã. Nhưng nhờ các đàn việt tìm gấp tông tích thân nhân
đứa trẻ cho thầy nhé!
– Bạch thầy, chúng con sẽ cố gắng.
*
Từ khi chú bé được đem vào chùa, tiểu
Công Sơn phải bận rộn hơn một chút. Tuy thế, để bù lại, cái không
khí trong chùa lại khởi sắc vui vẻ hơn. Chú bé không mấy khi
khóc, không làm nũng. Những khi sư Khánh Vân và tiểu Công Sơn bận
kinh kệ hoặc công việc, chú bé một mình đùa nghịch vui vẻ với mấy
món đồ chơi chứ không làm phiền ai hết. Quá lắm, chú chỉ bò quanh
trong phạm vi được tiểu Công Sơn “khoanh vùng”. Sư Khánh Vân,
tiểu Công Sơn và những khách đến lễ chùa đều cảm thấy vui vẻ khi
đùa chơi với chú bé. Chú tỏ ra rất thông minh, bắt chước tiếng
nói khá nhanh và biết nghe lời dạy bảo. Không như những đứa trẻ
khác, chú không ăn uống ẩu, không chơi dơ. Khi cần đi cầu đi tiểu
chú cũng kêu và chờ người lớn giúp đỡ chứ không bao giờ làm bậy.
Vào chùa được hơn mươi ngày thì chú biết ngồi. Sau đó không lâu
chú được tập đứng, tập đi và chỉ ba tháng sau là chú có thể đi
lui tới khắp chùa.
Sự có mặt của chú nhỏ trong chùa không
làm trở ngại việc tu học bao nhiêu mà lại tăng thêm sự vui vẻ nên
sư cũng như tiểu Công Sơn không còn nôn nóng với việc tìm tông
tích thân nhân đứa bé nữa. Bốn tháng trôi qua, vẫn không thêm
được một tin gì khác về gia đình chú nhỏ, sư Khánh Vân đành cười:
“Con ai đem bỏ chùa này,
Nam mô A Di Đà Phật, con thầy, thầy nuôi!”
Bấy giờ sư Khánh Vân mới tính đến việc
chọn một cái tên cho chú nhỏ. Không biết con ai làm sao biết họ
gì? Sư suy nghĩ rồi quyết định cho chú nhỏ lấy họ Lý, họ của sư.
Sư lại đặt tên cho chú nhỏ là Công Uẩn. Ở trong chùa bên cạnh sư,
tất nhiên Công Uẩn cũng trở thành chú tiểu.
Khi bắt đầu dạy chữ nghĩa, sư Khánh Vân
vô cùng ngạc nhiên về sự thông hiểu mau chóng và nhớ dai của Công
Uẩn. Giảng đâu hiểu đó, đọc đâu nhớ đó, chẳng bao lâu Công Uẩn có
thể đối đáp văn sách ngang ngửa với tiểu Công Sơn. Riêng về thơ
phú thì Công Uẩn vượt hẳn cả tiểu Công Sơn. Trong thơ của Công
Uẩn thường toát ra một thứ khẩu khí kỳ dị. Như một hôm Công Uẩn
phạm lỗi, bị sư phạt trói nằm giữa bệ đặt tượng Phật suốt đêm,
Công Uẩn đã đọc ra hai câu “Dạ thâm bất cảm trường thân túc, Chỉ
khủng sơn hà xã tắc điên. (Đêm khuya chân mỏi không dám ruổi. Chỉ
sợ sơn hà xã tắc nghiêng)”. Sư Khánh Vân nghe vậy vừa mừng vừa
sợ. Hằng ngày sư càng chuyên tâm dạy dỗ cho Công Uẩn hơn.
*
Hôm ấy có một vị sư phương xa vân du
đến viếng chùa Cổ Pháp. Vị sư trông dáng dấp oai nghi thông tuệ,
đó là sư Vạn Hạnh. Sau khi cùng khách lễ Phật rồi dẫn khách viếng
quanh chùa một vòng, sư Khánh Vân mời sư Vạn Hạnh vào nhà khách
uống trà.
–
Này sư huynh, không hiểu sao bần tăng thấy cảnh sắc nơi đây có vẻ
khác thường lắm! Trong chùa có gì lạ chăng? – sư Vạn Hạnh hỏi.
– Sư huynh thấy có sự lạ sao? Chùa này
lâu nay vẫn thế có gì khác đâu!
– Dám hỏi, sư huynh được mấy đệ tử?
– Chẳng dám giấu sư huynh, bần tăng chỉ
có hai đệ tử, đệ tử lớn Công Sơn là người vừa dâng nước đó. Đệ tử
nhỏ Công Uẩn hiện đi lấy củi chưa về.
– Thế lâu nay sư huynh có theo dõi
chuyện thời thế đến không? Theo bần tăng nhận xét, rồi đây đạo có
thể gặp khó khăn đấy.
– Sư huynh hay vân du khắp chốn nên rõ
tình hình. Bần tăng cứ ru rú một chỗ thế này chẳng biết gì cũng
lấy làm thẹn. Có gì xin sư huynh rộng lượng chỉ bảo cho biết.
– Không dám, tuy nhiên bần tăng cũng
không ngại ngùng đưa ra những nhận xét thô thiển của mình xem có
hợp ý sư huynh không. Quả tình bần tăng có vân du nhiều nơi thật,
nhưng đến nơi nào thấy cảnh sắc già lam cũng tiêu điều, bần tăng
lấy làm lo lắm. Không ngờ khi đến đây thì thấy cảnh sắc lại khác
hẳn, thật đáng mừng. Nếu quả sắp tới đây có pháp nạn thì chính
nơi này là chỗ cứu đạo đây.
– Sư huynh nói thế chứ bần tăng và tiện
đệ tử đức mỏng tài cạn mà trông gì!
Tuy nói thế nhưng sư Khánh Vân lại vui
nghĩ tới người học trò nhỏ của mình. Bấy lâu nay sư đã có nhận
xét so sánh giữa hai đệ tử của mình, thực là một trời một vực.
Cũng lúc ấy, tiểu Công Uẩn vác một bó củi đi vào. Sư Vạn Hạnh
nhìn thấy tiểu Công Uẩn thì giựt mình. Tiểu Công Sơn liền ra
ngoài báo cho Công Uẩn biết chùa đang có khách.
– Đệ tử Công Uẩn xin ra mắt sư bá và sư
phụ.
Sắc mặt
sư Vạn Hạnh sáng hẳn lên. Sư gật đầu cười với Công Uẩn rồi nhìn
sư Khánh Vân:
– Mừng cho sư huynh có một đệ tử xứng đáng.
Sau khi chào khách, tiểu Công Uẩn đi lo
công việc. Sư Khánh Vân khi ấy cũng tươi nét mặt nói với sư Vạn
Hạnh:
– Sư
huynh chắc biết xem tướng! Sư huynh thấy tiện đệ tử thế nào?
Sư Vạn Hạnh gật gật:
– Quí lắm! Quí lắm! Về học vấn Công Uẩn
đã đạt tới mức nào rồi?
Sư Khánh Vân bèn đem tông tích, đạo
hạnh cùng học vấn của Công Uẩn kể hết cho sư Vạn Hạnh nghe.
Suy nghĩ một lúc, sư Vạn Hạnh nói:
– Sư huynh có thể nào cho bần tăng mượn
Công Uẩn một thời gian được không?
– Để làm gì?
– Thú thật với sư huynh, bần tăng có
một đệ tử võ nghệ siêu phàm, bần tăng muốn cho Công Uẩn được
truyền thụ môn võ nghệ đó. Đồng thời, bần tăng cũng muốn có một
thời gian ngắn gần gũi với Công Uẩn để chỉ dạy cho y một ít kiến
thức về thuật kinh bang tế thế.
– Đâu cần thiết phải vậy? Thật sự Công
Uẩn cũng đã được bần tăng truyền một chút võ nghệ đủ giữ thân
rồi. Một kẻ đã muốn rời vòng tục lụy còn ôm cái thuật kinh bang
tế thế vào người đâu có hay. Bần tăng muốn tiện đệ tử chăm lo
kinh sách để sớm đạt đạo mà giác ngộ đại chúng thoát cảnh trầm
luân trong bể khổ là toại nguyện rồi.
– Nói vậy là sư huynh chưa hiểu ý bần
tăng. Thú thật với sư huynh, bần tăng vốn cũng có học chút đỉnh
về việc xét đoán thời thế, xem tướng người. Nếu bần tăng không
nhìn sai, rồi đây đạo Phật có thể vướng vào vòng nước lửa, đất
nước ta có thể rơi vào tròng nô lệ. Chúng ta rất cần một người có
khả năng cứu nước giúp đời, mà người đó, dưới mắt bần tăng, có
thể là Công Uẩn.
– Xin lỗi sư huynh, lý của sư huynh bần
tăng thấy còn mơ hồ. Lôi kéo một người có khả năng đi tới bến
giác trở lại vòng tử sinh, bần tăng thấy áy náy lắm. Thôi thì xin
sư huynh miễn cho tiện tử.
– Đạo có thể bao trùm vũ trụ nhưng
người theo đạo không nên tách rời với sự an nguy của tổ quốc. Bần
tăng sở dĩ phơi cả lòng mình ra mà thỉnh cầu sư huynh, chính là
vì nước mà cũng vì đạo nữa. Nếu như nước bị tàn phá, dân chịu
gông ách nô lệ, sư huynh có thể thoải mái ngồi tìm chân lý giải
thoát được không? Những kẻ vô thần, dị giáo họ có thể để sư huynh
yên ổn ngồi tu không? Việc đời luôn luôn biến cải, nếu mình cứ
nhất nhất đi theo một nguyên tắc e rằng lạc hậu đến phải ân hận
mất. Giả sử đạo Phật có giới cấm sát sinh, nhưng nếu vùng mình ở
có một con cọp cứ luôn làm hại người, mình có thể vì giới cấm mà
cứ để cho con cọp giết người mãi hay không? Sư huynh cho rằng
Công Uẩn có khả năng đi tới bến giác, thì tới bến giác cũng chỉ
có mục đích cứu độ chúng sinh chứ gì? Đồng ý là khi đã đạt đạo,
cái khả năng cứu độ, giải thoát sẽ nhiệm mầu hơn nhiều, nhưng
chẳng lẽ cứ hướng tới đó mà lơ cái việc cứu vớt những kẻ trầm
luân ngay bên cạnh mình, cho như thế là bị níu kéo, bị trở ngại?
Bậc nhân giả ở trong chốn ba quân hay giữa trường đời đen bạc
nhưng vẫn giữ đuợc tâm ý tự tại, tùy hoàn cảnh mà phuơng tiện độ
sinh cũng là một cách tu vậy. Không lý việc diệt gian trừ tà để
cứu chúng sinh thoát cảnh trầm luân binh lửa cũng là tội? Giờ
đây, vua Đại Hành đã già mà chưa lập Thái tử, con trai ngài thì
quá đông, rõ ràng là mầm loạn đã chứa sẵn rồi. Các đại thần trong
triều thì mỗi người riêng một bụng. Chắc chắn sẽ có cảnh huynh đệ
tương tàn xảy ra. Nước Tàu tham lam thì khi nào cũng rình rập cơ
hội để thôn tính nước Đại Cồ Việt ta. Nếu sư huynh cho Công Uẩn
đi với bần tăng mà sau này lời dự đoán của bần tăng không đúng,
tất nhiên Công Uẩn sẽ trở về với sư huynh thôi. Còn nếu sư huynh
không chịu nghe bần tăng mà sự việc ấy quả xảy ra thì e công đức
của sư huynh sứt mẻ nặng. Xin sư huynh suy nghĩ kỹ.
Sư Khánh Vân trầm ngâm suy nghĩ. Sư
biết người học trò của mình khác thuờng đấy. Nhưng sư làm sao dám
nghĩ rằng chú tiểu đó lại có khả năng làm thay đổi vận nước? Sư
Vạn Hạnh hy vọng có quá đáng không? Sư cũng có nghe phong phanh
về những sự tác oai tác quái của một số quan lại địa phương dựa
vào sự che chở của một số đại thần đang gây thế lực trong triều.
Những dự đoán của sư Vạn Hạnh nghiệm ra cũng có lý lắm. Cuối cùng
sư Khánh Vân buông xuôi:
– Sư huynh đã nói cạn lời như vậy bần
tăng đâu dám ngăn cản. Tuy nhiên, nên để cho chính Công Uẩn tự
quyết định vẫn hay hơn.
Sau đó, tiểu Công Uẩn đã theo sư Vạn
Hạnh về chùa Lục Tổ.
*
Mấy năm sau, Lý Công Uẩn vào Hoa Lư làm
quan. Nhờ tài năng xuất chúng, đức độ siêu quần, không bao lâu uy
tín ông đã lan rộng khắp trong dân chúng cũng như ở triều đình.
Chưa tới 30 tuổi ông đã được phong chức Tả Thân Vệ Điện Tiền Chỉ
Huy Sứ. Cũng thời gian này, nhà Tiền Lê đang ở trên đà tuột dốc
kinh khủng. Vua Lê Đại Hành già nua bệnh hoạn liên miên cho nên
suy tính rất lầm lẫn. Mùa xuân năm Giáp Thìn (1004) ngài mới lập
con thứ ba là Long Việt lên làm Thái tử trong khi mộng lớn đã
căng đầy trong đầu óc các hoàng tử khác.
Tháng 3 năm Ất Tỵ, vua Đại Hành qua
đời. Thế là ba vị hoàng tử Ngân Tích (con cả), Long Kính, Long
Đĩnh nổi loạn đánh nhau suốt 8 tháng ròng Long Việt mới chính
thức lên ngôi được. Ngân Tích bỏ trốn rồi bị giết, Long Kính,
Long Đĩnh đầu hàng.
Nhưng chỉ ba ngày sau, Long Đĩnh lại
thuê người lẻn vào cung ám sát được vua Long Việt.
Long Đĩnh cướp ngôi xưng là Khai Thiên
Ứng Vận Thánh Văn, Tắc Thiên Sùng Đạo Đại Thắng Minh Quang Hiếu
Hoàng Đế. Vụ ám sát vua Long Việt xảy ra làm các quan lớn nhỏ của
triều đình kinh hoảng bỏ chạy tứ tán. Chỉ còn lại viên quan Thân
Vệ Lý Công Uẩn ở lại ôm thây vị vua xấu số mà khóc. Hành động
trung thành và can đảm này của Công Uẩn đã chinh phục được sự nể
nang của Long Đĩnh. Nhưng Long Đĩnh lên ngôi lại liền bị các
hoàng tử Long Ngân, Long Kính nổi dậy đánh phá tơi bời. Phải hơn
một năm sau mới dẹp yên được.
Long Đĩnh có lẽ là ông vua tàn bạo nhất
hoàn vũ. Bình thường ông ưa lấy chuyện giết chóc làm trò vui.
Nhiều lần ông thân xuống nhà bếp tự tay thọc huyết bò heo gà vịt
rồi trao cho nhà bếp. Ông bắt tử tù quấn rơm vào mình, tẩm dầu
rồi đốt cho nóng chạy trước khi chết. Ông bắt tù leo lên cây rồi
sai đốn cây cho ngã. Ông sai trói tù dưới chân cầu để chờ nước
lên xem tù chết ngộp như thế nào. Nghe ở Ninh Giang có nhiều rắn
độc, ông sai trói tù bên mạn thuyền rồi cho bơi qua bơi lại để
cho rắn cắn. Có khi ông cho để mía trên đầu nhà sư mà róc vỏ rồi
giả vờ trật tay cho dao bổ xuống đầu làm cho chảy máu, trong số
đó có nhà sư Quách Ngang, một nhà sư có tiếng đương thời.
Năm Nhâm Thân, ông đánh dẹp giặc Mán,
bắt được một tù trưởng đem về đánh đập hành hạ. Tên này chịu
không thấu kêu tên tục vua Đại Hành mà chửi. Thế mà Long Đĩnh vui
sướng cười ha hả vì Long Đĩnh vẫn hờn giận vua cha đã cố ý không
truyền ngôi cho mình.
Long Đĩnh lại hoang dâm vô độ nên mắc
bệnh không ngồi dậy được. Lúc thiết triều ông thường phải nằm
nghiêng nên người thời bấy giờ vẫn quen gọi là Ngọa Triều. Thế mà
ông vẫn tìm niềm vui bằng cách sai mấy tên hề nhại tiếng những
viên quan tấu trình công việc làm chốn triều đình không còn thể
thống gì hết.
Trong tình trạng triều đình như thế, sư Vạn Hạnh đã ráo riết bí
mật vận động sắp đặt tạo ra một cuộc chính biến để cứu vớt lê
dân. Dân chúng đồn ầm lên về chuyện có một cây gạo lớn ở làng
Diên Hồng bị sét đánh gẫy, trên thân cây bị tróc vỏ thấy có mấy
chữ “Hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành”. Chữ hòa, chữ đao, chữ
mộc hợp lại thành chữ Lê, chữ thập, chữ bát, chữ tử hợp lại thành
chữ Lý. Câu chữ Hán trên chiết tự và giải nghĩa thành “Lê rụng,
Lý thành”. Không bao lâu khắp quân đội lẫn dân chúng đều nghe lời
“truyền sấm” đó....
Giữa lúc đó thì vua Ngọa Triều bỗng mắc
bệnh nặng rồi qua đời. Người con mới 4 tuổi của ông được ông di
chiếu truyền ngôi.
Thấy cơ hội đó, một viên quan có thế
lực trong triều là Đào Cam Mộc bèn đến gặp Lý Công Uẩn và bàn:
– Hồi trước đức vua tối tăm bạc ác nên
lòng trời chán ghét, con ngài thì bé nhỏ quá làm sao kham nổi
việc nước trong buổi đa nạn này? Dân chúng trông chờ chân chúa
như khát nước mong mưa. Thân Vệ nên theo gương Thang, Võ để cho
dân nhờ. Trước đây họ Lê lấy nước của họ Đinh được coi là chính
đáng thì nay nếu Thân Vệ làm việc này cũng vậy, trên hợp ý trời,
dưới thuận lòng dân chứ khư khư giữ cái tiết mọn làm gì?
Lý Công Uẩn trả lời:
– Ông muốn đem cái họa giết ba họ đến
cho tôi sao? Tôi không dám nghe đâu!
Đào Cam Mộc trở về. Nhưng hôm sau ông
lại đến gặp Công Uẩn, nói:
– Lời sấm đã nói rõ họ Lý sẽ dấy lên,
đổi họa ra phúc cho đất nước, Thân Vệ còn ngần ngại gì nữa?
Lần này thì Công Uẩn xiêu lòng:
– Ý ông và sư Vạn Hạnh giống nhau,
nhưng làm sao cho trong ấm ngoài êm?
– Dân đang đói khổ, Thân Vệ là người
công bình, khoan thứ vỗ về ai không nghe?
Được sự bằng lòng của Công Uẩn, Đào Cam
Mộc chủ động triệu tập các quan, lợi dụng lòng căm ghét của họ
đối với vua Ngọa Triều, ông thuyết phục họ tôn Công Uẩn lên ngôi
Hoàng Đế. Cuộc chính biến đã xảy ra không đổ một giọt máu.
*
Chú tiểu Công Uẩn của chùa Cổ Pháp bấy
giờ đã trở thành vua Lý Thái Tổ. Ngài là vị vua khai sáng ra
triều Lý, một triều đại tiếng tăm lừng lẫy về những chiến công
phá Tống bình Chiêm, khiến các lân bang lớn nhỏ đều phải kiêng
nể.
Sau khi
lên ngôi, Lý Thái Tổ cho dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Về nông
nghiệp, ngài cho đắp đê Cơ Xá để tránh thủy tai hàng năm làm
thiệt hại mùa màng. Về văn học, ngài cho lập Văn miếu để tôn sùng
Nho học và mở khoa thi Tam giáo (Phật, Lão và Nho giáo).
Vốn xuất thân từ cửa thiền, Lý Thái tổ
đặc biệt trọng đãi và khuyến khích Phật giáo. Ngài phong sư Vạn
Hạnh là Quốc Sư và cho sưu tầm Tam Tạng kinh điển để truyền bá
đạo Phật. Ngài cũng cho xuất tiền kho để xây 8 ngôi chùa ở phủ
Thiên Đức (châu Cổ Pháp cũ, quê hương ngài). Tại thành Thăng
Long, ngài cho lập chùa Thiên Ngự, chùa Vạn Tuế và cung Thái
Thanh. Bên ngoài thành Thăng Long thì ngài cho xây các chùa Thắng
Nghiêm, Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng, Thánh Thổ, Thiên Đức và
Thiên Quang. Ngoài ra, những chùa đổ nát ở các địa hạt khác đều
được ngài cho tu sửa.
Việc cải tổ lớn lao nhất của vua Lý
Thái Tổ nhờ ảnh hưởng của Phật giáo là bãi bỏ được hình luật đặt
vạc dầu và nuôi cọp beo để trừng trị tội phạm như dưới hai triều
Đinh, Lê. Bản sắc từ bi của Phật giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến
chính sách trị dân của cả triều Lý. Như vua Lý Thái Tông tha tội
không giết Nùng Trí Cao, người đã nổi loạn, vì ông ta là người
còn lại duy nhất của một dòng họ. Như vua Lý Thánh Tông không
giết vua Chiêm Thành là Chế Củ. Cũng chính vua Thánh Tông, vào
một mùa đông cực lạnh, đã ra lệnh phát áo chăn cho tù phạm và cho
xét giảm tội, tha bớt nhiều người. Tuyệt nhiên không có một vị
vua Lý nào hiếu sát hay hoang dâm quá độ.
Có thể nói nhà Lý là triều đại có chính
sách trị dân khoan hồng độ lượng nhất trong lịch sử mà không một
triều đại nào khác theo kịp.
Ngô Viết Trọng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Ngô Viết Trọng chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, February 15,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang