Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
lính
Ngày QL/19/6/2024 – LIX/59
Tác giả:
Nguyễn Hữu Nghĩa
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trước nay tôi rất ít khi viết về
đời lính. Thứ nhất, vì không tránh được cái tôi (đáng ghét). Thứ
hai, vì tôi chỉ là lính con so (10 tháng quân trường, 8 tháng
chiến trường), là cấp chỉ huy thấp nhất (chuẩn úy) ở binh chủng
“mạt” nhất (Địa Phương Quân), công trận chưa có gì để hãnh diện.
Tôi vẫn nghĩ rằng, muốn viết về lính, tác giả nên là một quân
nhân có binh nghiệp lớn (cao cấp, thâm niên), xuất thân từ những
Binh chủng oai hùng (Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động
Quân), vào sinh ra tử (Biệt Kích), bay bướm (Không Quân) hay pha
chút lãng mạn (Hải Quân). Tác phẩm nên đề cập những mặt trận lớn
(Hạ Lào, Bình long, Xuân lộc, Dakto), những địa điểm danh tiếng
(Khe Sanh, Charlie).
Trong gần hai mươi năm ở hải ngoại, tôi
đọc nhiều sách viết về người lính Việt Nam
[Cộng Hòa], biết thêm
những chiến tích hào hùng, sự làm việc cần mẫn tận tụy và sự hy
sinh anh dũng của nhiều chiến hữu lớp trước, với lòng ngưỡng phục
và biết ơn tác giả. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tôi vẫn thấy thiếu
thiếu một cái gì nhỏ bé nhưng gần gũi và thân thuộc. Gần đây, đọc
bài của Nguyễn Văn Thông trên Làng Văn số 166, tôi nhìn ra sự
thiếu vắng ấy. Đó là chưa có, hay hiếm có, sách vở viết về đời
sống nhọc nhằn và sự hy sinh âm thầm của người lính Nghĩa Quân,
Địa Phương Quân (mà họ chua chát gọi tắt là Nghĩa Địa).
Riêng tôi, trong mấy tháng ngắn ngủi
ngoài chiến địa, tôi có đầy ắp kỷ niệm với họ, đã chứng kiến họ
sống và chiến đấu, đã nhìn thấy họ dũng cảm hy sinh như những anh
hùng. Nhân ngày 19 tháng 6, tôi xin ghi nhận sơ khởi một vài nét
về sắc lính Địa Phương Quân mà tôi đã trực tiếp dự phần, như một
cách bù đắp cho họ trong muôn một. Mong rằng bài viết này sẽ là
một gợi ý nhỏ bé để có thêm nhiều người khác cùng viết, giúp điểm
xuyết cho bức tranh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) được đầy đủ
hơn.
Như trên
đã nói, kiến thức quân sự của tôi chỉ là những gì thu thập được ở
quân trường, và qua thực tế hạn hẹp của một đơn vị nhỏ ở một
tỉnh. Tôi ước mong đón nhận những ý kiến xây dựng, những chỉ bảo
cần thiết để bổ túc, sửa chữa đoạn bài viết về sắc lính này...
Lần đầu tiên ra nhận đơn vị, đứng trước
hàng quân, tôi hơi ngỡ ngàng. Trước mặt tôi là Trung Đội 1, Đại
Đội 1, Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, chủ lực Địa Phương Quân thuộc Tiểu
khu Kiến hòa, tập hợp ở một góc sân cờ ở trại gia binh, hậu cứ
Tiểu đoàn. Trừ những người nghỉ bệnh, bị thương, đi phép, trễ
phép, nằm quân lao, còn lại tất cả 16 người lính tuổi từ mười tám
tới ngoài năm mươi và hai hạ sĩ quan. Ai nấy mắt hơi lạc thần vì
mệt mỏi, thân thể hầu hết gầy gò, quần áo rách rưới, tóc tai bờm
xờm, có người râu dài lưa thưa, có người mặt mày dớn dác như sợ
hãi, có người lầm lì dữ tợn.
Tôi đứng trước họ, có cảm tưởng đứng
trước những “anh hùng” Lương Sơn Bạc, vừa hơi e dè, vừa hơi ngại
ngùng và vừa hơi thất vọng. Họ cũng hơi thất vọng và phân vân. Sự
phân vân trước một cấp chỉ huy trực tiếp mới ra trường, không một
chút kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy và tác chiến. May mà năm đó tôi
đã 22 tuổi tây, “già” hơn vài tuổi so với phần lớn các chuẩn úy
mới ra trường. Trừ đầu tóc hớt ngắn và bộ quân phục còn khá mới
với dấu alpha ở bâu và dấu hiệu “Cư An Tư Nguy” của Trường Bộ
Binh Thủ Đức bên vai. Mặt mày tôi cũng có vẻ phong sương chút
chút nhờ nắng gió quân trường.
Một cách vắn tắt, tôi giới thiệu vài
điều về tôi: gốc thầy giáo, tình nguyện nhập ngũ, tuổi tác, vợ
con. Tôi yêu cầu họ lần lượt xưng tên, và tôi bắt tay từng ngườị.
Tay họ phần lớn chai sạn và khô như củi. Có người nắm chặt tay
tôi như sắp sửa đấu vật, có người đưa tay cho tôi nắm. Mắt họ
nhìn vào khoảng không hay nhìn xuống đất. Có người cười cười, nụ
cười lợt lạt, có người mím chặt môi như bị tra tấn.
Tôi nói với họ vài điều sơ sài về tình
hình đất nước, Hiệp Định Đình Chiến Paris đã ký, về ngưng bắn tại
chỗ, ngưng bắn da beo, về việc Cộng sản Bắc Việt (CSBV) và Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) vi phạm lệnh ngưng bắn hàng
ngày, luôn luôn giành dân lấn đất để mong chiếm ưu thế nông thôn,
lấy nông thôn bao vây thành thị...
Gió chiều hiu hắt thổi, tôi thấy những
chiến hữu của tôi lim dim chống lại cơn buồn ngủ. Tôi biết họ
không quan tâm những điều tôi nói. Là quân nhân, họ chờ lệnh,
tuân lệnh và thi hành lệnh. Đối tượng của họ là Việt cộng (VC).
Đời họ là sự tiếp nối của những cuộc hành quân càn quét, truy
kích, đột kích, giải vây, tiếp tế đồn bót, giữ cầu, giữ đường. Họ
không cần biết những chuyện cao xa hơn lệnh lạt trực tiếp: tập
hợp, tan hàng, cấm trại hay xả trại, nếu xả trại thì được đi bao
lâu, một ngày hai ngày, nếu cấm trại thì có thể chui rào trốn ra
trong mấy giờ?
Tôi không phải là sĩ quan Chiến Tranh
Chính Trị, tôi là sĩ quan tác chiến, tôi không nên bắt họ nghe
chuyện chính trị, mà nên cho họ tan hàng, nghỉ ngơi hay vui chơi
trong khi chờ lệnh hành quân. Tôi hiểu. Tôi vắn tắt hơn, yêu cầu
họ thực lòng hợp tác với tôi trong những ngày sắp tới, hãy coi
tôi như anh em, giúp đỡ lẫn nhau. Tôi nhắc họ giữ đúng quân kỷ,
thi hành lệnh một cách đầy đủ và nghiêm chỉnh. Tôi tiết lộ cho họ
biết tôi từng là Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Kỷ Luật Đại Đội ở quân
trường, tôi từng... hét ra lửa và họ có thể kiểm chứng điều này
với mấy ông chuẩn úy học cùng đại đội với tôi ở quân trường và
nay cùng về đơn vị với tôi. Vài phút sau khi tan hàng, một ông
lính tới bá vai tôi, cười cười:
Tôi thấy ông hiền quá, đúng là thầy
giáo, chắc ông không chỉ huy được đâu!
Đó là những giây phút đầu của tôi ở một
đơn vị Địa Phương Quân.
Sự thất vọng của tôi qua mau khi tôi
sống với họ qua một vài ngày ngoài chiến trường. Sự già dặn của
họ về kinh nghiệm chiến đấu, sự gan dạ của họ khi đối diện với
địch quân và nhất là sự chịu đựng của họ trước nghịch cảnh khiến
tôi cảm thấy nhỏ bé và non dại trước họ hơn bao giờ hết. Mặc cảm
này cũng phôi pha nhanh trong tôi, một phần nhờ sự độ lượng và
tinh thần đồng đội của họ.
Họ sung sướng chỉ cho tôi cách chạy qua
một cái cầu khỉ cong queo, không tay vịn, gập ghềnh có khi dài
mười mấy thước và ghê gớm hơn hết là nhớp nháp bùn sình, trơn như
thoa mỡ. Họ nhắc cho tôi khi nào phải bắt đầu nấu nước sôi ngâm
bọc gạo sấy để nó kịp nở trước khi ăn.
Thấy tôi lóng cóng nhóm lửa theo kiểu
hướng đạo sinh, họ mỉm cười sẻ cho tôi một ít nước sôi. Thấy tôi
ăn cơm với muối vừng, họ mời tôi những thức tươi nóng mà họ tìm
được đâu đó trong lúc di chuyển. Họ chỉ cho tôi những dấu vết
tình nghi của mìn bẫy, trái nổ Việt cộng (VC) cài khắp nơi trong
vườn tược, chỗ lên mương xuống mương, bếp núc, cầu đường. Tôi đã
học kỹ điều này trong quân trường, nhưng thực tế ngoài chiến
trường còn phong phú và phức tạp gấp trăm lần.
Họ bày cho tôi cách căng võng sao cho
khỏi sương mưa, tránh bớt đường đạn bắn sẻ, tránh tầm lựu đạn. Họ
dạy cho tôi khi ngủ súng ống, dây mang đạn để đâu; khi ngủ lúc
nào thì phải bỏ võng nhảy xuống hố cá nhân sũng nước, khi nào thì
cứ tỉnh bơ dù nghe tiếng “đề pa” của súng cối Việt cộng. Họ bày
cho tôi cách giữ súng cho khỏi hóc, khỏi ướt khi qua sông, qua
suối. Họ truyền kinh nghiệm tháo súng chùi súng cấp thời ngoài
chiến trường, để khi cần, có thể ráp lại được trong vòng 15 giây.
Họ hướng dẫn cho tôi cả cách... đi đại
tiện sao cho an toàn, tránh gây hôi thối chỗ đóng quân mà không
phải đi xa ra ngoài vọng gác, vừa nguy hiểm vừa làm lộ vị trí
đóng quân. Họ biết đủ thứ, hơn tôi đủ thứ và sung sướng dạy bảo
tôi về mọi thứ! Tôi chỉ hơn họ có mỗi cái bằng trung đội trưởng,
cái bản đồ kèm phóng đồ hành quân và cái máy truyền tin để nhận
lệnh từ thượng cấp.
Họ thường ngập ngừng hỏi tôi với sự nể
nang:
– Còn
bao xa nữa Chuẩn úy?
– Liệu tối nay mình ngủ đâu Chuẩn úy?
– Chừng bao lâu thì mình bắt tay được
cánh quân bạn?
– Liệu đụng lớn không?
Tất nhiên đó là những câu hỏi thuộc bí
mật quân sự, tôi chỉ có thể trả lời lơ mơ rằng: “gần tới rồi, còn
xa, chưa biết, có thể lắm!, v.v.” Các chiến hữu của tôi chỉ chấp
nhận tôi hoàn toàn sau hai tháng hành quân, khi thấy tôi định
điểm đứng chính xác, điều chỉnh tác xạ cho pháo binh một cách hữu
hiệu, không sợ sệt khi nghe Việt cộng hô xung phong cả ba mặt, và
còn cười đùa được khi dàn hàng ngang trên tuyến xung phong. Họ
chấp nhận vị trí đóng quân do tôi định, đào hầm hố đúng chỗ tôi
bảo và khi trung đội đi tiền đồn, cách xa đơn vị lớn có khi hàng
cây số, họ tỏ ra yên tâm.
Tôi đã thực sự vào đời lính, hãnh diện
trở thành một Địa Phương Quân khi các chiến hữu của tôi không còn
gọi tôi là “chim uyên” (ngụy thoại của chuẩn úy), mà đổi thành
“thẩm quyền”, một danh từ riêng có tính cách nể nang hơn...
Địa Phương Quân, Lực Lượng Chủ Lực
Tỉnh.
Tôi
không ở một đơn vị tham mưu nên không biết gì về cách tổ chức Địa
Phương Quân trên toàn quốc. Theo cách sắp xếp tiểu khu Kiến Hòa,
nơi tôi phục vụ, mà suy đoán, thì mỗi tiểu khu có một số tiểu
đoàn Địa Phương Quân (một số lưu động, một số đóng đồn). Ngoài ra
có một Đại đội Trinh sát, tất cả do phòng 3 (Hành quân) của Tiểu
Khu điều động. Đơn vị của tôi là Tiểu Đoàn Bạch Hổ 401, lực lượng
chủ lực trong số 11 Tiểu đoàn Địa Phương Quân thuộc tỉnh Kiến
hòa, dưới quyền chỉ huy của Đại tá Kim, Tiểu Khu Trưởng, gốc Sư
Đoàn 7.
Tất cả
những gì tôi viết trong bài này, căn cứ vào cơ cấu tổ chức của
đơn vị nơi tùng sự từ ngày ra trường đến ngày Tổng thống Dương
Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Vì Địa Phương Quân trực thuộc các tiểu
khu (tỉnh), nên tùy tình hình, phương tiện và nhân sự địa phương,
cách tổ chức có thể được các tiểu khu linh động thay đổi nên khác
nhau ít nhiều. Tiểu đoàn trưởng đầu tiên tôi làm việc với là
Trung tá Sáng (sau khi tôi về đơn vị được vài tuần thì ông tử
trận, được vinh thăng đại tá). Các tiểu đoàn trưởng kế tiếp cao
nhất ở cấp thiếu tá, còn là đại úỵ. Chỉ trong tám tháng, đơn vị
tôi thay tiểu đoàn trưởng tới bốn lần, một chết, một bị thương.
Mỗi tiểu đoàn có năm đại đội gồm bốn
đại đội tác chiến và một đại đội chỉ huy. Mỗi đại đội có bốn
trung đội, gồm một trung đội đại liên và ba trung đội vũ khí nhẹ.
Quân số mỗi đại đội, trên cấp số là 108 người, nhưng trên thực tế
có mặt ngoài chiến trường chỉ vào khoảng 50 ngườị. Số còn lại lớp
nghỉ bệnh, lớp đi phép, lớp bị thương, lớp tử trận chưa kịp bổ
sung (tôi không thấy có dấu hiệu lính ma, lính kiểng ở đơn vị
tôi). Quân số hành quân của tiểu đoàn tôi trung bình khoảng 300,
lúc thấp nhất dưới 200; nhưng so với một tiểu đoàn Việt cộng thì
đông gấp đôi.
Tôi không biết các tiểu đoàn Việt cộng ở vùng I, vùng II đông cỡ
nào, khi họ tới Vĩnh Bình, Kiến Hòa, thực lực của họ chỉ còn bấy
nhiêu, vì rất khó bổ sung quân số hao hụt. Cho nên khi muốn bao
vây tấn công tiểu đoàn tôi, như trận phục kích xe ở Trúc Giang,
Trung tá Sáng tử trận, Việt cộng phải tập trung ít nhất hai trung
đoàn.
Bộ Chỉ
Huy Tiểu Đoàn, ngoài tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó còn có các
sĩ quan Ban 1 (Quân Số), Ban 2 (An Ninh), Ban 3 (Hành Quân), Ban
4 (Tiếp Liệu), Ban 5 (Chiến Tranh Chính Trị), Pháo Binh và Quân
Y. Trừ Ban 1, Ban 4 và Ban 5, các Ban khác đều đi theo đơn vị khi
hành quân. Đó là cách tổ chức của đơn vị tôi, các tiểu đoàn khác
có thể không được hùng hậu như vậy.
Tôi không thấy đơn vị tôi có ban Truyền
Tin riêng, nhưng máy PRC–25 được trang bị đầy đủ, do chính các
binh sĩ trong tiểu đoàn đảm trách. Tiểu đoàn trưởng có hai hiệu
thính viên đi theo, một máy liên lạc với Tiểu Khu, Chi Khu và đơn
vị bạn. Một máy liên lạc 5 đại đội và tiểu đoàn phó (đi theo đại
đội trực nhật). Mỗi đại đội trưởng cũng có hai hiệu thính viên,
một liên lạc với tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó cùng các đại đội
bạn, và một liên lạc với các trung độị. Mỗi trung đội trưởng chỉ
có một hiệu thính viên để liên lạc với đại đội. Đại đội phó không
có máy riêng, mà dùng máy của trung đội trực nhật.
Trong Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn có sĩ quan
Trợ Y, thuộc cấp số đơn vị, có đơn vị gia cư trong hậu cứ. Mỗi
đại đội có một hạ sĩ quan làm y tá đại đội. Sĩ quan Pháo Binh
không thuộc cấp số đơn vị, chỉ khi nào tiểu đoàn đi hành quân, sĩ
quan Pháo Binh mới có mặt. Hành quân xong, ông ta trở về căn cứ
Pháo Binh. Sĩ quan Pháo Binh có hiệu thính viên riêng để liên lạc
trực tiếp với Pháo Binh yểm trợ. Trong trường hợp cần Không yểm,
tiểu đoàn phải liên lạc qua tiểu khu, và tiểu khu liên lạc với
căn cứ Không Quân Cần Thơ.
Mỗi tiểu khu có một số tiểu đoàn lưu
động, một số có hậu cứ, số còn lại sau những ngày hành quân, kéo
ra đóng dài theo các trục lộ, vừa dưỡng quân vừa giữ an ninh khu
vực. Các tiểu đoàn cố định khác chịu trách nhiệm hẳn một vùng,
coi đồn, giữ cầu đường hay đóng chốt trên các trục chuyển quân
của Việt cộng. Tôi sẽ đề cập nhiệm vụ đóng chốt ở phần sau, phần
này trình bày về các đơn vị lưu động.
Gọi là “lưu động” vì các tiểu đoàn này
không chịu trách nhiệm một quận hạt nào, mà cần đâu đánh đó, bao
tất cả các quận trong tỉnh, kể cả Trúc Giang, Bình Đại, Ba Tri,
Giồng Trôm, Mỏ Cày, Hàm Long, Thạnh Phú, Hương Mỹ... Mỗi cuộc
hành quân của đơn vị ngắn là ba ngày, lâu nhất có khi hàng sáu
tuần. Giữa hai cuộc hành quân, đơn vị được về hậu cứ nghỉ ngơi
vài ngày. Ở hậu cứ có trại gia binh, quân nhân có vợ con mỗi
người được một đơn vị gia cư tường gạch, nền đất, lợp tôn. Quân
nhân độc thân sống chung với nhau trong một khu. Trong hậu cứ có
quán bi da, quán nhậu, tiệm tạp hóa.
Đơn vị nào có trại gia binh, binh lính
được dưỡng quân ở hậu cứ, “vù” về thăm nhà nửa buổi, một ngày;
hay chơi với vợ con trong trại, tụ họp nhậu nhẹt, tán dóc, chơi
bi da giải trí, tu bổ, sửa chữa vũ khí trong khi chờ lệnh hành
quân. Thương cho những tiểu đoàn lưu động không hậu cứ. Sau mỗi
cuộc hành quân, họ đóng vất vưởng dọc theo các trục lộ giao
thông, vừa dưỡng quân vừa giữ đường sá.
Mỗi lần lính kéo ra là một đạo binh
thân nhân từ đâu phục sẵn, kéo tới đông nghịt, phần lớn là các bà
vợ trẻ đèo theo con mọn. Họ đi bằng xe đò, xe lam, xe lôi và nhất
là xe “ôm”. Họ mang theo gạo sấy, cá khô và muối ớt, muối sả cho
chồng. Đôi khi họ nhận lại và mang về một ít gạo trắng, thuốc men
và cả thức ăn tươi, nếu đơn vị của chồng họ vừa hành quân qua
vùng hậu cần của Việt cộng.
Vào những ngày đầu tháng, đạo binh vợ
lính càng xuất hiện đông đảo cùng lúc với xe tiếp tế và phát
lương. Không biết các bà nhận “tin tình báo” từ đâu mà nhiều khi
tiểu đoàn vừa kéo ra đường, đã thấy các bà chực sẵn hàng nửa
ngày! Các bà phải tới để bảo vệ đồng lương lính còm cõi, mang về
nuôi con. Nếu không, chỉ trong vài buổi, các ông có thể nướng
sạch. Chỉ cần với một bộ bài cũ rách sờn nát, họp sòng vội vã và
lén lút ở một góc sân kín đáo nào đó, tránh sự giám thị của sĩ
quan, thế là tiêu tán hết. Dù bám sát như vậy, không một buổi
phát lương nào vắng nước mắt của các bà. Hoặc họ tới trễ một
chút, hết sạch. Hoặc họ đến sớm, đến trước cả xe phát lương, kết
quả vẫn không có gì, khi các anh chồng mặt nghệt ra, gãi đầu gãi
tai phân bua: phải trả những đầu nợ ấp lẫm do tiền rượu, nợ cờ
bạc...
Thăm
nuôi chồng tại các vị trí đóng quân cũng là cách bảo vệ mái ấm
gia đình. Nhiều ông lính rất tài về chuyện kiếm bồ lẻ. Đóng yên
chỗ chừng nửa ngày là họ đã bắt bồ xong. Và sau vài ba ngày nhổ
trại lên đường, đã có người giọt vắn giọt dài quyến luyến tiễn
đưa. Các bà vợ trẻ vì thế càng phải tới chỗ dừng quân để vừa giữ
chồng, vừa nhóm chút hương lửa trong đời sống vợ chồng.
Cấp chỉ huy bao giờ cũng để cho các ông
lính có vợ con tới thăm sự thoải mái tối đa: một góc nhà, góc
vườn kín đáo; được gác đầu hay gác cuối, có khi miễn gác; không
bị rầy rà khi phạm những lỗi nhỏ, v.v. Nhìn các cậu có vợ tới
thăm nuôi trông rất buồn cười. Mặt họ ửng đỏ, miệng cười chúm
chím, đi đứng ăn nói lóng cóng như chú rể mới. Cấp chỉ huy mỗi
khi chạm mặt họ, mỉm cười chia sẻ những nụ cười hiếm hoi trong
đời lính và họ rất sung sướng.
Trong đạo binh vợ lính ở đơn vị tôi, có
hai bà rất lạ kỳ. Một bà còn trẻ, hễ chui vào mùng với chồng
chừng vài phút là rú lên cười ngằn ngặt không nín nổi. Trong
không khí thanh vắng ở đồng quê, tiếng cười của bà ta vọng đi rất
xa, khiến cả đại đội phải khúc khích cười theo không tài nào nhịn
được.
Khi bà
vợ trẻ biểu diễn tiếng cười lần thứ hai lúc nửa đêm, người lính
gác phải lên tiếng tằng hắng nhiều lần, anh chồng mới thò tay bịt
miệng vợ, tiếng cười trở thành tiếng âm ư, bứt rứt. Gần sáng, lại
nghe cười! Sáng hôm sau anh chồng thế nào cũng bị trêu chọc cho
tới khi anh ta đổ cộc mới thôi, và bà vợ mặt mày đỏ lơ đỏ lưỡng,
ngồi chết một góc sân không dám nhìn ai. May mà cả đơn vị chỉ có
một bà như vậy và cũng không hại gì, chỉ lưu lại kỷ niệm vui vui
mỗi khi nhớ tới.
Một bà vợ lính khác lớn tuổi hơn, khi
ngủ say thì ngáy khủng khiếp. Tiếng ngáy của bà vừa to, vừa dài
hơi, vừa giống hệt như tiếng chó tru. Ở vùng đóng quân, tiếng
ngáy của bà khiến chó trong xóm sợ hãi tru theo và dân làng một
phen bở vía. Ở trại gia binh, tiếng bà ngáy vọng ra xa hàng chục
dãy nhà và hàng xóm phải lâu lắm mới làm quen nổi và chịu đựng.
Đêm đầu tiên ngủ trong trại gia binh, nghe bà ta ngáy, tôi tưởng
là tiếng chó dại tru, suốt đêm trằn trọc không cách nào ngủ được,
khó chịu quá phải bò dậy xách súng đi lùng. Một người lính tuần
phòng nội doanh trông thấy dáng điệu của tôi, anh ta hiểu ngay,
gọi tôi lại chỉ trỏ giải thích. Tôi ôm súng trở lại chỗ ngủ, và
lạ lùng thay, vài phút sau tôi đã ngủ ngon lành! Cho tới bây giờ,
chúng tôi, những người từng sống trong hậu cứ Tiểu Đoàn Bạch Hổ
401, kể cả Nguyên Hương, chưa ai quên tiếng ngáy độc nhất vô nhị
của người đàn bà đó.
Dưỡng quân ở hậu cứ bao giờ cũng yên ổn
hơn, dù doanh trại lúc nào cũng ồn ào như họp chợ từ khi đơn vị
hành quân về tới cho đến khi chiếc quân xa cuối cùng rời trại,
mang họ vào một chuyến đi khác. Sống trong trại chỉ khổ nhất khi
đơn vị có người chết trận, và thân nhân người chết sống trong
trại. May mà những tiếng than khóc, vật vã ấy không kéo dài lâu.
Thân nhân người quá cố được xe đón ra Chung sự vụ ở tiểu khu, nơi
quàn xác và hoàn tất việc chôn cất các chiến sĩ trận vong.
Tuy nhiên, những phút giây ngắn ngủi ấy
đã để lại trong tôi những cảm xúc khó quên, như cái chết của anh
Lâm, Trung sĩ I.
Lâm gốc Biệt Kích Thám Báo, sau về Tổng
Tham Mưu, cuối cùng không hiểu sao lại về Địa Phương Quân, làm
trung đội phó cho tôi. Anh Lâm nhỏ người, nhỏ tiếng, ít cười, lúc
nào cũng buồn buồn. Lâm có vợ, vợ chồng anh có một con nhỏ và
đang chờ đứa thứ hai, đang bầu bảy tám tháng gì đó. Anh đánh giặc
rất giỏi, nhiều kinh nghiệm hành quân và bố trí phòng thủ.
Mỗi chiều dừng quân, tôi bàn bạc với
anh về cách sắp xếp hầm hố nếu ý anh khác tôi, anh giải thích cặn
kẽ, thấy hợp lý, bao giờ tôi cũng nghe anh. Hố của anh bao giờ
cũng ở vào chỗ nguy hiểm nhất và gần một vọng gác. Ban đêm anh tự
đảm nhiệm phần đốc canh, bảo vì mắc tật khó ngủ. Lâm chỉ lay tôi
dậy khi cảm thấy có chuyện gì bất tường, còn thì cứ để tôi ngủ
thẳng giấc, anh làm việc với các tiểu đội trưởng, thay phiên nhau
kiểm soát lính gác. Khi trung đội tới phiên trực, dẫn đầu một
cánh quân tiến về phía địch, anh Lâm bao giờ cũng đi trước. Anh
dẫn lính đi rất đúng hướng và nhanh vừa phải, phía sau không bị
đứt quãng hay dồn ứ lại.
Mỗi khi chạm địch, tôi vừa lên tới nơi,
anh đã bố trí xong đội hình tác chiến. Anh Lâm dũng cảm nhất ở
những trận chống đột kích ban đêm. Cách bố trí của Lâm và lệnh
“hầm chắc hố sâu” của tôi khiến trung đội đủ sức chịu đựng những
cuộc quần thảo với Việt cộng hầu như suốt đêm. Lâm giữ chặt liên
lạc với các hố. Giữa hai đợt xung phong của địch, anh bò nhanh
một vòng để kiểm soát tình hình, san sẻ đạn dược và ủy lạo thương
binh trong khi tôi bận báo cáo lên thượng cấp và trực tiếp liên
lạc với sĩ quan pháo binh qua máy truyền tin. Anh Lâm là một
chiến sĩ xuất sắc. Nếu được thưởng huy chương, tôi sẽ rất sung
sướng đề cử anh thay đơn vị mà nhận...
Một lần, trước khi đơn vị hành quân,
Lâm nói cho tôi biết là anh bị ho ra máu và muốn ở lại để vào
Quân Y viện khám bệnh. Theo nội lệ của đơn vị, phép tắc do đại
đội trưởng quyết định, tôi không dám tự chuyên. Cấp trên của tôi
lúc đó là một ông trung úy rất thô lỗ và không thân với tôi. Lâm
cho biết đã hỏi ông ta nhưng không được, anh quyết định trốn lại
trại nhưng phải báo cho tôi biết để lo liệu cho anh em.
Tôi tin là anh đang đau ốm, và tôi cũng
có thể khỏa lấp, che chở cho anh để đại đội trưởng không biết anh
ở lại trại. Nhưng nhìn vào phóng đồ hành quân, biết đơn vị sẽ đi
vào một vùng đất cực kỳ nguy hiểm, tôi phân vân ra mặt, do dự
không biết xử trí ra sao. Anh Lâm kiên nhẫn chờ đợi, cuối cùng
tôi cho anh biết tình hình, khuyên anh “cố gắng” và hứa sẽ cho
anh theo xe tiếp tế để trở lại trại sau khi đơn vị hoàn thành
công tác và kéo ra tới đường cái.
Anh Lâm chào tay, quay lưng đi và vài
phút sau khi ra tới địa điểm tập hợp, tôi đã thấy anh đang có mặt
với đầy đủ trang bị và đang kiểm soát đạn dược của từng binh sĩ.
Chuyến hành quân đó, tôi đi cùng chiếc GMC cuối cùng.
Trông coi cho binh sĩ lên xe đầy đủ,
tôi bấm Lâm:
Anh về nghỉ đi, chờ xe tiếp tế rồi theo vô, mọi chuyện để tôi lo!
Lâm cười nhanh:
Chuẩn úy đừng lo, tôi thấy đỡ rồi. Tôi
sẽ theo xe tiếp tế mà về!
Hai ngày sau Lâm tử trận. Giữa cuộc
hành quân, lúc đơn vị dừng quân ngồi nghỉ, anh trúng một tràng
đạn bắn sẻ, hai viên chui vào cổ và buồng phổi. Lâm nằm ngửa, mắt
mở hé chỉ thấy lòng trắng, miệng ngáp từng chập như cá lóc bị đập
đầu. Tôi thương cảm vuốt mắt anh, mắt tôi ráo hoảnh nhưng lòng
như ứa máu. Nửa phút sau, anh qua đời. Hai người lính khiêng xác
Lâm, bảo nhau chưa có xác nào nhẹ đến thế! Hôm sau, anh đã “theo
xe tiếp tế mà về,” đúng như lời đã bảo.
Đợt hành quân đó không thành công, địch
kịp thời chuyển quân sang vùng khác, tiểu đoàn được lệnh về trại
để bổ sung khí giới rồi lên đường hành quân ở một hướng khác. Xác
anh Lâm về chung sự vụ và chúng tôi về hậu cứ. Tôi bắt gặp chị
Lâm bụng cao vượt mặt, tay cầm nắm rau thơm, cười hớn hở:
Em mới xin được nắm rau tần dày lá!
Canh chua mà thiếu rau tần, anh Lâm không thích!
Lòng tôi thắt lại, chết điếng. Ông
thượng sĩ thường vụ đại đội chưa kịp báo tin cho chị. Trông thấy
vẻ mặt bất thường của tôi, chị Lâm tái mặt, lấp bấp:
Anh Lâm... bị thương?
Tôi nhẹ giọng:
Anh Lâm chết rồi! Chị dắt cháu lên Bộ
Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Tôi lo xe cho chị ra chung sự vụ.
Chị Lâm ngồi phệt xuống đất, không
khóc, không nấc được tiếng nàọ. Tôi không nhìn thấy chị nữa. Trời
đất như phủ một màn sương. Một người vợ lính nào đó nâng chị dậy,
dìu đi. Tôi lững thững vào nhà, nhìn Nguyên Hương chua xót. Một
ngày nào đó, biết đâu ông Thượng sĩ Thường vụ lại chẳng phải nói
với Hương một câu tương tự: “Anh Nghĩa...”
*****
Lính nghèo, điều đó không cần phải nói nhiều, ai cũng biết; nhưng
lính Địa Phương Quân chẳng những chỉ nghèo mà còn xơ xác. Quân
phục cấp phát cho họ mỗi năm một bộ, và thường chỉ ba tháng sau
đã tơi tả. Nhiều người lính, và ngay cả tôi, có khi phải mặc tạm
quần ni lông đen tịch thu được của du kích Việt cộng. Loại vải
này mặc hơi ngứa, nhưng được cái là rất mau khô, chỉ cần năm phút
là ráo, dù vừa lội dưới sình lên. Vùng 4 phần lớn là sình lầy.
Bước ra vài bước đã nhảy ngay xuống mương. Một ngày băng qua hàng
mấy trăm cái mương ngang, lên mương xuống mương, sình và đất sét
dẻo và dính như keo, quần áo nào chịu nổi!
Gạo sấy tiếp tế
không đầy đủ, lính phải trích từ đồng lương còm cõi ra mua, nên
họ ăn rất dè xẻn. Khi cuộc hành quân diễn ra trong vùng đất do
Việt cộng hoàn toàn kiểm soát, binh sĩ được phép thu dụng tất cả
những gì dùng được: quân trang, quân dụng, gạo, muối, thuốc men
và ngay cả gà vịt. Cái gì không mang theo được phải phá hủy. Tôi
thường xuyên chứng kiến hàng mẫu đu đủ, dưa hấu, bắp đang lớn rộ,
bị cắt dây, đốn hạ ngổn ngang, nhiều căn nhà bị đốt rụi, các
giếng nước bị lấp, những vại nước bị chọc thủng hay đập vỡ, hàng
chục kho gạo bị khám phá, lính chia nhau mang không hết phải đổ
xuống mương hủy đi. Chiến tranh bao giờ cũng thế, lấy sự tiêu hao
sinh lực địch làm lẽ tồn tại của mình. Mỗi lần hành quân vào căn
cứ hậu cần của Việt cộng, người lính có dịp “bồi dưỡng” sinh lực.
Họ được ăn no hơn, bổ hơn nhờ có thêm thịt tươi. Lính gọi những
cuộc hành quân đó là “đi chợ”. Tuy nhiên, họ cũng không mấy thích
phải “đi chợ” kiểu này. Trừ phi nhảy trực thăng hay đổ bộ bằng
giang thuyền. Còn thì là muốn tới “chợ” có khi phải băng qua hàng
vài chục cây số rừng thưa, mương rạch đầy mìn bẫy, chưa kể những
trận chống càn trầy vi sứt vảy, nếu lỡ bị thương, có thể mất mạng
như chơi vì không có phương tiện tải thương. Trước khi tôi về coi
trung đội, một chuẩn úy khoá đàn anh đã bỏ mạng chỉ vì đạp nhằm
trái nổ của Việt cộng, đứt mất ngón chân cái. Băng bó, chích
thuốc cầm máu xong, lính thay phiên nhau cõng anh băng rừng, vượt
mương trong ba ngày mới ra tới đường cái, và vị sĩ quan trẻ tuổi
ấy đã ngừng thở trước đó vài giờ vì mất máu quá nhiều. Địa phương
quân tuy hoàn cảnh khó khăn như vậy nhưng các đơn vị Địa Phương
Quân lưu động đánh giặc rất cứng. Những chuyện kể sau đây chỉ có
tính cách tóm lược, để chứng minh khả năng và tinh thần chiến đấu
của sắc lính này. Tôi mong sẽ sắp xếp được nhiều thì giờ hơn sau
này để viết thành một cuốn sách về những người lính dũng cảm của
đất nước...
Trung đội của tôi trong một lần đi tiền đồn,
bị cả tiểu đoàn chính qui Việt cộng quần thảo suốt một đêm qua
hàng chục đợt xung phong mà không chiếm nổi một hố cá nhân. Dưới
ánh sáng hỏa châu của pháo binh yểm trợ, những người lính Địa
Phương Quân đứng xổng lưng dưới hố nhắm từng bóng địch, bắn từng
phát một để tiết kiệm đạn. Không một người lính nào bỏ chạy, dù
tiếng gào thét “Hàng sống, chống chết!” của Bắc quân rền rỉ vang
dội, sầm sập tiến về phía họ sau những tràng súng cối 82ly và đại
liên 12.8ly cày xới tơi tả từng tấc đất. Họ chỉ rúc sâu vào hố
sau khi nghe tiếng đại bác 105ly yểm trợ “đề pa” từ xa, nhả những
tràng đạn nổ chụp quanh phòng tuyến của họ. Đại bác, ngưng nổ, họ
lại đứng lên chong mắt quan sát và sẵn sàng nổ súng. Gần sáng,
địch rút êm. Binh lính thì thào kiểm điểm quân số. Hầu hết đều bị
thương, vài người chết và không một ai tháo chạy. Sáng hôm sau,
đơn vị lớn lên tới để tải thương, thu dọn chiến trường, chúng tôi
nhìn xác địch ngổn ngang mà rùng mình. Nhiều xác nằm cách hố cá
nhân của anh em chừng vài tấc.
Lần khác, trung đội tôi đi
đầu, lọt ổ phục kích, hàng quân bị cắt đôi, đứt đoạn. Mười mấy
tay súng không hầm hố, lắp lưỡi lê lên đầu súng, nằm chờ đợi một
đợt xung phong rầm rộ, tuyệt vọng chịu đựng một trận xáp lá cà
mạng đổi mạng. Hàng quân căng thẳng. Thời gian như ngừng lại. Mồ
hôi lấm tấm trên mặt mọi người. Tuy nhiên, trên mắt họ, tuyệt
nhiên không thấy một tia sợ hãi nào. Có người mỉm cười, môi mím
chặt, hàm bạnh ra. Đợt xung phong thứ nhất của Việt cộng xuất
hiện, bị đốn rụi trong vài phút. Để chống xung phong, người lính
chỉnh súng để bắn phát một. Thấy địch quân mới bắn, không bắn
loạn vào khoảng không. Đợt thứ hai cùng chung số phận. Đợt thứ ba
bất ngờ bị trung đội Địa Phương Quân đi sau dàn hàng ngang tiến
tới đốn gọn. Đợt thứ tư, thứ năm và các cánh hỏa lực của địch bị
pháo binh vùi dập câm họng, không tiến lên nổi. Ba mươi phút sau,
lúc thu dọn chiến trường, tôi tiến tới bắt tay Chuẩn úy Vũ, nói
lời cảm ơn. Vũ là dân Mỏ Cày, ra trường trước tôi hai khóa, có vẻ
không bằng lòng: “Bộ ông tưởng tui co lại khi thấy mấy ông bị làm
thịt sao?” Quả vậy, người lính Địa Phương Quân không bao giờ “co
lại” sẵn sàng bỏ chạy như tiếng đồn xấu vẫn lan ra. Họ tiến hay
thoái theo lệnh, có chiến thuật và có kỷ luật.
Trong đời
lính, tôi đã thấy những người lính gan góc bò lên từng tấc dưới
hỏa lực của những khẩu AK bắn chéo cánh sẻ, nhắm kỹ để ném lựu
đạn vào một miệng hố cá nhân chỉ to bằng cái rổ. Cái hầm hố cỏn
con này nằm bên kia một con rạch nhỏ và sâu, đã ngăn bước tiến
của một tiểu đoàn trong nhiều giờ, và đường đạn bắn thấp của họ
đã gây thương vong cho mấy chục binh sĩ Địa Phương Quân. Cuối
cùng cái hầm kiên cố cũng bật nắp, im tiếng sau khi chịu hàng
chục trái lựu đạn ném gần và trái cuối cùng đã lọt vào miệng hố!
Tôi ôm vai người lính già, hứa thưởng ông ta ba ngày phép khi đơn
vị về hậu cứ. Ông lính cười cười:
– Phép tắc khỉ gì, ông
kiếm lựu đạn trả lại tui, hết mẹ nó rồi!
Kể về bắn giỏi,
trong đơn vị có những tay súng xuất sắc. Trong một đợt hành quân
ở Ba Tri, sát biển, đại đội tôi bị một tiểu đội Việt cộng cầm
chân. Đường tiến quân hoàn toàn trống trải, không một gốc cây nào
to hơn bắp chân, một cái cây nào cao hơn đâu người. Tám tay súng
của Việt cộng núp sau 8 đống muối to bằng bồ lúa, chia ra nhắm
vào cánh quân của tôi. Lúc đó tôi chịu trách nhiệm theo hai trung
đội đi đầu, Thiếu úy Thọ, Đại đội trưởng, kẹt lại phía sau. Tôi
cho hai trung đội, lúc đó do hai chuẩn úy mới ra trường trông
coi, chia làm hai ngả, một bắn yểm trợ cho một trung đội khác
tiến lên theo thế chân vạc. Đám Việt cộng ma mãnh ỷ vào vị trí
kiên cố, không thèm đếm xỉa tới hoả lực yểm trợ, chỉ tập trung
bắn phát một vào cánh quân đang tiến lên. Chúng bắn rát đến nỗi
thử đi thử lại trong nửa giờ, hai cánh quân chỉ tiến được chừng
50 thước mà đã thiệt mất gần chục người bị thương. Định gọi pháo
binh giải quyết, nhưng pháo binh đang ưu tiên yểm trợ cho một
cánh quân khác đang đụng lớn và phải chịu đựng một đợt xung
phong. Anh Thọ lò dò lên tới. Quan sát và nắm vững được tình
hình, anh cho gọi hai tay thiện xạ tới. Tất cả binh sĩ được phép
tìm chỗ núp kỹ, vừa canh chừng ba mặt, vừa nghỉ ngơi dưỡng sức.
Một toán nhỏ ba người được lệnh bò vòng sang bên hông thật xa,
tiến tới. Hai tay thiện xạ tìm chỗ đặt súng. Anh Thọ cởi bỏ dây
đạn, súng và cả... nón sắt ra, nháy mắt nhìn tôi cười. Anh người
Hố nai, nhỏ người, tròn trịa và nổi tiếng gan góc, lính thương
anh và sợ anh như sợ cọp. Giữa chốt giặc và chúng tôi là hàng
trăm đống muối trắng, mỗi đống to bằng một cái bồ lúa cỡ nhỏ.
Thoắt một cái, anh xổng lưng chạy lên ngời ngời, từ đống muối này
sang đống muối nọ như trò chơi chim đổi lồng. Tất nhiên là bên
kia nổ súng. Đạn cày từng vệt sau lưng anh. Anh Thọ lại chạy.
Trong đơn vị chắc chắn không ai nhanh bằng anh, và anh cũng không
muốn sai khiến ai đứng ra làm mồi kiểu này! Tôi thầm kêu khổ và
chỉ có cách lâm râm cầu nguyện cho anh đừng sẩy chân vấp ngã.
Thỉnh thoảng tôi nghe tiếng súng phát một từ hai tay thiện xạ và
tiếng reo hò của một người nào đó. Đạn AK cày rất rát, và một
phần vì nhát, tôi không ngóc đầu lên nổi để quan sát toàn cảnh.
Chừng 15 phút sau, tiếng súng bọc hông nổ giòn giã và anh Thọ
như một con nai lớn gieo mình đánh “ịch” ngay bên cạnh tôi. Da
mặt trắng hồng của anh đỏ lưỡng, mồ hôi ra như tắm. Anh cười đắc
thắng:
– Xong rồi!
Mà xong thật. Trong tám tay súng
cản đường, sáu tay bị thần xạ bắn vỡ óc, hai tay còn lại bị đột
kích bên hông diệt luôn. Đơn vị tôi chia ra hai cánh tiến tới
thật nhanh, gần như chạy, và vài giờ sau chiếm được mục tiêu khá
dễ dàng, thu được một số chiến lợi phẩm, tài liệu quan trọng. Cho
tới bây giờ, hình ảnh anh Thọ đầu trần, chạy loanh quanh giữa các
đống muối trắng vẫn hiện rõ trước mắt tôi. Tôi vừa phục anh gan
góc, nhanh nhẹn, vừa nể các tay súng Địa Phương Quân. Binh chủng
nào cũng có những nhân tài. (Thiếu úy Thân Văn Thọ hiện định cư
tại San Jose qua chương trình “HO”. Gần đây khi báo chí Thúy Nga
mở chiến dịch liên tục tấn công tôi để tạo hoả mù khoả lấp vụ
băng hình “B–40”, anh Thọ theo dõi tin tức, biết anh chàng đại
đội phó nhát gan của anh hiện đang làm báo Làng Văn, đã gọi về
toà soạn. Nghe giọng anh tôi nhận ra ngay dù đã hơn 20 năm không
gặp nhau. Hình ảnh thoăn thoắt của anh ở trận Bình Đại năm nọ
hiện lên ngay trong trí tôi như một đoạn phim sống động. Hai anh
em nhắc chuyện cũ cười ha hả sảng khoái trên điện thoại...)
Một lần khác, tiểu đoàn chúng tôi được trực thăng vận, nhảy
diều hâu tập kích sau lưng một đại đơn vị Việt cộng ở cù lao Thới
thuận ở bờ biển Kiến Hòa. Tôi đã ngồi trực thăng nhiều lần khi
còn ở dân sự, nhưng nhảy từ trực thăng xuống để tập kích sau lưng
địch, thì là lần đầu. Bài học này không có ở quân trường. Các ông
lính trong đơn vị tôi cũng vậy, về quân sự họ còn học ít hơn tôi!
Từ trên máy bay, tôi thấy từng đám bụi mù của pháo binh đang cày
xới vị trí đóng quân của Việt cộng. Vài phút sau, đàn trực thăng
sà xuống bờ biển và đại đội của tôi nhảy xuống yên lành, đàn chim
sắt bốc lên trước khi địch quân kịp phản ứng. Cả đơn vị dàn hàng
ngang chiếm bờ biển, là một rẫy dưa hấu đang mùa chín tới, và
được lệnh nằm đó bảo vệ bãi đáp cho đại đội thứ hai đổ bộ. Các
đơn vị còn lại tiến vào bằng đường bộ qua ngã khác. Cuộc tiến
quân thần tốc hoàn tất trong vòng ba mươi phút, và đại đơn vị của
địch bị đánh thốc vào lưng, không trở tay kịp. Hai đại đội Địa
Phương Quân len lỏi vào các khe hở, chọc thẳng vào bộ chỉ huy
Trung đoàn Việt cộng, dễ dàng như bẻ càng một con cua lột. Một số
tháo chạy vào rừng, vướng các bãi sình, bị pháo binh hủy diệt
bằng đạn nổ chụp. Một số chạy vào ổ phục kích của các đại đội còn
lại. Hai tiểu đoàn Việt cộng bảo vệ chung quanh bị ba đại đội
khác đánh úp, tan nát. Một trung đoàn chính qui của Cộng sản Bắc
Việt bị một tiểu đoàn Địa Phương Quân phá tan!
Tôi nghe
tiếng Đại tá Tiểu Khu Trưởng bay lược trận trên trực thăng chuyển
vào tần số đại đội, nói lời khen ngợi. Tối hôm đó, chúng tôi nhận
được lệnh chuẩn bị “đón tiếp” một trung đoàn chính qui khác của
Việt cộng đang trên đường tới tiếp viện. Tôi không thấy một dấu
hiệu sợ hãi nào trong mắt các người lính Địa Phương Quân quanh
tôi, dù họ đang nằm gọn trong lòng mật khu và trước một quân số
đông hơn họ gấp bốn lần! Trong tám tháng cuối cùng trước khi Việt
cộng chiếm được Sài Gòn, toàn tỉnh Kiến Hòa hoàn toàn do Địa
Phương Quân giữ gìn. Tất cả các Sư Đoàn Bộ Binh đều được điều
động đi các tỉnh khác; còn các binh chủng chủ lực như Nhảy Dù,
Thủy Quân Lục Chiến... chẳng bao giờ phải về vùng này! Đơn vị tôi
đôi khi còn được tăng phái sang Mỹ tho, hành quân trực thăng vận,
nhảy diều hâu, đổ bộ bằng giang đĩnh. Trong các cuộc hành quân
lớn, chúng tôi được trọng pháo lưu động và cả Không quân yểm trợ.
Nhiều lúc tôi phải nghĩ rằng, với lực lượng Địa Phương Quân
vững mạnh như vậy, miền Nam dư ra hàng trăm ngàn quân để ngăn
đường tiến quân của Cộng sản Bắc Việt. Nhưng sự vững mạnh ấy
không phải chỉ do công lao của các đơn vị lưu động. Công lớn hàng
đầu là của các đơn vị đóng đồn, không riêng gì Kiến Hòa, mà của
tất cả những đơn vị Địa Phương Quân chiến đấu âm thầm trên khắp
lãnh thổ miền Nam từ Cà Mau ra tận Bến Hải... Các Đơn Vị Cố Định!
Phần lớn các đồn lớn là của Địa Phương Quân, do tiểu khu (tỉnh)
và chi khu (quận) điều khiển. Các đồn nhỏ do phân chi khu (xã),
giao cho Nghĩa quân phụ trách. Chính hai thành phần này mới là
những người bám rễ giữ đất, ăn chịu nằm lì, hy sinh gian khổ nhất
trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ. Tiếng là đóng đồn, nhưng phần
lớn coi như đi tù. Đồn bót của họ chính là một cái rọ, nằm sâu
trên các trục chuyển quân của Việt cộng, nên bị đối phương coi
như những cái bọc nhọt phải cắt bỏ bất cứ giá nào. Việt cộng tổ
chức bao vây, quấy rối, bắn sẻ, ném lựu đạn suốt ngày đêm để
khủng bố tinh thần, tiêu hao sức khoẻ, đợi khi lính mòn mỏi, tràn
vào tấn công giết sạch, cả đàn bà trẻ con, đôi khi cũng bị hạ
sát. Trong khi các đơn vị đóng ở các đồn lớn trong vùng an ninh,
giữ cầu, bảo vệ các cơ sở hành chánh, được ra vào thoải mái, chỉ
thỉnh thoảng hành quân dã trại, ban đêm tổ chức phục kích quanh
đồn; thì quân nhân ở các đồn nhỏ phải ép mình nằm một chỗ, đợi
ngày đổi đồn có khi tới sáu tháng hay một năm. Mỗi tháng Chi khu
mở cuộc hành quân tiếp tế gạo muối, súng đạn một lần, khi ấy
người lính đóng đồn mới dám bước ra ngoài, đi tới đi lui thoải
mái trong vài giờ. Họ tuy ở xứ nhiệt đới nhưng quanh năm không
phơi nắng lấy trọn một ngày. Họ sống khổ sở, chui rúc như chuột,
ló đầu lên là bị bắn ngay, lúc nào cũng căng thẳng cực độ, luôn
luôn sẵn sàng phản ứng khi bị tấn công bằng lựu đạn, hoặc nhào vô
hốc để tránh miểng, hoặc nhào tới chụp nó ném ra xa. Nếu lỡ bị
thương, nhiều khi phải chịu đựng trong năm ba ngày, có khi nửa
tháng mới có cuộc hành quân càn quét, mở đường đưa về Quân y viện
chữa trị.
Làm sao được, ngay cả lính Mỹ ở Bastogne, Khe
Sanh trước kia đôi khi cũng phải chịu trận trường kỳ như vậy dưới
những trận mưa pháo của địch, nói chi đến phương tiện eo hẹp của
Quân Lực VNCH thời 1974 và đầu năm 1975, khi chương trình Việt
nam hoá chiến tranh đã thắt chặt mọi nguồn tiếp liệu! Ngay cả
pháo binh yểm trợ, cũng thiếu thốn ngặt nghèo. Sau khi Hiệp định
Paris được ký kết, quân viện giảm gần hết. Khi cần pháo yểm, mỗi
đồn chỉ xin được hai trái một ngày, cho dù bị vây khổn đến mức
nào. Trái đầu chưa kịp điều chỉnh, thường không hiệu quả. Trái
thứ nhì rót tới, thế là xong. Muốn xin nữa, phải chờ qua ngày hôm
sau! Hơn một chục lần, tôi bước chân vào một đồn lẻ của Địa
Phương Quân. Gọi là đồn cho đúng theo danh từ quân sự, thực tế,
đó là những cái hang tăm tối, ẩm thấp lạnh người. Trên thì trần
thấp lè tè, người cao có thể đi đụng đầu, dưới sình đất nhớp
nháp, mùi ẩm mục, khai nồng rất nặng nề. Lính nằm bằng võng, nấu
ăn bằng bếp dầu hoặc củi, và hầu hết đều nhịn tắm, có khi hàng
tuần, hàng tháng, nếu trời không mưa. Lần nào cũng vậy, bắt được
tay nhau, lính trong đồn mừng ứa nước mắt, nhất là những thương
binh đang chờ tải thương.
Hơn một chục lần, tôi nghe lính
đóng đồn ao ước được ra ngoài “lội như mấy anh, thà đụng trận
hàng ngày vẫn... sướng hơn!” Tôi tin là họ nói thật. Ngầm so
sánh, tự đặt tôi vào vị trí của họ, tôi xấu hổ vì chợt bắt gặp sự
sợ hãi của mình. Tôi muốn bù đắp cho lính đóng đồn một cái gì đó,
nhưng tôi không bao giờ làm được. Tôi không hút thuốc, không uống
rượu, không có gì để chia sẻ cho họ. Ngược lại mấy ông lính của
tôi đôi khi còn xin... đạn của họ, nếu trước đó đụng trận và bị
hao hụt. Phần lớn lính đồn đều vui vẻ tặng vài băng đạn mới toanh
cho những “ân nhân” tới cứu viện, trong số đạn được do lính chi
khu theo chân chúng tôi tải vào đồn. Ngồi nghỉ chân, tán dóc với
họ được chừng nửa giờ là đến lúc “chia tay.” Lính đồn bịn rịn
nhìn lính lội ra đi, y như những cặp tình nhân quyến luyến nhau.
Chỉ mươi mười lăm phút nữa thôi, đoàn quân tiếp viện đi khuất,
trả lại cảnh tịch mịch của ruộng vườn lại cho du kích, và những
người lính Địa Phương Quân lại bị giam hãm trong hang.
Đất
Kiến Hòa thấp, đào xuống vài tấc nước đã rịn ra nên phần lớn đồn
bót đều đắp khơi trên mặt đất, ba góc là ba vọng gác, mỗi vọng
gác có hai lỗ châu mai. Bên ngoài đồn là hàng rào kẽm gai, mìn
claymore, mìn sáng, lựu đạn cài. Trên hàng rào là những lon sữa
bò, lon chao treo lủng lẳng, sẵn sàng khua lên khi bị động. Cỏ
dại mọc chằng chịt, đan lên trên tất cả và che lấp hầu như tất
cả. Lính chẳng những gác bằng mắt mà còn gác bằng tai. Thấy động,
nghe động là bắn liền, nhưng không bắn nhiều, vì lượng đạn tiếp
tế có hạn. Cuộc hành quân giải vây nào cũng mất vài ba ngày chúng
tôi mới tới được cửa đồn, sau những trận đụng độ lớn nhỏ, phần
lớn chỉ là những tổ du kích bám sát, rình rập bắn sẻ hay ném lựu
đạn. Du kích Kiến Hòa nghĩ ra trò bắn lựu đạn khá lợi hại. Cách
sử dụng y như như bắn ná giây thun, có điều dây thun dài hơn, cần
ná to hơn và thay vì hòn sỏi thì là một quả lựu đạn vừa rút chốt.
Tầm ná lựu đạn xa khoảng 150 thước đến 300 thước, tương đương tầm
tác xạ hữu hiệu của M–79. Ná lựu đạn lợi hại hơn súng phóng lựu
vì không có tiếng “đề pa.” Đang đi, nghe tiếng loẹt xoẹt vạch lá
bay tới, “phịch” một tiếng rồi nổ “ầm” ngay, may ra người lính
chỉ kịp nằm xuống tránh bớt miểng.
Tuy nhiên, ná lựu đạn
không chính xác nên chỉ nguy hiểm cho những mục tiêu cố định và
tương đối khá rộng: đó là đồn bót. Bò lại gần đồn ném lựu đạn, dễ
bị ném lại và ăn đạn M–16 như chơi, nhưng đứng từ xa bắn ná lựu
đạn tới an toàn hơn nhiều. Chỉ cần hai chú du kích và vài quả lựu
đạn cũng đủ làm cho một trung đội trong đồn rối loạn sinh hoạt,
căng thẳng thần kinh. Lính trong đồn có dư lựu đạn cũng không
biết đường nào mà ném trả.
Thành phần chỉ huy giữ đồn phần
lớn là hạ sĩ quan. Trung sĩ hay trung sĩ nhất cầm trung đội là
thường. Có lẽ cấp trên thấy không cần phải ném một chú chuẩn úy
mới ra trường, lơ ngơ vào đồn làm gì cho phí công huấn luyện. Một
hạ sĩ quan có kinh nghiệm, quen chịu đựng cực khổ ra nằm đồn lợi
hơn nhiều. Cho nên các đơn vị chủ lực có nhiều sĩ quan hơn các
đơn vị giữ đồn. Một đại đội lưu động có khi có tới sáu sĩ quan,
nhưng một đại đội giữ đồn thường khi chỉ có 2 hay 3 sĩ quan. Hoàn
cảnh chiến đấu thụ động ấy không có chỗ dụng võ cho họ.
Tất cả công tác chỉ huy chỉ có chia gác, đốc canh và liên lạc với
chi khu bằng vô tuyến điện. Tuy nhiên, xét về thành phần nhân sự
cấp căn bản, tức hàng binh sĩ, cần phải tuyên dương người lính
đóng đồn trên những trang binh sử, dành cho họ những huy chương
cao quý như những sắc lính ưu tú trong quân đội. Họ chính là
những người trực tiếp bám trụ, chống giữ từng tấc đất trước sự
xâm [lăng]
cuồng bạo của địch quân. Địa Phương Quân và Nghĩa quân là những
người lính trực tiếp bảo vệ an ninh cho địa phương.
Tuy
gian khổ tột cùng, người lính Địa Phương Quân, Nghĩa quân vẫn
kiên trì chịu đựng. Càng gian khổ, công trạng của họ đối với đất
nước càng rực rỡ và to lớn. Không phải cấp trên (Bộ Tổng Tham
mưu, Bộ Tư Lệnh Vùng, Bộ Chỉ Huy Tiểu khu) lòng lim dạ đá, mang
con bỏ chợ hay ngu ngốc bị Việt cộng nằm vùng chỉ huy nên nhắm
mắt làm ngơ, cứ duy trì các đồn bót khổ đau này.
Miền quê
Kiến hoà, tức Bến Tre, nơi Hà nội ca tụng là “Quê hương Đồng
khởi” du kích đông như đỉa. Trên bản đồ của Ban Quân Sự bốn bên,
các chấm đỏ nổi lên như đám da lên sởi. Đồn bót là phên giậu, là
hàng rào phòng thủ bảo vệ chi khu và tiểu khu; đồng thời còn là
những cứ điểm tình báo chiến thuật, quan sát sự chuyển quân của
địch. Nhổ hết các đồn đi chính là quỳ gối đầu hàng, hai tay cung
kính dâng hiến lãnh thổ cho Cộng sản. Chính vì thế mà giá nào
cũng phải hy sinh. Người lính Địa Phương Quân, Nghĩa Quân đã mang
sinh mạng và tuổi xuân ra gìn giữ nơi chôn nhau cắt rốn của chính
họ.
Du kích xã thù ghét và sợ hãi Nghĩa quân, vì cả hai
đều là dân địa phương, hiểu rõ tông chi họ hàng, đường đi nước
bước tại điạ phương. Đơn vị du kích chủ lực tỉnh luôn luôn bị Đại
Đội Thám Báo của Địa Phương Quân bám cứng, không xoay trở gì
được. Bên cạnh đó là hệ thống dân báo. Dân chúng phần lớn là thân
nhân của Địa Phương Quân, Nghĩa quân. Họ hợp tác mật thiết với
chính phủ vì sự an nguy của chính con em họ, nên Việt cộng (nhất
là quân chính qui) đi tới đâu, tình báo địa phương của ta bám sát
tới đó.
Chính vì thế mà Địa Phương Quân đã bám sát, đánh
tỉa, tiêu hao lực lượng Việt cộng hàng ngày, khiến có những đơn
vị lớn của Việt cộng ở cấp trung đoàn, trên thực tế đôi khi chỉ
còn sót lại vài chục tay súng; và nhiều đơn vị đã bị xóa tên vĩnh
viễn...
Trong một cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm, công lao
đóng góp của Địa Phương Quân (trước gọi là Bảo Chính Đoàn, rồi
Bảo An Đoàn), không phải nhỏ. Nhờ Địa Phương Quân giữ vững hậu
phương, các binh chủng tinh nhuệ khác mới yên tâm xông xáo trên
những chiến trường lớn và lập nên những công trận rỡ ràng. Hậu
phương có yên ổn, nguồn nhân lực quốc gia được bảo vệ mới có thể
tiếp tục bổ sung cho chiến trường hàng năm.
Nhân ngày Quân
Lực, tôi muốn mượn trang giấy này để nói lên lòng tri ân với họ,
những người lính Địa Phương Quân, Nghĩa quân, những chiến sĩ anh
hùng đã âm thầm chịu đựng, dũng cảm hy sinh để giữ đất. Tuy cuộc
chiến quân sự đã chấm dứt một cách ngang trái, nhưng cuộc chiến
chính trị vẫn tiếp diễn. Những người lính không còn một tấc sắt,
nhưng họ còn nguyên những tấc lòng. Cùng với ngọn lửa Thái Bình,
Xuân Lộc, và nay Nam Định, những người lính Địa Phương Quân ở
khắp mọi nơi trên ba miền đất nước và khắp mặt địa cầu, sẵn sàng
đứng lên góp sức, bằng cách này cách khác, chung sức với chiến
hữu ở mọi quân binh chủng, cùng đồng bào ở mọi giới, hoàn thành
sứ mạng của người lính và người dân trước hiện tình đất nước...
Nguyễn Hữu Nghĩa
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nghiêm nguyễn chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, June 18, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang