Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tạp
Ghi
Chủ đề:
VN
Tác giả:
GS Nguyễn Văn Lục
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Cách đây 48 năm, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge cùng với
30 chiến hạm đủ loại của Hạm đội 7 đang đậu ở ngoài khơi bờ biển
VN, cách Vũng Tàu khoảng 30 dặm vào lúc miền Nam đang hấp hối.
Họ đang chờ đợi để đón lính Mỹ và người
Việt từ đất liền. Sứ mạng lần này không giống với 21 năm về trước
tại vịnh Hạ Long.
Trên phòng chỉ huy của viên đô đốc Hạm
đội thứ bảy, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả nhà báo Mỹ
đã từng có mặt trên các chiến trường VN như Stanley Karnov, David
Halberstam, Neil Sheehan, John Kenneth Galbraith và nhiều người
khác v.v. Dầu vậy được biết còn 125 người nhà báo trong số họ, đủ
quốc tịch tình nguyện ở lại để chứng kiến cơn hấp hối của miền
Nam Việt Nam.
Bên cạnh đó còn có phụ tá Trùm mật vụ là Frank Snepp đã từ Đài
Loan đến đây được vài giờ sau khi hộ tống ông cựu tổng thống NVT
ra đi trước đó mấy ngày. F. Snepp đến đây để đón tiếp một nhân
vật quan trọng nhất– đại diện cho nước Mỹ– trong giờ phút này:
Đó là đại sứ Martin. Ông là người Mỹ
cuối cùng rời VN mà trên tay chỉ ẵm theo một gói nhỏ: Đó là lá cờ
nước Mỹ. Lá cờ đã được cuốn lên có nghĩa là nước Mỹ đã không còn
ở đó nữa.
Ngay
khi vừa đặt chân lên boong tàu vào lúc 2:47 giờ, giờ Sài Gòn, ông
đại sứ nhận được một điện tín chúc mừng của H. Kissinger với nội
dung như sau: Với lời khen ngợi nồng nhiệt vì ông đã chu toàn
toàn trách nhiệm. Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như
thế!!!
Nhìn từ
trên boong tàu, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những
chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Đó là những
thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy
Cộng sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này? Chẳng ai trong
số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc
thuyền đó có thể tiên đoán đuợc điều gì.
Chỉ biết bỏ chạy đã. Chữ bỏ của chạy
lấy người diễn tả đúng trong hoàn cảnh như thế này. Số phận họ ra
sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất. Và
đã có hơn 100,000 ngàn người trong số 250,000 ngàn người như thế
đã được vớt đi định cư từ các chiến hạm của Hạm đội 7. Cuộc ra đi
thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi.
Số phận họ có khác gì những con thuyền
lênh đênh trên biển cả như những lá tre? Vâng những lá tre trên
một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ. Bằng mọi giá họ đã
ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng
nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy. Nhưng cái “sô” vớt người
trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm
của người Mỹ cũng nói lên được cái gì:
Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi
việc một cách quy mô, ngay cả việc trốn chạy.
Nhận xét trên ăn khớp với điều mà Sir
Robert Thompson, một chuyên gia về du kích dưới thời Đệ nhất Cộng
Hòa đưa ra lời tiên đoán trước đó vào ngày 23 tháng 3, 1975 như
sau: “Chúng ta sắp chứng kiến một cuộc đầu hàng chiến lược của
Hoa Kỳ... Cuộc triệt thoái của người Mỹ khỏi Đông Dương là cuộc
rút lui lớn nhất mà thế giới nhìn thấy từ khi Napoléon rút lui
khỏi Moscow”.
Cuộc rút lui chiến lược ấy lôi kéo hàng trăm ngàn người Việt đi
theo. Đó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió
chướng ở giờ thứ 25 từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển...
Nhìn cảnh tượng đó, –cảnh tượng quá bi
tráng– Stanley Karnov quay sang David Haberstam vừa cười vừa nói
một cách mỉa mai: Công việc đang xảy ra trước mắt chúng ta đây,
ngày hôm nay, chúng ta như những chứng nhân lịch sử vào những giờ
phút cuối cùng của miền Nam, tôi nghĩ rằng trong đó có phần đóng
góp của ông đấy!
Haberstam trả lời:
– Ông nói không sai, nhưng chỉ xin xác
định cho rõ tôi chỉ là một ký giá làm việc cho quyền lợi nước Mỹ
trên mảnh đất nghèo nàn và khốn khổ này. Mỗi người Mỹ đến đây hẳn
mang theo mình một trách nhiệm, một sứ mệnh. Ông cũng đồng ý chứ,
ông bạn của tôi? Chẳng hạn sứ mệnh của E. Lansdale và tôi –mặc
dầu khác nhau– Nhưng tất cả, chúng ta đều làm vì nước Mỹ!
– Như thế chắc là ông hãnh diện lắm.
– Đương nhiên, vì thế mà tôi có mặt ở
đây trong giờ phút này. Thôi, mời ông nhìn xem cảnh tượng dưới
kia như màn chót của tấn bi kịch mà chúng ta đã dựng lên, tốn kém
hằng trăm tỉ đô la.
Ông cứ tưởng tượng, trong số hằng trăm
ngàn người dưới kia, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành
niên. Cái hình ảnh người lếch thếch, lang thang với từng đoàn
người người nối đuôi nhau chạy trốn. Nếu tôi là họa sĩ, tôi chỉ
vẽ lên cái cảnh này đủ diễn tả cái hiện trạng người Việt bỏ chạy.
Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ
chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và
không có một chút hy vọng gì về tương lai cả.
Những điều nhận xét của ký giả
Haberstam sau này chỉ đúng có nửa phần đầu của câu chuyện.
Trong lúc đó, một sĩ quan đang trình
với viên đô đốc chỉ huy chiến hạm 7 là có một vị tướng lãnh VN
vừa đáp trực thăng của ông xuống boong tàu muốn được gặp. Vị đô
đốc ra lệnh một cách gắt gỏng là: Ông nói với ông ta là tức khắc
cởi bộ quân phục, lột bỏ lon của ông ấy ra và không được tuyên bố
điều gì.
Đây
là nước Mỹ trên biển chứ không phải là VNCH nữa.
Nhiều người sau này cho biết là viên
tướng VN sau đó đã quỳ xuống, ngửa mặt lên trời và hét to lên: Ta
thề với trời đất là ta sẽ trở về... Sau này được biết là ông đã
giữ đúng lời thề, ông đã về.
Ông đã về theo cái cách mà Phạm Duy đã
về!
Vấn đề
không phải là cởi bỏ bộ quân phục, cởi bỏ lon chậu vốn chỉ là cái
bề ngoài. Câu chuyện viết về ông tướng có thể chỉ là một câu
chuyện hư cấu. Vấn đề hôm nay, chính là nhiều người đã cởi bỏ cái
danh xưng người Việt Quốc gia –cái biểu tượng của 48 năm nay–.
Và cứ như thế, không phải chỉ có đêm 29
tháng tư, mà tiếp câu chuyện đêm nay còn được tiếp diễn dài dài.
Các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp
độ của những chính sách tàn bạo và trả thù của Hà Nội như “đi
vùng kinh tế mới”, “học tập cải tạo”, “đánh tư sản, mại bản”, và
cuối cùng “đi bán chính thức” nhằm vào giới Hoa Kiều.
Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số
người trốn ra đi khỏi nước.
Tổng cộng đã có gần hai triệu người
trốn đi như thế. Đấy là còn chưa kể những nguời để lại xác trên
biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai
có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết.
Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng
khuây khoa, người Việt đến được xứ người đều quyết tâm cật lực để
lo sinh kế, miếng ăn trước đã.
Tất cả những chính sách vừa kể trên là
nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền,
tay sai Mỹ Ngụy. Nước nhà đã độc lập, nay bỏ nước ra đi thì không
phản động thì còn là cái gì?
Nhưng chính thức thì có thể quả quyết
rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng
không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để
giữ thể diện, vừa loại bỏ được những thành phần “rác rưởi” muốn
vứt, vừa kiếm được tiền hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà
nước Cộng sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình
“ra đi trong vòng trật tự” (Orderly Departure Program).
Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế
đã giảm mức độ đi nhiều.
Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên
biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ
đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme)
(*1) tóm tắt đầy
đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu “Những con bò sữa thuyền nhân”.
Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ
ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về?
Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình.
Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai
bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được
bao nhiêu sữa ở những con bò đó: Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc
trở về.
Nói
chi đâu xa, tôi có căn nhà kiểu biệt thự ở số 224B Nguyễn Huỳnh
Đức, quận Phú Nhuận. Căn nhà đó lúc mua là 5 triệu 300 ngàn trước
75. Tính theo trị giá vàng thời đó là khoảng 80 [8 chục] cây. Ra
đi hợp pháp, có giấy tờ hẳn hoi, đi bằng cửa chính ra Tân Sơn
Nhứt.
Giấy tờ
xuất cảnh có thể chỉ là tấm giấy nhỏ viết tay nguệch ngoạc mấy
chữ là: Nhà này do nhà nước quản lý! Quản lý là trông coi, giữ
dùm mà thật ra là tịch thu, là hôi của! Cả miền Nam, hai triệu
người bỏ nước ra đi đã bị “quản lý” như thế. Nói toạc ra là đã
“bị cạo lông” sạch như thế.
Việc ra đi theo diện người Hoa, bán
chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong
tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm “nhổ
sạch lông” những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính
nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25
tấn vàng. Tôi không tin vào con số, đúng sai khó đoán vì không
biết tính toán. Nhưng ấn tượng trong đầu tôi là nhiều lắm, nhiều
lắm lắm. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ. Vẫn là chuyện vắt
đi. Vắt lại mới là quan trọng.
Và để gọi những thuyền nhân thì có
nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nước, bọn tay
sai. Bán được bao nhiêu nhà nước thu cả. Cho mãi đến năm 1990
cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung
họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại,
muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là
người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người
trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt
Kiều.
Rồi cứ
như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng
như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn,
thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải
10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 13 tỉ đô la. 13 tỉ đô la!
Không phải chỉ 13 tỉ đô mà nay nhiều
lần hơn, chiếm tỉ trọng một phần ba ngân sách nhà nước. Nhờ đó
tình nghĩa hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình
thường chỉ được coi như kẻ thù. Gió đã đổi chiều nên ngôn ngữ
cũng đã đổi theo.
Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi
trường Tân Sơn Nhứt đến Nội Bài chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ. Thật
là trớ trêu đến nực cười ra đi trốn chui, trốn nhủi, lúc trở về
thảm đỏ dưới chân.
Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở
trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác
quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật
liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Đã chẳng ai ngờ
điều đó đã xảy ra.
Rác rưởi cứ thế đổi hình đổi dạng mà
tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.
Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn
vẹn chiếc quần đùi nay chễm chệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói
tiếng Mỹ oe oé mà nếu không có cuộc đổi đời này thì cùng lắm chỉ
là những người đàn bà làm vợ, làm mẹ, là nội trợ bình thường
trong gia đình.
Nhưng kể làm gì đến những chuyện nhỏ
nhoi đó.
Đã có
rất nhiều thay đổi mà không ai tiên đoán trước được –những thay
đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản– nhất
là nơi người trẻ.
Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ,
hỏi không dám mở lời mà nay là những chuyên viên hàng đầu của xã
hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có
người trong bọn họ cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại nơi mà
trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Củ
Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong
tương lai trở thành biểu tượng “thung lũng của ngành tin học”.
Đã chẳng ai từ hai phía, người trong
nước cũng như người nước ngoài nhìn thấy được điều đó ngay từ
đầu.
Chuyện kể
ra như một giấc mơ hay như câu chuyện thần thoại.
Và cái kim chỉ đường cho người Việt
tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần.
Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ.
Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi như tôi. Những
người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà chưa
thuộc hết phần cuối.
Đó là những người không biết kể chuyện
và những câu chuyện kể càng ngày càng nhạt phèo như nước ốc. Thời
của họ đã hết. Ngay cả Thời của Thánh thần hay Thiên đường mù của
những kẻ bất đồng chính kiến cũng bị bỏ quên lãng.
Những người còn bám víu vào quá khứ có
thể được coi là những người không thức thời? Nhưng nếu không bám
víu vào đó thì họ còn gì là họ? Quá khứ là chính họ là cái làm
nên bản thân họ. Họ bị coi như loài “củi mục” trong đám cây rừng
đang xanh lá. Củi mục thì làm gì? Đốt làm củi cũng không xong.
Nhưng chắc hẳn nhiều người như tôi
không nghĩ như thế. Bản thân tôi cũng thế –không chấp nhận được
lối xếp loại ấy–.
Trong 48 năm qua, chúng ta –những người
Việt di tản– đã không ngừng tranh đấu không ngơi nghỉ cho điều mà
tôi gọi là trận chiến cho một biểu tượng, trận chiến cho một hình
ảnh (bataille de l’image) là người Quốc Gia.
Bao nhiêu công sức đã bỏ vào đấy! Bao
nhiêu thời giờ còm cõi ngồi trơ trọi một mình trên bàn máy điện
tử để viết!
Mặc dầu thâm tím và phải nhìn nhận rằng quá khứ định hình và làm
nên người Việt di tản thế hệ thứ nhất thì tương lai sẽ định hình
thế hệ người việt thứ hai, thứ ba, nghĩa là con cháu chúng ta!
Còn lại vấn đề kế thừa là vấn đề bi
quan nhất của người Việt hiện nay!
Nhưng cho dù bi quan đến đâu, cho dù
vứt bỏ vấn đề chính tri, lịch sử xã hội qua một bên thì vẫn còn
lại vấn đề nhân cách, vấn đề đạo lý con người. Và lúc ấy cho thấy
rằng: Củi mục thì cũng vẫn là củi.
Người khác cho rằng nhìn cây thì thấy
rừng, nhưng nhìn củi mục thì thấy gì?
Họ nghĩ rằng thà là như anh thuyền
chài, thà là như chị X, Y nói tiếng Mỹ oe éo. Thà là như thế.
Phải nhớ rằng cuộc ra đi bất hạnh đã trở thành đại hạnh cho chính
mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà
từ đó mình đã ra đi.
Tháng tư đen thật ra chính là tháng hy
vọng!
Hành lý
quá khứ mang đi càng nhẹ thì họ về VN càng nhanh.
Hãy nhìn vào những con số để nhận ra
câu chuyện thần thoại về người Việt di tản. Năm 1987, có 8 ngàn
người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160
ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên
điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra.
Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn
tiền tươi là 2 tỷ 6 đô–la trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho
rõ. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được 20 tỉ đô–la, trừ vốn liếng
cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?
Có một điều, nhiều người vô tình quên
là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi
người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao
nhiêu? Trong số 300,000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là
vừa tiêu xài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một
tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về
thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam
đã được kích cầu lên không nhỏ.
Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy
hứa hẹn.
Đó là
nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói.
10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là
10 triệu người/năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng
Sài Gòn–Mỹ, Sài Gòn–Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra.
Lúc đó tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay
trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.
Điều đáng nói hơn nữa là nay có một số
Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với hàng trăm dự án được chấp
nhận với số vốn lên đến trên một tỉ đô la...
Những Việt kiều như Nguyễn Chánh Khê
với phát minh chế tạo thành công than Nano áp dụng vào việc sản
xuất mực không phải là hiếm. Dự án khu khách sạn Vinpearl
Resort–Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre, Nha Trang đã khánh thành với
số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng. Phần lớn các số tiền đầu tư này
tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.
Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời
gọi Việt Kiều là những người con của đất nước.
Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn
là không thiếu. Gió chướng đã không còn nữa.
Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều,
giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau
nữa. Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có
thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền
Nam trước đây nữa. Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn
tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa.
Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “Tổ quốc Việt Nam,
quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những
người con xa xứ.”
“Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng
của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó
với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”.
Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ
ràng thế này: “Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam”,
“Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng
đồng dân tộc Việt Nam.”
Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của
ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: “Tổ
quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ
thương nhớ những người con đi vắng. Đất nước hòa bình...” – bác
nói với kiều bào ở Thái Lan về nước năm 1960.
Kiều bào năm 1960 thì không phải là
người di tản! Thật rõ chán.
Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng
bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng
được. 48 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là dĩ vãng
mà cả bên này bên kia đều đã quên hoặc cố tình quên.
Nhưng còn những người như tôi sẽ không
quên. Never. Never!!!
Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước
chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền Đô–la từ mọi nơi gửi về
cũng như người Việt mang tiền về nước. Mang tiền về thì được chứ
đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghĩa rất rộng là sách báo, tư
tưởng, âm nhạc, nghệ thuật. Từ khi có nhà nước Cộng sản đến nay.
Chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm
trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay
ý thức hệ – bạo lực khủng bố – và một chính quyền toàn trị.
(ideology, terror and totalitarian government).
Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta
thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm:
– chẳng hạn anh có thể cờ bạc, chơi bời
đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê
đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ
kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối
lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn
bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an
đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu,
chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu,
luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối
cùng xã hội loạn đủ kiểu.
Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng
đụng đến chính trị.
Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn
trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về
nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.
Phải nhìn nhận rằng, sự suy đồi đạo đức
xã hội ở VN đã đi quá xa đến mức nó xuống cấp, vượt xa những nước
tư bản Phương Tây. Đến nỗi phải kêu lên một câu: Có nước nào như
nước ấy không?
Phát triển kinh tế không đồng nhịp với
cải tiến xã hội và đạo đức. Về Xã hội, chỉ nhìn giao thông đường
phố Sài Gòn, Hà Nội là đủ hiểu. Về đạo đức, chỉ nhìn thực trạng
học đường ở VN là đủ hiểu.
Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con
Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam
dưỡng già với xe hơi SUV.
Có những ông già lấy tiền xã hội của Mỹ
về tậu nhà, tậu cửa, líu lưỡi khen ngọng và hãnh diện nói: mấy
chục năm không sáng tác được, nay về ở VN nhờ đó mới hoàn thành
được tác phẩm. Có ông Nhà văn “tiến bộ” nay trở thành thứ “Chim
hót trong lồng”.
Tất cả đều thuộc loại người không biết
ngượng, quên cái trận chiến biểu tượng, hình ảnh.
Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông
tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, khi đường
hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc nay đã hoàn tất, thành phố Sài Gòn
sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.
Nay ở Sài Gòn, đã có những khu nhà
“Làng Việt Kiều”. Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những
biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada. Người ta thấy
những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu
cocktail bên bờ sông Sài Gòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh,
mái nhà mầu cam kiểu California, những hồ bơi với những cây dừa
với những hàng chữ tiếng Anh Welcome.
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những
người di tản, những rác rưởi 48 năm trước chạy trốn Cộng sản,
hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió
nào đẩy họ về?
Chẳng hạn, anh chàng Võ Q, kèm theo cái
tên Larry, nay đã 65 tuổi, trước đây là một sĩ quan không quân,
quân đội VNCH. Anh ta đã rời bỏ vùng Southern California cách đây
2 năm cùng với vợ, còn có tên cúng cơm là Linda để về ở đây. Anh
ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần giấu giếm với đồ dùng
toàn bằng Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu
Jacuzzi của Ý. Sàn nhà màu hồng bóng lộn. Anh còn chỉ cho thấy và
nói thêm: Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt
đấy. Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều. “Thiệt là
Việt Kiều”.
Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch,
lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch
xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án “thành phố xanh” (Green
city).
Cái
điều oái oăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta tìm cách đặt tên
Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Đakao,
Restaurant Hoài Hương để nhớ về; nay ở Việt Nam thì người ta lại
muốn đặt tên cho những khu thương xá là “tiểu Cali”, “tiểu
Fairfax” để nhớ đến. Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc
Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc của họ bên cạnh những
người Việt bản xứ.
Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi ở
Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc
trước mắt những người đồng loại của họ. Họ tưởng về quê thật,
nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản
xứ. Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng
xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở
nhạc Karaoké tùy tiện ầm ĩ cả lên. Anh bực tức nói:
– Như thế không phải lối sống Mỹ, không
biết tôn trọng luật pháp.
Như thế là thiếu văn minh. Khi ở Mỹ thì
anh muốn bảo tồn văn hóa Việt, không muốn trở thành Melting pot
hay Salát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về VN, đụng mở mồm
là anh xổ tiếng Mỹ cho oai. Quả là về sống ở Việt Nam thì lại là
câu chuyện khác.
Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải
bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh
cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.
Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi
về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể
như không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN.
Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác. Nguyễn Anh sững sờ
khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng
thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người
chen lấn không xếp hàng khi trả tiền. Nhất là các cô thiếu nữ
trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai.
Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy
sống chen lấn chụp giựt. Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt
Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra
đến chết người mà mọi người dửng dưng.
Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng
anh lại không hiểu gì về người mình.
Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không
hiểu được là người Việt Nam “Xem thể thao” chứ không chơi thể
thao. Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để
dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô
lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn
cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ.
Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể
trở thành cờ bạc. Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.
Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf.
Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan
Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều
đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.
Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm
kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thế để
chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa. Nguyễn Anh không đáp
lại, vì anh có cái lý của anh.
Đúng là anh thấy người Việt mê đá banh
một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống
ai.
Còn về
thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là
thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là “địt”. Sáng ra, chỉ
hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho
một câu.
Nói
gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xóa nhòa tất cả vết
tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống
và tình hoài hương lại trỗi dậy.
Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ
rằng: Nhân dân muốn quên hết mọi thứ.
Những người này hiện ở đây
vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng
họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây
chiến tranh lần nữa.
Tự nhiên bật ra một câu hỏi: Nhưng nhân
dân là ai mới được cơ chứ?
Nhưng tôi cho rằng lịch sự trớ trêu có
những bài học không bao giờ chúng ta học hết được.
Chiếc soái hạm Blue Ridge 37 năm trước
trong vai trò chở binh lính Mỹ và người tỵ nạn VN ra khỏi miền
Nam thì hiện nay đang đậu ở bãi Tân Sa, Hải Phòng! Đố ai biết
được ngày hôm nay vai trò của Blue Ridge đến VN với mục đích gì?
37 năm trước và 37 năm sau có điều gì khác biệt?
Gió đã đổi chiều. Gió nữa lên...
GS Nguyễn Văn Lục
(1*) Cuốn
sách Le livre noir du Communisme, Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản,
do nhà Robert Laffont xuất bản, Paris, năm 1997, 846 trang do
Stephane Courtois cầm đầu với 11 tác giả.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Muc Vu chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, November 16,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang