Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
chiến tranh
Tác giả:
Phan Thuý Hà
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời Tác Giả: Viết về một người Lính già vừa mất, Võ Ngọc Ẩn. Xin được thắp cho Anh một nén nhang. –Phan Thúy Hà
o0o
Ông Dương Văn Minh là ai tôi không biết. Ông
Tư lệnh đã bỏ đi mặt mũi thế nào
tôi không hay. Tôi chỉ biết Tiểu
Đoàn trưởng của tôi. Tiểu Đoàn trưởng đang sát cánh với chúng
tôi. Trung đội trưởng vẫn đội nón sắt mang súng đi đằng trước.
Cho tới giờ phút này đơn vị tôi vẫn nguyên vẹn. Chúng tôi vẫn tác
chiến.
Buổi
sáng đơn vị chốt chặn ở ngã tư Bảy Hiền. Chúng tôi không ảo tưởng
xoay chuyển được tình hình. Nhưng tinh thần kỷ luật, tinh thần
đồng đội ăn sâu trong máu.
Loạt đạn cuối cùng bắn đứt xích chiếc
xe tăng T–54. Chúng tôi ùa ra hò reo. Phút giây huy hoàng cuối
cùng trên đường Trương Minh Giảng.
Mười hai giờ rưỡi trưa, Tiểu Đoàn
trưởng tập hợp anh em. Tùy tụi bay.
Tùy tụi bay chứ không ra lệnh.
Chúng tôi quăng súng.
Không còn gì nữa. Tôi hiểu. Tôi đã hình
dung ra cái ngày này từ khi hiệp định Paris được ký kết. Nhưng
khi nó đến tôi bàng hoàng. Cờ còn nước đánh mà phải xếp bàn.
Tháng Tư giúp tôi nhận ra được khuôn
mặt người.
Một
anh Nghĩa Quân, đơn vị tháo chạy, anh vẫn chiến đấu một mình.
Tiểu đoàn Nhảy Dù của tôi, một tuần liền không còn hệ thống chỉ
huy, không có tiếp tế, Tiểu Đoàn trưởng vẫn bỏ tiền túi ra kiếm
cái ăn cho anh em gắn kết nhau tới phút cuối cùng.
Trường Võ Bị di tản về Thủ Đức. Còn lại
các khóa 29, 30, 31. Khóa 29 còn một năm nữa mới ra trường, về
Thủ Đức họ tổ chức cho mãn khóa. Năm thiếu úy trẻ măng được bổ
sung vào Tiểu đoàn. Phân công năm ông này làm gì đây, lính còn
bao nhiêu đâu. Tiểu Đoàn trưởng hỏi ông Thường vụ. Một cậu tên
Trường đứng bật dậy như một cái máy, giơ tay: Trình trung tá,
chúng tôi về đây để làm lính.
Hôm đó đã là ngày 28 rồi. Các bạn có
thể đi thẳng về nhà. Vậy mà các bạn vẫn về đơn vị để làm lính. Để
làm lính tác chiến chứ không phải làm ông này ông nọ. Cả Bộ Chỉ
huy tiểu đoàn im phăng phắc. Trung tá nghiêm nghị giơ tay lên.
Tôi nhân danh Tiểu Đoàn trưởng xin lỗi các anh.
Ám ảnh chiến tranh, với tôi, không phải
là chết chóc trên chiến trường, mà chính là lúc này. Hình ảnh một
đạo quân bại trận.
Bốn người lính Nhảy Dù vẫn mặc quân
phục. Một người lính cẩn thận vác theo M16. Bước đi trong im
lặng. Một chiếc xe jeep lao tới thắng bên họ. Những người tay đeo
băng đỏ nhảy xuống. Lính ngụy, bỏ súng xuống, cởi quần áo!
Bốn người quay mặt lại nhìn. Một người
cau mặt. Một người giơ súng chĩa về những người đeo băng đỏ.
Thôi. Người vừa cau mặt hét một tiếng với đồng đội. Ông hất mũi
súng thẳng lên trời.
Tôi bước đi. Đầu óc trống rỗng. Trương
Minh Giảng. Hồ Con Rùa. Duy Tân. Tự Do.
Những khuôn mặt thất thểu. Những khuôn
mặt hớn hở vì thoát chết.
Về tới nhà tôi cứ ngồi vậy. Không nghĩ
được gì. Hai tiếng đồng hồ sau, hai thằng em về. Chúng nó đi lính
chưa đầy năm. Nét mặt đứa nào cũng có vẻ vô can. Chúng kêu tôi
đi. Đi phá kho gạo.
Ba anh em, cùng với cả xóm, với cả quận
Tư, đi phá kho gạo. Ùn ùn giẵm lên chân nhau. Lôi được bao nào
hay bao đó. Ba anh em vác ba bao về nhà. Trở lại lần thứ hai thì
không còn gì để vác nữa.
Bữa cơm tối đó thật vui. Cả nhà đầy đủ.
Mỗi người một chai bia. Ba nói, mai tụi mày đi sục cái bể nước.
Ba cố tạo ra một không khí bình thường.
Đêm đó tôi không ngủ.
Năm 1960 tôi mười tuổi, xảy ra một
chuyện ở gia đình: ba tôi đi tù.
Ba tôi từng là lính Nhảy Dù trong quân
đội Pháp. Trước đó ông tham gia lực lượng Việt Minh. Ông là người
lính. Bổn phận ông là phục tùng mệnh lệnh. Cấp trên lệnh cho ông
dẫn quân về bao vây Dinh Độc Lập.
Ông bị bắt sau đó. Tới khi bị bắt, ông
vẫn không có khái niệm gì về đảo chánh.
Tôi từng thầm trách ông đã chấp nhận
mệnh lệnh một cách cứng nhắc, nhưng nếu là tôi ở vào thời điểm
đó, liệu tôi có tìm được cách gì mềm dẻo hơn không.
Hai năm sau ra tù, ông lại được tung hô
là anh hùng. Ông nói, anh hùng cái con khỉ. Đó là nỗi thất vọng
lớn nhất của đời ông. Ông quay về đơn vị, làm hành chính vài
tháng thì xin nghỉ. Ông lảng tránh, không muốn nhắc tới quãng
thời gian đó nữa.
Thời gian ba đi tù, mẹ cũng bỏ đi. Bốn
đứa cháu sống với bà nội.
Mẹ quay về khi ba ra tù. Ba mẹ tiếp tục
sống với nhau, như thể không có chuyện gì, họ có thêm chín đứa
con nữa. Tôi là con cả trong một gia đình có mười ba đứa con.
Tôi không biết ba nghĩ thế nào, tình
cảm ba mẹ ra sao, nhưng với tôi, chuyện cũ mẹ gây ra tôi nhớ miên
man. Có một lần về thăm ba mẹ, mẹ trách móc tôi chuyện gì đó, tôi
buột miệng:
“Ủa, sao hồi đó má không ở lại mà dạy con.” Nói xong câu đó tôi
ân hận.
Mẹ bỏ
đi, bà nội cưu mang bốn đứa cháu. Chúng tôi vẫn đi học bình
thường.
Vào
ngày thứ Năm và Chủ nhật được nghỉ học, bọn trẻ được đi học tiếng
La tinh để phụ lễ nhà thờ. Học từ sáng đến 9 giờ là nghỉ giải
lao. Khi nghỉ giải lao, mỗi đứa được phát khúc bánh mì với miếng
phô mai. Trước khi ra chơi để được ăn khúc bánh mì đó chúng tôi
cầu nguyện. Xin Chúa thương xót chúng con. Tôi đứng hàng đầu, là
thằng gào to nhất. Dì phước hiểu ý. Dì cho tôi bánh mì bự hơn,
cục phô mai bự hơn.
Lớp tôi có một thằng cao lớn. Ba nó là
một công chức cỡ bự của Nha Công Dân Vụ. Trong lớp đứa nào cũng
sợ nó. Ba nó đi một chiếc Traction đen giống như xe của những
người đến bắt ba tôi. Nó ăn hiếp tôi ra mặt mà chẳng ai dám bênh.
Vì tôi là con của một tên phản loạn.
Khi bị nó đánh, tôi không dám chống cự.
Nó đánh rất đau. Bị nó lấy đồ, tôi cũng không dám hó hé. Nhưng nó
quá ngu nên không biết giới hạn dừng lại. Nó dồn tôi đến mức tôi
thấy hết sợ nó. Một ngày nọ tôi lấy cây viết có ngòi bút lá tre
đâm vào ngực nó. Ngòi bút lá tre không thể làm chết người nhưng
nó la hét thật to vì sợ. Nó quỳ xuống khi thấy tôi nhặt cái dùi
trống bước tới. Các Dì phước ùa tới níu tôi, ngăn cản.
Chiều hôm đó, khi Cảnh sát đến nhà thì
tôi đã kịp biến đi. Đói khát, tôi lần mò đến khu Chợ Đũi. Bắt đầu
những ngày sống lang thang. Tôi lân la các quán hàng chờ ai
thương tình cho miếng gì ăn.
Lang thang chán, tôi mò về nhà. Bà nội
gửi tôi vào nhà Dòng ở Vũng Tàu. Để đỡ nuôi cơm. Tính cách tôi
không chịu nổi khuôn phép nhà Dòng. Tôi trốn lên Đà Lạt.
Một đêm, thấy thằng bé nằm co ro trên
manh chiếu rách bên vệ đường, các chị đưa về hiên nhà mình. Các
chị lấy chăn gối ra ngoài hiên cho tôi nằm. Sáng mai, chị Khuê
pha cho tôi một ly sữa nóng. Nhà các chị có tiệm sách cho thuê.
Tôi đứng ngoài ngó vào. Thấy cuốn Gulliver phiêu lưu ký hồi trước
mình đang đọc dở. Em đọc được tới đâu. Tôi nhắc đoạn mình đã đọc
đến. Chị Lan nhìn tôi cảm mến. Chị đưa tôi vào ở trong nhà, bắt
đầu hỏi chuyện, nhà tôi đâu, sao lại bỏ đi. Sau đó chị bảo tôi có
thể đọc bất cứ cuốn sách nào tôi thích trong tiệm sách. Một tuần
sau chị đèo tôi ra bến xe, mua vé cho tôi về Sài Gòn.
Thấy tôi về, bà nội lo lắng. Bà đang
tính gửi tiếp đứa em kế tôi cho một nhà Dòng khác. Ở nhà Dòng
được ăn no ngủ ấm sao con lại về. Con nhớ các em, con nhớ bà nội.
Bà ôm thằng cháu. Bà thôi không gửi đứa nào của bà đi nữa.
Ngôi nhà chúng tôi ở giữa xóm đạo Vĩnh
Hội, kế bên hãng thuốc lá Bastos, trước mặt là xóm ghe chiếu nằm
bập bềnh trên con kinh Tàu Hũ.
Một xóm đạo nhỏ với chín ngôi nhà được
đánh số từ 158/1 đến 158/9. Sân nhà thờ là sân ngôi trường nhỏ
Saint Anna, với những Dì phước Dòng Mến Thánh Giá – Chợ Quán hiền
lành. Sân nhà thờ cũng là sân chơi của bọn trẻ. Những đứa trẻ con
nhà nghèo cùng lớn lên, thân thiết nhau.
Đi xưng tội nha. Đi xưng tội chưa. Cứ
đến thứ Bảy là con Dung nhắc tôi. Nhắc xong nó nhìn tôi cười tinh
quái.
Con Dung
học sau tôi một lớp nhưng hai đứa cứ xưng tao mày. Nó không xinh
lắm nhưng có cái răng khểnh duyên. Dung hát hay, được vào ca
đoàn.
Hồi mười
lăm, mười sáu tuổi tôi là chuyên gia gánh nước. Nhà nó có đồng hồ
nước. Bố mẹ nó cho cả xóm hứng nước không lấy tiền. Tôi vác cặp
thùng đến nhà nó chơi cả tiếng đồng hồ nói ba chuyện vớ vẩn. Một
lần, vô tình, đứng từ phía sau tôi hít thở mùi tóc nó. Tôi không
biết đó là mùi bồ kết hay tinh dầu nào, chỉ thấy một hương thơm
dễ chịu. Mấy ngày sau đó nó tránh né tôi. Hình như nó phát hiện
có gì hơi khác lạ từ phía tôi. Rồi chuyện đó cũng bị lờ đi. Hai
đứa vẫn rủ nhau đi chơi, xem phim.
Ngày 01/11/1968 là ngày quốc khánh. Với
bên Công giáo đó cũng là một ngày lễ lớn. Con Dung hẹn tôi lễ
xong đi chơi, đi ăn kem. Tôi đứng dưới sân chờ. Nó đang hát thánh
ca ở trên lầu.
Khi đó khoảng 5 giờ 30 phút sáng. Nhà
thờ chật ních người đi lễ. Tất cả đang cùng linh mục chủ tế hướng
tâm hồn về Thiên Chúa.
Một chớp lửa lóe lên. Bóng tối bao phủ.
Hơn một phút sau không gian mới vỡ òa. Tiếng la hét. Gạch ngói
ngổn ngang. Người ta cố gắng đưa người bị thương đi cấp cứu
trước, sau đó những cái xác được kéo ra. Những xác chết được kéo
ra. Sáu mươi người bị thương. Hai mươi cái xác.
Một trái hỏa tiễn từ hướng Rừng Sát bay
vào Sài Gòn, đi thẳng đến đây.
Hai ngày sau, đoàn xe tang rời sân nhà
thờ đi về nghĩa trang, mang theo Maria Nguyễn Thị Dung mười bảy
tuổi ngoan đạo của tôi.
Chiến tranh! Nó đã đến!
Tôi đã nghe biết chiến tranh trước đó.
Nhưng luôn nghĩ nó ở tận đâu đâu. Chiến tranh chỉ là trong sách
vở, trong các bài hát. Trận Mậu Thân đã xảy ra nhưng không phải ở
chỗ chúng tôi. Những buổi tối chơi ở sân nhà thờ, nhìn lên trời
luôn thấy hỏa châu thả sáng cả thành phố. Rồi tiếng đại bác từ xa
vọng về. Chiến tranh khi đó với tôi là như thế.
Mười tám tuổi. Chiến tranh đã hiện ra
trước mặt. Tôi lên đường, thực hiện bổn phận một công dân.
Ông ra Nha Trang sống với tôi đi. Thấy
tội nghiệp ông quá. Quên hết mọi thứ, đừng nghĩ gì nữa. Quỳ nói
với tôi khi vào Sài Gòn tìm thăm tôi, một ngày đầu tháng Sáu năm
bảy lăm.
Hai
đứa ra phố. Quỳ ghé vào cửa hàng mua cho tôi mấy cái khăn mùi
soa. Khi chờ gói hàng, Quỳ ngó chăm chăm vào gói tã trẻ em. Rồi
Quỳ ngước lên nhìn tôi cười. Chiến tranh qua rồi. Còn gì vướng
mắc giữa hai đứa nữa đâu.
Tôi nói với Quỳ ý định sẽ bỏ Sài Gòn ra
đi. Quỳ hiểu những điều tôi đang nghĩ. Không cản cũng không ủng
hộ. Hôm sau tôi tiễn Quỳ về Nha Trang. Có lẽ đó là sai lầm lớn
nhất trong đời tôi. Mộng rời Sài Gòn đi vào rừng quá lớn.
Chị em Quỳ ở trong trại gia binh, gần
nhà thờ Thăng Thiên, bên con dốc dài. Hai bên con dốc khi tôi đến
rải đầy sắc hoa vàng. Loài hoa dại chỉ có sắc không hương đặc
trưng xứ núi với tên gọi lãng mạn Dã quỳ. Loài hoa có mặt trong
thơ văn nhạc họa của bao anh lính biên trấn mộng mơ. Hai chị em
được mẹ gọi tên hai loài hoa là Dã Quỳ và Đỗ Quyên. Người mẹ ấy
ra đi ở tuổi đời còn quá trẻ, để lại hai đứa con gái bé bỏng với
người chồng là quân nhân.
Hoàn cảnh gia đình đặc biệt vậy nên Quỳ
sớm trưởng thành, chững chạc. Trại gia binh chỉ có đàn bà và trẻ
con. Những người mẹ, người chị phải biết làm nhiều việc thường
ngày của đàn ông. Một lần đến chơi, tôi thấy nàng đang leo lên
ghế sửa đường điện. Tôi muốn giúp nhưng nàng lại giàu kinh nghiệm
sửa điện hơn cả tôi.
Dã quỳ, trước đây đụng đâu tôi giẵm
đấy, quen nàng rồi thấy hoa tự nhiên tôi có ý thức. Một đêm về
hậu cứ, tôi chép cho nàng những câu thơ của Cao Thoại Châu mà tôi
nghĩ là nàng thích.
“Nghe lòng mình cùng phố núi chao
nghiêng
Nai gõ móng trên thềm đá cũ
Nghe đủ cả mừng vui buồn tủi
Dã quỳ ơi,
anh đã quay về”.
Xạo! Nịnh! Nàng nhận thơ, phê vào đó.
Tôi ngượng, từ đó chẳng dám chép thơ người khác thay lòng mình.
Mỗi lần theo trực thăng lên thăm, ba
nàng đều có món quà gì đó cho tôi. Lần này là một chiếc khăn và
áo len. Khăn nàng đan, áo len tự nàng chọn mua. Tôi viết bài thơ
Áo tình xưa đáp lại. Nàng lại nhờ người gửi cho tôi cây thuốc lá.
Ba nàng là trại phó. Trong một lần ngồi
nhậu ông nói, mày với con gái tao mà không xong thì liệu hồn. Lần
khác ông lại nói, mày với con gái tao không xong thì chết với
tao. Lần cuối cùng tôi được uống với bố nàng là một đêm giá lạnh,
khi đó tôi chưa biết mình sắp phải chuồn khỏi thành phố này. Ông
nói, uống đi, khi nào thành con rể thì hẵng tính, giờ tao với mày
là đồng đội.
Tiền đồn cách Kontum 45 cây số theo đường chim bay. Sau đêm rượu
đó bố nàng đề nghị đưa tôi về D17 tại Pleiku. Về đây tôi được gặp
nàng nhiều hơn. Buổi tối hai đứa dạo loanh quanh qua đồi Đức Mẹ,
vô Biển Hồ.
Đi
với nàng tôi ý tứ lựa con đường ít gặp lính tụ tập. Tôi không
muốn nàng phải nghe mấy lời trêu ghẹo vọng ra từ quán nhậu trên
đường Tăng Bạt Hổ, Phan Đình Phùng, ngã tư Diệp Kính.
Một đêm về quá khuya, leo khỏi dốc tôi
thở than, đi chơi với em cực quá, mỗi lần đưa về xa quá. Quỳ
cười, thì ở lại đi, đừng về.
Tôi cà chớn, ngu gì, ở lại đưa hết
lương à. Nàng khiêu khích, không đưa lương thì lấy gì ăn. Cứ à ơi
như thế, chưa khi nào hai đứa nói với nhau được một lời nghiêm
chỉnh.
Đợi Quỳ
khuất vào trong hiên nhà, tôi mới ngất ngưởng đi về. Phố núi về
khuya đìu hiu. Vài chiếc xe tuần tiễu chầm chậm qua những con
đường ngắn có ánh đèn vàng vọt. Quán xá đã đóng cửa. Vài tên lính
chân thấp chân cao bá vai nhau đi về. Cái lạnh vừa đủ xo ro cho
tôi ôm đàn dạo bản nhạc mới bập bẹ được đôi câu:
“Where do I begin to tell the story of
how great a love can be...”
Quỳ làm thu ngân trong Hội Quán Phượng
Hoàng. Hội Quán này dành cho sĩ quan, loại cấp úy quèn như tôi
khó mà vào. Nhưng vì tôi làm ở Lực Lượng Đặc Biệt, bọn Quân Cảnh
chừa mặt, nên khi thích tôi vẫn lui tới thăm Quỳ.
Sáng đó hành quân về tôi thu được một
cây CKC. Súng xoàng thôi, nhưng tụi Mỹ muốn có để vác về nước
khoe chiến công. Một thằng ra giá. Tôi không bán mà đổi một khẩu
súng ngắn thời thượng của nó. Buổi sáng đổi súng, buổi chiều tôi
đút súng vào túi đi chơi. Vào hộp sĩ quan thấy Quỳ đang khóc.
Nàng vừa bị tên trung úy vỗ mông và nói lời bất nhã.
Tôi đi tới bàn tên trung úy. Nó nhìn
tôi ngạo nghễ: “ĐM, mày biết tao là ai không? Mày dám làm gì
tao?”
Nó ỷ thế
là cháu ruột ông Tướng Tư lệnh Quân Đoàn. Tôi rút súng ra, bắn
một phát vào đùi nó. Phát thứ hai. Nó quỳ lạy xin tha.
Ngay tối đó tôi đi trình diện Quân
Cảnh. Bị nhốt đến hai giờ sáng. Ông Trưởng đồn là đại úy Quân
Cảnh gọi điện cho ông sếp tôi, là đêm nay nếu đám kia kéo đến thì
ông không thể nào can thiệp được.
Ở Pleiku thế lực ông Tư Lệnh Quân Đoàn
rất mạnh. Bởi vậy, muộn nhất trong sáng mai phải giải quyết cho
tôi rời khỏi Pleiku.
Tôi chỉ kịp tìm Quỳ báo tin. Anh làm
vậy chi cho khổ thế này. Nét mặt nàng đau buồn thấy rõ.
Về Sài Gòn, tôi bị giam tại Quân Lao
một thời gian thì ra hội đồng kỷ luật. Tôi bị giáng xuống cấp
trung sĩ. Ba tôi từng là lính Nhảy Dù, bạn của ông là sếp lớn,
ông xin cho tôi về Lữ Đoàn Nhảy Dù. Đầu năm 1972 tôi ra Quảng Trị
tác chiến.
Nghe tin chiến sự ở Quảng Trị ghê gớm quá, Quỳ dắt em gái ra thăm
tôi. Ở Pleiku có mấy người sĩ quan Nhảy Dù, qua đó Quỳ hỏi thăm
được địa chỉ tôi.
Ở Huế có hậu trạm gọi ra Lữ Đoàn. Vừa
trải qua hai đợt không kích, Lữ Đoàn đang nằm dưỡng quân. Người
bạn bên Lữ Đoàn gọi điện báo tin tôi có người nhà đến thăm. Tôi
giật máy, hỏi lại người bạn câu nữa cho chắc. Ông giỡn hay thiệt
vậy, người con gái đó có gì lạ trên mặt không. Không tin hả, cô
ta có nốt ruồi ở gò má. Vậy là đúng Quỳ rồi. Ông sếp cho tôi 48
giờ phép vào Huế.
Nhìn thấy chị em Quỳ tôi cứ ngỡ như
trong mơ. Giữa chiến tranh mà chị dắt em ra tận đây thăm tôi. Tôi
không nói được câu gì. Đỗ Quyên thấy tôi mừng quá khóc mếu máo
tủi thân, con bé lo sợ tôi có thể bị thương hoặc đã chết rồi. Quỳ
đi thăm bố và thăm tôi nhiều lần ở chiến trường, đã quen với cảm
giác đi thăm lính nên biết dằn cảm xúc. Tôi nắm tay Quỳ, bàn tay
nàng run run.
Cậu trung sĩ mượn xe honda chở Đỗ Quyên đi thăm thành phố Huế,
tôi và Quỳ dạo chơi loanh quanh trong doanh trại. Chiều tối, tôi
ra thuê khách sạn Hương Giang cho hai chị em nghỉ.
Sáng hôm sau chúng tôi chia tay. Quỳ
hỏi tôi chừng nào thì đi phép. Tình hình này thì phép tắc gì. Quỳ
dặn tôi anh cố gắng giữ gìn, cầu nguyện Chúa hàng ngày. Quỳ vẫn
giữ được vẻ thản nhiên như hồi ở Pleiku đến thăm tôi.
Tôi lại cà chớn, “về không nhớ sao?”
“Có gì đâu nhớ, lần sau lại ra.” Sau
này tôi nghe người sĩ quan ngồi cùng chuyến bay với Quỳ nói lại,
cô gái ra thăm ông đó, cổ khóc từ khi lên máy bay cho tới khi
xuống.
Thời
gian ở Quảng Trị tôi có hai tháng đi hộ tống quan tài. Có một
loại máy bay chuyên chở quan tài từ Phú Bài về Sài Gòn vào ban
đêm.
Có những
ngày số xác của Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù đưa về chừng một
đại đội.
Vẫn
còn một nửa số nằm lại vì không đưa về được. Một lần có tên đào
ngũ lẻn vào sân bay, mò mẫm tìm gặp tôi. Tôi không ưa bọn đào
ngũ. Có ai ra trận mà không sợ. Sợ nhưng không được hèn. Tôi cũng
không ưa nghe kể lể hoàn cảnh. Nhưng lần này không hiểu sao tôi
lại nghe chăm chú. Vì mới gặp lại Quỳ mà tôi mềm lòng hơn chăng.
Con người ta mỗi lúc một khác.
Anh ta hơn tôi nhiều tuổi nhưng xưng
em. Em ở Long Xuyên, đã có vợ và sáu đứa con, ngày em đi vợ lại
mang bầu đứa thứ bảy.
Cuối cùng mục đích cũng là để được tôi
theo phi cơ về. Tôi đồng ý với điều kiện đưa cho tôi hai ngàn
đồng. Anh ta vét khắp túi quần áo chỉ được mấy trăm đồng. Tôi cho
một người ở lại. Mượn cho anh bộ đồ Nhảy Dù, coi như anh thay vị
trí người kia, đeo súng vào hộ tống.
Về tới Long Bình tôi đưa anh ta ra cổng
phi trường. Anh đưa tôi tiền, tôi không lấy. Anh ta nhìn tôi ngần
ngừ như muốn nói gì và xin tên tôi. Tôi không dám cho biết tên,
đề phòng có gì bất trắc anh ta khai tên mình ra thì phiền. Anh ta
lôi trong túi quần ra một cái gói. Mở bọc gói là đôi bông tai.
Anh ta nói:
“Ngày em bị bắt quân dịch vô Trung tâm 4 Cần Thơ vợ đến thăm đưa
cho em phòng thân.” Nay anh đã cứu mạng em, em xin biếu anh. Nhìn
đôi bông tai của người vợ, tôi ứa nước mắt. Tôi bảo anh cất đi.
Lòng hào hiệp lại nổi lên, tôi cho xe jeep chở anh ta về nhà bà
con ở Sài Gòn ngủ qua đêm, sáng mai sẽ bắt xe về Long Xuyên.
Bạn bè gặp tôi vẫn nói câu đó: Con Quỳ
đang chờ mày.
Năm 1975, tôi biết tin ba Quỳ đã bị giết. Tháng Hai năm 1975,
những người ở đơn vị cũ của ba đã thu xếp cho Dã Quỳ và em Đỗ
Quyên di tản về Nha Trang. Hai chị em nương nhờ trong một nhà thờ
gần Đồng Đế, sống bằng nghề thợ may.
Những ngày ở Pleiku tôi tự vấn lòng
mình. Mình có muốn cưới Quỳ không. Không có câu trả lời.
Có! Muốn! Nhưng chưa được đâu!
Ở Pleiku có quán cà phê Hoàng Lan mà
giới lính văn nghệ hay đến. Tôi đến uống cà phê gặp lúc tác giả
Lý Thụy Ý đang ngâm bài thơ “Tưởng như còn người yêu.” Bài thơ
tang tóc u ám.
Tôi đóng quân ở cầu số 3. Kế cầu số 3
là Quân Y Viện. Kế Quân Y Viện là nhà xác. Gần như ngày nào tôi
cũng chứng kiến cảnh những người vợ, người mẹ khóc lóc gào thét
lăn lộn.
Trung
úy Thuận cùng đơn vị tôi. Mỗi khi anh bước chân ra khỏi nhà là
chị vợ anh như người mất hồn, cứ ngồi chờ cho đến khi anh quay
về. Chị cứ ngồi bên cửa sổ ngóng ra con đường phía dưới dốc.
Tôi cũng đã chứng kiến cảnh một người
vợ đang ẵm con thì chiếc xe jeep nhà binh chạy đến cửa nhà, thắng
lại. Hai người lính trên xe nhảy xuống, bước vào nhà, đưa lá thư.
Đó là một lá thư báo tử.
Đáng sợ không phải là cái chết của tôi,
mà là những gì người ta phải chịu đựng vì tôi.
Chín ngôi nhà xóm đạo ở quận Tư của tôi
đã có sáu người con tử trận. Khi một thằng bạn tôi chết, ba tôi
nói:
“Nghe tin
về đám anh em bạn của mày tao khổ lắm, nhưng dù sao cũng còn nhẹ
lòng hơn hơn là chúng mày cứ lang thang ngoài đó, đêm nào cũng
phải thắp nhang.”
Những đêm không trực gác tôi đi bên Dã
Quỳ trong trái sáng chập choạng. Có khi lặng im, có khi nói
chuyện vu vơ, ăn một bát mì nóng rồi về. Qua khỏi dốc là tôi tần
ngần. Quỳ xinh quá. Cô ấy còn trẻ quá.
*
Mộng vào rừng quá lớn. Nếu gọi đó là lý
tưởng, thì lý tưởng bắt đầu hình thành khi vào quân đội, được
nuôi dưỡng trong môi trường quân đội.
Tôi bị giam ở Tuy Hòa, vài tháng Quỳ
lại đến thăm. Với tôi, Quỳ biết chẳng cần phải khuyên can động
viên gì.
“Ông
rán xong mà về. Không về Sài Gòn thì về Nha Trang với tôi.”
Quỳ không chờ tôi được nữa.
Cho tới khi ra khỏi trại, về ngồi trước
mộ em, tôi mới thấy tim mình tan vỡ. Tương lai mình vạch ra, sắp
xếp rồi, tưởng xong rồi. Tôi chỉ còn làm được một việc. Lập cho
em ngôi mộ đề lên đó tên mình.
Tôi quay về Sài Gòn. Bốn mươi tuổi. Tóc
đã bạc rồi. Làm đủ thứ việc kiếm cơm. Làm đủ thứ việc cho bớt
trống trải trong lòng.
Suy nghĩ cứ chậm dần. Ký ức thì lộn
xộn. Tôi bị ngã xe. Một vết cắt chảy máu trên đầu, người ta đỡ
tôi dậy, khiêng tôi vào nằm bên vệ đường.
Biên trấn, biên trấn một đi không trở
lại. Lỡ hẹn rồi đừng khóc nghe em...
Phan Thuý Hà
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Ba, July 30, 2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang