Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược dòng Thời gian
Chủ đề: Nhà Ngô Đình…
Tác giả: kim thanh/NGLO
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời Tác giả: Thưa quý vị, quý bạn,
Gần đây, tiện nhân có đọc ba bài của
chính mình, được vài vị chuyển đăng lên Mạng, về bà Ngô Đình Nhu
và hai cô con gái, Ngô Đình Lệ Thủy và Ngô Đình Lệ Quyên, đều tạ
thế trong tháng 4, mùa Phục Sinh, kèm theo những hình ảnh và
những đoạn được người chuyển nhấn mạnh bằng màu (highlight)
-không có trong nguyên bản. Sáng nay, 1 tháng 4, sau khi đi lễ
mừng Chúa Phục Sinh về, lòng thanh thản, tiện nhân xin gửi lại
cho quý bạn ba bản văn chính thức, cố định, đã được hiệu đính, mà
tiện nhân hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung, câu văn, cũng
như cách trình bày. Xin quý bạn giữ nguyên văn, khi/nếu muốn
chuyển tiếp cho quý độc giả khác. Chân thành cảm tạ.
Portland, Phục Sinh 1/4/2018
KT, tức NLGO
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên
hương
(Đoạn Trường Tân Thanh)
Mais où sont les neiges d’antan?
(Villon)
(Đâu rồi những cánh tuyết năm
xưa?)
1. Niên
khóa 1962-63, tôi học năm cuối của chương trình Cử Nhân Giáo khoa
Pháp văn tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Còn nhớ cùng lớp
lúc ấy có nhạc sĩ Hùng Lân (Hoàng Văn Hương), người dễ mến, hiền
lành, như một thầy tu, thỉnh thoảng nổi hứng bất tử lén ghi nốt
nhạc ngay tại chỗ, trong lúc thầy giảng bài. Có bà sơ
Marie-Jeanne Phạm Thị Nhâm, mà tôi thường hỏi mượn cua mỗi lần
trốn học đi chơi, sau trở thành hiệu trưởng trường Nữ Trung Học
Thánh Tâm Nha Trang, và đã nhận ra tôi ngay, và cho vào dạy mà
không cần thủ tục điều tra lý lịch, khi tôi lò dò đến trường hỏi
xin job. Có Đặng Tiến, nói tiếng Pháp lai giọng Quảng Nam, da
vàng xanh như người bị sốt rét kinh niên, tóc bờm xờm không chải,
ra trường, không hiểu sao lại được phục vụ ngành ngoại giao, tức
phòng Thông tin Quốc ngoại tòa đại sứ VNCH tại Thụy Sĩ, và trước
1975, đào nhiệm qua Pháp sống cho đến bây giờ; Tiến rất giỏi Việt
văn, là phê bình gia văn chương có hạng, và theo đuôi Thông Luận
về VN nhiều lần, chuyên viết bài nịnh hót Việt Cộng trắng trợn.
Có Đại úy Ngô Văn Minh, thỉnh thoảng mời tôi ra quán cơm Tây
đường Lê Thánh Tôn ăn bíp-tếch, uống rượu vang, sau lên chức Đại
tá Tham mưu trưỏng Quân Đoàn III, Biên Hòa. Có Joséphine Lương
Thị Nga, môi cười rất tươi, duyên dáng, lần nào thèm ăn phở cũng
rủ tôi đi cùng, trả tiền, và nói, tỉnh bơ: “Moa rủ toa đi cho
người ta thấy moa có copain (bồ), chứ con gái ngồi ăn một mình,
ngượng lắm”. Có Monique Wang Seng, cô bạn Tàu, luôn mặc jupe
serrée, người thon gọn, rất xinh. Có Bùi Thế Cần, Lê Thị Tuyết,
Thái Thị Nhân, Lê Thị Bích, và Lê Ngọc Loan, v.v. Đặc biệt, Irène
Công Huyền Tôn Nữ Phụng Tiên, đẹp như đầm lai –là đồng hương Nha
Trang của tôi và đồng môn, cũng như hai cô đầm chính cống Josette
Hermel và Elisabeth Pineau, trong lớp Latin của thầy Jean Le
Menn...
Đầu
niên học, từ lầu ba, tôi và Bùi Thế Cần (học giỏi nhất lớp, con
của cụ dân biểu Bùi Tuân, Huế) thường xuống lầu một, vào giảng
đường Dự Bị, để tìm người quen giữa đám nai vàng ngơ ngác, hay,
đúng hơn, tuyển mộ tân binh cho JÉCU (Jeunes Étudiants
Catholiques Universitaires, Thanh Sinh Công Đại Học), mà tuyên úy
là cha Bernard Pineau, dòng Đa Minh chi Lyon. Lúc ấy, Cần là
trưởng JÉCU Liên Trường, Bộ Chỉ Huy đặt tại Cư Xá Phục Hưng
(đường Nguyễn Thông), Nguyễn Ánh Tuyết (con trai), tổng thư ký,
còn tôi, trưởng Nhóm Văn Khoa Pháp. Thỉnh thoảng, tôi thấy đứng
trước cửa giảng đường Dự Bị một sĩ quan đeo ba hoa mai bạc, đầu
đội béret đỏ, tay cầm một xấp cua. Ông dáng cao gầy, vẻ thân
thiện. Lần nào gặp ông, tôi cũng khẽ gật đầu chào, và ông lịch sự
chào lại. Có người cho biết, đó là Đại tá Cao Văn Viên. Mấy năm
sau, ông lấy bằng Cử Nhân Pháp, lên tướng, và trở thành xếp quá
lớn của tôi. Có kẻ xấu mồm nói, ông nhờ người đi học và đi thi
thay cho ông. Tôi không tin. Vì ở Văn khoa Pháp, thầy cô không
phát cua, phải vào lớp ghi chép hoặc mượn ai, và kỷ luật thi cử
lúc bấy giờ khá gắt gao, số sinh viên không nhiều, lại phải thi
oral, thầy trò biết mặt nhau, rất khó gian lận.
Vào trong giảng đường, Cần và tôi ngồi
lẫn lộn với đám tân sinh viên, nghe cha Pineau (thay cha Cras
nghỉ hưu) giảng về Socrate và Hégel hay thầy Kiết dịch tiếng Pháp
ra tiếng Việt, mà phát mệt trở lại. Một hôm, hai đứa thấy Yvonne
Lan Hương, cô bạn trong JÉCU, học dưới hai năm, đang ngồi trò
chuyện với một cô. Bèn sà đến. Yvonne giới thiệu, đây Thủy, Ngô
Đình Lệ Thủy... Lần đầu gặp Thủy, chúng tôi không nói gì hơn
ngoài vài câu xã giao thông lệ.
Về sau, khi Lệ Thủy gia nhập JÉCU Văn
khoa Pháp, tôi và Cần tiếp xúc với cô thường hơn, nhưng cũng chỉ
để thông báo ngày giờ và chương trình họp của Hội. Cô có dáng
thanh thanh, vẻ thùy mị, thông minh, ít nói, ít cười, đôi mắt
linh hoạt, mặt trái soan, cằm hơi nhọn, tóc dày, cài bandeau
trắng hoặc đỏ. Chúng tôi nói tiếng Pháp với nhau, cho nên bây giờ
tôi không biết cô nói tiếng Việt ra sao, giọng miền nào. Đó là
một điều mà sau gần nửa thế kỷ, già đi, nghĩ lại, tôi thấy cũng
hơi “dị”, mặc dù bởi thói quen, giống như các em Việt Nam sinh
trưởng ở Mỹ nói chuyện bằng Anh ngữ với nhau, kể cả hai đứa con
tôi hiện nay, chứ chẳng vì lý do nào khác. Lệ Thủy thường mặc váy
đỏ, áo sơ mi trắng đi học, đôi khi cả đồng phục Thanh Nữ Cộng
Hòa. Nói chung, cô đẹp, nhưng không lồ lộ, sexy, hớp hồn người ta
như Irène Phụng Tiên, không tươi lộng lẫy như Joséphine Nga. Một
vẻ đẹp trang nhã, đài các, kín đáo. Tôi để ý, cô ở đâu là luôn
luôn có một, hai anh chàng gorilles (khỉ đột, hộ vệ), giả dạng
sinh viên, ngồi phía dưới, cách cô hai dãy bàn, nhìn chòng chọc
vào mọi người.
JÉCU Văn Khoa Pháp lâu lâu ra một tờ
Bản Tin (Bulletin), dày độ 40-50 trang, bằng tiếng Pháp, do Bùi
Thế Cần, Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Nương Minh Châu và tôi viết gần
hết, vì không ai gửi bài. Trong đó, thỉnh thoảng có đăng một vài
bài thơ tình lẩm cẩm, vớ vẩn của tôi, không đối tượng, chỉ là gửi
gió cho mây ngàn bay, mà bây giờ tôi còn nhớ lõm bõm vài câu:
Je veux
tremper mes lèvres
Dans l’ eau pure de
ton coeur
Et émerger frissonnant
D’ une aube de lumière...
(Tôi muốn nhúng đôi môi
Vào nước tinh tuyền của tim em
Và bừng
lên run rẩy
Dưới ánh sáng bình minh...).
Hay vài câu dịch thơ của thi sĩ Anh
John Keats, hoặc Tennyson, không nhớ nữa, đại khái:
Ce n’est pas toi que je regrette
C’est le rêve par toi brisé
(Không phải em mà tôi tiếc nuối
Mà giấc mơ vì em vỡ tan)
Lệ Thủy đọc báo xong, và dĩ nhiên mấy
bài thơ ngắn của tôi, mày hơi nhíu, bảo tôi, nghiêm nghị như một
cô giáo la rầy học trò: “Je n’ savais pas que tu es si
romantique. Les poèmes d’ amour, ça c’est vraiment beau, mais ils
désespèrent aussi” (tôi không biết anh lãng mạn dữ thế. Những bài
thơ tình hay thật, nhưng cũng làm người ta tuyệt vọng). Như một
phản xạ tự nhiên, tôi khoát tay, ấp úng chối tội như ăn vụng bị
bắt quả tang: “Un peu, oui... mais j’ ne les ai faits que pour
m’amuser... Rien de sérieux!” (Chút chút, đúng... nhưng tôi chỉ
làm để chơi vui thôi mà... Đâu có gì quan trọng!).
Lệ Thủy không bao giờ đến CLB Phục Hưng
để họp, sinh hoạt với Nhóm, ngoại trừ một lần duy nhất, tham dự
thánh lễ đầu tháng cho toàn JÉCU do cha Pineau cử hành, rồi về
ngay sau lễ. Chúng tôi chỉ gặp nhau tại giảng đường
Propédeutique, trong giờ nghỉ giữa hai lớp, năm sáu đứa ngồi ở
một bàn cuối phòng, có khi tại bàn của Lệ Thủy, thảo luận, hay
trao đổi vài tin tức cần thiết. Hai anh chàng khỉ đột, chắc đã
được báo trước, đứng xa xa hút thuốc, để chúng tôi yên.
2. Một ngày thứ bảy, JÉCU Liên Hội tổ
chức đi thăm trại cùi và nhà thương điên Chợ Quán, sau đợt công
tác thăm viếng dân lao động nghèo tại Xóm Chùa cách đó mấy tháng.
Mỗi người góp mười đồng, làm chi phí lặt vặt, và ăn trưa. Số tiền
không nhỏ, hơn ba tô phở vào thời ấy, đối với ngân quỹ khiêm tốn
của sinh viên còn lãnh lương cha mẹ. Lệ Thủy đưa cho tôi một trăm
đồng, trước mặt Cần và Yvonne, nói là tiền của “maman cho Hội”,
nhưng “tiếc là bận việc bên Thanh Nữ Cộng Hòa, không đi với tụi
toa được.” Tôi nhận tiền, cám ơn, rồi nói nhỏ vào tai Cần: “Như
thế cũng hay. Có Lệ Thủy tham gia, hai gorilles phải đi theo,
phiền phức lắm!”
Hôm ấy, tất cả chúng tôi, khoảng bốn
chục người, chia nhau lên hai xe buýt, tuyến đường Chợ Bến
Thành-Trần Hưng Đạo. Hoặc tự túc, có xe hơi riêng, như hai chị em
Anh Thư và Hạp Thư, học Dược (chuyên lái xe bằng chân trần), hay
“đại ca” Dược sĩ đã ra trường Hoàng Ngọc Tuệ (đang cộng tác với
báo Người Việt). Tổ y tế gồm các sinh viên Y khoa, trang bị ống
nghe và túi cứu thương, do Đinh Hà, gần ra trường, hướng dẫn, làm
công tác khám bệnh, phát thuốc. Tổ ăn uống (ẩm thực?) do Rosa,
sau thành vợ của Nguyễn Ánh Tuyết, và người chị là Rosette, điều
động. Tổ văn nghệ gồm một cây guitare và một số ca sĩ mầm non, do
các cô bên Dược phụ trách; tôi nhớ có Yvette Trương Tấn Trung (mà
khi được biệt phái cho phái đoàn Liên Lạc Quân Sự ở Phnom-Penh
năm 1971, tôi bất ngờ gặp lại tại phi trường Pochengton, nơi vợ
chồng cô có một tiệm pharmacie, cf. “Phnom Penh, Sirik Matak và
những ngày tháng cũ”, 6/4/2014), Tôn Nữ Tâm Thường (có dược phòng
tại Nam California và tôi một lần nói chuyện qua điện thoại), và
Nguyễn Cẩm Nhung (con của Luật sư Nguyễn Văn Huyền, sau này nghe
nói đi tu thành Mẹ Bề Trên của một nhà dòng Carmélite). Đi trong
lần này, có nhóm Sư Phạm, gồm Trần Ngọc Báu (hiện ở Thụy Sĩ),
Nguyễn Thanh Quan (hay Quang?), Trương Ân (sau này là Hiệu trưởng
trường Cường Để, Qui Nhơn). Bùi Thế Cần làm tổng tư lệnh, Ánh
Tuyết phụ tá hành quân.
Đầu tiên chúng tôi thăm nhà thương
điên. Toàn đàn ông. Vài ông, tóc dài rũ rượi, biểu diễn nhiều màn
rất... điên, như xé áo xé quần, rú lên những tràng cười kinh dị,
khiến các cô sợ quá, mặt mày tái mét. Nhưng đa số rất hiền, đứng
nhìn chúng tôi đi qua, vẻ thẫn thờ, ngây dại. Tôi cười, chào, hỏi
thăm, họ vẫn vô cảm. Rồi cả toán chuyển sang thăm trại cùi. Theo
thói quen nghề nghiệp, Đinh Hà dọn sẵn mấy chai alcool, để tùy
nghi. Bệnh nhân rất đông, chia thành khu, gồm cả con nít, trông
rất tội nghiệp. Tôi không lạ với cảnh này, vì gần xóm tôi ở Nha
Trang, khu Lạc Thiện, cũng có một trại cùi do các tu sĩ dòng
Franciscains sáng lập và đảm nhiệm, nhưng lúc ấy tôi còn nhỏ, chỉ
là một khán giả bàng quan, đi ngang tò mò đứng nhìn vào qua những
vòng rào kẽm gai. Bây giờ, lần đầu tiên có dịp thấy tận mắt những
thân hình gầy còm, lở lói, những bàn tay, bàn chân co quắp, hoặc
mất ngón, những cặp mắt mờ đục, mù lòa. Và lòng dâng tràn một
niềm cảm thương vô hạn. Tổ y tế bắt đầu khám, phát thuốc cho
những bệnh nhân cùi bị cảm cúm, đau đầu, sổ mũi, do trưởng trại
giới thiệu, yêu cầu. Các cô tập họp những cháu bé lại, phát kẹo,
tập chúng hát theo nhịp đàn guitare của Ánh Tuyết, vỗ tay, rồi
cười lớn tiếng với nhau. Vài cháu chưa bị nhiễm bệnh, mặt mày
trông rất sáng sủa, thông minh, phải theo sống chung với cha mẹ.
3. Tháng sáu 1963, mãn trường. Bùi Thế
Cần, Nguyễn Nương Minh Châu đậu Cử Nhân liền một khi. Tôi rớt
oral chứng chỉ Văn chương Quốc âm –bắt buộc cho sinh viên Văn
khoa Pháp và Anh– vì trong buổi thi vấn đáp với giáo sư Vương
Hồng Sển tôi không nhớ Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị ông nào theo
Tây, ông nào chống Tây, và đem thơ ông nọ cắm vào cằm ông kia.
Với giáo sư Bửu Cầm, kết quả còn tệ hại hơn, tôi không biết
“chiết tự” bốn câu thơ chữ Nôm của thi sĩ Tuy Lý Vương, đứng chịu
chết như Từ Hải, nhìn thầy cười cầu tài. Phải thi lại hai môn vấn
đáp này. Còn những nàng tiên nga trong đám xuân xanh ấy, mà tôi
đã kể tên ở trên, chưa có ai theo chồng bỏ cuộc chơi, như trong
thơ Hàn Mặc Tử, nhưng đã lần lượt lên đường du học Pháp một cách
lặng lẽ từ năm thứ hai, thứ ba. Cần ra Huế. Tôi về quê Nha Trang,
dạy tại Collège Français môn Việt văn, cũng nhờ cái chứng chỉ Văn
chương Quốc âm khó ác ôn ấy.
Không bao giờ tôi gặp lại Lệ Thủy, đã
biến mất, từ ngày cô trao cho JÉCU chúng tôi một trăm đồng của
mẹ. Tôi biết cô cũng đã đậu Propédeutique, qua bản niêm yết dán
trước cửa trường, với tên chính thức, đầy đủ: Anne-Véronique Ngô
Đình Lệ Thủy, sinh năm 1945 tại Huế. Chiến sự mỗi ngày leo thang.
Khủng hoảng chính trị gia tăng. Sinh viên và Phật tử xuống đường
hàng ngày. Cảnh sát dàn chào với dùi cui và lựu đạn cay. Những tờ
báo chui chửi thậm tệ chế độ. Làm tôi thấy lo lắng vì, qua Lệ
Thủy, cảm tình của tôi với cụ Ngô Đình Diệm rất sâu nặng, không
như một vài bạn JÉCU lớn tuổi hơn, chẳng hạn Nguyễn Hữu An, sinh
viên Kiến Trúc. Lúc đó, tôi lờ mờ hiểu rằng thế nào bàn tay lông
lá của Mỹ cũng đã nhúng vào nội bộ Việt Nam. Sau này, trong thời
đại internet, nhờ những tài liệu đã được giải mật, sự thật phơi
bày trọn vẹn, và ai cũng biết chính quyền Kennedy đã cố tình giết
cụ Diệm để không bị cụ ngăn cản trong việc đưa quân Mỹ vào chiến
đấu trực tiếp tại Việt Nam. Nhưng khi ấy tôi tin tưởng và cầu
mong cụ sẽ vượt qua như lần đảo chánh hụt 1960. Nhiều biến cố xảy
ra, dồn dập, sau đó. Lựu đạn nổ tại đài phát thanh Huế. Thượng
tọa Thích Quảng Đức tự thiêu (hoặc bị thiêu theo video và những
tài liệu được giải mật. cf. “Trần Lệ Xuân - Một thời sóng gió vẻ
vang và nửa đời thầm lặng trong vinh diệu”, của Nguyễn Kim Lộc,
Chicago, Illinois, được phổ biến trên Diễn Đàn “PhucHungViet” và
“TuoiHac”, ngày 30/3/2018). Nữ sinh viên Quách Thị Trang biểu
tình bị cảnh sát bắn chết tại chợ Bùng Binh Sài Gòn. Rồi đảo
chánh. Ngày 2/11/1963, nghe tin hai anh em cụ Diệm bị giết, cha
tôi ứa lệ, nghẹn ngào và trong giờ kinh tối bắt cả nhà đọc thêm
kinh cầu hồn cho hai cụ. Còn tôi thấy lòng buồn vô hạn, suốt mấy
bữa, mặc dù chưa hề nhận lãnh một ơn mưa móc nào từ chế độ. Lúc
ấy Lệ Thủy đang ở ngoại quốc với mẹ trong chuyến công du giải
độc. Liền sau đảo chánh, các phản tướng chia nhau tiền thưởng của
CIA, nhảy đầm thả giàn, phá bỏ các ấp chiến lược. Báo chí, sách
vở (của anh chàng Hoàng Trọng Miên nào đó chẳng hạn), hùa theo
các ký giả Mỹ, mở chiến dịch bôi nhọ gia đình họ Ngô, và bà Nhu,
Lệ Thủy cũng bị dính miểng. Nào là bà Nhu có một chiếc ghế khích
dục, trong dinh Độc Lập, nhưng sự thực đó chỉ là chiếc ghế làm
răng, hay làm tóc bình thường. Nào là ông Nhu bất lực. Nào là bà
Nhu tư tình với cụ Diệm, với ông tướng này, ông tướng nọ. Nào là
Lệ Thủy có nhiều bồ, kể cả một anh người Nhật, Lệ Thủy thất tình,
học Văn Khoa, chỉ ghi danh, không đến lớp mà cũng có bằng, v.v.
Tôi đọc và thấy buồn nôn. Vô lý quá, vậy mà dân chúng ít học hoặc
quá khích vẫn tin, thế mới kỳ lạ. Thì cũng giống như dân quê miền
Bắc mười mấy năm sau, đã ném đá vào đám sĩ quan cải tạo chúng tôi
một cách thật tình, la hét và nguyền rủa chúng tôi là “quân mọi
rợ giết người, ăn thịt con nít, hiếp dâm phụ nữ.”
Công việc và đời quân ngũ làm tôi quên
Ngô Đình Lệ Thủy. Kỷ niệm với JÉCU những ngày có cô cũng dần phai
theo thời gian.
4. Cho đến đầu năm 1967. Từ Ban Mê
Thuột, tôi được tăng phái cho Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 44 (của nhà
văn Phạm Tín An Ninh, đồng hương Nha Trang lẫy lừng), Sư đoàn 23
BB, trong chiến dịch Bình Định Nông Thôn tại quận Thiện Giáo (Ma
Lâm cũ), nổi tiếng nguy hiểm nhất, thuộc tỉnh Phan Thiết... Ngày
theo Tiểu đoàn đi hành quân tìm diệt địch, qua các thôn xóm, đêm
đóng quân ven rừng, mắc võng giữa hai thân cây, nằm nghe tiếng
đại bác ầm ì xa xa, nhìn hỏa châu từng hồi loé sáng trên núi Tà
Dôm, mà thương cho kiếp lính tráng nay đây mai đó, trực diện cái
chết cận kề. Một buổi trưa, tôi đang đứng nói chuyện với ông Đại
úy Tiểu đoàn trưởng, Vũ Công Khanh (hiện ở Na Uy), một viên đạn
rít ngang nón sắt, cách đầu tôi một đường tơ kẽ tóc, xuyên qua cổ
anh binh nhất mang máy truyền tin PRC-25 đứng cạnh bên, làm anh
ngã xuống, chết tại chỗ. Tên du kích bắn sẻ vụt bỏ chạy, bị lính
Tiểu đoàn rượt theo và lãnh trọn một tràng carbine, phơi thây.
Một người lính giận dữ chửi thề và muốn xẻo tai tên này để trả
thù, tôi phải khuyên ngăn mãi, mới thôi. Cảnh tượng quá thảm cho
bên này, bên kia. Tôi nghĩ thêm, những người lính chiến miền Nam,
hơn ai hết, là những người thực sự yêu chuộng hòa bình, và vì yêu
chuộng hòa bình họ phải hy sinh mạng sống đánh đuổi giặc xâm lược
từ Miền Bắc. Nếu phải chống đối chiến tranh thì họ mới là những
người có quyền lên tiếng trước tiên, chứ không phải những anh làm
thơ, làm nhạc ấm ớ ở hậu phương, sợ chết, trốn quân dịch, núp
bóng các ông sĩ quan văn phòng cao cấp mê văn nghệ, để mà gào
thét ngưng chém giết, nối vòng tay lớn, tay nhỏ. Rồi tại sao lại
phản chiến một chiều? Tại sao không ra Bắc kêu gọi Hồ Chí Minh,
Võ Nguyên Giáp, hai tên sát thủ đầu sỏ nổi danh, ngưng gây hấn và
tấn công Miền Nam? Tại sao chỉ to mồm lên án miền Nam là nơi đã
cho họ cơm ăn, áo mặc, tự do sáng tác, tự do phản bội? Bao nhiêu
câu hỏi cứ luẩn quẩn trong tôi, cho mãi đến hôm nay, khi những
dòng nhạc dòng thơ góp phần làm mất nước ấy vẫn còn được yêu
chuộng, mê man, và các tác giả được thổi bằng ống đu đủ lên tận
mây xanh.
Nói
tiếp về Ngô Đình Lệ Thủy. Một ngày cuối tuần và cuối tháng 4,
1967, tôi cùng với vài sĩ quan bạn được phép lên Phan Thiết, cách
Thiện Giáo khoảng mười lăm cây số, bằng xe lam, để nghỉ xả hơi
qua đêm, và nhậu bia với gà luộc. Tại quán bánh căng “còn ướt sền
sệt”, chúng tôi gọi mỗi người hai tô, mỗi tô hai mươi lăm cái, đổ
đầy nước mắm, ăn cho bõ những tháng ngày gian khổ trong rừng với
cơm sấy, đồ hộp, nước bi đông ngán đến tận óc. Tôi mua một tờ
nhật báo, và giật mình đọc tin Lệ Thủy đã chết trong một tai nạn
xe hơi, đêm 12/4/1967, tại Pháp, chính xác tại Longjumeau, vùng
Essonne, ngoại ô Paris. Chết tại chỗ. Lúc ấy cô vừa tròn hai mươi
hai tuổi. Bài báo kể, ban đêm, cô lái xe nhỏ và bị một camion
ngược chiều húc thẳng, đầu xe của cô nát bấy. Sau này, đọc trên
tờ Time, số Friday April 21, 1967, thấy cũng đăng đúng tin ấy.
Mặc dầu tình cảm của tôi đối với cô, và
ngược lại, chưa bao giờ thắm thiết, đong đầy, đủ để những giọt lệ
trào dâng chan chứa, làm đẫm vạt áo xanh của người Giang Châu Tư
Mã cảm thương người kỹ nữ Tầm Dương thuở trước, tôi vẫn thấy bàng
hoàng, xao xuyến. Tôi bỏ dở bữa nhậu đã từ lâu chờ đợi, ngồi thừ
người, nghĩ đến những kỷ niệm thời sinh viên, JÉCU, những buổi
họp tại giảng đường Văn Khoa, những bài thơ tình lẩm cẩm và lời
phê bình nặng ký của cô, một trăm đồng “maman cho”... Đêm về, qua
cửa sổ một khách sạn Phan Thiết, tôi nhìn bầu trời xanh thẳm
không gợn mây và nửa mảnh trăng mới mọc vàng úa trên ngọn Tà Dôm
mà nhớ câu thơ của Mạc Đĩnh Chi khóc nàng công chúa Tàu:
Y! Vân tán,
tuyết tiêu
Hoa tàn nguyệt khuyết
(Ôi! Mây tản, tuyết tan
Hoa tàn, trăng khuyết).
5. Hai tháng sau, tôi được lệnh thuyên
chuyển đi Sư đoàn 22, Bình Định. Đáp chuyến bay Air VN đến Sài
Gòn trước, dự trù ở chơi vài hôm, rồi về Nha Trang nghỉ phép một
tuần, trước khi ra Bà Gi (Qui Nhơn) đáo nhậm đơn vị mới. Hành
trang là túi ba lô và cây carbine đeo vai, cây Colt bên hông, và
bộ quân phục mặc trên người. Trong chuyến bay có một số sĩ quan
trẻ từ các đơn vị tác chiến về, cũng trang bị súng ống đến tận
răng như tôi, báo hại các cô tiếp viên phải gom hết lại, đem cất
đi một nơi phía sau phi cơ.
Ở Sài Gòn, trong dịp này, tôi được một
cô bạn học cũ, ở Pháp về chơi, cho biết Irène Phụng Tiên đã lấy
chồng, đang học ở Grenoble, quê hương của Stendhal –tác giả mà
tôi yêu mến từ thời trung học. Hai mươi năm sau, 1987, từ Mỹ, tôi
được học bổng và chọn đi tu nghiệp một năm Sư phạm Pháp tại Đại
Học Grenoble, với lý do chính là sẵn dịp tìm tài liệu tại chỗ cho
luận án về văn sĩ Stendhal. Tại đây, tôi mở những trang điện
thoại (annuaire), rà tìm hết các tên Việt Nam, không thấy, nhưng
vẫn hy vọng gặp lại Irène, bất ngờ, đâu đó, một ngày nào. Thành
phố Grenoble lớn hơn Pleiku một chút, không đến nỗi đi “dăm ba
phút quay về chốn cũ” (thơ Vũ Hữu Định), nhưng ngày đó ở cùng một
thành phố mà còn vô duyên đối diện bất tương phùng, như lời cổ
nhân, thì nói chi bây giờ, cách xa một đại dương mù khơi. Irène
không Công giáo, nên không thể gặp tại các nhà thờ. Đi thư viện,
vào những quán ăn VN, trên đường nhìn chằm chằm, hay bước theo,
những phụ nữ Á Châu hay An-Nam có dáng dấp của Irène ngày
trước... Không ăn thua. Cuối cùng, đành bỏ cuộc.
Rồi đến cái chết của Ngô Đình Lệ Thủy,
đề tài không tránh khỏi. Cô bạn kể:
- Tại Paris, tụi moa có đi viếng xác Lệ
Thủy và dự lễ cầu hồn và đưa nó ra nghĩa trang. Đầu Lệ Thủy bị
kính trước cắt gần lìa cổ. Khi liệm, được khâu lại và quàng bằng
chiếc khăn lụa màu thiên thanh, trông mặt nó đẹp quá, thanh thản
như một thiên thần. Bà Nhu từ Rome bay sang, ôm xác con mà khóc
ngất, khiến tụi moa cũng khóc theo. Chiếc xe bị nạn là chiếc
Peugeot còn mới do Tổng giám mục Ngô Đình Thục mua cho Lệ Thủy.
Tài xế xe camion không việc gì cả, bị thẩm vấn qua loa, rồi cho
về.
Tôi hỏi:
- Lệ Thủy học trường nào ở Paris?
- Trường Luật.
- Tụi toa có gặp Thủy lần nào trước đó?
- Thỉnh thoảng. Thủy vẫn gentille (dễ
thương) như trước kia.
Tôi bỗng thở dài:
- Tội nghiệp nó quá! Đúng là hồng nhan
bạc phận!
6.
Nếu còn sống, năm nay (2010), Lệ Thủy cũng đã 65 tuổi. Quá khứ xa
rồi, nhưng khi ngồi viết bài này, tôi vẫn thấy lòng bồi hồi, bởi
kỷ niệm. Tôi vẫn nhớ lời cô “la rầy” tôi một lần về những bài thơ
tình làm tuyệt vọng... Và hôm nay tôi sửa lại câu thơ ngày đó,
vẫn không có đối tượng:
C’est bien toi que je regrette
Ce n’est pas le rêve par toi brisé
(Chính em mà tôi tiếc nuối
Không phải giấc mơ vì em vỡ tan)
Nhưng trong một nghĩa nào, vì mang bệnh
kinh niên lãng mạn, tôi nghĩ rằng mỹ nhân Ngô Đình Lệ Thủy mất
sớm như vậy cũng hay. Để mãi mãi được xinh đẹp, trẻ trung, dễ
thương. Và để không bao giờ cho thế gian thấy tóc mình bạc màu.
Portland, viết xong ngày 2/4/2010, Mùa Phục Sinh,
Gửi lại, Ngày Lễ Phục Sinh, 1/4/2018
Kim thanh
Tác giả ghi chú:
Bài này đã được bạn tôi, LS Trương Phú
Thứ, Seattle, WA (người đã được bà Ngô Đình Nhu ủy thác nhiệm vụ
dịch và hiệu đính tập hồi ký bằng tiếng Pháp của bà), gửi qua
email cho bà, lúc ấy còn sống ở Paris, xem trước khi phổ biến.
Theo lời anh Thứ, bà Nhu đã đọc và nói qua điện thoại: “Hay lắm,
cho tôi gửi lời cám ơn anh Quý”.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên hệ
Ngô Đình Lệ Thủy, hồng nhan mệnh yểu
Bà
Ngô Đình Nhu, năm mươi năm cô đơn
Bản Sonate cho một người tử tế,
Lucia Ngô Đình Lệ Quyên
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Trịnh Tường Vân, TĐ50CTCT/SĐND-QLVNCH chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, April 7, 2018
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang