Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
đời chiến binh
Tác giả:
MĐ Bùi Quang Thống
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
“Anh 20 vào quân ngũ, em 16 đến vũ trường” –lời Y Vũ.
Dù
Y Vũ đã
giã từ cõi đời đi vào miền miên viễn nhưng đối với tôi lời nhạc
của Y Vũ luôn lôi cuốn tôi của một thời lớn lên trong tao loạn.
Lớn lên ở một vùng quê hẻo lánh mang tên gọi Mỹ Sơn, về phía Bắc
giáp giới quận Tiên Phước, phía nam là tỉnh Quảng Ngãi, hướng Tây
là dãy Trường Sơn bao la cây cối đâm thẳng vào Nam và hướng đông
bờ biển đại dương không quá 20 cây số đường chim bay. Tôi lớn lên
với đồng lúa vàng những rừng chè, rừng quế, từng bụi chuối, vườn
khoai và xa xa trên dãy Trường Sơn thấp thoáng vài buôn Thượng,
chỉ được nghe tiếng chim kêu vượn hú vào những hoàng hôn và nhìn
những đàn nai tơ xuất hiện khi thu về. Thời thái bình cửa thường
bỏ ngỏ là đây! Người dân quê nghèo nàn, chất phác quanh năm với
ruộng lúa, vườn khoai dù hoàn cảnh kinh tế khó khăn như thế nào
họ cũng cứ chịu đựng đời này sang đời khác mà chẳng ai muốn xa
quê hương để mưu sinh.
Năm tôi chừng 10 tuổi ba mẹ tôi phải
rời vùng đất phì nhiêu để tránh bom đạn chiến tranh và lúc đó
tỉnh Quảng Nam được chia ra thành 2 tỉnh, từ quận Thăng Bình trở
vào Nam và một vùng đất Quảng Ngãi cũng bị cắt ra để thành lập
tỉnh Quảng Tín thời Tổng thống Ngô Đình Diệm và được Cụ Phó Tổng
thống Nguyễn Ngọc Thơ đến cắt băng Khánh thành năm 1961. Và tôi
có cơ hội xem lính Nhảy Dù biểu diễn nhảy dù ngay tỉnh lỵ. Sau
làn khói xanh đỏ, một phi cơ lớn hơn bay tới và từng cánh dù rơi
ra từ phía sau tạo nên những nụ hoa không gian tỏa khắp bầu trời
làm tôi ngưỡng mộ vô cùng, họ vừa đẹp trai và oai phong quá trong
bộ đồ rằn ri màu huyết đậm trên đầu chiếc beret đỏ... họ thật là
thần tượng của tuổi trẻ chúng tôi. Ở thời điểm này, hoàn cảnh bất
ổn đang trên đà xảy ra, buộc gia đình chúng tôi thay đổi cuộc
sống toàn diện, ba tôi đổi sang nghề công chức, mẹ tôi bôn ba lo
cho chúng tôi và tôi thật sự cắp sách đến trường nơi xa lạ.
Trong thời gian mòn ghế nhà trường từ
Phan Chu Trinh, Đà nẵng đến Trần Cao Vân, Tam kỳ khá dài nhưng
cũng đến lúc ra đi với mảnh bằng Tú tài phần 2.
Ba tôi ép tôi phải vào ngành Sư phạm và
có 2 nơi để chọn cho gần nhà, đó là Đại học Sư phạm Huế và Sư
phạm Quy Nhơn. Thi vào Sư phạm gồm có 2 phần nhưng may quá tôi đã
lọt được cả 2 phần viết và oral ở Quy Nhơn nên tôi bỏ ngang cơ
hội thi vào Sư phạm Huế và thế thì ba mẹ tôi vui mừng vì con mình
đâu phải đi lính. Thế rồi thời gian cũng lướt đi nhanh, gia đình
chờ ngày con trai của mình ra trường và tìm nơi bình an để tôi
còn được gõ đầu trẻ em nhưng tất cả không xảy ra như vậy.
Vì thấy nghề gõ đầu trẻ em không phù
hợp và buồn chán. Mê lính Nhảy Dù! Tôi gạt gia đình để chọn đời
quân ngũ, tôi mượn cớ “mùa hè đỏ lửa” phải nhập ngũ, năm đó tôi
tròn 20. Ghi danh tại thị xã Quy Nhơn và rồi được đưa đến Trung
tâm 2 Tuyển Mộ Nhập ngũ Nha trang. Sau khi làm thủ tục xong, tôi
có tấm thẻ bài đeo vào cổ với tên, số quân và loại máu cùng với
túi quân trang nào quần áo mùng mền. Trong những ngày ở đây để
chờ nhập khóa, tôi ra vào và ghé phòng ăn Sinh viên sĩ quan
(SVSQ) mỗi ngày 2 lần. Cuối tuần xin phép về thăm gia đình nhưng
tôi chỉ trở lại Quy Nhơn thôi, đâu dám về nhà, biết đâu mà thưa,
bị lộ tẩy... và tạo buồn rầu lo lắng của ba mẹ! Hơn nữa, dù sao
cũng là kỷ niệm của gần 2 năm trong ghế sư phạm, tôi không quên
bánh ướt, bún riêu ở văn trường, cuối tuần đón xe lam về phố xem
cine, ăn trái cóc, uống nước mía bịch nylon. Đôi lúc mẹ tôi cho
thêm tiền, tôi rủ vài người bạn ghé đường Gia long uống trà
Lipton và ăn bánh Patê chaud cùng bạn lắng nghe những điệp khúc
thời LU&P...
Trở lại Trung tâm 2 sau vài lần về phép, tôi được gọi tên nhập
khóa và cứ tưởng rằng mình sẽ vào Thủ Đức nào ngờ đoàn xe GMC chở
ngược về hướng Bắc Quốc lộ 1 và đổ chúng tôi xuống chân núi đèo
Rù Rì nơi đó được gọi là trại tiếp nhận, chúng tôi ở đây hơn 1
tháng mới gởi sang quân trường Đồng Đế để nhập khóa, sau gần 1
năm huấn luyện từ binh sĩ đến cấp sĩ quan trung đội trưởng và
chiến dịch Tâm lý chiến nơi vùng đất đỏ biển hồ Pleiku với vui
buồn lẫn lộn thêm yêu thương, lắm kỷ niệm tràn ngập... chúng tôi
được trở lại quân trường tiếp tục học phần còn lại và rồi ngày
mãn khóa cũng đến, một sĩ quan tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan, tôi
chọn binh nghiệp binh chủng Nhảy Dù như ước mơ... không còn là
huyền thoại nữa, đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù nằm trong trại
Hoàng Hoa Thám để trình diện và theo học khóa dù, mãn khóa sau
một tháng huấn luyện căn bản với 6 lần nhảy thực tập, tôi trở
thành người lính Nhảy Dù chính gốc với bằng Nhảy Dù trên túi áo,
tôi được bổ sung về phục vụ tại Tiểu Đoàn 9 với chức vụ Trung đội
trưởng cho đến ngày 30/4/1975.
Cuộc đời nhà bình ngắn ngủi nhưng đã
cho tôi những đoạn đường khắc khổ thắm máu đào rơi, đượm tình
huynh đệ trên trận mạc từ đầu mùa hiệp định Paris 1973, triền
miên đóng chốt để giữ đất, giữ dân nơi tuyến đầu Quảng Trị những
ngày tháng này tuy bình yên, địch và ta cùng tắm chung một suối,
đêm về lắng nghe chương trình Dạ Lan mỗi đêm và cũng cho bộ đội
Việt cộng nghe theo làm cán bộ Việt cộng tức giận, lừa đêm tối,
cộng quân đột kích tấn công đơn vị chúng tôi làm bị thương vài
binh sĩ, chúng tôi tức giận phản công lại và cộng quân tố cáo
chúng tôi vi phạm ngưng bắn!
Thế rồi, Tiểu Đoàn được lệnh về Sài
Gòn, chúng tôi mừng quá, mua vài thứ hàng làm quà xuôi Nam. Chúng
tôi được GMC chở thẳng tới phi trường Đà Nẵng bỏ lại bao đồng đội
đã cùng ra đi nhưng không trở lại, phải trả lời sao với vợ con họ
đây! Tôi có 2 lính trẻ vừa về trung đội tôi chưa được 1 tuần đi
tắm suối bị cộng quân phục hận bủa 2 trái B40 thân xác không gói
trọn nón sắt. Tuy không sống chung được bao lâu nhưng cay đắng
quá, tụi nó chết quá sớm để biết nếm mùi của lính Nhảy Dù.
Sau khi lên đường đến Bà Rịa–Vũng Tàu
để nhảy những saut bồi dưỡng cánh dù lơ lửng trời xanh nhắc cho
mình đang đi mây về gió và những cánh dù khác cũng đang tung tăng
với gió để về điểm hẹn! Quá hạnh phúc sau những tháng ngày ngưng
chiến theo hiệp định Paris. Ở lại Bình Giã thêm một tuần ứng
chiến, đơn vị tôi được trở lại Sài Gòn nằm trong hậu cứ Trần
Thanh Phương bản doanh của Tiểu Đoàn 9 Nhảy dù để tái bổ sung và
không lâu khoảng đầu tháng 8, 1974 chúng tôi có lệnh hành quân
mới, máy bay C–130 cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất bốc chúng
tôi tới phi trường Đà nẵng và được GMC đưa chúng tôi vào Đại Lộc,
Quảng nam.
Với bổn phận
và trách nhiệm của một Trung đội trưởng tôi thật sự đi vào chiến
địa đẫm máu. Lúc này Tiểu Đoàn 9 chúng tôi chịu trách nhiệm trục
lộ chính của cuộc tiến quân, mà Đại đội 92 chịu trách nhiệm đánh
vào đồi 383 để hướng về đồi 1062, Trung úy Nhơn điều động đại
đội, xuất quân dọc theo cánh đồng ruộng cận sông Vu gia và làng
Hà Nha, chiếm lĩnh dãy đồi thấp để hướng vào mục tiêu chính. Sau
những ngày đêm bò từng tất đất, hứng chịu đủ loại phi đạn tầm xa
và súng cối 82ly của cộng quân bắn không ngớt rồi từng đợt tấn
công dữ dội của cộng quân, tôi thật sự đi vào chiến địa máu đổ
thịt rơi này.
Nó khủng khiếp hơn mùa hè đỏ lửa, nó tàn bạo hơn Tết Mậu thân...
bởi chúng tôi quân số với 2 Lữ Đoàn (I&III) chưa đầy 6,000 binh
sĩ lại chống chọi với Sư đoàn 304 Điện biên và 324 với hơn 20,000
quân cộng sản chưa kể Sư đoàn 320, 329B và 711 thuộc QĐ2/CSBV chờ
sẵn để xé xác người lính Nhảy Dù chúng tôi, và phải nói đơn độc
chiến đấu với đạn dược giới hạn, không có quân bạn hậu thuẫn...
và đường đi vào mục tiêu quá chông gai, nào mưa phùn, gió rét,
cái lạnh xé da, cây cối chằng chịt, với những hang đá cao vèo mà
cộng quân đã bám giữ, làm cản trở bước tiến quân, lại nữa quân
cộng sản bao vây tứ bề nã đạn không ngớt, vừa đánh vừa đi, thỉnh
thoảng binh sĩ đạp mìn con cóc bay mất chân lúc nào không biết!
Lấn chiếm được từng khe đá, trơ mình
trốn đạn lại bị những con vắt nằm trong lá ủ bám chân hút máu no
rồi lại rớt, trong đêm tối đạp phải những ổ ong dẻ từng đàn ong
hoảng hốt bay ra đốt chúng tôi sưng cả mặt mày nhưng cũng may nhờ
chiếc áo poncho che mưa, che gió ngăn cản được sự quấy rầy của
đàn ong, mỗi bước tiến quân là thêm phần đổ máu, càng đi thì quân
số càng hụt dần nào chết nào bị thương. Tôi ngồi núp đạn bên hang
đá cùng đồng đội móc bao gạo sấy đã ngâm nước mấy ngày qua đút
vào miệng nhai lót bụng và thầm nghĩ nếu không may chết sớm thì
đỡ hành thân xác hơn, cứ miệt mài như thế này rồi đến lúc cũng hy
sinh.
Sau cơn
bạo chiến ác liệt giữa 2 bên Đại đội 92 của chúng tôi hoàn toàn
kiểm soát đồi 383 để các đơn vị khác nhẹ đường vào 1062.
Sau gần tháng chiến đấu tôi không may
bị thương nơi chân vì mảnh đạn pháo. Tôi được chuyển về bệnh viện
Duy Tân ở Đà nẵng để điều trị vết thương đúng tháng sau, tháng
10, 1974 vì nhu cầu chiến trường thiếu hụt quân số tôi được lệnh
trở lại đơn vị và tiếp tục hướng dẫn trung đội vào mục tiêu được
giao phó với thần chết đón chào. Trong tháng 10 này, đôi bên
giằng co nơi đồi 1062 và vùng lân cận quá dữ dội không cọp nào
chịu nhả miếng mồi đồi “1062”. Cứ thay phiên nhau mà chiếm giữ,
xác thịt lính Dù và quân cộng sản nằm la liệt bên nhau bốc mùi
hôi thối. Tôi tự nhủ, tuổi trẻ chúng ta chết cho ai đây? Và chết
để được gì? Trong lúc lệnh ngưng bắn đã được thỏa thuận giữa 2
bên trong hiệp định Paris hơn 1 năm rồi nhỉ! Và nếu tôi biết vâng
lời cha mẹ, hay đừng nghe “Những tâm hồn hoang lạnh” điên hận của
Y Vũ mà Thanh Thúy đã rên rỉ...
“anh sinh ra làm lính chiến,
em trọn kiếp đến vũ trường,
những băn
khoăn của lòng anh,
những chua cay của
đời em...”
thì
nay đâu phải tự trách chính mình! Hay tại vì tôi thích chết cho
màu nón đỏ!
Sau khi cộng quân dùng mọi hoả lực để lấy lại đồi 1062 do Tiểu
Đoàn 3 Nhảy Dù trấn thủ, lần này Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù bị thương
vong quá nhiều nên bị cộng quân tràn ngập. Một lần nữa Tiểu Đoàn
9 Nhảy Dù vào cuộc, nhận trách nhiệm chính đánh thẳng vào đồi
1062 và được sự yểm trợ của Phi đoàn A–37 thả 2 trái bom xuống
đồi, một trái khác rơi sát chúng tôi, hú hồn không gây thương
tích và đơn vị Sư Tử chúng tôi thần tốc vừa tiến vừa nhả đạn vào
mục tiêu, hầu hết cộng quân bị tiêu diệt và chúng tôi làm chủ
tình hình đồi 1062.
Sáng nay, nằm trên đồi máu thấm lạnh và
mùi tanh của thịt người nhưng sao bình yên quá, không tiếng súng
giữa hai bên, ánh nắng mặt trời nhẹ nhàng vươn lên từ phương đông
Đà nẵng như mang đến cho chúng tôi một tin vui nào đó để cứu lấy
mạng sống của con người, chiến trận đã bớt giằng co hơn mấy ngày
hôm trước, thật yên lặng không tiếng súng, có lẽ vì quân số của
cộng quân kiệt quệ không đủ sức để tiếp tục chiến đấu và quân
cộng sản cũng thừa biết đụng với đơn vị thiện chiến Nhảy Dù khó
bề chiến thắng!
Dù hoàn toàn chiếm giữ ngọn đồi ở giờ
phút chót nhưng chúng tôi cũng có lệnh lui binh và nhờ Tác chiến
điện tử gài mìn trước khi rút quân. Ba tháng vất vả với hơn 500
chiến binh Nhảy Dù đã hy sinh và gần 2,000 nữa phải gởi lại phần
thân xác chung quanh ngọn đồi máu lửa ấy, chưa nói bên cộng quân
chết hơn 2,000 bộ đội và hơn 5,000 bị thương tích. Đơn vị chúng
tôi về dưỡng quân ở gần Hoà Vang cách Đà nẵng không quá 20 cây
số.
Đến trung
tuần tháng 3, 1975 đơn vị chúng tôi được lệnh về Sài Gòn, bàn
giao căn cứ lại cho đơn vị bạn Thuỷ quân Lục Chiến. Lữ Đoàn I của
chúng tôi rời Vùng I sau cùng bằng phi cơ. Lữ Đoàn II&III bằng
phương tiện đường thủy do Hải Quân VNCH vận chuyển. Phi cơ đáp
xuống phi trường Tân Sơn Nhất, chúng tôi thả bộ về hậu cứ trong
một buổi chiều ấm áp, hiền hòa của thủ đô Sài Gòn rực rỡ bình yên
và không ai ngờ rằng đây là những ngày tàn của cuộc chiến và
những đau thương, uất ức, máu đổ, xương rơi, phân ly tử biệt
trong hơn 20 năm qua sắp đến ngày chấm dứt.
Tôi nhẹ quăng chiếc ba–lô dưới chân
giường bố của đại đội, réo thằng Thiếu úy Mỹ, Chuẩn úy Vinh và
Trung sĩ Thụ ra chợ Sư Đoàn nhấm một ly cafe sữa đá, hít một hơi
thuốc capstan nó hạnh phúc làm sao khi nhìn bà con qua lại trong
khu chợ. Nỗi vui mừng và thảnh thơi chưa đầy 24 giờ đồng hồ lại
nhận lệnh “gọn gàng” để bước vào chiến địa đẫm máu mới.
Lúc 3:00g sáng, thành phố Sài Gòn còn
say ngủ thì đoàn xe GMC chở chúng tôi băng qua các đường phố như
muốn từ giã từ đây! Đoàn xe chạy chập chờn mờ mịt trong đêm tối
như báo hiệu cái bất hạnh sẽ xảy ra cho quê hương mình, riêng
người lính Nhảy Dù luôn vô tư, không nghĩ đến và xem chuyện ấy
thật bình thường như những lần hành quân khác vì có chiến trận
nào người lính Nhảy Dù không đổ máu...
Đoàn xe dừng lại ở Trảng Bom, tất cả 3
Tiểu Đoàn 1, 8, 9 thuộc Lữ Đoàn I Nhảy Dù xuống xe và tiếp tục
không vận bằng phi cơ trực thăng đủ loại thuộc Sư Đoàn 3 và 4
Không Quân cung cấp, hướng về thị xã Xuân Lộc–Long Khánh và gần
tiếng đồng hồ trực thăng đổ chúng tôi đến bãi đáp gần các xã Bảo
Định, Bảo Bình và cách thị xã Xuân Lộc chưa đầy 3 cây số. Chúng
tôi lại được chào đón thật khủng khiếp với vô số tiếng đạn từ
quân cộng sản nhưng đó cũng là thử thách kinh nghiệm đối với
chiến binh Nhảy Dù, những rừng chuối, rừng trà, mía... hầu như bị
bão đạn kéo qua không chừa 1 cây nào huống chi là con người!
Tôi nín thở nhảy ra khỏi phi cơ chờ cơ
hội tử thần đến. Binh sĩ Nhảy Dù phản công rất nhanh nhẹn và nhờ
đó quân địch bớt tấn công trong gần vài giờ sau chúng tôi lấn
chiếm được các bìa rừng để phá tan tuyến đầu của cộng quân đang
ẩn núp trong vườn cam của cố Thống tướng Lê Văn Tỵ và tiếp tục
tiến quân vào các nơi khác gần ấp Bảo Định, nơi có giáo xứ của
cộng đồng Công giáo mà quân cộng sản chưa mò đến. Trong buổi
chiều rạng tối, đơn vị Nhảy Dù chúng tôi không may bị ngộ nạn với
Cha xứ nổ súng ngay vào chúng tôi và không may vị Tiểu đoàn
trưởng Trung tá Nguyễn Văn Nhỏ bị đạn cối bắn ra và bị thương,
đơn vị chúng tôi phải ra lệnh đội nón beret đỏ và hô to Nhảy Dù
đến, may quá bên trong xứ đạo của Cha nhận diện được giữa phe ta.
Trong gần tuần lễ đối đầu với các Sư
đoàn chính quy cộng sản, chúng tôi phải tận lực vứt nhổ những cứ
điểm của cộng quân để cho đơn vị bạn đỡ phần ăn pháo, thế rồi
tiếng súng cũng nhẹ dần và đơn vị chúng tôi đã làm tròn bổn phận
yểm trợ Sư Đoàn 18 Bộ binh của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo chỉ huy,
đang gánh chịu khói lửa thần tốc mà tôi thiết nghĩ họ chưa bao
giờ nghĩ đến!
Sự bình an trở lại với thị xã Xuân Lộc chưa đầy mấy hôm, quân
cộng sản chỉ pháo kích cầm chân, Chuẩn tướng Lê Minh Đảo thường
hay tổ chức họp báo và phi cơ lên xuống hằng ngày. Tôi được may
mắn đóng quân sát bộ chỉ huy Lữ Đoàn I Nhảy Dù nên được nghe rõ
ràng như sau: Lời Trung tá Đỉnh gợi ý với Chuẩn tướng Đảo nên đặt
bộ chỉ huy hành quân riêng và địa điểm dã chiến để tiếp xúc báo
chí cho an toàn tránh pháo địch... và quả thật ngày nào có họp
báo là đêm đến bị ăn pháo dài dài.
Bất ngờ, chúng tôi được lệnh di tản
trong đêm tối, Nhảy Dù lui binh dọc hai bên sườn đồi núi tỉnh lộ
để tránh bị phục kích và pháo kích, trên trục lộ chính dành cho
tiểu khu Long Khánh cùng các đơn vị bạn và vì vậy cộng quân tha
hồ chận đường phục kích đưa đến sự bất ổn chết chóc cho đơn vị
bạn lui binh nhưng dù sao đơn vị Nhảy Dù chúng tôi cũng đã liên
tục phá tan những chốt phục kích của cộng quân trong chốc lát để
đỡ tổn thương cho đơn vị bạn và dân chúng ùa theo.
Trên đoạn đường lui quân khá chông gai
đầy tổn thương cho đơn vị khi đến ngã ba Dầu Giây, đơn vị chúng
tôi lại nhận khẩn lệnh rời vị trí gấp khoảng 3 cây số để giữ mức
an toàn và sau này biết tin 2 trái CBU thả xuống ngã ba Dầu Giây.
Về đến Bình Giã trung đội tôi còn lại 14 anh em thế là một nửa đã
nằm lại chiến trường Long Khánh.
Tôi rơi lệ mà nhìn đồng đội đứa còn,
đứa nào bỏ đơn vị ở lại nơi nào đó của Xuân Lộc địa. Dù biết châm
ngôn “không bỏ rơi đồng đội” nhưng nằm trong hoàn cảnh vô cùng
kiệt quệ phương tiện, lại có lệnh vu vơ không đánh mà chạy. Đây
cũng là lần đầu và lần cuối cuộc đời làm lính Nhảy Dù nhận được
những oan nghiệt nhất trong chiến trận.
Đơn vị chúng tôi được dưỡng quân gần
Quốc lộ Sài Gòn–Vũng tàu, vài hôm sau cộng quân tấn công tỉnh lỵ
Phước Tuy và trường Thiếu Sinh Quân, đơn vị tôi lại phải xông vào
cuộc chiến giải tỏa khu Chợ Mới vừa bị cộng quân chiếm đêm qua và
đây cũng là lần đầu tiên chúng tôi đánh giặc trong thành phố, sau
đó có lệnh rút về cầu Cỏ May, trên đoạn đường lui binh, cộng quân
pháo dữ dội trên quốc lộ vì vậy chúng tôi tách vào rừng sác để
tránh pháo, không ngờ mặt nước biển dâng lên làm một số binh sĩ
chết đuối vì không biết bơi.
Chúng tôi đóng quân gần cầu Cỏ May và
được tăng viện chi đoàn thiết giáp để ngăn chận cộng quân tiến
vào thị xã Vũng Tàu, trong vài ngày thì nhận lệnh buông súng,
giận tức vô biên... trên đường lui binh đến Trung tâm Huấn luyện
Rạch Dừa, chiếc xe M–113 đi đầu bị cộng quân bắn bể xích, Chuẩn
úy Vinh bị thương nhẹ nơi trán, chúng tôi liên tục phản công để
mở đường và tới được Bãi Sau Vũng Tàu, cộng quân tiếp tục pháo
kích làm cho tình cảnh hỗn loạn, tôi bảo Chuẩn úy Vinh đi theo
tôi nhưng Vinh từ chối xin ở lại, chúng tôi rời đoàn xe và đón
tàu đánh cá của dân làm phương tiện về Gò Công và tiếp tục ra
khơi gặp hạm đội Mỹ đón. Cuộc đời nhà binh chấm dứt nơi đây,
không phương hướng, thiếu gia đình vô tổ quốc... là đây!
Mũ Đỏ Bùi Quang Thống
Cánh dù viễn xứ DFW
Ghi chú:
Trong phạm vi bài viết, tôi chỉ ghi lại những gì thuộc về
mình... còn chiến trận quá to lớn nên tôi không thể ghi chép hết.
Tuy nhiên cũng có những sai sót. Mong được bỏ qua. Thân tặng các
Mũ Đỏ xuất thân từ quân trường Đồng Đế đã cùng chung đoạn đường
khổ nạn này: Mũ Đỏ Út, Mũ Đỏ Thiện, Mũ Đỏ Vinh, Mũ Đỏ Kiệt, Mũ Đỏ
Bình, Mũ Đỏ Quang, Mũ Đỏ Sơn, Mũ Đỏ Hùng thuộc Tiểu Đoàn 9 Nhày
Dù. Sư Tử là danh hiệu của Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù.
Nhảy dù cố gắng
BQT/ĐĐ92/TĐ9/LĐIND
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, March 1, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang