Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
chiến trận mậu thân
Tác giả:
Trương Dưỡng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
30 năm qua, bao đổi thay, bao
thống khổ chồng chất;
Giờ đây trên đất khách tha hương, kẻ còn
người mất!
Ngồi ôn cố tri tân, nhớ đến
bạn bè và chiến hữu thân thương, nhớ lại những trận chiến khi còn
ở các đơn vị Nhảy Dù, tưởng chừng như mới hôm qua.
a. Mặt trận tại thị xã Quảng Trị:
Sau nhiều ngày hành quân tìm và tiêu
diệt địch dọc theo dãy Trường Sơn, phía Bắc sông Thạch Hãn, từ
Đông Hà đến đèo Ba Dốc thuộc tỉnh Quảng Trị. Rồi vào Huế ở Nam
Hòa, Phú Thứ, La Vân, Đồng Xuyên, Mỹ Xá. Chiến Đoàn Nhảy Dù được
ngừng hành quân nghỉ ngơi ăn Tết tại những điểm quan yếu trong
các thị trấn. Tiểu Đoàn 2 và TĐ7ND đóng ở An Lỗ và Quảng Điền,
Tiểu Đoàn 5 ND được điều động về Đà Nẵng. Tiểu Đoàn 9 chúng tôi
đóng quân chung quanh thị trấn bảo vệ thành phố Quảng Trị. Đại
Đội 92 ở phía Đông Nam, Đại Đội 94 bảo vệ làng Tri Bưu. Dọc bờ
sông Thạch Hãn, phía Tây thành phố là Đại Đội 93. Riêng Đại Đội
91 của Đại úy Mễ, đóng chung với Đại Đội Chỉ Huy Tiểu Đoàn, làm
thành phần trừ bị.
Ngay ngày 30 Tết, Tiểu Đoàn được “Mật
lệnh” của Chiến Đoàn Trưỏng Lê Quang Lưỡng, nghi ngờ rằng địch sẽ
tấn công. Nên mặc dù hưu chiến, các Đại Đội Cũng bung ra tuần
tiểu, lục soát. Ban đêm lo đặt mìn định hướng Claymore, mìn chiếu
sáng, và đào hầm hố chiến đấu phòng thủ cẩn thận. Trong khi Địa
Phương quân, Nghĩa quân, Sư Đoàn 1 Bộ binh, hầu như xả trại (hoặc
trốn trại) về nhà ăn Tết, Tiểu Đoàn chúng tôi được lệnh cấm trại
chặt chẽ, đề phòng địch tấn công bất ngờ vào thị xã.
Mồng 1 Tết, khoảng 3:00g sáng, nhằm lúc
mọi người đang ngon giấc vì mệt mỏi bởi đêm qua say sưa chè chén
trong các buổi tiệc dã chiến, đón Giao Thừa truyền thống đầu năm.
Bỗng nhiên mọi người đều tỉnh giấc, vì súng địch đồng loạt khai
hỏa khắp mọi nơi. Chúng tôi vội nhào ra hố chiến đấu và bắn trả
mãnh liệt. Đại Đội 92 phòng thủ dọc theo bờ làng, lúc đó sương mù
dầy đặc, binh sĩ cứ bắn bừa ra ngoài đồng ruộng phía trước mặt.
Qua máy truyền tin, tôi vô cùng sững sờ xúc động: Đại Đội 94 đang
bị địch tràn ngập. Ban Chỉ Huy Đại Đội, ở trong nhà thờ Tri Bưu,
bị tấn chiếm. Đại úy Thừa, Đại đội trưởng, viên Cố vấn Mỹ, Trung
úy Lê Phát Lộc, và Nguyễn Văn Hổ, bạn đồng khoá 20 ĐL của tôi,
đều bị hy sinh ngay từ đợt tấn công đầu tiên! Chuẩn úy Trần Ngọc
Chỉ thấy địch quân quá đông, nên vừa chống trả vừa tìm cách hướng
dẫn binh sĩ còn lại rút lui an toàn, tránh sự truy kích của địch
quân.
Đại úy
Thừa, tốt nghiệp khoá 8 Võ Khoa Thủ Đức, là một sĩ quan trẻ tuổi
dũng cảm của Sư Đoàn Dù, đã lập rất nhiều chiến công hiển hách.
Đặc biệt trong trận Đại Bàng 800 ở Vùng 2 Chiến Thuật, anh đã chỉ
huy đại đội tấn công và truy sát địch, tịch thu được rất nhiều
chiến lợi phẩm, vì thế Tướng tư lệnh Vùng đáp trực thăng tới gắn
cấp bậc đại úy đặc cách cho anh ngay tại chiến trường. Nguyễn văn
Hổ rất tốt với bạn bè, chính anh lúc ở trong trường đã dạy tôi
đờn vọng cổ bằng Tây ban cầm. Còn bạn Lê Phát Lộc thì rất hiền
lành, tướng phúc hậu, hai trái tai dài thòng xuống như lỗ tai
Phật, bạn bè ai cũng nghĩ anh có phúc tướng sẽ sống rất thọ,
không ngờ chiến tranh thật tàn nhẫn, nó không nể vì một ai!
Thấy Đại Đội 94 như vậy, chúng tôi hết
sức cẩn trọng, dùng hỏa lực cá nhân và chỉ được yểm trợ bằng súng
cối 60ly cơ hữu. Không có pháo binh, hải pháo, hoặc không trợ
hùng hậu, mà bất cứ cuộc hành quân thường lệ của các đơn vị Nhảy
Dù nào cũng phải có. Sau này tôi mới biết, lúc đó anh Đồng Minh
Mỹ định giả vờ làm ngơ, để thử tài 2 con gà chọi nhau. Thử xem
Miền Nam có đủ sức tự lực tự cường, cho đàn anh dễ bề rút tay ra
khỏi cuộc chiến đầy tốn kém. Tiện thể vồ anh Việt cộng một vố
lớn, chẳng biết mấy anh Bộ Chính Trị ngoài Bắc và Cục R trong Nam
có biết không?
Hừng Đông vừa ló dạng, các trung đội
tung ra lục soát và bắt sống hơn 10 tù binh. Quân địch toàn trẻ
măng, khoảng 16, 17 tuổi, nói giọng Quảng Bình, mặt mày đỏ ngây,
ngơ ngơ ngác ngác. Sau này tôi mới biết họ đã dùng thuốc “Hùng
Binh” của Trung cộng chế. Thuốc này là loại kích thích, khi uống
vào thì hăng máu và không hề sợ chết.
Đến 8:00g sáng, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn
đang bị địch đe dọa tấn công, tôi nghe tiếng the thé của Đại úy
Đỉnh, sĩ quan ban 3, gọi Thành “Râu”, kéo binh về tiếp viện.
Thành Râu ra lệnh tôi dẫn nhanh trung đội, dọc theo Quốc Lộ 1, từ
Ngã ba Long Hưng, hướng về Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn, gần cầu Thạch
Hãn, tiếp theo là trung đội của Thiếu úy Minh, và Chuẩn úy Khải.
Chúng tôi đang đi trên Quốc lộ 1, vừa tới ngã tư đường về nhà thờ
La Vang, gần BCH Trung đoàn 3 BB, thì địch bắn hàng loạt đạn, từ
xóm nhà bên trái, tôi vội hô to:
– Địch phục kích trái!
Cả trung đội liền la:
– Xung phong!
Và lập tức nhào về hướng phát ra tiếng
súng. Chúng tôi vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả khu vực,
hai trung đội của Khải và Minh cũng bị lôi cuốn và hành động
theo. Binh sĩ chạy vượt qua chòm nhà, vừa xả đạn vừa hô xung
phong liên hồi, chúng tôi tiến mãi tới gò mả, giữa BCH Trung Đoàn
3 BB và bờ làng, thì gặp phải sức kháng cự mãnh liệt! Tôi và Hạ
sĩ Đình, mang máy truyền tin, vội nhào nhanh tới hố lõm để tránh
đạn. Áo field jacket bị bắn rách tung toé, tôi hoảng hốt vì không
biết mình có bị thương hay không? (theo kinh nghiệm: vì đạn vô
ngọt sớt nên khi bị thương, không có đau liền). Sau khi lấy lại
bình tĩnh, tôi bắn yểm trợ cho Đình nhảy tới sau phên vách đất,
rồi Đình bắn yểm trợ lại cho tôi. Quan sát lại thấy hơn 10 binh
sĩ bị hy sinh! Có anh vừa bò tới nắm chân tôi vừa nói: “Trung úy
ơi em bị thương!” miệng lẩm bẩm niệm kinh rồi từ từ lịm dần,
khiến lòng tôi se thắt! Đáng thương nhất là Hạ sĩ Lực, nhà ở làng
Tri Bưu, mới cưới vợ ăn Tết hơn 2 tuần lễ, và Binh nhất Thương,
hằng ngày giúp tôi nấu cơm nhà binh tuy đạm bạc nhưng đầy hương
vị đậm đà!
Lúc
đó từ trong máy truyền tin, tiếng Thành Râu rồi anh Đỉnh, gọi
thúc hối tôi dẫn 3 trung đội về BCH Tiểu Đoàn. Nhìn lại xác anh
em và súng chưa kịp lấy lại được, số thương binh nằm rải rác
chung quanh. Hơn nữa danh dự binh chủng Nhảy Dù không thể nào để
cho mất súng và mất xác, nhất là xác của các chiến hữu đã hằng
ngày tíu tít quấn quít rất dễ thương, họ đã nhiều phen cùng hoạn
nạn, cùng sinh tử, nên tôi quyết định cãi lại quân lệnh. Tôi nói
trong máy với anh Thành Râu:
– Thà là ra tòa án quân sự, tôi nhất
định không rút, vì binh sĩ và xác chết còn kẹt ở đây.
Rồi bảo Đình phụ nạp đạn, tôi đứng nơi
vách đất, vừa nhắm bắn vừa điều động cả 3 trung đội. Minh và Khải
thấy tôi la hét “Xung phong” cũng phụ giúp đốc thúc binh sĩ mình.
Dựa vào vách đất, tôi có thể quan sát rõ địch đang núp từng chòm
mả một; hễ tên nào ló đầu lên, tôi bắn ngay, khiến chúng hụp
xuống. Nhờ vậy anh em 3 trung đội cứ nhích lên dần. Có thể nói
đây là trận để đời của tôi, vì hầu như đánh xáp lá cà với lực
lượng chính qui, đông đảo quân số của địch. Tôi vừa thúc hối 3
trung đội, bằng cách bắn dọa trên đầu họ, vừa hô xung phong, mà
mỗi lần chỉ lên được vài bước. Tôi và Đình cách cây thượng liên
của địch khoảng 15 thước (chỉ 15 thước nên thấy đầu nòng súng
địch rõ mồn một) trong khi đó binh sĩ 3 trung đội dàn dài bên
trái, phía sau tôi khoảng 10 thước. Các binh sĩ đang còn e ngại
hỏa lực địch, thì đột nhiên Binh nhứt Nguyễn văn Ba, y tá đại
đội, bò sát lên trước và hạ được tên xạ thủ thượng liên, Ba giơ
cao súng địch, khiến đồng đội phấn khởi, đứng lên vừa bắn vừa hô
xung phong, đuổi địch ra khỏi nghĩa địa. Ba kể lại, khi xạ thủ
thượng liên thấy anh chĩa súng bất ngờ, vội đưa hai tay lên, Ba
vì súng bị kẹt đạn (lại là y tá nên hơi lạng quạng), anh lính
quýnh không dám cho y đầu hàng, sợ hắn biết rồi bóp cò thượng
liên, vì thế mới ném lựu đạn để tự vệ. Binh sĩ đại đội lo thu
lượm súng và xác của bạn cùng rất nhiều súng địch. Tám lọ, anh hề
của đại đội, ôm 1 bó súng to, toàn AK47 và B40. Đột nhiên 1 tên
bên kia đường, tựa gò mả bắn qua, tôi nghe một tiếng “Rẹt”, đáy
quần bị bắn rách, rờ thấy “Hắn” còn nguyên, đùi bị rướm máu,
nhưng chỉ trầy da. Tôi vừa bắn trả cầm chân vừa ra lệnh rút về
BCH Tiểu Đoàn. Thật là hú hồn, giằng co suốt buổi, tôi đã đứng
bắn hàng trăm viên đạn AR15, áo quần rách tả tơi, mà chỉ bị
thương rách một chút xíu ở vành tai trái và bắp đùi phải!
Lúc về BCH, gặp Thiếu tá Nhã, Tiểu Đoàn
trưởng, ông vẫn giữ vẻ mặt nghiêm, nhưng không trách phạt vi lệnh
mà còn bảo anh lính phục vụ kiếm khúc bánh mì cho tôi lót bụng.
Còn anh Thành và anh Đỉnh thì cười kín đáo, tỏ ý hân hoan khuyến
khích. Nhưng cũng nhờ cú “Bốc đồng” này, nên sau khi về Sài Gòn,
mặc dù thương tích đầy mình (bị thêm lần nữa tại Hồ tĩnh Tâm,
trong thành nội Huế, vào mùng 10 Tết). Nghe tiếng điện thoại của
anh Bảo gọi:
–
Tiểu Đoàn định cho ông làm Đại đội trưởng ĐĐ91, thay thế thằng
Mễ, vậy vô đây gấp để nhận bàn giao!
Tôi mừng rỡ trả lời:
– Tôi sẽ vô ngay, đích thân!
Vì còn trẻ háo thắng, nên tôi rất vui
mừng và chịu bỏ phép nghỉ bịnh, để nhận cái nhiệm vụ làm Đại đội
trưởng thực thụ của binh chủng thiện chiến này.
Cũng nên nhắc lại một câu chuyện nhỏ về
trường hợp đặc biệt của anh Thiện, Bác sĩ Tiểu Đoàn. Đêm 30 Tết,
anh được mấy bác sĩ bạn, làm ở bệnh viện Tiểu khu, mời tới nhà
họ, để đón giao thừa cho có không khí đầm ấm của gia đình. Thấy
anh nhậu đã say mèm nên tài xế vội lấy xe Jeep cứu thương chở về
Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn. Dọc đường có đầy địch nằm phục kích sẵn 2
bên, nhưng rất may là lúc đó họ chưa có lệnh đồng loạt tổng công
kích, nên chúng không dám khai hỏa, sợ hỏng kế hoạch chung. Thật
là hú vía nếu anh ở trễ chừng một tiếng đồng hồ, thì chắc lãnh
đủ!
Sáng Mùng
3 Tết, thị xã Quảng Trị tổ chức tuyên dương công trạng bảo vệ
thành phố của TĐ9ND, dân chúng đa số là người công giáo di cư năm
1954. Tinh thần chống cộng rất cao, họ đem nhiều quà tặng, nào
bánh chưng, bánh tét, dưa món... còn có cả vòng hoa nữa. Nhưng
quý giá nhất là ở tấm lòng chân thật và lời cám ơn giản dị: “Nhờ
các ‘En’ mà thành phố Quảng Trị không bị chi cả!....” Phải, chúng
tôi chiến đấu chỉ vì thế thôi:
“Sự Bình An Của Dân Chúng.”
b. Mặt trận trong thành nội Huế:
Sáng hôm sau Tiểu Đoàn được chở cấp tốc
bằng trực thăng Chinook vào giải tỏa thành nội Huế. Để tránh
phòng không địch, phi công chỉ bay là đà sát ngọn cây, như vậy mà
cũng có một số bị thương vì đạn AK từ dưới bắn lên! Bãi đổ quân
là một sân trống, trước bệnh viện Nguyễn Tri Phương, trong đồn
Mang Cá. Lúc này tình hình Huế vô cùng bi đát! Địch đã làm chủ
hết các cổng thành và bờ cao kiên cố, chỉ còn lại một góc nhỏ là
đồn Mang Cá. Tại đây, Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh SĐ1BB, đang
chỉ huy cố thủ bằng những “Lính kiểng” cơ hữu. Mặc dù hằng ngày
chịu đựng nhiều loạt pháo, họ vẫn bảo vệ được đồn, trong đó chứa
hàng ngàn thương binh.
Trước khi kể đến cuộc quần thảo của
Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù với Sư Đoàn chính qui của Việt cộng trong
thành nội, tôi muốn nói qua về Tướng Ngô Quang Trưởng, một vị
tướng mà toàn quân hết sức khâm phục. Ngoài đức tính liêm khiết
(nhứt Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng). Ông là người đầy
mưu lược, lễ độ, và vô cùng dũng cảm. Trong trận tái chiếm Quảng
Trị năm 1972, ông đã dùng kế hoạch “Phong Lôi” rất tài tình. Do
biết rõ địch đã gài nhiều nội tuyến trong các đơn vị, nhất là Bộ
Binh và Địa Phương Quân. Ông lừa địch bằng cách phổ biến ngày N,
sẽ cho quân Dù và Thủy Quân Lục Chiến vượt sông Mỹ Chánh tái
chiếm Quảng Trị. Đối phương được tin, vội dàn quân tăng cường dầy
đặc, gồm bộ binh chủ lực, hỏa tiễn 122ly, chiến xa T54, phòng
không 30ly... dọc theo bờ Bắc sông Mỹ Chánh, để chuẩn bị nghênh
chiến. Nhưng vào ngày N, Tướng Trưởng đã cho B52 rải suốt đêm,
dọc theo tuyến án ngữ của địch. Ban ngày thì pháo binh, phản lực,
và hải pháo luân phiên nã vào vị trí đối phương, khiến địch không
có một phút nào yên ổn, để ngóc đầu trốn chạy. Thật đúng như là
bị “Thiên lôi đánh!”
Chờ vài ngày sau, biết địch không còn
dám dàn quân như thế nữa, họ phòng thủ hời hợt vì tưởng ta chỉ
pháo dọa chứ không dám làm thiệt. Đúng lúc đó, Tướng Trưởng đích
thân dùng trực thăng ban khẩu lệnh cho từng đơn vị trưởng. Các
Chiến Đoàn Dù lập tức vượt sông vào lúc 1:00g khuya, bên phải
Quốc lộ 1 có Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, tất cả đồng loạt khởi
binh! Mới 8:00g sáng đã nghe Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù tịch thâu tới 11
khẩu phòng không 30ly! Đây là chiến lợi phẩm lớn nhất từ trước
tới giờ. Trong vòng 14 ngày, Tiểu Đoàn 11 Dù đã bắn cháy hơn 10
chiến xa T54, và TQLC đã chiếm được cổ thành Quảng Trị.
Ngũ giác đài và các tướng lãnh Mỹ và
Pháp hết sức ngạc nhiên. Trước đây họ chỉ đánh giá cao tướng VC
Võ Nguyên Giáp ở trận Điện Biên Phủ, nhưng tướng Giáp đã dùng
chiến thuật biển người, phải nướng hơn trăm ngàn bộ đội. Cộng sản
đã bất chấp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích theo chủ thuyết Duy
Vật: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện”. Tướng Giáp quả đúng là
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Tướng Trưởng trái lại, ông
quý trọng và giữ gìn sinh mạng của từng người lính. Ông cũng
khuyến khích, kiểm soát và chỉ dẫn cho từng sĩ quan, dù là sĩ
quan cấp trung đội.
Tướng Trưởng là người trọng lễ nghĩa,
khi nghe Tướng Đống ra Huế, ông đã đến phi trường sớm, và ra tận
cầu thang máy bay tiếp đón người thầy cũ của mình. Mặc dù lúc đó
2 người cùng cấp bậc, nhưng SĐND thì trực thuộc quyền chỉ huy của
Tướng Trưởng, Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật. Tướng Đống biết điều,
mỗi lần họp hoặc nhận lịnh Quân Đoàn, ông thường cho Tư Lệnh Phó
ra mặt. Riêng ông có mặt ở Huế để đốc thúc và trấn an các quân
nhân trong SĐND (có mặt ông, các đơn vị trưởng sẽ làm việc siêng
năng hơn).
Tướng Trưởng còn là người rất can đảm, mặc dù địch đã làm chủ hầu
hết thành nội Huế, Đồn Mang Cá như chỉ mành treo chuông, nhưng
ông vẫn cùng các lính kiểng ở lại cố thủ một diện tích nhỏ hẹp,
ngày đêm chịu đựng mưa pháo, để bảo vệ an toàn cho hàng ngàn
thương binh. Ông còn là người rất năng động nhiệt thành trong mọi
công việc. Khi còn là Tiểu Đoàn Trưởng TĐ5ND, lúc chạm địch, ông
xung phong trước hàng quân. Ông đã chỉ huy linh động tài giỏi
giành thế chủ động chiến trường, dù trong những tình thế khó
khăn... Trận Đỗ Xá ở Quảng Ngãi năm 1965, trận Liên Kết năm 1966
đã đưa Tiểu Đoàn này được hơn 6 lần tuyên dương trước quân đội và
Tiểu Đoàn được đeo dây biểu chương màu Đỏ. Tiểu Đoàn 5 ND, đơn vị
xuất sắc đã cung hiến cho QLVNCH 8 vị Tướng lãnh tài ba: Nguyễn
Chánh Thi, Ngô Quang Trưởng, Trương Quang Ân, Hồ Trung Hậu, Đỗ Kế
Giai, Lê Quang Lưỡng, và 2 vị tướng đã hiển danh “Vị quốc vong
thân”: Tướng Phạm Văn Phú và Nguyễn Khoa Nam. Sư Đoàn 1 rồi Quân
Đoàn I, dưới tay ông, đã làm khiếp vía địch quân ở vùng Hỏa
Tuyến.
Bây giờ
xin trở lại trận chiến Tết Mậu Thân tại thành nội Huế. Về tình
hình địch, bộ đội Bắc Việt từ hướng Tây Bắc, vùng thung lũng A
Shau, A Lưới vừa xâm nhập, phối hợp với du kích địa phương, chĩa
nhiều mũi dùi tiến vào cố đô Huế. Hướng Tây từ quận Nam Hòa, Nam
Giao băng qua cầu Bạch Hổ. Hướng Bắc từ rặng Trường Sơn, qua chùa
Thiên Mụ, Kim Long. Hướng Đông từ Đồng Xuyên, Mỹ Xá, dọc theo La
vân Thượng tới An Hòa chiếm cửa Chánh Tây và cửa Đông Ba. Cánh
cuối cùng từ Phú Thứ, Đập Đá, qua cầu Trường Tiền chiếm cửa
Thượng Tứ.
Về
tình hình bạn, Đại Đội Hắc Báo của anh bạn cùng khóa Phan Gia Lâm
đang bị bao vây trong Đại nội.
Tiểu Đoàn 2 Nhảy dù và Tiểu Đoàn 7 Nhảy
dù sáng Mùng 1 Tết, chạy băng đồng marathon gần 20 cây số từ Sịa,
Quảng Điền, và cây số 17, An Lỗ về giải cứu cố đô. (2 Tiểu Đoàn
bị chận lại ở An Hòa mãi tới mùng 3 mới vào được BTL Sư Đoàn 1
BB). Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù chúng tôi ở mặt trận Quảng Trị đã hao
hơn trăm chiến sĩ, tới Huế vào trưa mùng 4 Tết, tạm bố trí trong
đồn Mang Cá.
Sáng Mùng 5 Tết, chúng tôi xuất phát để tái chiếm phi trường Tây
Lộc và Cửa Chánh Tây. Vừa mới ra khỏi đồn được 200 thước, tôi gặp
Tiểu Đoàn 7 Nhảy dù đang đi ngang qua. Hỏi thăm thì biết lúc này
quân số của Tiểu Đoàn 2 và 7 Nhảy dù chỉ còn phân nửa! Họ bị
thiệt hại nặng từ đêm Giao thừa khi chiếm đầu cầu An Hòa, và đã
giao tranh với địch trong thành nội mấy ngày qua. Chỉ 3 ngày mà
đơn vị bạn đã hao quá nhiều. Chúng tôi ai nấy mặt mày bí xị, vì
mình sắp sửa tiến vào vùng tử địa! Không biết ai còn, ai mất,
đúng là:
Chí
làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn
nhẹ tựa hồng mao...
–(Chinh Phụ Ngâm)
Khi vào tới gần tường thành Đại nội,
chúng tôi thấy phía trước có nhiều bóng đen thấp thoáng và nghe
vài tiếng súng lẻ tẻ. Cả đại đội dàn quân xung phong nhào tới,
gặp một số người mặc áo đen giơ tay đầu hàng.
Hỏi ra mới biết đó là binh sĩ của đại
đội Hắc Báo. Gặp lại bạn đồng khóa Phan Gia Lâm, 2 đứa bắt tay
mừng mừng lo lo. Lâm nói giọng Huế: “Lính mi sao còn nhiều quá?
Lính của tao chuồn về nhà ăn Tết gần hết”. Hỏi thăm Lâm về tình
hình phía trước, rồi chúng tôi thận trọng tiến dọc theo bờ kinh,
thẳng về hướng phi trường L–19 ở Tây Lộc. Khu này nhờ Tiểu Đoàn 2
và 7 Nhảy Dù đã dọn sẵn, nên chỉ chạm địch lẻ tẻ, thỉnh thoảng có
vài binh sĩ bị bắn tỉa từ phía bên kia bờ kinh. Sau khi chiếm phi
trường, Tiểu Đoàn tiến về cửa Chánh Tây. Đánh trong thành phố
thật không dễ, chúng tôi phải phá tường, leo cửa sổ để di chuyển.
Các ngõ hẻm, cao ốc, đường cái và ngã tư, đều có thượng liên địch
chực sẵn. Khi đến gần cửa Chánh Tây, tôi thấy có rất nhiều địch
đội nón cối, tay cầm súng Ak47, B40, đi qua lại trên bờ thành.
Chúng tôi chờ trời tối cho khinh binh lén leo lên dùng lưỡi lê
đánh cận chiến, chiếm được một góc thành làm đầu cầu cho đại đội
nhào lên bắn ào ạt khiến địch trở tay không kịp. Dùng cách này
tuy tổn thất nhiều, nhưng vì địch quân đã có lợi thế bờ thành cao
trên 5 thước, nếu không liều mạng vào hang cọp thì làm sao bắt
được cọp con. Càng dây dưa trì hoãn thì càng tổn thất tiêu hao
dần dần, rốt cuộc không có thành quả gì.
Trong 2 ngày Tiểu Đoàn chiếm lại được
cửa Chánh Tây và bàn giao lại cho Sư Đoàn 1 BB trấn giữ. Chúng
tôi bọc ngược trở lại để chiếm cửa Đông Ba – đây có cây thượng
liên đặt nơi cửa thành cao và rất kiên cố, chúng tôi thử xung
phong nhiều lần mà không lên được cửa. Trung đội tôi lúc ấy còn
21 người, nhưng do khí thế chiến thắng từ Quảng Trị và cửa Chánh
Tây vừa rồi, nên binh sĩ rất tự tin. Đợi ngay khi điều chỉnh pháo
binh dập nát khẩu thượng liên, cả trung đội vừa bắn vừa hô xung
phong tiến nhanh và chiếm được cửa thành. Thấy xạ thủ thượng liên
chết nằm trên súng, hai chân bị khóa bằng dây xích. Kiểm điểm
quân số lại thấy chỉ còn 10 người nguyên vẹn. 11 mạng người chết
và bị thương để đổi lấy cửa thành này đây. Lính Nhảy Dù trả nợ
máu cho quê hương miền Nam, lấy lại sự thanh bình cho đồng bào xứ
Huế. “Chúng tôi không cầu an lạc dễ dàng mà chỉ khát khao gió mưa
cùng nguy hiểm”. Gần 30 năm qua, trên đất Mỹ, tôi vẫn nhớ cảm
giác cay cay đau đớn khi đứng trên cổng thành đổ nát của mùa xuân
năm xưa!
Mùa
Xuân rây máu của xứ Huế mù trời sương đục, tang tóc đau thương!
Mấy ngày sau, Tiểu Đoàn tiếp tục mở
rộng kiểm soát các khu vực bên trong thành nội. Sáng Mùng 10,
chúng tôi chuẩn bị vượt qua hồ Tĩnh Tâm để tìm cách đánh lấy lại
cửa Thượng Tứ, cửa chính Nam, đi thẳng vào đại nội. Suốt tuần lễ,
người không tắm rửa, chân không rời đôi giày trận, sống giữa màn
trời chiếu đất, lót dạ bằng những chén cháo trắng. Tuy lương thực
không được tiếp tế, nhưng lúc đó không ai ăn vô nổi, vì hằng ngày
nhìn thấy xác chết đầy đường, không có người thu dọn. Chúng tôi
sống với và giữa những người chết, họ là những người dân đã sống
trong chịu đựng và chết trong oan khiên. Họ đã chết cho ai, vì
ai?! Bao nhiêu năm câu hỏi vẫn còn, không được ai đứng ra lãnh
trách nhiệm trả lời.
Trung đội vượt qua hồ Tĩnh Tâm phía
ngoài Cầu Kho, tiến vào lục soát ngôi biệt thự khá sang trọng.
Khi vừa rút ra khỏi nhà thì nghe “Đùng” một tiếng, 1 quả lựu đạn
hay súng cối gì đó rơi đúng vào giữa đội hình trung đội tôi! Mọi
người đều ngã lăn vì trúng mảnh đạn. Lưng tôi bị đầy mảnh, máu
ướt đẫm cả áo trong lẫn áo ngoài. Tôi đang kiệt sức dần, thì bỗng
nhiên thấy 1 tên lính địch chạy qua nhà tôi đang nằm. Trong khi
tên bộ đội chưa phát giác, do từ một phép lạ hoặc bản năng sinh
tồn, tôi nhỏm dậy, chạy băng về ban chỉ huy đại đội, các anh em
binh sĩ cũng nhanh chân rút theo. Mắt loáng thoáng nhìn thấy Đại
đội trưởng Thành Râu từ xa, tôi kiệt sức ngã lăn nằm bất tỉnh
trước sân đất trước nhà.
Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên
lầu của 1 biệt thự sang trọng. Anh bạn tốt là Bác sĩ Thiện mượn
mền để đắp cho tôi nhưng chủ nhà không chịu. Tối đến thấy trên
mình có cái mền mới tinh, nhưng nó bị trượt qua một bên, vết
thương bắt đầu hành sốt, người run lập cập. Tôi định kéo mền lên
đắp, nhưng giơ tay không nổi, đành nằm chịu trận! Nhìn xung quanh
thấy có thương binh bị nặng quá đã hy sinh, còn những người khác
thì mê man. Sáng ra mới biết anh Thiện đã lén “Mượn tạm” mền để
đắp cho tôi. Sau này nghe nói chủ nhà này là kinh tài (hãng xe
buýt vàng) của Việt cộng. Hắn ta cùng bọn nằm vùng đã làm nội
tuyến hướng dẫn bộ đội vào thành, quấy nhiễu dân chúng, gây bao
nhiêu cảnh chết chóc, lầm than cho những kẻ vô tội trong 3 ngày
Xuân.
Hơn một
tuần quần thảo trong thành nội, TĐ9ND còn thảm hơn 2 Tiểu Đoàn
bạn. Quân số còn lại những người nguyên vẹn không quá một trăm!
Lúc chuyển quân ra Vùng 1 Chiến Thuật, Tiểu Đoàn cần tới 5 chiếc
vận tải cơ C130, nhưng trở về với 1 chiếc mà còn thấy rộng. Riêng
trung đội 1 của tôi thì coi như báo cáo tổn thất “nằm, ngồi”
(chết, bị thương) là 100%. Để diễn tả về trận chiến Tết Mậu Thân
tại Vùng Giới Tuyến này, tôi xin phỏng theo 2 câu thơ bất hủ ở
mặt trận Bình Long:
Cố đô Huế Mậu Thân chiến tích
Chiến
sĩ Dù vị quốc vong thân!
TRƯƠNG DƯỠNG
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by cathy chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, June 27, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang