Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút Ký
Chủ đề:
trận cuối của tđ2pbnd
Tác giả: MĐ
Nguyễn Văn Lập
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tái chiếm Quảng Trị xong, Sư Đoàn Nhảy Dù tiếp tục đóng chốt trên dãy Trường Sơn làm thành một tuyến dài Bắc–Nam từ bờ Nam sông Thạch Hãn về đến Căn cứ Bastongne Tây–Bắc Huế, lúc này Hiệp định Paris đã ráo mực với những đợt xâm nhập của cộng sản Bắc Việt theo đường mòn Hồ Chí Minh nằm sâu trong dãy Trường Sơn âm u, chúng định cắt Quân Khu 1 làm đôi nên nhả bớt hoạt động nhưng vẫn duy trì áp lực để cầm chân hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến tại Quảng Trị để đánh vào Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam, nên Lữ Đoàn III Nhảy Dù được điều động làm thành một phòng tuyến kéo dài từ Hòa Thanh sát với Đèo Hải Vân đến bờ sông Thu Bồn để bảo vệ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I tại Đà Nẵng. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù cũng rút về đóng tại phi trường Non Nước.
Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù
của chúng tôi về đến Quảng Nam giữa tháng 2 năm 1975. Sau
gần 3 năm hành quân ngoài Trung, lần này tôi có cảm tưởng
đây là cuộc hành quân xuôi Nam lần cuối rồi giã từ vĩnh viễn
miền Trung. Trung Đội tôi đóng sát chân núi chỉ cách Đồi
1062 độ 8 cây số để yểm trợ cho nhiều trận đánh ác liệt tại
đây, Tiểu Đoàn 6 Dù rồi Tiểu Đoàn 3 Dù thay nhau tái chiếm
ngọn đồi máu này. Gần Tết, Pháo Binh Thủy Quân Lục Chiến đến
thay. Trung Đội tôi rút ra đóng chung với Bộ Chỉ Huy 1 Tiểu
Đoàn Địa Phương Quân tại một ngọn đồi thoai thoải phía trước
quận Đại Lộc, ngó xuống Cầu Gãy. Nhiệm vụ bây giờ chỉ là yểm
trợ tổng quát tăng cường cho các đơn vị bạn, nên chúng tôi
có thì giờ đi vào làng dân thăm hiểu tình hình, luôn tiện
làm công tác dân sự vụ. Mặc dù không phải là nhiệm vụ chính
của đơn vị tác chiến như chúng tôi, nhưng thấy tình cảnh
đồng bào nghèo khổ tội nghiệp quá, đau yếu thuốc men gì cũng
không có, nên tôi bảo Y tá có bất cứ loại thuốc gì có thể
cho thì cho đồng bào rồi báo cáo xin lại sau, và gạo sấy thì
tặng cho bà con hết, kể cả một số gạo thặng dư hằng ngày
thay vì bán để mua thêm thức ăn cho Trung Đội, tôi cũng bảo
đem cho hết. Ngày 30 Tết, Ban đại diện ấp và bà con đem bánh
tét và bánh tổ là một loại đặc sản Quảng Nam đến tặng cho
Trung Đội tôi ăn Tết, tình nghĩa quân dân thật thắm thiết,
nghĩ lại câu nói “bạc như dân bất nhân như lính” mà tôi nghe
trước đây thật đúng là xuyên tạc. Viên trưởng ấp nói với tôi
quân đội mình tốt quá, ở đây thường mất an ninh, nếu Nhảy Dù
mà rút đi chắc bà con chúng tôi cũng bỏ làng đi theo. Câu
nói này đã in sâu vào lòng tôi nhiều năm sau này, và tôi
tiếc là khi chúng tôi rời Quảng Nam vài ngày sau đó để xuôi
Nam thì đồng bào Đại Lộc không theo chúng tôi được.
Khi Thủy Quân Lục Chiến hoàn toàn thay thế Nhảy Dù tại mặt
trận Thường Đức thì Sư Đoàn Nhảy Dù được lệnh về hậu cứ,
chúng tôi hoàn toàn không ngờ đây là một cái lệnh bỏ Quân
Khu 1. Tôi được Tiểu Đoàn điều động ở lại sau chót để thu
dọn quân dụng lên Hải Vận Hạm 505 về Sài Gòn. Sau gần 2 ngày
lênh đênh trên biển, thay vì về Sài Gòn, tàu đưa chúng tôi
vào Quân cảng Cam Ranh rồi quân xa chở chúng tôi về Dục Mỹ.
Lữ Đoàn III Nhảy Dù đã có mặt ở Khánh Dương để chận bước
tiến của đại quân cộng sản sau khi Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu có ý định bỏ nốt Quân Khu 2. Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng
Nguyễn Ngọc Triệu giao cho tôi nhiệm vụ làm Sĩ quan Liên lạc
Lữ Đoàn III Dù, nếu tôi về trước đó 1 ngày thì có lẽ không
bao giờ có việc cầm bút viết lại hồi ký này vì tôi sẽ được
thay thế cho Đại uý Tuấn, Pháo Đội trưởng A2 bị bệnh nên Đại
uý Tống văn Tùng, khoá 26 Thủ Đức, và cũng là bạn học cùng
lớp với tôi suốt 4 năm Trung học Trần Lục, nay là Phụ tá Ban
3 vào thay, sau trận Khánh Dương, Tùng bị bắt, và bị bọn
cộng sản Bắc Việt đem ra Sân vận động Nha Trang xử tử.
Theo nhiệm vụ, tôi được quyền xin toàn bộ hỏa lực của
Trường Pháo Binh Dục Mỹ gồm 1 Pháo Đội 105ly, 1 Pháo Đội
155ly, và 1 Liên Đội 175ly gồm 3 khẩu để tác xạ tăng cường
cho Lữ Đoàn III Nhảy Dù gồm các Tiểu Đoàn 2, 5, và 6 Nhảy Dù
đóng từ Khánh Dương tức cửa ngõ vào tỉnh Ban Mê Thuột chạy
dài đến phía Bắc của Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn. Còn Tiểu
Đoàn tôi yểm trợ trực tiếp cho các đơn vị tác chiến thuộc Lữ
Đoàn III Nhảy Dù với gồm 18 khẩu đại bác 105ly kiểu M102
kích nòng bắn cực nhanh mà chính Pháo Binh Hoa Kỳ cũng không
được trang bị, vì chỉ dành riêng cho Pháo Binh Nhảy Dù Việt
Nam Cộng Hòa là đơn vị duy nhất sử dụng loại vũ khí này cho
thích hợp với đặc tính di động nhẹ.
Sau khi Ban Mê
Thuột thất thủ, toàn bộ các đơn vị đồn trú rút hết về Nam
qua Quốc lộ số 21, và bây giờ Lữ Đoàn III Nhảy Dù phải 1
mình ngăn chận các Sư Đoàn 3 và 10, và 1 số đơn vị khác của
Cộng quân tại đây, tương quan lực lượng cỡ 1 chống 10 làm
tôi nhớ lại ngày nào Tiểu Đoàn 11 Dù tử thủ Charlie tại
Kontum, nay sẽ giống hệt như Lữ Đoàn III Dù tại Khánh Dương.
Cộng quân áp lực khắp nơi từ cả 2 mặt Đông và Tây núi non
hiểm trở, còn Quốc lộ 21 thì cộng sản không dám theo đường
bộ tràn xuống, bộ binh và xe tăng của địch theo những đường
mòn trong rừng núi đánh ra đến đèo Phượng Hoàng (M’Drak) thì
bị chận lại, hàng trăm xác Việt cộng bị bỏ thây tại đây cùng
với 1 xe tăng T54, tình hình chiến sự đè nặng lên vai bố già
Lữ đoàn trưởng Đại tá Lê Văn Phát. Không ai bảo ai, mọi
người đều biết tình hình này khó thể kéo dài nếu không có
quân tiếp viện, suốt trong 1 tuần lễ và nhất là trong 2 ngày
29 và 30 tháng 3 năm 1975, các đơn vị Lữ Đoàn đụng độ liên
tục với Cộng quân, Pháo Binh Nhảy Dù cùng Pháo Binh Cộng
quân đấu pháo hầu như liên tục. Có lẽ tôi là một pháo thủ
duy nhất lần đầu tiên được sử dụng toàn bộ hỏa lực của
Trường Mẹ để yểm trợ chiến trường ác liệt cách Trường Pháo
Binh không xa, tôi đã gọi bắn gần như liên tục ngày đêm các
mục tiêu phản pháo hoặc tiêu hủy với đại bác 175ly, và nhiều
tuyến cản với đại bác 155ly và 105ly, ngoài các mục tiêu mà
các Sĩ quan Liên lạc từ các Tiểu Đoàn Dù xin bắn, tôi còn
phải chấm thêm nhiều tuyến cản để tác xạ. Cộng quân không
pháo kích Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn mà chỉ đánh các Tiểu Đoàn Dù
bằng pháo kích với Pháo Binh và xe tăng xong rồi bộ binh
xung phong theo chiến thuật cổ điển tiền pháo hậu xung,
Không Quân của ta từ phi trường Thành Sơn lên yểm trợ cũng
không được hữu hiệu lắm đối với các chiến trường xé lẻ và
tiếp cận hàng chục thước như thế này.
Đến tảng sáng ngày 31/3/1975
thì toàn thể các đơn vị tác chiến kể cả các Pháo Đội Pháo
Binh Dù bị tràn ngập, và trước khi rút đi đã phá hủy hết đại
bác. Không hiểu sao Trường Pháo Binh nghe được và tự động
ngưng tác xạ, tôi gọi mãi để chuẩn bị nếu các đơn vị bạn yêu
cầu thì bắn ngay trên đầu cùng chết với địch tức là “đồng ư
quy tận”, nhưng không có 1 đài nào trả lời hết. Độ nửa tiếng
sau tôi nghe tiếng động cơ nổ liên tục tại Trường Pháo Binh
mà sau cùng là tiếng xích sắt của các khẩu pháo 175ly. Có lẽ
Trường Pháo Binh đã nhận lệnh di tản từ ở đâu đâu trước đây
nên tự động tan hàng, kế đến là Trung Tâm Huấn Luyện Biệt
Động Quân Dục Mỹ nằm sát bên cũng tự động rút đi, và sau
cùng là Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn. Một số các đơn vị
thuộc Lữ Đoàn III Nhảy Dù hiện đang im lặng vô tuyến rời bỏ
vị trí, chỉ biết là hầu hết bị địch tràn ngập, không 1 Đề lô
nào cũng như Sĩ quan Liên lạc Pháo Binh lên máy, mà có liên
lạc được giờ phút này cũng không còn hỏa lực Pháo Binh yểm
trợ nữa. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn III Dù ra lệnh rút và Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh Dù phải di tản theo về đèo Rù Rì, độ 1
tiếng sau là gỡ toàn bộ Căn cứ di tản ra khỏi phi trường Dục
Mỹ, tôi được lệnh ở lại Căn cứ với 1 máy truyền tin PRC25, 1
tài xế, và 1 chiếc xe Dodge. Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ
đoàn phó dặn tôi cứ ở tại phi trường chờ ông bay trực thăng
quan sát xong sẽ quay trở lại bốc tôi đi, việc để lại tài xế
với chiếc xe Dodge này mang ý nghĩa nếu ông không về đón thì
tôi sẽ cùng đệ tử chạy về đèo Rù Rì tìm Lữ Đoàn. Giờ này thì
cả huấn khu rộng lớn và phi trường Dục Mỹ chỉ còn có 1 mình
tôi và người đệ tử. Tôi nhìn về hướng Tây–Bắc nơi hình Núi
Vọng Phu vươn lên trên bầu trời nhạt nắng mai, người chinh
phụ cùng đứa con hóa đá kia đã bao năm sắt son đứng đợi
chồng về vẫn còn đứng đó, và ở dưới chân Bà, nhiều thế hệ
sau đang viết tiếp 1 chương bi thảm của những người đi chinh
chiến không về, lịch sử là 1 sự lặp lại không ngừng. Trong
niềm đau thương u uất đó, tôi mong nghe có tiếng gọi của
đồng đội tôi thuộc bất cứ đơn vị nào tìm đường ra Quốc lộ,
tôi sẽ hướng dẫn như đã làm trong quá khứ, nhưng không thấy
ai lên tiếng. Gần 1 tiếng rồi không thấy trực thăng của
Trung tá Khôi bay về, tôi mở các tần số gọi liên tục, vô
vọng, kể cả tiếng Trung tá Khôi cũng không thấy trả lời. Tôi
lên xe bảo người tài xế mở máy trực chỉ về Nha Trang.
Dọc đường, đồng bào bằng đủ mọi phương tiện xe đò,
Honda, xe bò, kể cả đi bộ, có người trên vai gánh cái gia
tài vô giá là 2 người con nhỏ ngồi hai đầu, họ cũng xuôi Nam
theo chân Quân Đội Quốc Gia, họ đi theo đường Quân đội rút,
để tìm tự do. Để phục vụ cho âm mưu phản chiến, bọn phóng
viên khốn nạn nước ngoài chỉ giỏi loan báo những tin thất
thiệt xuyên tạc cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân miền
Nam, chúng không bao giờ có thì giờ tìm hiểu tại sao những
người dân lành lánh nạn cộng sản, tại sao đồng bào tôi lại
theo chân Quân Đội Quốc Gia về miền đất hứa bằng đôi chân tự
do như thế này. Xế trưa thì tôi về đến đèo Rù Rì gần Nha
Trang gặp lại Tiểu Đoàn, tôi trình với Thiếu tá Triệu là
không nghe bất cứ đài nào gọi. Độ nửa tiếng sau, Trung tá
Khôi cũng bay về, ông hỏi tôi sao không đợi, tôi trả lời cả
1 huấn khu to lớn như thế rút hết, chỉ còn 2 thầy trò tôi và
không liên lạc được ai nữa nên phải về đây. Lúc này tôi cũng
không rõ Lữ Đoàn sẽ đi đâu, vào Nha Trang hay về Sài Gòn
theo đường bộ. Sau đó thì có lệnh rút về Quân cảng Cam Ranh.
Về đến cổng Quân cảng thì cả 1 rừng quân xa của nhiều Binh
chủng và dân xa đủ loại đã bít kín hết cổng ra vào, xe cộ
đậu dài cả chục cây số. Những người lính Quân Cảnh gác Cảng
chỉ biết lắc đầu nói không có tàu, tình cảnh này mà mở cổng
thì có trời cũng không cản nổi cảnh hỗn loạn.
Lúc gần
chiều thì Đại tá Phát Lữ đoàn trưởng quyết định rút về Phan
Rang theo đường bộ, khi đoàn xe của Lữ Đoàn trở đầu ra khỏi
Quân cảng thì toàn thể rừng xe cộ kia cũng tự động nối đuôi,
cặp bên hông là xe gắn máy của đồng bào, hàng ngàn xe cộ,
dân xa, chiến xa, đại bác, và Quân xa của 1 phần Quân Khu 2
đông cỡ chục ngàn người theo sau đoàn quân Mũ Đỏ cỡ trên 100
người mở đường tiến về Nam. Giữa cái khung cảnh bi hùng như
thế, tôi có cảm tưởng giống hệt như ngày xưa ông Môi Sen dẫn
dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ tìm về miền đất hứa lánh nạn
quân Ai Cập. Xe chạy khá chậm để phía sau theo kịp, thỉnh
thoảng phải dừng lại để quan sát dò đường. Mỗi lần ngừng
lại, chúng tôi năn nỉ đồng bào đừng chạy xe gắn máy cặp sát
xe chúng tôi, lỡ bị phục kích thì bị chết oan, nhưng đồng
bào cương quyết nói “Nhảy Dù đi đâu chúng tôi đi theo, có
chết chúng tôi cũng chịu”, đành phải để cho bà con chạy theo
như thế. Trong đời lính, nếu các bạn đã từng nghe được chính
miệng những người dân lành vô tội đã đặt hết sinh mạng và
tài sản vào tay Quân Đội Quốc Gia trong giờ phút tuyệt vọng
như thế này, mới thấy được sự hy sinh của người lính chúng
ta không phải vô ích. Ngồi trên xe, nhớ lại ngày mồng 2 Tết
năm 1973, tôi đi đề lô cho Tiểu Đoàn 2 Nhảy Dù của Thiếu tá
Nguyễn Đình Ngọc, có Đại Đội 1 Hắc Báo là 1 Đại Đội bộ binh
nổi tiếng nhất của Sư Đoàn 1 Bộ Binh do 1 viên Thiếu tá làm
Đại đội trưởng tăng cường đi chiếm lại làng An Lỗ nằm sát
ngay Quốc lộ số 1 Thừa Thiên, Việt cộng vi phạm Hiệp định
Paris, giành dân lấn đất, chúng đã lợi dụng ngưng bắn, chiếm
trọn làng này, và dùng đồng bào làm bia đỡ đạn. Tôn trọng
lệnh ngưng bắn, chúng tôi không sử dụng Pháo Binh để yểm
trợ, Hắc Báo làm trừ bị, Nhảy Dù dàn hàng ngang làm nỗ lực
chính, cẩn thận chiếm lại từng ngôi nhà với lệnh cố gắng tối
đa bằng mọi giá không làm thiệt hại đến tính mạng và nhà cửa
của đồng bào, chiếm đến đâu giao cho Hắc Báo giữ đến đó. Khi
chiếm lại toàn bộ xã, bắt sống cũng như hạ tại chỗ nhiều
địch quân, nhà cửa của đồng bào hầu như còn nguyên vẹn,
không 1 người lính Dù và đồng bào nào bị tử thương, còn hơn
là phép lạ.
Đến Du Long thì trời đã tối, nhìn lại
phía sau, cả chục cây số đèn pha sáng trưng, nguyên 1 góc
trời đèn xe như 1 con giao long đang uốn khúc, sáng long
lanh trong đêm hoa đăng bi thảm, đêm nay đồng bào Khánh Hòa
bỏ phiếu cho tự do, không cần biết về đâu miễn Quân Đội Quốc
Gia đi đâu thì đồng bào đi theo đến đó. Cũng may, không 1
tiếng súng nào nổ thêm trong đêm này và toàn bộ đoàn quân
dân về đến Phan Rang bình an vô sự.
Xe của Nhảy Dù
chạy đi đâu thì đoàn xe khổng lồ phía sau cũng nối đuôi, đến
khoảng 3:00g sáng ngày 01/4/1975 thì vào đến Phan Rang, xe
chạy ra sát biển thì dừng lại, còn đoàn xe đã tháp tùng
chúng tôi thì tiếp tục cuộc hành trình vô Nam và đến Phan
Thiết trong ngày hôm đó. Lữ Đoàn III Dù nhận được lệnh mới
vào phi trường Thành Sơn, nay do Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không
Quân với con phượng hoàng Phan Rang, một vị tướng mặt trận,
Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang trấn nhậm, còn vị Tỉnh trưởng
Phan Rang, Đại tá Trần Văn Tự thì đang tá túc trong phi
trường đến ngày 07/4/1975 mới trở về nhiệm sở. Sáng hôm sau
ngày 2/4/1975, 1 Trung Đội thuộc Đại Đội chỉ huy của Lữ Đoàn
III Dù do 1 Trung sĩ hướng dẫn đi theo 1 viên Đại uý Địa
Phương Quân, vị này nguyên là Trưởng Ban 2 quận Châu thành,
Phan Rang nay được đề cử giữ chức tân Quận trưởng và được
Nhảy Dù hộ tống đi trấn an dân chúng. Tôi được lệnh đi theo
với nhiệm vụ chính là tìm đại bác 105ly nào của ta bỏ lại
còn sử dụng được thì sẽ kéo về phòng thủ phi trường, nhưng
tất cả đại bác kể cả 155ly đều bị phá nòng để lỡ rơi vào tay
địch thì không sử dụng được. Tại Tiểu khu Ninh Thuận, tôi đã
gặp người thay thế ông Tỉnh đang tá túc ở trong phi trường
là vị Trung tá Tiểu khu phó, đang liên lạc bằng tiếng Anh
với một chiếc trực thăng bay vòng vòng trên đầu nghe nói là
của một cựu cố vấn Mỹ đang hỏi thăm tình hình. Trong lúc chờ
đợi, tôi đi vòng vòng quanh tỉnh thì gặp 1 toán Thám Sát
Tỉnh (tiếng Anh là Province Recon Unit gọi tắt là PRU), anh
em này nhận ra tôi là cựu Huấn luyện viên CT tiền thân của
PRU, tay bắt mặt mừng, anh em cho biết tình hình trong tỉnh
vẫn tương đối yên ổn tuy có vài vụ cướp bóc, còn Việt cộng
thì chưa vào được thành phố. Tôi nói Nhảy Dù về giữ Phan
Rang, nếu thuận tiện anh em thông báo cho dân chúng biết.
Xong tôi từ giã và tiếp tục đi theo xe của Trung Đội Nhảy Dù
chạy vòng quanh thị xã tìm súng đại bác, rồi ra đến ngoại ô,
đến nơi đâu viên Đại uý Quận trưởng đều bắc loa nói Nhảy Dù
đã về Phan Rang xin bà con trở lại sinh hoạt bình thường.
Chỉ trong vòng 1 buổi sáng, đã thấy sinh khí có vẻ đã trở
lại với Phan Rang, vùng đất mà từ nay đã trở thành địa đầu
giới tuyến, nhưng tôi vẫn không tìm được khẩu đại bác nào
còn nguyên vẹn, Pháo Binh quyết định chiến trường, không có
pháo thì việc phòng thủ phi trường càng thêm khó khăn.
Tại cửa biển Phan Rang, sát 1 làng chài lưới, đồng bào
báo cáo có 1 bọn cướp có súng, lợi dụng tình hình sôi động
đã cướp bóc nhũng hại dân lành cả tháng nay, hiện bọn này
đang nằm ở nhà, xin quân đội đi bắt, viên đại uý không còn
quân này xin Nhảy Dù đi bắt cướp, tôi đề nghị viên Trung sĩ
Trưởng toán Nhảy Dù cho đi, và đã bắt được 2 tên cướp này
thật dễ dàng, trói lại rồi đưa ra ngay cửa biển nơi có chiếc
ghe của gia đình tên chánh đảng cướp đang neo tại bến. Bà
con nghe tin kéo đến thật đông, viên đại uý hỏi ý kiến bà
con xử trí như thế nào, mọi người đều hô to xử tử, nhanh như
chớp viên Đại uý Quận trưởng lập tức giơ M16 nhắm vào tên
Chánh đảng đang quỳ cách đó khoảng chục thước và bắn 3 phát,
tên Chánh đảng vừa giãy chết thì chiếc ghe kia cũng mở máy
chạy. Còn lại tên thứ hai thì có 1 vị bô lão nói là con và
xin tha, vì con ông chỉ là bị đồng bọn ép buộc, nay dân
chúng cũng xin bảo lãnh tha tội chết, tôi cũng nói thêm vào
xin đại uý tha cho nó, và thật giống như là xi nê, tên này
được viên Quận trưởng cởi trói và tha tại chỗ giống như “Not
guilty” tại phiên tòa xử vô tội tại Mỹ. Chuyện này về sau
xem phim Hồng Kông, tôi có ý nghĩ ngộ nghĩnh là Nhảy Dù dẫn
Bao Công đi xử án tại Phan Rang.
Về đến Tiểu Đoàn,
tôi báo cáo mọi chuyện, Thiếu tá Triệu cắt tôi tiếp tục làm
Sĩ quan Liên lạc Lữ Đoàn đặt cạnh Bộ Chỉ Huy hành quân chiến
cuộc của Không Quân, và nhờ phương tiện liên lạc tốt của
Không Quân, tôi đã liên lạc được hải pháo Hoa Kỳ ngoài khơi
Hải phận Việt Nam qua một Sĩ quan Liên lạc hải pháo người
Việt. Tôi trình bày mọi việc và yêu cầu yểm trợ hải pháo khi
đụng trận, vì hiện nay chúng tôi không còn Pháo Binh, họ
chấp thuận yêu cầu trên nguyên tắc, nhưng sau đó đã lờ đi vì
Hoa Kỳ vĩnh viễn phủi tay với người bạn đồng minh. Ngày
9/4/1975 đã diễn ra một cuộc bốc quân cuối cùng và vĩ đại
nhất của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, Không Đoàn 72 chiến
thuật của Trung tá Lê Văn Bút đã dùng 40 trực thăng UH1B
cộng với 12 trực thăng võ trang, và 8 chiếc trực thăng
Chinook từ phi trường Biên Hòa ra bay ngược về Khánh Dương
bốc “Một slick duy nhất” được gần hết các Quân nhân Lữ Đoàn
III Nhảy Dù bị thất lạc gần 600 người mà đa số là Tiểu Đoàn
5 Nhảy Dù của Trung tá Bùi Quyền và một số anh em Tiểu Đoàn
2 và Tiểu Đoàn 6 Dù, còn riêng các Pháo Đội Nhảy Dù thì sau
này có người tìm ra được Quốc lộ và cuối cùng về đến đơn vị
chỉ được vài người, còn lại ngoài số bị tử trận, 1 số bị bắt
làm tù binh như Đại uý Nguyễn Thái Chân hàng chục năm sau
mới được trả tự do. Vài ngày sau, khi toàn bộ Lữ Đoàn II Dù
ra thay Lữ Đoàn III xong, và Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi ra
làm Tư lệnh mặt trận Phan Rang, thì Tiểu Đoàn tôi được lệnh
trở về hậu cứ Nguyễn Huệ để bổ sung lực lượng sau gần 3 năm
tham chiến tại miền Trung.
Qua cửa phi cơ nhìn xuống
Phan Rang, Quốc lộ số 1 với những hàng dừa ngút ngàn chạy
song song với biển Thái Bình Dương, tôi còn hình dung được
hơn 1 tuần trước, ở phía dưới kia đã diễn ra 1 đêm hoa đăng
bi thảm soi đường cho 1 cuộc di tản trong vòng trật tự, vì
tự do, vì đồng bào, chúng tôi đã ngồi dậy, và cầm súng tiếp
tục chiến đấu.
Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ
Sáu, May 16, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH