Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
lính
Ngày QL/19/6/2024 – LIX/59
Tác giả:
Phan Lạc Phúc
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu: Đại úy Nguyễn Hữu Luyện,
xuất thân Khóa 4 Trường BB Thủ Đức, bị bắt trong một chuyến nhảy
ra Bắc, bị tù CS 21 năm. Sau khi tới Mỹ, mặc dù đã ngoài 60, Ông
vào học đại học, đến gần 70 tuổi vẫn còn học cao học tại Trường
Đại Học Boston.
Trong khi theo học tại đây, Ông phát
hiện ra Trung tâm WJC thuê mướn các thợ viết CS nòi để nghiên cứu
và soạn tài liệu về người Việt tỵ nạn CS, việc này tương tự như
thuê người của Đức Quốc Xã viết về người Do Thái vậy. Sau đó Ông
đơn thương độc mã đứng ra kiện Trung tâm WJC. Đồng bào tỵ nạn cs
hưởng ứng nồng nhiệt, quyên góp hơn $100,000.00 cho quỹ pháp lý
của Ông.
Trong
những người bị tù csvn hơn 20 năm có các nhân vật nổi tiếng như
Nhà giáo Nguyễn Chí Thiện, Đại úy QLVNCH Nguyễn Hữu Cầu, nhưng
Người Tù Kiệt Xuất thì chỉ có một: Đại úy QLVNCH Nguyễn Hữu
Luyện.
Theo
tác giả, đây là người sau 20 năm bị bắt vẫn còn tuyên bố: “Tôi
Nguyễn Hữu Luyện, Đại úy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa... tôi chưa
thua các anh. Tôi mới thua một trận, chưa thua cuộc chiến này”.
– Bắt Nguyễn Hữu Luyện đi lao động, anh
nói: “Các anh có thể giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự của một sĩ
quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không cho phép tôi làm những công
việc mất nhân cách. Quy chế sĩ quan không cho phép tôi làm như
vậy”.
–PLP
Tôi đã nhiều lần định viết về những người tù kiệt xuất
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa: những anh em Biệt Kích Dù, những
người “từ trên trời rơi xuống,” nhưng tôi cứ lần lựa mãi. Lười
biếng thì chỉ có một phần. Lý do chính yếu là những người bạn tù
mà tôi bội phần cảm phục ấy đang ở trong một tình trạng hết sức
khó khăn. Chúng tôi đi cải tạo sau tháng 4 đen 1975, dù đớn đau,
khổ nhục đến đâu, vẫn có tên, có tuổi, hằng tháng, hằng quý vẫn
còn liên lạc được với gia đình. Anh em, bè bạn ở nước ngoài vẫn
còn có chút âm hao để mà theo dõi.
Những anh em Biệt Kích Dù thì đúng là
“thượng diệt, hạ tuyệt” – không có quân bạ, quân số, không có tên
có tuổi nào được đăng ký, không có chính phủ nào, quân đội nào
công nhận có những con người ấy ở dưới tay.
Không được liên lạc với ai, coi như
không còn hiện diện trên trái đất. Ở trên trời rơi xuống Bắc Việt
vào đầu thập niên 60 thời Đệ Nhất Cộng Hòa, những anh em Biệt
Kích Dù đã tham dự một cuộc chiến tranh tối mật (secret war).
Những người tình nguyện tham gia cuộc chiến này đã tự coi như
mình đã chết; nhảy xuống, tìm được địa bàn hoạt động, trà trộn
được, ẩn giấu được là sống, là thi hành xong nhiệm vụ, nếu bị lộ,
bị bắt, bị giết thì “Anh tự lo liệu cho cái thân anh, không có cơ
quan nào, tổ chức nào đứng ra can thiệp hay bảo trợ cho anh
được”.
Những
người tù “đứt dây rơi xuống này không được hưởng chút quyền lợi
nào từ quy chế tù binh (Genève); các cơ quan nhân đạo quốc tế như
Hội Hồng Thập Tự, Hội Ân Xá Quốc Tế cũng không biết làm sao để
can thiệp, vì các anh đâu có quân bạ, quân số, đâu có tên có tuổi
được đăng ký hợp pháp ở một chính phủ nào.”
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa (thời tổng
thống Ngô Đình Diệm), nghe nói Đại tá Lê Quang Tung, em là Thiếu
tá Lê Quang Triệu phụ trách công tác này. Ở đàng sau có cơ quan
tình báo hay phản gián nào của Mỹ yểm trợ hay không, điều này ai
cũng hiểu là phải có, nhưng cơ quan nào: CIA hay thuộc cơ quan
tình báo Ngũ Giác Đài, không ai dám đoan chắc, mà cũng không ai
dám biết. Nghe nói những người được tuyển chọn vào Biệt Kích Dù
tham gia vào cuộc chiến tranh tối mật, ngoài những người khả năng
đặc biệt về nghiệp vụ như tình báo, truyền tin, phá hoại, trà
trộn dưới đồng bằng, ẩn giấu trong rừng sâu, chiến đấu với đối
phương, với bệnh tật, với thiên nhiên, được trang bị thật kỹ từ A
đến Z về mưu sinh thoát hiểm, họ còn phải là những người tuyệt
đối tin tưởng vào quốc gia, vào lãnh tụ.
“Sống không rời nhiệm vụ, chết không bỏ
lập trường” đó là vũ khí chung của anh em Biệt Kích....
Như mọi người đã biết, cuộc chính biến
1 tháng 11 năm 1963 đã làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa, anh em
tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ sát; người rất thân tín, người ủng
hộ đến cùng anh em tổng thống Diệm là anh em Đại tá Lê Quang
Tung, Thiếu tá Lê Quang Triệu tất nhiên cũng bị triệt hạ theo.
Các anh em Biệt Kích Dù sau tháng 11 năm 1963, khi anh em tổng
thống Diệm chết đi, khi anh em người chỉ huy chiến dịch là Lê
Quang Tung–Lê Quang Triệu bị hạ sát, đã bị rơi vào tình trạng rắn
mất đầu. Sự tan vỡ như thế là không tránh khỏi. Không biết có một
sự kiện “vỡ kế hoạch” vô tình hay cố ý nào không, nhưng các anh
em Biệt Kích Dù ra Bắc lần lượt bị phát giác, bị truy bức, bị
giết và bị bắt.
Không ai biết rõ hay biết mà không ai
dám nói ra, đã có bao nhiêu Biệt Kích Dù ra Bắc, công trạng họ
lập nên được những gì? Bao nhiêu người sống, bao nhiêu người
chết? Chiến tranh tối mật nên những người thực hiện sống hay chết
đều nằm trong bóng tối. Đó là quy luật của cuộc chơi. Một cuộc
chơi quyết liệt và tàn nhẫn. Có nhiều người cho rằng trong bất cứ
cuộc chiến tranh nào, người có công nhất chưa chắc đã là viên
thống soái chỉ huy ba quân tướng sĩ, mà người có công nhất có thể
là người chiến sĩ vô danh chết chồng đống trong chiến hào, chết
âm thầm trong rừng sâu, chết lạnh lùng dưới biển cả. Thời gian
cũng như lòng người, đều vô tình như nhau. Nào ai còn nhớ trong
biết bao nhiêu người chiến sĩ Biệt Kích Dù ra Bắc đầu thập niên
60 năm ấy, ai còn, ai mất?
o0o
Năm 1980 khi lũ tù cải tạo chúng tôi
đến huyện Như Xuân, chốn rừng sâu Thanh Hóa, gần biên giới Lào,
chúng tôi thấy đây là một trại tù mới dựng giữa rừng sâu. Trước
đó, chắc trại Thanh Phong này chưa có trên bản đồ các trại tù
miền Bắc. Đây là một trại tù “ẩn giấu”. Lũ tù cải tạo chúng tôi
đến đây, thuộc loại được đánh giá là “ác ôn nợ máu” gồm thành
phần An ninh, Phòng nhì, Trung ương tình báo, Chiến tranh chính
trị, Bình định nông thôn... thành phần mà “Cách mạng” cho rằng có
liên hệ với CIA. Nhưng so với anh em tù nhân lưu cựu ở đây thì
chúng tôi chưa có kí lô nào hết. Chúng tôi ở phân trại mới K2;
phân trại chính và có mặt ở đây trước là K1, nơi giam giữ tù nhân
kêu bằng CIA, nhưng thực ra chính là anh em Biệt Kích Dù từ đầu
thập niên 60 đã nhảy dù ra Bắc.
Lũ chúng tôi mới tới được đưa ra tắm
suối. Chợt gặp hai người, lưng mang dao quắm, mỗi người khiêng
một bó nứa khá to. Hai người đặt bó nứa xuống và hỏi:
“Các bác vừa ở Tân Lập, Vĩnh Phú
xuống?”
Chúng
tôi gật đầu đồng ý.
Hai người liền lật đật đứng nghiêm, giơ
tay chào theo đúng lễ nghi quân cách và đồng thanh nói:
“Chúng em là Biệt Kích Dù đây”.
Chúng tôi vừa xúc động, vừa hoang mang
chưa biết nói năng gì thì một người vừa giơ ống tay áo lên lau
mắt vừa nghẹn ngào:
“Gần hai mươi năm nay chờ đợi các anh.
Không ngờ lại gặp các anh trong tình cảnh này, đau đớn quá”.
Anh em Biệt Kích Dù về miền thượng du
Thanh Hóa, gần biên giới Hạ Lào này trước chúng tôi chừng vài
năm, sau khi đã trải qua những năm tháng tù đày khốn khổ ở những
trại tù rùng rợn vùng biên giới phía Bắc: Trại Cổng Trời Hà
Giang, trại “Mục xương” Cao Bằng hay trại Sơn La “âm u núi khuất
trong sương mù”. Nếu quân “bành trướng Trung Hoa” không tấn công
6 tỉnh miền Bắc sát biên giới hồi đầu 1979, thì có lẽ anh em Biệt
Kích Dù vẫn còn quẩn quanh nơi rừng núi phía Bắc.
Ở đâu anh em cũng bị “cất giấu” chốn
rừng sâu, cách biệt hẳn với loài người. Một anh Biệt Kích nói với
tôi “Coi như ở đây, trại Thanh Phong này là tụi em được gần gũi
với ‘nhân dân’ nhiều nhất. Cũng vì thế nên mới được gặp các anh
hôm nay”.
Trong số các anh em Biệt Kích Dù ở trại Thanh Phong năm ấy (1980)
người tù lâu nhất là 20 năm, người ít nhất là 17 năm. “Nhất nhật
tại tù, thiên thu tại ngoại” chúng tôi đi cải tạo đã được 5 năm,
đã thấy cuộc đời tù dài dằng dặc, nhưng so với anh em Biệt Kích
Dù này thì thật là chưa thấm vào đâu. Anh em cải tạo tụi tôi vẫn
còn liên lạc được với gia đình, vẫn nhận thư, nhận quà, có anh
còn được người nhà từ trong Nam ra thăm nuôi nữa.
Mới đây một số anh em trẻ, cấp bậc nhỏ
đã lác đác được về. Như vậy là ở cuối đường hầm chúng tôi đã có
leo lét một vài tia sáng. Anh em Biệt Kích Dù thì từ 20 năm nay,
hoàn toàn nằm trong bóng đêm, sống cách biệt hẳn với loài người,
coi như những người “bị bỏ quên” trên hành tinh trái đất. Người
tù truyền thuyết trong cổ tích Trung Hoa là ông Tô Vũ cũng chỉ
chăn dê ở Hung Nô đâu có 17 năm. Xem ra thâm niên đi tù của ông
Tô Vũ cũng còn thua xa anh em Biệt Kích Dù. Từ 20 năm nay, tù
Biệt Kích chưa hề có ai được tha về. Không, cũng có một số anh em
được về – nhưng... đó là “về với đất”.
KHẨU LỆNH BIỆT KÍCH DÙ
Phân trại K2 của chúng tôi nằm cách K1
nơi giam giữ anh em Biệt Kích Dù chừng 4 cây số đường rừng. Ở
cách K2 chừng một giờ đi bộ còn có K3 – nơi giam tù hình sự dữ
nhất: cướp của, giết người. Từ huyện lỵ Như Xuân, vào đến K1
khoảng 15 cây số. Ngày xưa, hồi kháng chiến chống Pháp cuối thập
niên 40, đi vào khu 4, nghe nói đến địa danh Hồi Xuân, La Hán ở
trên rừng là đã rợn người. Nhưng mà đường đến Hồi Xuân–La Hán so
với đường vào trại Thanh Phong thì chưa đi đến đâu... Một người
bạn có vợ thăm nuôi vào được đến Thanh Phong, gặp chồng rồi là cứ
ôm chồng mà khóc. Người vợ đau khổ ấy không dám nói cho người
chồng xấu số biết chị vừa trải qua những khốn khổ nào.
Chỉ biết chị đi từ huyện Như Xuân vào
đây chưa đầy 20 cây số mà 2 ngày mới đến, phải ngủ giữa rừng. Cái
gì đã xảy ra cho người đàn bà miền Nam một nách trên 30 ký quà
cáp, không có xe phải đi bộ trên những con đường băng rừng lội
suối. Nếu đang đi mà trời mưa đổ xuống thì là tai họa. Suối đang
nông lội qua được, mưa xuống chẳng bao lâu là nó thành sông. Miền
Trung đất hẹp, rừng không giữ được nước, nên trời đổ mưa xuống là
nó theo sông theo suối cuốn trôi ngay ra biển. Suối liền trở
thành sông. Người ở đâu ở đó làm gì có phương tiện sang sông nước
đang lên cuồn cuộn. Nước lên rất mau mà xuống cũng mau. Người đàn
bà đi thăm nuôi chồng phải nghỉ qua đêm ở một cái chòi vắng ven
rừng. Đêm đến, những “con người thú” đã khai thác đến tận cùng
thân xác và của cải người đàn bà thân cô thế yếu giữa rừng sâu.
Sáng ra chị đã muốn cắn lưỡi tự tử, nhưng vì không muốn bỏ rơi
mấy đứa con nhỏ còn ở lại Sài Gòn, nên chị mới lê tấm thân nhơ
nhớp đến gặp chồng đang cải tạo. Quà cáp cũng bị cướp đi luôn.
Hai vợ chồng cứ ôm nhau mà khóc.
Câu chuyện đau khổ ấy, dù người chồng
câm nín không tiện nói ra nhưng dần dần anh em ai cũng biết. Nó
trở thành một nỗi âu lo âm ỉ trong đám tù cải tạo. Ai mà không
mong một ngày nào đó được thăm nuôi, được gặp vợ, gặp con. Nhưng
nếu vợ con mình, thân nhân của mình phải hứng chịu những tai vạ
đau thương nhường ấy để được thăm nuôi mình thì khốn nạn cho vợ
con mình quá. Nhưng lo thì lo vậy, biết tính làm sao. Thân mình
còn chưa chắc là của mình thì còn lo cho ai được nữa.
Trước sự kiện mất an ninh, cướp bóc,
hiếp đáp giữa đường như vậy trại cũng ra thông cáo là sẽ điều
tra, sẽ trừng trị nhưng chưa thấy biện pháp nào cụ thể. Anh em
Biệt Kích Dù thì ngược lại phản ứng tức thời. Đa số anh em Biệt
Kích Dù ở đây là “diện rộng” tỏa ra đi lao động trên rừng. Trại
Thanh Phong ngán ngại anh em Biệt Kích Dù nhưng trong thực tế,
trại “nể” anh em. Trại nể anh em Biệt Kích Dù vì tác phong của
họ, vì sự trên dưới một lòng của họ, nhưng lý do chính yếu nhất
là vì Biệt Kích Dù chính là cái “túi tiền” của ban Giám thị trại.
Trại tù ở trên rừng, đâu còn chấm mút được gì. Nhưng vì ở chốn
rừng sâu, không ai léo hánh đến đây, nên trại dễ làm mưa làm gió.
Tục ngữ có câu “Nhất phá Sơn lâm, nhì
đâm Hà bá”. Chỉ cần có nhân công biết nghề rừng, có kỹ thuật và
có sức. Điều này thì không ai sánh được với Biệt Kích Dù. Rừng ở
đây thuộc loại rừng đại ngàn nên gỗ quý thiếu gì, lại còn có quế.
Quế Thanh Hóa xưa nay vẫn có tiếng trong nền y dược Đông Phương.
Bây giờ không còn bao nhiêu nhưng một tổ anh em Biệt Kích Dù vẫn
được lên rừng tìm quế cho trại trưởng Thùy “mồi”, nhưng bên ngoài
gọi là đi lấu nứa. Anh em diện rộng Biệt Kích Dù có 3 đội đi rừng
lấy gỗ. Lấy về trại xây dựng thì ít mà lấy gỗ súc đem ra Thanh
Hóa bán chui thì nhiều.
Tôi được biết trại trưởng Thùy “mồi”,
phân trại trưởng K2 Vũ B. ai cũng được anh em Biệt Kích Dù lo sẵn
mỗi người một số danh mộc (như lim, như sến, cán bộ vừa vừa thì
có gỗ thao lao, bằng lăng) đủ làm một căn nhà bề thế ở quê nhà.
Anh em Biệt Kích Dù như vậy là một thứ tù “thượng thừa” của trại.
Tiếng nói của anh em rất được lắng nghe. Phần lớn anh em Biệt
Kích Dù là hạ sĩ quan, có một số là dân sự nữa. Chỉ có một sĩ
quan chỉ huy, Đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Chưa được gặp anh, nhưng
tất cả anh em Biệt Kích Dù nói đến người chỉ huy của họ với tất
cả lòng kính mến. Rất ít người được gặp vị Sĩ quan Biệt Kích Dù
này, vì anh không lao động, không đi ra ngoài. Tuy vậy, một mệnh
lệnh của vị chỉ huy Biệt Kích Dù đưa ra, dù là ở trong cảnh tù
đày, nhưng anh em Biệt Kích Dù vẫn tuân hành răm rắp.
Phản ứng trước sự mất an ninh con đường
từ huyện Như Xuân đến trại, anh em Biệt Kích Dù đề nghị mở một
“dịch vụ chuyên chở” từ huyện lỵ đến trại Thanh Phong. Lúc ấy
đang có phong trào “hạch toán kinh tế”. Anh em Biệt Kích Dù có kế
hoạch đóng 2 cái xe trâu, do trâu của trại kéo cùng với hai anh
em Biệt Kích Dù phụ trách. Hai xe, một ra một vào, giúp cho thân
nhân của anh em cải tạo viên có phương tiện đi lại, khỏi phải
gồng gánh đi chân như trước, trại cũng có một nguồn thu ổn định.
Hoặc có thể dùng xe trâu để chuyên chở nông lâm sản hay hàng tiêu
dùng cho trại và dân chúng. Đề nghị này được chấp thuận và sau đó
gia đình cải tạo viên tới thăm nuôi có xe trâu chở hàng, chở
người, tuy chậm nhưng mà chắc, không bị dân vùng đó hà hiếp, bắt
chẹt về giá cả gồng gánh – quà cáp và thân nhân tù cải tạo cũng
được bảo vệ an toàn.
Cùng một lúc với việc đóng xe trâu chở
hàng, chở người, anh em Biệt Kích Dù “diện rộng” đi “rỉ tai” khắp
các vùng thôn bản xa gần trong huyện Như Xuân “khẩu lệnh” của
Biệt Kích Dù. Khẩu lệnh như sau:
“Thân nhân cải tạo viên ở trại Thanh
Phong này là bà con ruột thịt của Biệt Kích Dù. Anh em Biệt Kích
Dù xưa nay không động đến ai, nhưng thằng nào con nào động đến
thân nhân anh em cải tạo, dù là về của cải, dù là về nhân thân,
là Biệt Kích Dù nhất định không để yên.” Luật của Biệt Kích Dù là
“mất một đền mười”. “Động đến thân nhân cải tạo viên, nhẹ là chặt
chân, chặt tay, nặng là giết mà giết cả nhà. Biệt Kích Dù không
có gì để mất, đã nói là làm”.
Từ đó về sau, thân nhân cải tạo viên
trại Thanh Phong đi thăm nuôi an toàn tuyệt đối...
GẶP NGƯỜI CHỈ HUY BIỆT KÍCH DÙ
Hai cái xe trâu, một ra một vào từ trại
Thanh Phong tới huyện Như Xuân do anh em Biệt Kích Dù phụ trách
không những giúp cho thân nhân cải tạo viên thăm nuôi đi lại an
toàn thuận tiện, mà còn là một đường dây giúp chúng tôi liên lạc
với “thế giới bên ngoài”? Muốn “bắn” một cái thư khẩn cấp về Sài
Gòn, muốn mua thuốc lào, thuốc lá, hay thuốc tây, báo chí... cứ
nhờ anh Biệt Kích Dù đánh xe trâu. Chiều nào, vào khoảng ba, bốn
giờ là xe trâu của anh Biệt Kích Dù cũng lịch kịch đi qua mấy lán
của đội mộc, đội rau, đội mía, đội nông nghiệp tụi tôi ven đường.
Biệt Kích Dù hầu như quen biết hết cán bộ coi tù. Anh em có
“mánh” để giao thiệp với họ. Bao giờ anh em cũng làm đầy đủ thủ
tục đầu tiên: đồng quà, tấm bánh, ít ra cũng là điếu thuốc có
cán, hay là tờ báo.
Cán bộ nào tới đây cũng nhờ vả anh em
Biệt Kích Dù không ít thì nhiều. Vài bó nứa sửa lại cái căn nhà,
cây tre làm cột, ít vòng mây buộc lại cái cổng, cái giàn hoa. Cán
bộ có chức có quyền thì như đã nói, anh em Biệt Kích Dù “đấm mõm”
hết: không một bộ khung nhà bằng danh mộc thì cũng gỗ súc hay
đóng bàn đóng ghế. Trên 250 anh em Biệt Kích Dù ở K1 làm đủ mọi
thứ nghề, cung cấp nhân lực và kỹ thuật cho hoạt động của toàn
phân trại K1. Diện rộng đi rừng lấy gỗ, lấy nứa, lấy mây – ở nhà
thì có các đội mộc, đội rèn, đội xây dựng, đội chăn nuôi... anh
em Biệt Kích Dù bao thầu hết. Tù thâm niên 20 năm có khác. Biết
rõ hết đường đi nước bước của cán bộ coi tù.
Trên nguyên tắc trại Thanh Phong K1 đặt
dưới quyền chỉ huy của trại trưởng, Trung tá Công an Thùy “mồi”,
nhưng trên thực tế anh em Biệt Kích Dù suốt 20 năm tù đày gian
khổ, vẫn tuân hành tuyệt đối mệnh lệnh của vị chỉ huy của họ, Đại
úy Nguyễn Hữu Luyện. Đây là một con người huyền thoại. Chúng tôi
nghe đến tên anh từ lâu nhưng chưa bao giờ được gặp, vì anh không
đi lao động ở ngoài. Anh em Biệt Kích Dù đều tỏ ra rất nghiêm
trang, rất kính cẩn mỗi khi nhắc đến “ông thầy” của họ. Truyện về
Đại úy Biệt Kích Dù này khá nhiều, đầy vẻ hoang đường, truyền
thuyết. Đây là người sau 20 năm bị bắt vẫn còn tuyên bố:
“Tôi Nguyễn Hữu Luyện, Đại úy Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa... tôi chưa thua các anh. Tôi mới thua một
trận, chưa thua cuộc chiến này”.
– Bắt Nguyễn Hữu Luyện đi lao động, anh
nói: “Các anh có thể giam tôi, bắn tôi, nhưng danh dự của một sĩ
quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không cho phép tôi làm những công
việc mất nhân cách. Quy chế sĩ quan không cho phép tôi làm như
vậy”.
Anh đã
bị kiên giam nhiều năm tại rất nhiều trại rùng rợn, dã man nổi
tiếng, nhưng Nguyễn Hữu Luyện trước sau vẫn là Nguyễn Hữu Luyện,
không thay đổi, không khiếp sợ, không khuất phục. Việc Nguyễn Hữu
Luyện, không đi lao động như mọi tù nhân khác từ gần 20 năm nay
đã trở thành một nề nếp đặc biệt, các trại tù ngoài Bắc dù muốn
dù không đều phải chấp nhận.
Người ta chưa lường được hết quyền năng
của Nguyễn Hữu Luyện đối với anh em Biệt Kích Dù như thế nào. Khi
cần Nguyễn Hữu Luyện ra lệnh là tất cả anh em Biệt Kích Dù nghỉ
hết. Như bữa ở trại Thanh Phong có một anh em Biệt Kích Dù ho
“tổn” nhiều năm không có thuốc nên anh “về nước Chúa”. Phần lớn
các anh em Biệt Kích Dù đều là người Thiên Chúa Giáo nhiệt thành,
kể cả Nguyễn Hữu Luyện. Nói chuyện với anh em Biệt Kích Dù họ đều
nói “anh em lãnh tụ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu chúng tôi chưa có
chết. Còn ẩn lánh đâu đó... Lãnh tụ chúng tôi ngày nào đó sẽ trở
về...”. Nghe anh em Biệt Kích Dù ho tổn nằm xuống, các đội Biệt
Kích Dù khi có lệnh xuất trại đều ngồi yên không đi làm.
Họ nói “được lệnh của Đại úy Nguyễn Hữu
Luyện, anh em Biệt Kích Dù ở nhà để lo hậu sự cho người anh em
vừa mới mất”.
Cán bộ trực trại đến hỏi Nguyễn Hữu Luyện tại sao ngăn trở việc
điều hành của trại. Nguyễn Hữu Luyện trả lời:
“Các anh tôn trọng đồng chí của các anh
thì chúng tôi cũng yêu thương đồng đội của chúng tôi. Nghĩa tử là
nghĩa tận, anh em chúng tôi phải ở nhà để một lần cuối cùng vĩnh
biệt người nằm xuống”.
Sau điều đình mãi, chỉ có đội Biệt Kích
Dù lo về cơm nước cho phân trại và bộ phận chạy máy điện là đi
làm, kỳ dư anh em Biệt Kích Dù khác đều nghỉ hết.
Gặp gỡ anh em Biệt Kích Dù, nghe chuyện
kể về Đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện tôi vừa tự hào vừa
buồn bã. Tự hào vì đồng đội đã có những người kiệt xuất như vậy,
buồn bã vì nhìn lại bản thân, nhìn anh em xung quanh mình thấy
khá nhiều người bất xứng. Những năm tháng trong trại tù giữa rừng
núi Thanh Phong, anh em Biệt Kích Dù đối với chúng tôi, vừa là
một đường dây yểm trợ vật chất, mà cao trọng hơn, còn là một nơi
nương tựa tinh thần.
o0o
Tết năm 1982. Một số lớn anh em trong
trại K2 đã chuyển về Nam. Đội văn nghệ nghiệp dư của tụi tôi
thiếu rất nhiều “nhân tài” nhưng vẫn phải trình diễn cho anh em
vui Tết. Thiếu người, thiếu tiết mục, chúng tôi nhập luôn đội múa
lân vào đội văn nghệ cho xôm tụ. Không ngờ đội văn nghệ “què” như
vậy, Tết lại phải đi “lưu diễn” trên K1 và K3. Mùng 2 chúng tôi
lên K1 – đường dài 4 cây số chúng tôi đi gần hai tiếng đồng hồ,
khoảng gần 9 giờ mới tới. Một đại diện anh em Biệt Kích Dù nói
rằng: “Chẳng mấy khi được đón tiếp các anh bữa nay, anh em K1
chúng tôi xin hạ một con heo để đón mừng anh em văn nghệ”. Tôi
được biết sau này sự hậu đãi ấy là do ý kiến của Đại úy Nguyễn
Hữu Luyện đề xuất. Chưa bao giờ đội văn nghệ tù chúng tôi được
tiếp đón long trọng và săn sóc chu đáo như vậy. Theo chương
trình, đội văn nghệ trình diễn buổi trưa, diễn xong ăn uống rồi
về.
Đang trông
nom cho anh em dựng sân khấu ở hội trường, chợt có một anh em
Biệt Kích Dù đến bên tôi khẽ nói: “Anh Luyện em mời anh vô trong
lán uống trà”. Đi lên đây K1, ước mong thầm kín của tôi là được
gặp người Sĩ quan Biệt Kích Dù truyền thuyết ấy. Xem con người
thật và con người “huyền thoại” giống nhau, khác nhau ra sao. Tôi
vội vàng theo người anh em Biệt Kích Dù đi vào trong lán. K1 cũng
như K2, K3 lán tù thường tối và thấp. Đi qua hai ba căn nhà dài
hôi hám, mờ mịt tôi tới một căn buồng đầu lán. Vừa bước chân vô
chưa kịp định thần, tôi đã thấy một con người cao lớn, mắt sáng
trán cao đứng phắt dậy, chụm chân theo động tác quân sự, giơ tay
chào đúng lễ nghi quân cách, miệng nói:
“Mes respects, mon colonel!”.
Tôi thảng thốt không biết phản ứng ra
sao. Đi tù 5, 6 năm nay, mình là giai cấp đang bị triệt tiêu, là
tù nhân đứng hàng thứ bét của nấc thang xã hội, tại sao lại có
người chào mình trân trọng như vậy.
“Mes respects, mon colonel” đây là lễ
nghi theo kiểu Pháp. Bao nhiêu năm nay, có nghe thấy, nhìn thấy
kiểu chào này đâu. Mình bây giờ, là tù khổ sai biệt xứ, đâu còn
gì mà “kính chào trung tá”.
Tôi vội vàng tiến tới nắm lấy tay người
đang đứng cứng người chào tôi theo đúng lễ nghi quân cách mà hỏi:
“Thưa anh, anh là Nguyễn Hữu Luyện?”
Người ấy, vẫn đứng nghiêm, chỉ đưa tay
xuống rồi nói tiếp:
“Vâng thưa anh, tôi là Luyện”.
“Anh Luyện ơi, anh làm vậy tôi khó xử
quá, thời buổi này, anh em mình gặp nhau là quý”.
Lúc ấy, Nguyễn Hữu Luyện mới rời bỏ tư
thế đứng nghiêm, khẽ nói:
“Thưa anh, anh vẫn cứ phải cho phép tôi
làm như vậy. Dù sao chăng nữa, anh vẫn là đàn anh của tôi”.
Nguyễn Hữu Luyện học khóa 4 phụ Thủ
Đức. Tôi học khóa 2 có ra trường trước anh vài khóa thật, nhưng
20 năm qua, nếu anh còn ở lại miền Nam, với khả năng ấy, thiện
chí ấy, không biết anh đã lên tới cấp nào, đâu có lẹt đẹt như
tôi. Khóa 5 Thủ Đức đã có người lên tướng. Nhưng đối với người
như Nguyễn Hữu Luyện, theo tôi cấp bực là thứ yếu, nhân cách mới
là chính yếu. Ở trong quân đội miền Nam, về nhân cách, ai xứng
đáng là đàn anh của Đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện bây giờ?
Sau một tuần trà, Nguyễn Hữu Luyện chậm
rãi nói nhỏ với tôi:
“Có một ‘thằng em’ vừa nhận được một
cái tin rất lạ, rất mới. May là lại được gặp anh hôm nay ở đây.
Được biết anh vốn là một nhà báo. Xin anh cho ý kiến về tin vừa
mới nhận này”.
Nói xong Nguyễn Hữu Luyện ra dấu cho
một anh em nào đó đứng gần bên “Gọi Th. lên đây”.
Trước khi Th. tới, anh Luyện có cho tôi
hay Th. là một Biệt Kích Dù cấp bậc thượng sĩ chuyên lo về truyền
tin. Th. là một chuyên viên về địa hạt này. Hai chục năm bị bắt
nhưng Th. vẫn sử dụng được tay nghề. Ở ngoài Bắc lúc ấy, tiêu
chuẩn của một người “phấn đấu tiến bộ” là đạt 3 Đ: xe đạp, đồng
hồ và Đài (radio).
Trong hàng ngũ cán bộ thì công an vốn
là một nơi an toàn mà “kiếm được”. Chỉ có hàng ngũ bộ đội là phải
đi chiến trường chết banh thây mất xác hoặc phải đóng quân ở
những nơi đầu sóng ngọn gió nghèo mạt rệp mà thôi. Cán bộ Công an
tương đối có nhiều người đạt tiêu chuẩn 3 Đ. Nhưng đài ngoài Bắc
phần lớn thuộc loại xưa, khó xài, dễ hỏng. Vì vậy nên chuyên viên
truyền tin Th. luôn luôn có việc làm. Một lát sau, anh Th. lên
gặp chúng tôi. Anh nói rằng:
“Em sửa đài cho cán bộ quanh năm không
lúc nào hết việc. Nhưng không bao giờ em sửa đài xong xuôi, rốt
ráo. Lúc nào em cũng phải lấy cớ này, cớ kia để giữ lại bên mình
một cái đài ‘chạy được’”.
Em giữ lại để đeo “ê–cút–tưa” vào nghe
tin tức một mình. Thưa anh, tối hôm qua, mùng 1 Tết, chính tai em
nghe có một ông Tướng Mỹ mà em không nhớ được tên đang ở Việt
Nam, nói chuyện với các nhà lãnh đạo Hà Nội về vấn đề cựu chiến
binh Mỹ mất tích, về tù nhân chính trị... Lần đầu tiên chính tai
em nghe là những Biệt Kích nhảy dù ra Bắc đầu thập niên 60 cũng
được xét đến trong dịp gặp gỡ này. Thưa anh, vài chục năm nay
nghe đài, đây là lần đầu em nghe đài nhắc đến số phận tụi em.
Chúng em là những người bị bỏ quên, coi như đã chết rồi. Không số
quân, không tên tuổi, không nơi nào nhận. Chúng em là những người
“đứt dây rơi xuống luôn luôn sống ở một xó rừng góc núi ‘trên
không chằng, dưới không rễ’, không còn liên hệ gì với xã hội loài
người. Bây giờ em nghe tin ông Tướng Mỹ sang Hà Nội nói đến số
phận tụi em, em nghe xong mà tự nhiên nước mắt chảy ròng ròng...
không biết là mơ hay thật đây”.
Tôi vội cầm lấy tay người Thượng sĩ
Biệt Kích Dù mà nói:
“Đúng đấy bạn ơi, thời gian này ông
Tướng Vessey, đặc sứ (special envoy) của Tổng thống Mỹ Reagan
đang viếng thăm Hà Nội. Các báo Việt Nam đều nhắc đến sự kiện
này. Tin mà bạn vừa nghe được rất đáng tin cậy”.
Nguyễn Hữu Luyện vội chen vào:
“Làm sao mình tin được đài Hà Nội”.
Tôi nói tiếp:
“Đây là một sự kiện có tính cách quốc
tế, truyền thông thế giới đều theo dõi sự viếng thăm của Tướng
Vessey, nên đài Hà Nội dù muốn giấu cũng khó lòng. Vả chăng tin
tức của khối Xã Hội Chủ Nghĩa xưa nay chỉ loan những tin nào có
lợi cho họ.”
Tin bất lợi, họ quên đi ngay. Việc Tướng Vessey đến Việt Nam, ở
bên trong chắc đã có một thỏa thuận nào có lợi cho Hà Nội không
mặt này thì mặt kia. Mình chưa biết được sự thỏa thuận ấy đến
đâu, chi tiết ra sao, nhưng việc loan tin sự hiện diện của Đặc sứ
Vessey đến Hà Nội, nhìn chung là một chỉ dấu thuận lợi cho lũ tù
nhân chúng ta, đặc biệt là đối với các anh, những người mà trên
20 năm nay họ cố ý hay vô tình quên lãng.
Nguyễn Hữu Luyện trầm ngâm:
“Như bản thân tôi và anh em chúng tôi ở
đây đã từng rút kinh nghiệm không nên tin tưởng nhiều quá vào
người Mỹ”.
–
“Đồng ý trên nguyên tắc, nhưng trong số những người Mỹ còn nhớ
đến đồng minh cũ, còn lưu ý đến số phận khốn khổ của chúng ta thì
ông Reagan này là số 1. Nếu năm ngoái cái tên Mỹ khùng nào nó bắn
ông ấy chết thì chúng ta còn vất vả hơn nhiều. Bây giờ đặc sứ của
ông Reagan, Tướng Vessey sang đây có đích thân nhắc đến Biệt Kích
Dù thì tôi nghĩ sớm muộn trường hợp các anh sẽ được giải quyết.
Các bạn có thể được về...”.
Một nụ cười mơ hồ trên khuôn mặt Nguyễn
Hữu Luyện. Anh như nói một mình “Được về, được về, mà về đâu....”
Lời bình Mao Tôn Cương của tôi hồi đầu
năm khi lưu diễn ở K1 không ngờ được chứng nghiệm. Đến giữa năm
1982, có hai lượt thả Biệt Kích Dù, mỗi lượt trên dưới 100 người.
Chuyện không ai ngờ mà tới. Ông Tướng Vessey đặc sứ của Tổng
thống Mỹ Reagan đã giở lại chồng hồ sơ mật đầu thập niên 60, can
thiệp với Hà Nội để cho những Biệt Kích Dù bị giam trên dưới 20
năm ở nơi thâm sơn cùng cốc được trở về hội nhập với loài người.
Cùng thời gian đó chương trình “nước
sông công tù” đem cải tạo viên đến khai hoang những vùng rừng núi
âm u (như trại Thanh Phong huyện Như Xuân giáp với Hạ Lào này)
trở thành nông trường, lâm trường, rồi đem gia đình cải tạo viên
lên chỉ định cư trú ở những chốn rừng sâu nước độc, cũng được dẹp
bỏ luôn. Phần lớn anh em tù chính trị được chuyển về Nam hay đổi
đi trại khác. Đến cuối năm 1982, trại Thanh Phong K2 chỉ còn lại
trên 50 tù chính trị. Còn lại toàn là tù “đui, què, mẻ sứt” già
yếu, bịnh tật... hay là thuộc loại “không tiện cho về Nam”. Tôi
thuộc số trên 50 người còn lại này. Ngày 14 tháng 11 năm 1982
trên nguyên tắc phân trại tù chính trị K2 giải thể. Những người
tù còn lại đi ra K1. Ở đây tù chính trị sẽ cùng anh em Biệt Kích
Dù còn lại lên xe đi đến một trại khác ở Nghệ Tĩnh: Trại Tân Kỳ.
VỀ TRẠI TÂN KỲ
Trại Tân Kỳ này là một trại “trung
chuyển”. Bao nhiêu tù chính trị ra Bắc còn lại hồi 1976–1977
trước khi về Nam về tập trung ở trại này và có một số khác ở trại
Ba Sao, Hà Nam Ninh. Trại Tân Kỳ này chứa đựng đủ loại tù: tù
chính trị, tù CIA, tù Biệt Kích, tù Fulro, tù hình sự thứ dữ.
Trại này có 2 khu, khu Tây và khu Đông. Chúng tôi gọi là “Tây
Đức” và “Đông Đức” vì khu Tây tương đối dễ thở hơn khu Đông. Ở
đây tôi gặp được nhiều loại người: ông Võ Tr. lãnh tụ VNQĐD ở
miền Trung, Quảng Ngãi, linh mục duy nhất Trần Hữu L., những ông
tướng Fulro, mấy ông thủ tướng, bộ trưởng “chính phủ trong bóng
tối” và đặc biệt tôi được ở cùng lán với người thủ lãnh Biệt Kích
Dù. Chính trong thời gian này, vì chung đụng, gần gũi nên tôi mới
được hiểu thêm về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện.
Anh em Biệt Kích Dù về trại Tân Kỳ
(Nghệ Tĩnh) chỉ còn độ trên 50 người. Vì có tay nghề riêng nên
các anh em Biệt Kích Dù được biên chế về các đội chuyên môn như
đội mộc, đội rèn, đội chăn nuôi... Riêng thủ lãnh Biệt Kích Dù
Nguyễn Hữu Luyện lại chuyển đến một đội khác, đội rau. Tôi xưa
nay đi tù cũng có chút “chuyên môn” nên ở đây, trại mới, tôi cũng
được sử dụng đúng theo “tay nghề”: chuyên trị về phân và nước
tiểu. Ở các trại, đội rau nào cũng cần đến loại phân bón này. Tôi
nghiệm ra ở các trại cũ như Yên Hạ (Sơn La), Tân Lập (Vĩnh Phú),
Thanh Phong (Thanh Hóa) và bây giờ ở đây Tân Kỳ, đồng nghiệp phân
tro của tôi thường được tuyển lựa trong mấy ngành Quân huấn, Quân
pháp hay Chiến tranh chính trị.
Đồng nghiệp cũ của tôi là thượng tọa
nguyên giám đốc Nha Tuyên úy Phật giáo, là mục sư Tin Lành, là
thẩm phán Tòa án Quân sự, là giáo sư Trường Võ Bị Quốc Gia, v.v.
Ở đây thì đại loại cũng như vậy, ở khu Tây Đức này có 4 lán, có 4
người lo về nhà cầu thì 1 là biện lý, 1 là đại đức, 1 là ông thầy
dạy Anh văn trường Chiến tranh Chính trị và tôi. Sự tuyển dụng
“trước sau như một” này là chấp hành đúng tinh thần “Mao–ít”:
“Chữ nghĩa không bằng cục phân”. Tôi lại nhớ đến thái độ của Đại
úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện khi anh nhất định không đi lao
động. Ở đây cũng như ở các trại khác từ trên 20 năm qua, và đã
trở thành biệt lệ, Nguyễn Hữu Luyện được biên chế về đội rau
nhưng anh nhất quyết không đi làm.
Toán “nhà cầu” tụi tôi khoảng 10 giờ
sáng là công việc tạm xong. Phân, nước tiểu đã dọn sạch, chuyển
cho đội rau. Nhà cầu đã quét tước, rắc vôi. Lúc bấy giờ là lo đi
tắm vì dù đã đeo khẩu trang, bịt mũi bịt mồm, nhưng tự thấy thân
thể mình hôi hám quá. Mùa nực được đi tắm là một cái sướng, nhưng
mùa rét mà phải đi tắm trong khi bụng đói cồn cào lại là một cực
hình. Nước suối lạnh cắt da, mấy tên tù mặt mũi xám xịt, thân thể
gầy còm, co ro run rẩy, ngần ngại đứng bên bờ suối.
Nguyễn Hữu Luyện không lao động, người
luôn luôn sạch sẽ, nhưng ngày nào dù rét đến đâu Luyện cũng cùng
chúng tôi đi tắm. Người lội xuống suối đầu tiên là Luyện. Anh
nói: “cứ ào một cái là xong”. Cái lạnh ở miền Trung này đối với
Nguyễn Hữu Luyện xem ra không có nghĩa lý gì. Anh bao nhiêu năm
nằm trong hốc đá ở trại cổng trời Hà Giang. Bao nhiêu năm cùm
kiên giam trong trại mục xương Cao Bằng. Ở miền cực bắc nước ta,
cái lạnh còn ác liệt hơn nhiều. Người tù Biệt Kích trên 20 năm,
đi qua mọi gian lao thử thách bằng một câu nói vô cùng giản dị:
“Cứ ào một cái là xong”.
Ở gần bên, trong cùng một lán, tôi thấy
Nguyễn Hữu Luyện sống như một thiền sư. Trong tù có một vấn đề
hết sức quan trọng là ăn. Ai cũng đói mờ người. Bữa ăn và cái ăn
là giấc mơ lớn nhất của tù. Nhưng đối với Nguyễn Hữu Luyện hình
như anh coi rất nhẹ vấn đề ăn. Anh được phát đồ ăn thế nào, ăn
thế ấy, mà ăn rất lẹ, rất nhanh, không biết anh ăn lúc nào. Không
thấy anh phàn nàn bao giờ về vấn đề đói. Hình như anh ở tù lâu
quá, đói trở thành thường trực nên anh đã quen đi. Một vài anh em
được thăm nuôi, hoặc nhận quà, có lòng quý mến anh, biếu anh cục
đường, nắm xôi, tấm bánh hay mời ăn một bữu cơm, nhưng trước sau
không thấy anh nhận của ai một tặng vật nào.
Tôi, một bữa nhận quà có đưa đến anh
một chiếc bánh chưng nho nhỏ. Anh nhất định chối từ. Tôi mới nói:
“Chỗ anh em sao anh kỹ quá”.
Nguyễn Hữu Luyện cười cười, nắm tay tôi
mà nói nhỏ:
“Bao nhiêu năm tôi tập cho cái bao tử nó đòi hỏi thật ít. Bây giờ
anh em cho tặng vật, ăn vào nó quen dạ đi thì lại khổ đấy anh ạ”.
Nhưng có một thứ mà ai cho anh cũng
nhận. Nhận một cách hân hoan. Đó là xà bông. Không hiểu sao,
Nguyễn Hữu Luyện có một nhu cầu về tắm rửa, về sạch sẽ một cách
lạ lùng. Xà bông đối với anh thật là cần thiết. Như đã nói ở
trên, chúng tôi dân “nhà cầu” làm việc xong, mình mẩy hôi hám nên
cực chẳng đã mùa rét mà phải đi tắm. Nguyễn Hữu Luyện không đi
lao động mà trưa nào cũng ra suối với chúng tôi.
Nguyễn Hữu Luyện người rất cao, ít ra
là 1.75m. Quần áo trại phát anh mặc vào ngắn cũn cỡn. Người đã
cao anh lại còn đi đôi guốc mộc do anh đẽo lấy nên trông lại càng
lênh khênh. Đi tù anh nào anh nấy chân nứt nẻ, bè ra như tổ tiên
giao chỉ, riêng Nguyễn Hữu Luyện chân trắng bóc, gót đỏ hồng.
Trông gót chân của người Biệt Kích Dù đi tù trên 20 năm tôi bỗng
nhiên nhớ đến 2 câu thơ của Vũ Hoàng Chương thuở nào:
Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.
Trong món đồ hàng ngày đi tắm của
Nguyễn Hữu Luyện có một vật rất lạ, rất ít có ở đây. Tù đi tắm
thì cứ thế cởi truồng ra, vục tay xuống suối mà kỳ cọ, tắm rửa.
Hoặc buổi sáng có ra giếng rửa mặt thì cũng chỉ mang cái thùng
kéo nước với bàn chải đánh răng là cùng. Nguyễn Hữu Luyện đi tắm
khác với người ta, mang theo một cái chậu men xanh thật đẹp. Màu
men óng ả chói ngời... tương phản rõ rệt với màu cố hữu của trại
tù là màu xám xịt. Tôi mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện:
“Ở đâu mà có cái chậu men xinh đẹp
vậy?”
Nguyễn
Hữu Luyện trả lời:
“Tôi cũng không ngờ là tôi lại nhận cái
chậu này. Của tên trại trưởng trại ‘mục xương’ ở Cao Bằng tặng
cho tôi đấy”.
“Cao Bằng giáp với biên giới Trung Hoa nên vẫn có hàng lậu đi từ
Trung cộng sang. Cái chậu này là đồ làm từ Quảng Châu có nhãn
hiệu chỉ rõ. Dạo cuối thập niên 70, tên trại trưởng Thiếu tá công
an nó hành tôi ghê lắm. Nhất định nó bắt tôi đi lao động. Tôi thì
nhất định không đi. Nó liền cùm chân. Cùm chán rồi đem xuống hầm
tối. Rồi bắt nhịn ăn. Mùa lạnh nó còn đổ nước xuống hầm nữa. Tôi
người Công giáo nên tôi cầu Đức Mẹ Maria, trong cơn thập tử nhất
sinh, tôi cũng cầu luôn Phật Bà Quan Âm nữa. Nó hành tôi mãi năm
này sang năm khác mà cuối cùng tôi vẫn còn sống. Nhưng mà chết
thì thôi, tôi nhất định không đi lao động. Không chịu thua chúng
nó”.
– “Như
vậy thì tên trại trưởng này nó hận anh ghê lắm, tại sao nó lại
tặng anh cái chậu này?”
– “Tôi cũng không biết nữa, hắn hành
tôi luôn mấy năm, nhưng cuối cùng hắn thả tôi ra khỏi hầm kiên
giam. Một bữa hắn cho gọi tôi lên. Hắn nói:
‘Tôi sắp đổi đi trại khác, có phải anh
ưa tắm rửa lắm phải không? Tôi tặng anh cái chậu Trung Quốc này’.
Tôi từ chối nhưng hắn ta cứ để cái chậu
lại, rồi bắt tay từ biệt. Chẳng đặng đừng, tôi phải giữ cái chậu
men xanh này, mà tôi cũng không hiểu tại sao hắn lại làm như
thế”.
TẤM HÌNH
NHẬN ĐÊM CUỐI NĂM
Ở cùng lán tôi thấy Nguyễn Hữu Luyện là
một người ít nói, ít giao thiệp. Không đi làm, cả ngày tôi thường
thấy anh ngồi quay mặt vào tường, kiểu thiền sư diện bích. Nhưng
không phải anh ngồi thiền mà anh đọc sách. Một cuốn sách dày để
trước mặt. Anh người Công giáo, tôi tưởng anh ngày ngày đọc thánh
kinh. Nhưng một hôm tôi biết là không phải. Một buổi chiều anh
mời anh bạn giáo sư Anh văn lại chỗ anh. Anh hỏi về văn phạm, về
cách đọc một vài chữ khó. Thì ra cuốn sách dày anh luôn để trước
mặt là một cuốn tự điển Anh–Việt. Bạn tôi hàng ngày ngồi học
thuộc từng trang tự điển. Tôi mới hỏi:
“Ông học Anh văn kiểu ấy thì bao giờ
cho xong?”
Luyện trả lời:
“Được chữ nào hay chữ nấy mà cũng để
cho nó quên ngày quên tháng đi ông ơi”.
Nhưng học Anh văn, theo tôi nghĩ rất
khó mà tự học. Còn văn phạm còn cú pháp, còn cách đọc, cách
nhấn... làm sao cho người ta hiểu. Ông bạn giáo sư Anh văn và tôi
cùng dân “nhà cầu” nên ở gần nhau. Thỉnh thoảng buổi chiều, buổi
tối Nguyễn Hữu Luyện lại tới rù rì bàn chuyện tiếng Anh. Ở trong
trại cải tạo, tiếng nước ngoài, đặc biệt là tiếng Pháp, tiếng Anh
nguyên tắc là cấm chỉ. Nhưng dạo này ở Sài Gòn có phát hành tuần
san Nga Sô ấn bản tiếng Anh gọi là New Time. Vì nhu cầu đọc báo
cũng như nhu cầu tìm học tiếng Anh, nên tờ New Time anh em nhận
được từ gia đình gởi tới khá nhiều. Thấy sách báo của đàn anh Nga
Sô vĩ đại là cán bộ trực trại gật đầu cho nhận. Anh em đọc
Ne.???`
o0o
Chúng tôi về trại mới Tân Kỳ đã được
gần 3 tháng. Anh em Biệt Kích Dù được tha về từ trại cũ Thanh
Phong có lẽ cũng đã được trên dưới nửa năm. Đã gần tới Tết, sắp
sang năm mới 1983. Anh em nhận được quà nhà gởi “đông” hơn dạo
trước. Trại này ở gần ngay huyện lỵ Tân Kỳ nên thư từ, quà cáp
tới mau hơn Thanh Phong nhiều. Tôi nhận thấy hằng ngày vào khoảng
buổi chiều sắp sửa đóng cửa lán, thế nào cũng có một vài anh em
Biệt Kích Dù đến nói điều gì đó với Nguyễn Hữu Luyện, như là “báo
cáo” hằng ngày của anh em với chỉ huy trưởng. Vừa có một sự kiện
đặc biệt xảy ra với anh em Biệt Kích Dù. Trên 20 năm nay, anh em
Biệt Kích Dù không bao giờ nhận được thư, được quà... Anh em là
những người bị bỏ quên trong xã hội loài người.
Nhưng gần đến Tết năm 1983, có trên 10
gói quà gửi đến cho một số anh em Biệt Kích Dù. Những anh em được
về từ nửa năm trước đã họp nhau gửi quà cho những người còn ở
lại. Trong một buổi tối lên ngồi nói chuyện với tụi tôi, Luyện
kể:
“Một số
lớn anh em được về nhưng không còn liên lạc được với gia đình
nữa. 20 năm qua gia đình xiêu tán không còn nhận được âm hao. Có
anh thì vợ đã lấy chồng khác, đã an phận với một cuộc đời mới từ
mười mấy năm qua. Ván đã đóng thuyền, người trở về không muốn gây
phiền muộn cho cố nhân làm gì nữa. Những anh em tìm lại được thân
nhân, gia đình phải nói là rất hiếm.
Vì vậy nên một số lớn anh em Biệt Kích
Dù sau khi đi tù 20 năm biệt xứ trở về đành tụ họp cùng nhau, tùy
nghề nghiệp, tùy hoàn cảnh mà quây quần bên nhau xây dựng một
cuộc đời mới, trong một xã hội mới đầy khó khăn, thù hận. Cuộc
sống mới của anh em hẳn là vất vả, gian nan, nhưng những món quà
của anh em ở ngoài gửi vào cho anh em ở lại đều là những đồ gia
dụng cả: gạo nếp, gạo tẻ, mì, trứng muối, thịt ướp, cá khô, cá
hộp, v.v. Những thứ cần thiết cho một ngày Tết cổ truyền. Anh em
được về như vậy đã không quên những người ở lại.”
Tôi có nghe buổi chiều Luyện dặn một
anh em Biệt Kích Dù “sẽ họp lại ăn chung”. Một số anh em nhận
được quà, được thư, nhưng bản thân Nguyễn Hữu Luyện thì không.
Anh là người ít nói, không thích tỏ bày nên tôi cũng không tiện
hỏi. Không biết gia đình của anh bây giờ ra sao? Có thể bản tính
anh kín đáo, hoặc là nghề nghiệp Biệt Kích, được huấn luyện về
bảo mật quá kỹ nên anh không muốn nói về mình; hay là những năm
tù kiên giam trong hầm đá đã làm cho anh quen đi với bóng tối và
im lặng. Tôi không biết nữa. Tôi chợt nhớ đến chi tiết khi tôi
gặp anh lần đầu ở trại Thanh Phong, sau khi nghe tin đặc sứ của
Tổng thống Mỹ Reagan, Tướng Vessey can thiệp thì các anh em Biệt
Kích Dù có thể được về, Nguyễn Hữu Luyện đã âm thầm khẽ nói “được
về, được về... mà về đâu?”
Bây giờ tôi mới hiểu hơn hai chữ “về
đâu” của Nguyễn Hữu Luyện. Không biết anh có còn gia đình, có còn
người thân chờ đợi? Trên 20 năm biệt xứ, không thư từ, không liên
lạc, không tin tức... đâu phải người đàn bà nào cũng bền gan hóa
đá vọng phu? Cái dấu hỏi sau 2 chữ “về đâu” của Nguyễn Hữu Luyện
là hoàn toàn hữu lý. Gần Tết năm nay, khi một số khá đông anh em
Biệt Kích Dù đã có tin tức... tôi băn khoăn, hồi hộp lo lắng cho
tình trạng của anh mà không dám nói ra. Đây là một vấn đề riêng
tư rất tế nhị, có khi thiêng liêng nữa, không nên vội vàng đề cập
tới.
Một buổi
tối Nguyễn Hữu Luyện đến với tụi tôi, dáng điệu hấp tấp hơn
thường lệ, trên tay không cầm tờ New Time như mọi khi mà thay vào
đó là một bao thư. Chuyến quà buổi trưa vừa tới có thêm một số
gói cho anh em Biệt Kích Dù, và trong gói quà mới có bao thư này.
Gói quà gởi cho một anh em Biệt Kích Dù khác, nhưng có một số
hình ảnh nhờ anh Biệt Kích Dù này gửi cho Nguyễn Hữu Luyện, anh
vừa nhận được buổi chiều. Anh ngồi quay lại, đưa hình cho chúng
tôi coi. Hình ảnh một đám cưới. Cô dâu, chú rể đang đứng lạy
trước bàn thờ khói hương nghi ngút.
Trên bàn thờ có tấm hình phóng lớn của
thân sinh cô dâu. Đôi trẻ vừa thành hôn đang cúi đầu trước người
đã khuất. Tấm hình trên bàn thờ nhìn kỹ đâu phải ai xa lạ chính
là hình Nguyễn Hữu Luyện 20 năm về trước. Nguyễn Hữu Luyện nói
trong xúc động:
“Khi tôi đi con gái đầu lòng tôi mới có
4 tuổi, năm ngoái con tôi nó đã lấy chồng. Hơn 20 năm cách biệt
không thư từ, không tin tức, vợ con tôi tưởng rằng tôi đã chết”.
Đây là lần đầu tiên tôi thấy một giọt
nước mắt ngập ngừng trên khuôn mặt phong sương của người tù kiệt
xuất Nguyễn Hữu Luyện. Trong đêm cuối năm giá buốt ở trại Tân Kỳ,
Nghệ Tĩnh, có 3 người tù cùng âm thầm nhỏ lệ trong đêm.
BẠN TÙ FULRO
Ở trại “Tây Đức” có 4 lán thì 3 lán là
tù chính trị ở cùng với tù Fulro, lán còn lại là tù hình sự. Trại
Tân Kỳ này, thời kỳ “phồn thịnh” chứa trên 1,000 tù, bây giờ tù
chính trị được đưa về Nam khá đông nên cả hai khu “Đông Đức – Tây
Đức” chỉ còn lại chừng 500 tù. Chúng tôi ở đội rau cùng lán với
anh em Fulro thuộc đội “củ quả”, chuyên trồng bí, trồng khoai,
trồng trà, trồng mía... Những anh em Fulro theo chức danh ghi
trong “lý lịch trích ngang” đều là những nhân vật lớn như thiếu
tướng, chuẩn tướng, đại tá, trung tá, thiếu tá, v.v. nhưng thật
ra chỉ là những đồng bào thiểu số không biết chữ, nói tiếng Việt
không bỏ dấu, rất khó nghe... luôn luôn cười nhe hai hàm răng cà
sát lợi.
Sự
ngây thơ, chân thật hiện rõ trong từng dáng điệu, từng lời nói.
Nghe, nhìn họ khó có thể tưởng tượng đó là tướng, tá trong mặt
trận giải phóng liên kết các dân tộc bị áp bức Fulro (Front
unifié pour la libération des races opprimées). Phong trào này đã
phát khởi từ lâu, giữa những năm 60 và đã gây phiền nhiễu không
ít cho chính quyền miền Nam. Sau tháng 4 đen 1975 khi miền Nam
rơi vào tay cộng sản, phong trào Giải phóng các dân tộc bị áp bức
Fulro không những không tiêu trầm mà ngược lại Fulro lại trở
thành một mặt trận võ trang chống đối cộng sản rất mạnh mẽ tại
miền Cao nguyên Trung phần thuộc Hoàng Triều Cương Thổ cũ. Rất
đông các đồng bào thiểu số thuộc nhiều bộ tộc ở Kontum–Pleiku bị
bắt, cho rằng có dính líu tới Fulro. Riêng ở trại Tân Kỳ này có
tới hơn 200 tướng, tá Fulro bị bắt giữ.
Chúng tôi tù ngụy quân, ngụy quyền,
biệt kích ở với anh em Fulro tương đối thuận thảo, không thấy anh
em Fulro lộ vẻ “căm thù” gì hết. Nhiều khi anh em còn tiếp tế củ
khoai, đẵn mía... Anh em đội rau thì đưa lại su hào, rau cải.
Không nói ra nhưng tù chính trị và tù Fulro thông cảm nhau trong
tình cảnh “cùng một lứa bên trời lận đận”. Nhưng một buổi tối có
một sự kiện không ngờ xảy ra. Trong số anh em Fulro ở lán tôi có
một anh còn trẻ, nghe nói là thiếu tá, trước đây có đi lính Biệt
Kích Mũ Xanh (green beret) của Mỹ hoạt động trên vùng Cao nguyên
“Hoàng Triều Cương Thổ”. Anh này chắc làm việc lâu ngày bên người
Mỹ, nên ở nơi anh hiện ra một sự kiện nghịch thường.
Anh không biết chữ nhưng ngược lại nói
tiếng Anh rất “chạy”. Anh nói tiếng Anh dễ hơn, giỏi hơn nói
tiếng Việt nhiều, một loại tiếng Anh người ta thường nghe thấy
nơi các ghetto ở Mỹ. Tâm tính anh cũng là một sự cộng hưởng kỳ
lạ, cái thơ ngây man dã ở bên cái khôn lanh quỷ quyệt. Anh có củ
khoai, khúc sắn thì anh đánh đổi lấy rau, lấy đường với anh em tù
chính trị “tiền trao cháo múc”. Đêm nằm anh nghêu ngao một bài
hát núi rừng nào đó, nghe không hiểu được nhưng phảng phất một
nỗi buồn rờn rợn, trầm thống như nghe một khúc spiritual của
người da đen ở Hoa Kỳ.
Anh thạo nghề mưu sinh trong rừng nên
anh luôn luôn bắt được cá, lươn, ếch, nhái, có khi rắn nữa để cải
thiện bữa ăn. Ăn không hết anh mới bỏ những con vật ấy vào trong
một cái hũ sành để làm một thứ mắm riêng. Cái hũ sành này anh để
dưới sàn, gần chỗ đầu nằm. Lâu ngày mắm có mùi, anh thì chịu được
nhưng mấy anh em tù chính trị nằm gần chịu không nổi mới nói với
anh trực buồng. Anh trực buồng, một anh công binh già cận thị
phải nhờ một anh Fulro có tuổi, nghe nói là đại tá, nói với anh
bạn thiếu tá Fulro xin dời cái hũ mắm của anh đi chỗ khác.
Anh này nghe xong gạt phăng ông già đại
tá sang một bên rồi vùng vằng đi nằm, hết sức bất bình. Cái hũ
mắm càng ngày bốc mùi càng nặng, nên một buổi nhân mọi người đi
làm hết, anh trực buồng mới mang cái hũ ấy ra ngoài, đặt ở sau
lán, bên đống củi. Đi làm buổi chiều về khi lán đã đóng cửa, anh
Thiếu tá Fulro mới nhận thấy cái hũ mắm của anh không còn ở chỗ
cũ. Anh nổi giận đùng đùng, chửi mắng loạn xạ. Một người nào đó
mới chỉ anh trực buồng.
Anh này chạy bay đến chỗ anh trực buồng
già cận thị, nắm ngực áo lôi xềnh xệch hét lên:
“Sao mày lấy của tao, I’m gonna to get
you, to kill you...” (Tao sẽ đánh mày, giết mày).
Một anh Fulro có tuổi ở gần đấy liền
đứng dậy, định can ra; anh Fulro trẻ tuổi đang cơn nóng giận, đẩy
anh Fulro già ngã chúi, kéo áo anh trực buồng rách toạc, cái kính
cận văng xuống đất. Người ta không biết sự thể sẽ diễn biến ra
sao khi anh Fulro đang lên cơn điên loạn rừng rú.
Bỗng có một người cao lênh khênh bước
tới, đó là tay thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Không biết
bằng một chiêu thức Judo hay cầm nã thủ tuyệt vời nào, hai tay
của anh Fulro điên loạn đã bị khóa chặt. Anh Fulro vùng vẫy nhưng
không thoát ra được. Nguyễn Hữu Luyện nói gằn giọng:
“Đừng làm ồn”.
Tay Fulro hét lên:
“It’s none of your business” (không
phải chuyện anh đừng dính vô).
Luyện ôn tồn nói tiếp:
“Chuyện không đáng gì. Sáng mai chúng
ta gặp nhau giải quyết”.
Không biết lời nói của tay thủ lĩnh
Biệt Kích Dù có một mãnh lực gì mà sau đó tay Thiếu tá Fulro đang
trừng trợn bỗng nguôi đi, nhìn xuống đất, Nguyễn Hữu Luyện dừng
tay khóa, nhẹ nhàng vỗ vai anh Fulro, khẽ nói “Thôi đi nghỉ
đi...”.
Sáng
sớm hôm sau trước khi đi làm, hai người (anh Thiếu tá Fulro và
Nguyễn Hữu Luyện) có gặp nhau và không hiểu sao cái hũ mắm được
để lại ngoài lán, bên đống củi. Mối giao hảo giữa anh em tù chính
trị với tù Fulro, tưởng rằng sau vụ này sẽ căng thẳng, không ngờ
ngược lại, nó tốt hơn lên, kiểu “đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận
anh em”. Tay Fulro Biệt kích mũ xanh bây giờ mới nhận ra “ông
thầy”, ở nơi thủ lãnh Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện. Thỉnh thoảng
buổi tối tôi lại thấy anh bạn Fulro tới chỗ Nguyễn Hữu Luyện nói
tiếng Anh, nói bất cứ chuyện gì để cho Nguyễn Hữu Luyện luyện
“accent”. Có khi anh ta còn đem tới củ khoai, đẵn mía nữa, nhưng
theo như cựu lệ, Nguyễn Hữu Luyện chỉ cám ơn mà không nhận bao
giờ.
Sau khi
những tấm hình của vợ con anh nhờ một anh em Biệt Kích khác được
gởi tới trại Tân Kỳ, tôi một bữa mới hỏi Nguyễn Hữu Luyện:
“Tại sao anh không có thư, có quà riêng
của gia đình?”
Trầm ngâm một lát Nguyễn Hữu Luyện mới
nói:
“Thực
tình tôi không nghĩ là vợ con tôi còn đó, đợi chờ tôi. Khi một số
anh em Biệt Kích Dù được về, tôi có nhờ anh em kín đáo đi tìm
hộ... Rất may là đã tìm ra. Vợ con tôi đã rời Sài Gòn, xuống Cần
Thơ sinh sống. Tôi cũng đã dự phòng trường hợp này. Gần 20 năm
nay vợ con tôi, anh em, họ hàng, bè bạn tôi nghĩ rằng tôi đã
chết.
Thôi cứ
để như thế cho tiện, chết là hết, phải không anh. Không phiền ai,
gây trở ngại cho ai. Nhược bằng vợ con tôi còn nghĩ đến tôi, còn
chờ đợi tôi thì đó là ơn riêng của Chúa đã ban cho. Nhưng tôi đã
nói trước là vợ con tôi nếu còn đó, khi nhận được tin tôi thì
không bao giờ được viết thư, được gửi quà. Nhận thư nhận quà rồi
là tôi phải trả lời. Làm sao mà mình không thương vợ, thương con
mình cho được. Xưa nay mấy chục năm ở các trại tù, mình là thằng
trọc đầu, trên không chằng dưới không rễ, họ không nắm mình vào
đâu được. Bây giờ mình thương vợ mình, thương con mình, họ đọc
thư, họ biết như vậy, thì mình không sống được yên đâu anh ơi. Họ
không hành được mình, bây giờ họ hành vợ con mình để bắt mình quy
phục, thì làm sao đây thưa anh. Cho nên tôi không muốn nhận thư,
nhận quà riêng là vì thế...”
ĐỨNG VỮNG KHÔNG LÙI
Có lẽ trại Tân Kỳ này trước đây đã xây
dựng trên một vạt rừng. Trong sân trại còn một số cây cổ thụ còn
sót lại. Ở cuối sân “tập kết” bên “Tây Đức”, trước cửa mấy lán tù
có một cây đa cổ thụ. Cụ Nguyễn Du đã nói “người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ”. Ở đây không những người buồn, (một lũ tù nhân rạc
rài đói cơm thiếu áo xác xơ như một lũ vượn người thời mông muội)
mà cây lá cũng buồn theo. Cây gì mà khẳng khiu, trơ trụi, không
còn một chút màu xanh, chỉ có những rễ phụ nâu đen rũ xuống,
trông giống như một ông già đầu râu tóc bạc đang đứng giơ tay
chịu tội giữa trời.
Xưa nay cây thường là một biểu tượng
thuần hậu của thiên nhiên: cây cho lá cho hoa, cho bóng mát, cho
nơi che chở, cho chim ca và gió hát. Ở đây thì ngược lại; cây đa
già trơ lá trụi cành đang biểu tượng cho sự tàn bạo của con người
và sự lạnh lùng của thiên nhiên khắc nghiệt. Lũ tù nhân chúng tôi
ít khi dám ra chơi dưới gốc cây đa. Những cái rễ ngoằn ngoèo nổi
lên sần sùi trông giống như một đàn trăn gió đang rình mồi, những
hốc tối mò làm liên tưởng đến hang ổ của lũ cáo, chồn, rắn rết,
nhưng điều chúng tôi ngại nhất là bên gốc cây đa này nghe nói đã
có hơn một người tù treo cổ chết. Người tù treo cổ thường thiêng
lắm. Tiếng bình dân gọi là “có hương”. Con ma treo cổ thường dẫn
dụ một người nào khác kết liễu cuộc sống giống như mình để oan
hồn uổng tử kia được đầu thai kiếp khác.
Hôm ấy vào khoảng cuối tháng 3 năm
1983. Trời dù đã cuối Xuân nhưng cái lạnh miền bán sơn địa vẫn
còn buốt giá. Như thường lệ buổi sáng các đội ra sân tập kết ngồi
xuống, đợi điểm danh xuất trại đi làm. Chợt một tiếng thét thất
thanh vang dậy, phát ra từ cuối sân tập kết, phía cây đa. Mọi
người nhìn lên, một bóng người đang đứng trên chạc ba của cây đa
trụi lá, vươn cổ ra hò hét:
“Tộ cha bây. Bây hại dân hại nước. Bây
hại con tao, hại vợ tao. Tộ cha bây, bất nhân, vô hậu...”.
Cán bộ trực trại vội vàng đi lại gốc
cây đa, giơ tay quát nạt:
“Anh kia, anh chửi ai?”
– “Tao chửi bây, chưởi tộ cha tụi bây”.
Một công an bảo vệ xách carbine chạy
tới, kéo “cu lat” loạch xoạch. “Anh kia, xuống ngay”. Một phát
súng nổ vang lên; mọi người giật mình nhưng nhìn lại, đó chỉ là
phát súng chỉ thiên, bắn dọa... Người đứng trên cây, nhìn kỹ, cổ
đã quàng sẵn vào một sợi dây thừng buộc vào một cành cây cao cạnh
đó. Người đó nói như thét:
“Bắn cho tao một phát đi, tao khỏi thắt
cổ”.
Cán bộ
trực trại giơ tay, anh công an bảo vệ hạ carbine xuống.
Người đứng trên cây tiếp tục chửi bới,
tiếp tục hò hét, trong khi cán bộ trực trại hấp tấp đi ra trước
sân tập kết, vội vã thổi còi ra lệnh xuất trại gấp. Tù nhân vừa
xúc động vừa tê điếng trước phản ứng bất ngờ của một bạn tù. Các
đội hôm nay được ra khỏi trại rất mau, rất vội. Trại không muốn
các tù nhân ở lại nghe những lời chửi rủa tận từ kia.
Anh em xì xào: “Ai đấy nhỉ?”
– “Nghe như tiếng Th. thiếu tá địa
phương quân người Huế hay Quảng Bình, Quảng Trị”
– “Đúng hắn rồi còn ai nữa, nghe đâu ít
lâu nay hắn bị tâm thần”.
Các đội tù xuất trại hết rồi. Sân tập
kết trở lại vắng người, im vắng. Tiếng chửi rủa của Thiếu tá Địa
Phương quân Th. vẫn còn róng rả:
“Tộ cha bây, bây giết con tao”.
Mấy tên làm việc trong trại như đội
“nhà cầu” tụi tôi vẫn tiếp tục làm việc nhưng không ngớt băn
khoăn, lo lắng cho người bạn tù đang nổi cơn điên loạn. Ông bạn
đồng nghiệp nhà cầu, Đại Đức Như L. cho hay:
“Tội cho anh ta lắm. Anh ta đi tù cải
tạo mà con trai mới lớn lên ở nhà lại phải đi ‘nghĩa vụ’ sang
Campuchia. Anh vừa nhận tin con trai anh mới chết; chết mà không
mang được xác về. Vợ anh ta là cô giáo, nghèo sát ván, ngất đi
khi nhận được tin con và từ đó bịnh luôn. Đi làm lương không đủ
nuôi con, làm gì có quà cáp cho chồng nữa. Th. lâu nay là con bà
phước. Ở nhà vợ anh ta ốm nặng, đứa con gái phải nghỉ học ở nhà
nuôi mẹ, nuôi em. Đứa em trai út khốn thay lại bị bệnh tâm thần
ngớ ngẩn. Cả nhà bây giờ trông vào một cô con gái mới đâu 15, 16
tuổi. Đêm nằm anh Th. thường ú ớ gọi vợ, gọi con... Anh ta vẫn đi
làm được, không ngờ sáng nay anh ta lại phản ứng bất thường như
vậy...”
Anh
Th. vẫn đứng trên cây, vẫn chửi bới, hò hét. Nhưng tiếng chửi
bới, hò hét thưa dần vì không còn “đối tượng”. Vào khoảng 9 giờ
sáng, trại trưởng Trung tá công an T. mới từ từ đi tới gốc cây đa
nói:
“Anh Th.,
có chuyện gì xuống đây tôi giải quyết”.
– “Bắn cho tôi một phát đi, tôi không
xuống”.
Thấy
không xong, trại trưởng liền đi vào trong lán tù. Hình như y đi
tìm một người nào đó. Tôi được nghe nói là Trung tá công an đi
tìm Đại úy Biệt Kích Dù Nguyễn Hữu Luyện.
Trời đã gần đứng bóng. Anh bạn tù nổi
cơn điên vẫn đứng trên cây, cổ quàng sẵn vào một vòng dây thừng
oan nghiệt. Chợt có một bóng người cao lênh khênh đi ra đứng dưới
gốc cây đa. Đó là Nguyễn Hữu Luyện. Hai người đứng nói chuyện gì
với nhau không rõ. Nhưng sau đó người tù nổi cơn điên Th. tháo bỏ
cái vòng dây oan nghiệt ra khỏi cổ, và từ từ trèo xuống. Nguyễn
Hữu Luyện đỡ người bạn tù bước xuống đất và dìu anh ta vào trong
lán. Không biết người thủ lãnh Biệt Kích Dù đã nói những gì, đã
làm thế nào để cho người tù khốn khổ kia trở lại với cuộc đời.
o0o
Những ngày tiếp theo đó cả trại Tân Kỳ
nín thở theo dõi hậu quả đến với người tù cựu Thiếu tá Địa Phương
Quân. Hậu quả đầu tiên là biên chế lại. Tù đội này đổi sang đội
kia, từ lán này sang lán khác. Giảm bớt khu “Tây Đức”. Cho một số
đội sang khu “Đông Đức”. Mỗi lần biên chế là mỗi lần trại phá bỏ
những khuôn sinh hoạt tinh thần cũng như vật chất của tù gây dựng
được trong những tháng ngày qua. Đội mới, chỗ mới, bạn mới. Cái
thân quen vừa tạo lập đã mất đi. Chủ trương của trại tù là luôn
luôn bắt tù nhân ăn ở trong một tình trạng tạm thời, nghi ngờ,
bất trắc.
Sau
vụ biên chế này, tôi vẫn làm công tác nhà cầu nhưng không ở cùng
lán với Nguyễn Hữu Luyện nữa. Ba ngày sau, một chuyến xe GMC (lấy
được của miền Nam) chở một số tù mới đến trại Tân Kỳ. Tôi vội
chạy ra xem có gặp lại người quen? Tưởng bạn tù nào xa lạ, hóa ra
toàn là bạn cũ. Đây là chuyến xe chở một số các linh mục tuyên úy
Công giáo từ trại Bình Đà ngoài Bắc đổi trại vào miền Trung. Các
bạn tù linh mục này năm ngoái tháng 4, 1982 đã từ biệt tụi tôi ở
trại Thanh Phong ra Bắc. Tôi gặp lại bạn cũ, đội trưởng đội rau
kiêm đội trưởng văn nghệ nghiệp dư, linh mục Nguyễn Quốc T. Chúng
tôi ôm lấy nhau, linh mục Nguyễn Quốc T. nói “Xã hội tù xoay
chuyển vòng tròn. Mình lại gặp nhau ở đây, mừng quá”.
Nhưng cái mừng của người bạn cũ không
được lâu. Ngày hôm sau (tôi nhớ là ngày 23 tháng 3, 1983), chuyến
xe GMC lại chở một số tù từ trại Tân Kỳ đi nơi khác. Trong số 33
người tù di chuyển kỳ này có tên tôi. Chuyến xe đi vội vã. Ngồi
trên xe chật cứng, tôi giơ một bàn tay vẫy vẫy. Từ biệt trại Tân
Kỳ, từ biệt những người bạn tù đã cùng tôi trải qua một thời kỳ
gian khổ. Tôi nhìn thấy trong lán tù ở lại có những bàn tay vẫy
theo. Trong số những bàn tay tiễn biệt kia, biết đâu chẳng có bàn
tay của người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện. Tôi không được gặp
lại các anh từ ngày ấy, đến nay thấm thoát đã 12 năm rồi. Xin
những anh em tù cải tạo nào từng có mặt tại trại Tân Kỳ đầu năm
1983, hiện giờ ở hải ngoại tình cờ đọc đến những dòng này, nếu
các anh được biết tin gì về người bạn tù khốn khổ của chúng ta
Thiếu tá Th. Địa Phương Quân xin các anh vui lòng cho tôi được
biết.
Đặc biệt
về người tù kiệt xuất Nguyễn Hữu Luyện tôi lúc nào cũng nhớ anh,
cũng cảm phục anh, nhưng có một điều tôi hứa với anh mà tôi không
giữ được tròn. Một buổi sau khi anh cho tôi xem tấm hình con gái
anh bữa lấy chồng, đang cúi lạy trước chân dung người cha đã
khuất (là anh) tôi mới nói với anh rằng:
“Sau này nếu có dịp tôi sẽ kể, sẽ viết
ra chuyện này”.
Anh nắm tay tôi mà nói:
“Thôi đừng anh ạ, mình xét ra cũng chỉ
làm nhiệm vụ của một người lính tình nguyện gia nhập cuộc chiến
tranh bí mật. Quy luật của nó là thế thì mình đành phải chịu,
thưa anh”.
Nhớ
lời nhắn nhủ của anh, nên mấy năm nay ở nước ngoài, có dịp viết
đôi ba bài báo tôi đã muốn lắm, muốn được kể chuyện người tù kiệt
xuất là anh và đồng đội của anh, những anh em Biệt Kích Dù bất
khuất. Nhưng tôi cứ đắn đo e ngại mãi. Bây giờ tôi được biết rõ
là anh đã tới Hoa Kỳ được một thời gian và anh đang đứng ra lo
lắng cho một số anh em Biệt Kích Dù đồng đội của anh làm thủ tục
xuất ngoại. Chuyện Biệt Kích Dù trên 30 năm cũ tưởng đã nằm im
trong cát bụi lãng quên bây giờ đang được mở lại hồ sơ. Cho nên
bữa nay tôi mới dám viết ít dòng này với tư cách của một người
bạn tù cùng trại nói ra những điều tai nghe mắt thấy...
Phan Lạc Phúc
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tony nguyễn chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, June 21, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang