Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút ký
Chủ đề:
mùa qh–30t4đ
Các tác giả: MĐ
Trung tá Lê minh Ngọc & Thiếu tá Nguyễn đức Tâm
Giọng đọc:
Tài Nguyễn
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hàng
năm, cứ mỗi độ tháng Tư về, là thiên hạ lại thấy xuất hiện trên báo
chí và mạng lưới, những tin tức hình ảnh liên quan đến biến cố tháng
Tư năm 1975. Năm nay, cuốn “Cuộc
Triệt Thoái Cao Nguyên”
của tác giả Phạm Huấn bỗng được thấy đặc biệt chiếu cố, khai thác
đều trên các mạng lưới. Và tên tuổi Phạm Huấn được đặc biệt nhắc
nhở, đề cao. Một nét đặc biệt hơn nữa: đến những chữ nghĩa trong
cuốn “Đại Thắng Mùa
Xuân” của
răng–đen–mã–tấu Văn Tiến Dũng, cũng được trang trọng trưng bày, xen
kẽ với chữ nghĩa của Phạm Huấn!... Lý do tại sao, xin dành quyền
thẩm định phê phán khách quan lại cho quý độc giả, sau khi đọc xong
bài viết nhỏ bé này.Khoan thai mà nhận diện tin tức, chúng ta thấy
có hai phần khác nhau:
Phần 1 là những trích dẫn từ ngay
trong chính cuốn “Cuộc
Triệt Thoái Cao Nguyên”
của tác giả Phạm Huấn. Và phần 2, là những bài viết khác, nhưng cũng
nhằm vào một hướng: mạt sát Miền Nam Việt Nam ngày trước!
Hãy
bắt đầu bằng những trích dẫn từ ngay trong cuốn “Cuộc
Triệt Thoái Cao Nguyên”.
Trong phần này, trên
nhiều mạng lưới, thấy có trích ra nhiều đoạn, mô tả nhiều diễn tiến
dồn dập, ào ạt, nóng bỏng. Trong dòng diễn tiến cuồn cuộn đó, có một
đoạn trích dẫn “bắt mắt” tôi nhất. Bắt mắt tôi, vì cường độ chữ
nghĩa của tác giả cũng có, và vì giá trị xác tín của nguồn tin cũng
có.
Xin chép lại nguyên văn đoạn này:
“Lữ đoàn 3
Nhẩy Dù tăng phái cho mặt trận Khánh Dương, buông súng trưa ngày
1.4.1975, sau khi vỡ tuyến, bị tràn ngập, và không còn được tiếp tế,
liên lạc được với Quân đoàn II. Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù bị tổn thất 70%
lực lượng. Đó là thực trạng và tinh thần chiến đấu của các đơn vị
chủ lực Quân Đoàn II, và Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù trong những ngày sau
cùng trên chiến trường Cao Nguyên, Pleiku, Kontum, Nha Trang: Chưa
đánh đã bỏ chạy! Đúng!”...
Nếu là người dưng nước lã,
đọc thoáng qua, chắc tôi cũng chỉ dửng dưng đọc tiếp. Nhưng riêng
tôi, không là người dưng nước lã với Lữ Đoàn III Nhảy Dù. Tôi đã có
những tháng năm phục vụ trong đơn vị này. Sự thật không phải như
vậy. Hoàn toàn không.
Nhân đây, tôi cố gắng trình bày lại,
hầu quý độc giả, tất cả những diễn tiến, mà các đơn vị Nhảy Dù Việt
Nam có tham dự trong những tháng ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Trước khi mổ xẻ đoạn văn của Phạm Huấn trên đây, tôi xin thưa trước
một điều.
Vì nhu cầu trình bày mạch lạc tin tức dữ kiện, để
Quý Vị dễ theo dõi, sẽ có đôi lúc tôi phải viết lên liên hệ của cá
nhân tôi với các đơn vị này. Xin đừng hiểu lầm, là người viết muốn
nói về “cái tôi” của mình.
Trong biển lửa mênh mông và cường
độ khốc liệt của cuộc chiến bất hạnh đó, tôi nghĩ, và tôi chắc rằng,
mỗi chúng ta chưa đáng là con đom đóm. Từ các cấp lãnh đạo, chỉ huy
của Việt Nam, cho đến cả Đại sứ Mérillon của Pháp, ngay cả chính Đại
sứ Graham Martin của Mỹ, cũng chỉ là nạn nhân, phục vụ cho quyền lợi
kinh tế và chiến lược tối thượng của Hoa Kỳ và Trung cộng. Ra hải
ngoại này, “cái tôi” là điều mà đại đa số quý vị độc giả, trong đó
có chính tôi, đã quá kinh tởm, trong rừng lúc nhúc các “bút ký chán
chường”!
Trọn năm 1973, tôi là Lữ đoàn phó Lữ Đoàn này, hành
quân vùng “Động Ông Đô” ở Quảng Trị. Đụng chạm suốt năm, nhiều kỷ
niệm mồ hôi xương máu, ký ức còn nóng hổi như mới ngày hôm qua.
Tháng năm 1974, Bộ Tư Lệnh Nhảy Dù bổ
nhậm tôi làm Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn II Nhảy Dù, thay thế Đại tá
Nguyễn Thu Lương (K4TĐ).
CÁC CHIẾN SĨ NHẢY DÙ NGHỈ
NGƠI TRÊN QUỐC LỘ, SAU MỘT CUỘC HÀNH QUÂN TRUY LÙNG ĐỊCH
QUÂN: Lữ Đoàn II Nhảy Dù ở lại bắc Quảng Trị, trách nhiệm vùng
khoảng phía tây Phong Điền/La Vang, dưới sự phối hợp và kiểm soát
hành quân của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Thủy Quân Lục
Chiến. Còn lại, SĐND (–) được Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư
lệnh Quân Đoàn I điều động về nam đèo Hải Vân để giúp trấn giữ Đà
Nẵng.
Hòa Đàm Ba Lê kết thúc ngày 27 tháng giêng năm 1973:
Henry Kissinger và Lê Đức Thọ được giải “Nobel Hòa Bình” sau đó,
là bản án bức tử cho “đồng minh” Nam Việt Nam, vì quyền lợi chính
trị và chiến lược của chính “đồng minh” Hoa Kỳ! Cộng sản Hà Nội
không còn có nhu cầu nhắm chiếm Huế để làm “thủ đô” cho Nguyễn
Hữu Thọ và Nguyễn Thị Bình nữa. Họ dồn áp lực tối đa vào Đà Nẵng
và Ban Mê Thuột, và mục tiêu tối hậu là... Sài Gòn.
Sau
đúng 1 năm ở lại Quảng Trị, tháng 12 năm 1974, tôi bất thần lại
được Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng, Tư lệnh Dù sau cùng, cho lệnh
tôi bàn giao LĐIIND ngược lại cho Đại tá Nguyễn Thu Lương.
Tôi trở về BTL/Phòng 3 Hành Quân (ở Non Nước, Đà Nẵng) nhận
lệnh mới. Tiễn tôi ra trực thăng chỉ huy, là “Moshe Dayan” Trung
tá Lữ đoàn phó Trần Văn Sơn K8TĐ. Anh em Dù gọi Sơn như vậy, vì
Sơn đã bị thương mất một mắt, ngày còn là Đại đội trưởng ở
TĐ5ND, nhưng vẫn tình nguyện ở lại với đơn vị.
Tại căn cứ
Non Nước, công việc của tôi hằng ngày là bay đi kiểm soát phần
huấn luyện của các đơn vị Nhảy Dù “Đa Năng”. Đây là những trung
đội và đại đội, được rút ra từ 6 Tiểu Đoàn Nhảy Dù cũ đang tham
chiến trong vùng Thường Đức và Đại Lộc, phía tây Đà Nẵng, thuộc
các LĐIND (Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh K15VB) và LĐIIIND (Đại tá
Lê Văn Phát). Khi tôi còn trách nhiệm LĐIIND tại bắc Hải Vân
trong năm 1974, chính tôi cũng nhận được lệnh rút các trung đội
và đại đội từ các tiểu đoàn cơ hữu của tôi (TĐ5, 7, và 11 ND),
gởi đi huấn luyện “Đa Năng”.
Địa điểm huấn luyện nằm ngay
trong vùng trách nhiệm hành quân của LĐIIIND, phía tây Đà Nẵng,
nên tôi gặp “Bố Già” Phát rất thường xuyên.
Các đơn vị
huấn luyện, đi “bứng chốt” ban ngày, và chạm địch ban đêm như cơm
bữa.
Hạ tuần tháng Giêng năm 1975, tôi được lệnh Chuẩn
tướng Lục Quân Lưỡng, đưa “Lữ Đoàn IV Nhảy Dù”, đơn vị có cái tên
mới cáu cạnh, về Sài Gòn nhận lệnh Bộ Tổng Tham Mưu (vì Bộ Tư
Lệnh/SĐND còn ở Đà Nẵng).
Khi kéo quân ra khỏi vùng hành
quân của LĐIIIND, tôi hỏi “Bố Già” Phát:
“Đại tá
Lương đang ở đây, sao ông tướng không để Đại tá Lương đi, mà
kéo tới kéo lui chi rắc rối vậy, đại tá có biết không”?
Tôi hỏi vậy, vì các Tướng Bùi Thế Lân, Tướng Lê Quang Lưỡng,
Tướng Ngô Quang Trưởng, và hai ông đại tá này là bạn cùng Khoá
4TĐ với nhau. Giọng Bố Già Phát bỗng nghiêm trọng hơn thường
ngày:
– “Ở đây nặng, nhưng đơn giản. Chỉ có thằng Việt
cộng trước mặt thôi. Mấy năm nay, TQLC và Dù không được về Sài
Gòn. Về đó, Ngọc nhớ phải thận trọng mọi mặt...”
Sáng
ngày 20 tháng Giêng năm 1975, tôi đang ngồi trên xe Jeep tại bến
tầu Đà Nẵng để xem các Tiểu đoàn chuyển quân xuống chiến hạm của
HQVN để về Vũng Tầu, thì Chuẩn tướng Lưỡng đến nơi bằng xe. Ông
hỏi diễn tiến công việc ra sao. Tôi trình bày vắn tắt, là suôn sẻ
như kế hoạch. Và nhân đó, có hỏi “mi mí” ông tướng, xem nhiệm vụ
của tôi ở Sài Gòn trong vài ngày sắp tới, đại khái như thế nào.
Tướng Lê Quang Lưỡng đăm chiêu:
– “Đánh rắn, phải
đánh giập đầu. Đáng lẽ phải có Tổng Trừ Bị bảo vệ Biệt Khu Thủ Đô
và Tổng Tham Mưu từ sớm hơn, như hồi Mậu Thân vậy. Anh về đó,
tình hình sẽ không nhẹ nhàng gì hơn ngoài này đâu. Khác với các
Lữ Đoàn còn lại đây, là tình hình có thể đột biến bất ngờ, mà anh
chỉ có một mình. Ngoài việc điều binh ra, anh phải cảnh giác luôn
luôn, báo cáo chặt chẽ với tôi. Trường hợp thật đặc biệt, phải có
lệnh của tôi”.
Ông tướng không nói rõ, nhưng tôi đã
hiểu mi mí, qua câu nói của ông anh “Bố Già” Lê Văn Phát. Dĩ
nhiên, chuyện loại này, chả ông nào nói rõ trước cả. May quá,
thời cuộc không xoay chuyển về hướng đó. Sau này, đọc hồi ký của
Tướng Lê Quang Lưỡng ở hải ngoại, mới thấy ông nói rõ hơn.
Và ông tướng vội vã ra đi, trước khi bảo tôi giao cho các
Tiểu đoàn trưởng đôn đốc việc hải hành. Còn tôi, thì ra ngay phi
trường, đã có nhân viên BTL/Phòng Tư lo phương tiện C–130 bay về
trước, trình diện Bộ Tổng Tham Mưu nhận lệnh.
Tôi ghi lại
đoạn này, để quý độc giả theo dõi mạch lạc hơn, vì trong những
biến cố sau cùng, các LĐIIND và LĐIVND vừa kể, lại sẽ còn dính
líu đến hoạt động của LĐIIIND, đơn vị đã bị Phạm Huấn khai tử
trước, trong cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên”, trước khi lịch
sử của cuộc chiến tranh lạnh thế kỷ thứ 20 bức tử Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa sau đó.
Tôi rời Bố Già Phát, nhưng không phải
vì thế mà tôi “mất dấu” Lữ Đoàn III Nhảy Dù.
Tình hình
điều động và tham chiến của các Lữ Đoàn và Tiểu Đoàn bạn trong
binh chủng, đều được ban tham mưu Lữ Đoàn thuyết trình hằng ngày.
Sau nhiều trận chạm địch, các Tiểu đoàn được hoán chuyển, để binh
sĩ được về thăm gia đình, đơn vị được bổ sung và chỉnh bị. Cho
nên tại vùng hành quân, ít khi các Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn có được đủ
mặt các Tiểu đoàn cơ hữu của mình.
Thường thì
mỗi Lữ Đoàn Nhảy Dù tham dự hành quân với 3 Tiểu đoàn tác chiến,
một Tiểu đoàn Pháo Binh ND, một Đại đội Công Binh ND, một Đại đội
Truyền Tin ND, một Đại đội Quân Y ND, một Đại đội Trinh sát ND,
và Đại đội Chỉ Huy Công Vụ (các ban tham mưu Lữ Đoàn, Quân cảnh,
An ninh, súng cối...)
Đúng 2 tháng sau khi tôi rời Vùng I
Chiến Thuật, thì SĐND cũng được Bộ Tổng Tham Mưu điều động về Sài
Gòn. LĐIIIND xuống tầu Hải Quân, rời Đà Nẵng ngày 15 tháng 3.
Đang lênh đênh trên biển, thì được lệnh tấp vào Cầu Đá Nha Trang:
LĐIIIND được tăng phái cho QĐII, theo đơn xin của Thiếu tướng Tư
Lệnh Phạm Văn Phú. Bộ Tư Lệnh/SĐND cùng các Lữ Đoàn I và II tiếp
tục hải hành về hướng Nam.
Đại tá Lê Văn Phát được lệnh
di quân gấp lên đèo Khánh Dương, lập phòng tuyến. Nhiệm vụ là:
trì hoãn trục tiến của các đơn vị Cộng quân, bọc hậu cho các đơn
vị bạn trong vùng giao phó.
Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ,
lực lượng Cộng quân ào ạt trên các trục đông tiến này, gồm có các
các Sư đoàn F10, 316, và 320 CSBV.
Trục địch quân đi ngay
vào tuyến án ngữ của LĐIIIND trên đèo Khánh Dương, chính là Sư
đoàn F10, cùng với một Trung đoàn chủ lực miền, và đặc công, giao
liên. Tổng cộng đông gấp 5 lần lực lượng của Nhảy Dù tại đây.
Cộng quân có đầy đủ pháo yểm, trong khi LĐIIIND chỉ có hỏa lực
của 1 Tiểu Đoàn pháo binh 105ly cơ hữu. Đó là tương quan lực
lượng chính xác tại đèo Khánh Dương ngày 17/3/1975.
Lúc
bấy giờ LĐIIIND của Bố Già Phát gồm có TĐ2ND (Thiếu tá Trần
Công Hạnh K20/VB), TĐ5ND (Trung tá Bùi Quyền K16VB), và TĐ6ND
(Trung tá Nguyễn Văn Thành, K9TĐ). Thiếu tá Nguyễn Ngọc Triệu là
Tiểu đoàn trưởng/TĐ2 Pháo Binh ND. Lữ đoàn phó là Trung tá
Trần Đăng Khôi K16VB.
Quân Nhảy Dù giữ vững đèo Khánh
Dương, chận đứng Sư Đoàn F10 tại đây cho đến ngày 22 tháng 3.
Sáng hôm đó, địch giảm cường độ tấn công, chỉ bám sát tuyến đang
chạm, nhưng lại tung 2 trung đoàn đánh bọc hông. Đại tá Phát
xin không yểm. Tướng Phú chấp thuận, nhưng lại không có phi tuần
để thỏa mãn yêu cầu. Tướng Phú cho lệnh LĐIIIND tuần tự lui quân
về nam, xa nhất là dừng lại Cam Ranh chờ lệnh.
Khi về
ngang Huấn Khu Dục Mỹ, Đại tá Phát có gặp Đại tá Nguyễn Hữu
Toán, chỉ huy trưởng Huấn Khu Dục Mỹ và Đại tá BĐQ Nguyễn Văn
Đại, Chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân, K8VB.
Đại tá Phát Nhảy Dù cho Đại tá Nguyễn Văn Đại BĐQ biết về
tình hình địch trước mặt, nói thẳng với Đại tá Đại hai điều. Một
là, địch đông hơn mình nhiều lần, có đủ tiếp liệu và hỏa yểm hùng
hậu. Còn mình thì đến hôm nay, khó còn trông cậy gì vào “ở trên”
và “sau lưng” nữa. Đại tá Phát hỏi Đại tá Đại có phụ giúp được gì
trong việc giữ an ninh trục lộ phía sau, dẫn về Ninh Hòa hay
không, vì địch thế nào cũng bọc hông đặt chốt để gây khó khăn cho
điều động chung của các đơn vị thuộc huấn khu này.
Đại
tá Đại đồng ý, và gửi Viễn Thám BĐQ đi thi hành. Nhờ vậy, cuộc
lui binh tại đây, thảm cảnh ở Quốc Lộ 7 đã không xảy ra.
LĐIIIND chưa về đến Cam Ranh. Ngày 30 tháng 3, mới về đến đèo Rù
Rì, phía bắc Nha trang, thì mất liên lạc với Bộ Tư Lệnh/QĐ II.
Đại tá Phát không còn cách nào khác hơn, là phải liên lạc thẳng
về BTL/SĐND ở Sài Gòn bằng máy GRC–106 để xin lệnh.
Lệnh
của Tướng Lưỡng cho LĐIIIND là trực chỉ phi trường Bửu Sơn–Phan
Rang, để phối hợp với Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư Lệnh SĐ6KQ,
tổ chức phòng thủ phi trường này, và tái lập an ninh trật tự tại
hai thị xã Phan Rang và Tháp Chàm.
Ổn định vừa được Nhảy
Dù phục hồi tại đây, thì Trung Ương cử Trung tướng Nguyễn Vĩnh
Nghi ra đến, đặt Bộ Tư Lệnh nhẹ của Quân Đoàn III tại Bửu Sơn
đúng ngày 1 tháng 4 năm 1975.
Trước mặt Trung tướng Nguyễn
Vĩnh Nghi, LĐIIIND vẫn còn cầm súng trên tay, và đang hiển hiện
là niềm tin tưởng, là nỗi vững tâm của quân dân Tháp Chàm–Phan
Rang, của Tiểu Khu Ninh Thuận.
Vậy LĐIIIND nào chưa đánh,
đã buông súng bỏ chạy, đầu hàng?!
Ngày 4 tháng 4, LĐIIIND
được Tướng Lê Quang Lưỡng cho thay thế bằng LĐIIND, do Đại tá
Nguyễn Thu Lương đưa ra Bửu Sơn bằng vận tải cơ C–130. Không Quân
VN chuyển các Tiểu Đoàn 3, 7, và 11 Nhảy Dù đến Bửu Sơn, và bốc
các Tiểu Đoàn 2, 5, và 6 Nhảy Dù về Tân Sơn Nhất.
Lập tức
LĐIIIND được bổ sung và chỉnh bị nhanh chóng. Trung tá Trần Đăng
Khôi được bổ nhậm làm Lữ đoàn trưởng LĐIIIND, thay thế Bố Già
Phát (lên Tham Mưu Phó Hành Quân BTL/SĐND).
Trở lại với
hai Lữ Đoàn IV Nhảy Dù tại Vùng III Chiến Thuật. Tôi từ Đà Nẵng
bay C–130 về Sài Gòn ngày 20 tháng giêng/1975, trình diện Bộ
TTM. Gặp Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3. Ông ta hỏi
tôi ngay về khả năng tham chiến của LĐIVND.
Tôi thưa, có 2
Tiểu đoàn sẵn sàng ngay, ba Tiểu đoàn nữa (15, 16, và 18) sẽ về
đến và sẵn sàng khoảng 2 tuần sau. Và tôi cũng không quên khai
thật, là tôi chưa có hậu cứ, chưa có Lữ đoàn Phó, nhất [là] chưa
có Pháo binh Nhảy Dù cơ hữu như các Lữ Đoàn cũ.
Tướng
Thọ vào đề: “Tôi ghi nhận những điều đó. TTM sẽ phối hợp với hậu
cứ Sư Đoàn Nhảy Dù lo tiếp cho anh. Bây giờ tình hình phía
Tây–bắc Biệt Khu Thủ Đô nghiêm trọng. Địch đã vượt sông Vàm Cỏ,
chiếm xã Lương Hòa. Vùng Đức Hòa Đức Huệ bị uy hiếp nặng nề. Phải
nhờ anh lên đó giúp họ ngay. Anh sang Phòng 2 nghe tình hình chi
tiết vùng này. Tôi nhờ Phòng Tư lo phương tiện cho anh lên đó”.
Hai ngày sau, tàu HQ cặp bến Sài Gòn. Tôi hướng dẫn hai Tiểu
Đoàn 12 và 14ND về tạm trú tại sân cờ của TĐ8ND trong Hoàng Hoa
Thám. Các Phòng sở của BTL/Hậu cứ đến, nhanh chóng giúp đỡ các
trang bị cần thiết. Tôi gọi các Tiểu đoàn trưởng đến, trải bản đồ
ra, chỉ tình hình và mục tiêu.
Và tôi nhấn mạnh trang bị:
bản đồ, điện trì, lựu đạn M–26 tối đa, phóng lựu M–79, và ống
phóng M–72 (vì không có pháo binh, khi hữu sự, sẽ phải đánh như
đơn vị khinh chiến).
Đoàn xe đến, LĐIVND “xuất hành” trận
đầu tay, trực chỉ lên hướng Tây Ninh. Đến “Thành Ông Năm” (một
trại Công Binh trên Quốc lộ 13), xưống xe, lấy đội hình hướng về
mục tiêu Vàm Cỏ Đông.
Quần thảo 2 ngày ven bờ con sông nổi
tiếng, đẩy lui được đầu cầu vẹm về bên kia, tái chiếm được Lương
Hòa, an ninh lại trục lộ. Trận đầu tay này, cũng như những lần
chạm địch mấy tháng sau đó, LĐIVND đã “đánh khô”, vì không có
pháo cối yểm trợ.
Hai Tiểu Đoàn 12 và 14ND bắt được rất
nhiều vũ khí đạn dược, dọc theo dãy lùm bụi, ngay vùng đầu cầu mà
địch vượt sông hai đêm trước, còn nguyên trong nhiều thùng gỗ bọc
giấy dầu, bôi đầy mỡ bò màu vàng của Trung cộng: AK47, B–41, và
“thượng liên nồi” mới toanh (hộp băng đạn bự và tròn).
Tôi
cho Ban 2 và Ban 5 đi tìm, liên lạc với giới chức địa phương, để
phối hợp việc an ninh, cứu trợ, và bình định. Tưởng là ai, hóa ra
người trai khói lửa, lại là Thiếu tá Tô Công Thất, cùng Khoá 16
với tôi ở Đà Lạt!
Bắt tay bắt chân qua loa, hỏi cần gì
không? M–79, M–26, Claymore! Tôi kêu đệ tử để hết các loại này
lại, rồi bái biệt người trai khói lửa, lội ngược ra quốc lộ, vì
truyền tin báo có Chuẩn tướng Trần Đình Thọ sắp lên Thành Ông
Năm.
Tướng Thọ bắt tay tôi: “Đơn vị anh không cần huấn
luyện nữa. Vả lại, tình hình không cho phép”.
Và ông xỉa
cho tôi một phóng đồ hành quân, cho đất đai làm ăn, án ngữ về
hướng Bắc và Tây–bắc thủ đô.
LĐIND vừa đặt
chân đến hậu cứ khoảng giữa tháng 3/1975, là liền được bổ sung,
tái tiếp tế nhanh chóng. Và Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh được lệnh
trực chỉ lên Xuân Lộc ngay, để tăng cường cho SĐ18BB. Theo dõi
phần thuyết trình hằng ngày, tôi được biết TĐ8ND của Thanh Râu,
tức Thiếu tá Nguyễn Viết Thanh K19VB, đã làm ăn một trận để đời
tại “Vườn cây Ông Tỵ”.
Trong tháng này, có Trung tá Nguyễn
Đình Ngọc cầm công điện mang tay, về trình diện tại Thành Ông
Năm. Nội dung công điện: “Chỉ định Trung tá Nguyễn Đình Ngọc
giữ chức vụ Phụ tá Hành Quân LĐIVND. Quyết định hợp thức hóa Lữ
đoàn phó sẽ theo sau”. Có ông này về, thật đỡ cho tôi quá. K19VB,
nguyên Tiểu đoàn trưởng/TĐ2ND ngày còn ở Động Ông Đô với LĐIIIND
hai năm trước.
Giữa tháng 3, Biệt Khu Thủ Đô cũng có yêu
cầu đến giúp Tiểu Khu Gia Định, giải tỏa xóm Cư Xá Thanh Đa (bị
một đại đội đặc công xâm nhập), đến đầu cầu thương cảng xa lộ.
Thiếu tá Nguyễn trọng Nhi K20VB được gởi đi với 2 Đại đội của
TĐ12ND, và đã thanh toán xong trong cùng ngày 22 tháng 3.
Ngày 10 tháng 4, tôi được gọi về họp ở BTL/BKTĐ. Tại đây, tôi gặp
Trung tá Trần Đăng Khôi, Lữ đoàn trưởng/LĐIIIND, cũng đến họp
nhận lệnh.
Lữ Đoàn III được tăng cường hoạt động cho BKTĐ,
thay thế LĐIVND. Còn tôi được lệnh di quân LĐIVND xuống tăng phái
cho BTL/Quân Đoàn III, trách nhiệm khu vực từ Tam Hiệp, Biên Hòa,
vắt qua sông Đồng Nai, hướng về Long Thành. Đấy là lần sau cùng
tôi gặp, lần cuối tôi thấy LĐIIIND điều động đi thi hành một
nhiệm vụ chiến thuật khác: bảo vệ khu kho xăng Nhà Bè, và an ninh
trục thủy lộ Rừng Sát.
Tối 13 tháng 4, tôi được tin LĐIIND
chạm địch nặng nề tại Bửu Sơn–Phan Rang. Lực lượng tấn công, vẫn
là Sư Đoàn F–10, bị chận khựng lại.
Ngày 15 tháng 4, Sư
Đoàn 325 Cộng sản Bắc Việt từ Quốc lộ 11 tăng cường đến, cùng với
đông đảo chiến xa và pháo nặng. Tối 16 rạng ngày 17, Đại tá
Nguyễn Thu Lương và Trung tá Trần văn Sơn bị báo cáo mất tích,
cùng với Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và Chuẩn tướng Phạm Ngọc
Sang KQ.
Bửu Sơn thất thủ, tiếp theo là Tháp Chàm và Phan
rang!
Sau cùng, LĐIIIND cũng đã buông súng, cùng với tất
cả các đơn vị khác, khi hai ông Vũ Văn Mẫu và Dương văn Minh tuần
tự cho lệnh buông súng chiều 29 và sáng 30 tháng 4 năm 1975.
Tôi không phải là người xa lạ đối với LĐIIIND. Mặc dù vậy, để
bảo đảm sự chính xác của dữ kiện, tôi vẫn điện thoại kiểm chứng
chi tiết kỹ lưỡng với những nhân vật trong cuộc, trước khi viết
lại những diễn tiến cuối cùng của cuộc chiến, mà các đơn vị Nhảy
Dù VN có can dự.
Tất cả vẫn còn đấy, chỉ trừ có Chuẩn
tướng Phạm Ngọc Sang SĐ6KQ đã qua đời cách đây 3 năm, và “Moshe
Dayan” Trung tá Trần Văn Sơn đã nằm xuống trong những năm tháng
tù đày ngoài bắc.
Bây giờ, mời Quý Vị hãy nhìn lại câu
chuyện, kể về cùng một đơn vị đó, trong cùng thời gian đó, bởi
đại ký giả chiến trường Phạm Huấn trong cuốn “Cuộc Triệt Thoái
Cao Nguyên”, đã phổ biến khắp thế giới, để mà ngán ngẩm cho điều
mà chính các ngài viết lách này, gọi là... Lương Tâm Ngòi Bút:
... “Buông súng trưa ngày
1.4.1975, sau khi vỡ tuyến, bị tràn ngập... Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù
trong những ngày sau cùng trên chiến trường Cao Nguyên, Pleiku,
Kontum, Nha Trang: Chưa đánh đã bỏ chạy! Đúng!”!!!
Trong khi đó, chính Đại tá Nguyễn Văn Đại BĐQ, người cùng có
mặt tại trận với LĐIIIND lúc bấy giờ, hiện đang cư ngụ tại
Oregon, vừa nói điện thoại với tôi đêm qua:
– “Tình
hình đó, địa thế đó, nhiệm vụ đó, LĐIIIND đã làm quá sức mình. Và
Đại tá Phát còn về ổn định lại Phan Rang–Tháp Chàm, giúp Tướng
Phạm Ngọc Sang, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi nữa, trước khi được
thay thế...”.
Đến tháng cuối cùng của chiến cuộc, tác
giả Phạm Huấn vẫn còn lĩnh lương Thiếu tá của QLVNCH, sao lại có
thể ăn nói khinh bạc đến vậy? Đành rằng, chung cuộc vẫn là sự sụp
đổ của Miền Nam Việt Nam, nhưng vẫn phải xin để cho, sự thật còn
được là sự thật...
Chỉ trong một đoạn viết ngắn khoảng nửa
trang giấy, tác giả đã đề cập đến diễn tiến và số phận của mấy
chục đơn vị, một cách ngắn gọn, dễ dàng, và tàn nhẫn: Thảm sát
hết: “Từ các Trung Đoàn 41, 42,
47 Bộ Binh, mấy Liên Đoàn BĐQ, Lữ Đoàn II Thiết Kỵ, Liên Đoàn 6
Công Binh Chiến Đấu, các đơn vị Pháo Binh, đến các đơn vị Lôi Hổ,
Thám Kích, và LĐ3ND”.
Đơn vị Nhảy
Dù này, sự thật ra sao, tôi là người trong
cuộc, đã vừa thưa cùng Quý Vị.
Từ sau ngày rời Trường Võ
Bị Quốc Gia Việt Nam, tôi về trình diện Liên Đoàn Nhảy Dù Việt
Nam. Và tuần tự phục vụ qua các TĐ3ND, TĐ7ND, LĐIIIND, LĐIIND,
LĐIVND. Tôi chưa hề được gặp gỡ ký giả chiến trường Phạm Huấn
lần nào. Chỉ thỉnh thoảng đọc sách, thấy hình ông ta mặc Quân
phục Nhảy Dù!
Còn mấy chục đơn vị khác, mà Phạm Huấn nêu
tên ra trên đây, thì sao? Tôi không rõ là Phạm Huấn hiểu biết thế
nào về các đơn vị đó. Và càng không biết, các đơn vị đó, có được
Phạm Huấn đến thăm viếng lần nào chưa. Nhưng khi trên giấy trắng
mực đen, Phạm Huấn đã viết truyện chiến trường như đoạn viết về
LĐIIIND trên đây, thì nếu người đời họ có chọn “Cuộc Triệt Thoái
Cao Nguyên”, để sắp chung với “Đại Thắng Mùa Xuân” của Văn Tiến
Dũng, cũng là điều hiểu được mà thôi!
Thiếu tá Phạm Huấn
suốt đời ở thiên cung, mới trở thành tiên đọa xuống trần gian
Quân Khu II, chỉ vài tháng trước cuộc dầu sôi lửa bỏng, làm sao
nắm vững được từng ấy tin tức dữ kiện? Rừng dữ kiện này, nếu được
trình bày bởi các Vị Đại Tá, chức vụ tối thiểu từ Trưởng Phòng
Nhì, Trưởng Phòng 3 Quân Đoàn trở lên, thì họa may mới khả tín...
Chua chát chưa chịu dừng lại tại đó.
Mãi đến nay, vài
chục năm sau, tại hải ngoại, vẫn có những nhà văn, nhà báo, viết
theo, lên án gắt gao tất cả, từ lãnh đạo đến thứ dân, từ tướng
xuống quân! Và khôi hài đen ở chỗ là, hầu hết đều nhập đề bằng
câu “Có đọc Phạm Huấn, chúng ta mới thấy...”, hoặc là: “Cuốn Cuộc
Triệt Thoái Cao Nguyên” của tác giả Phạm Huấn đã phơi bày ra tất
cả “sự thật...”!
Với các ông gọi là nhà báo, nhà bình luận
này, chữ nghĩa cẩu thả trên đây của Phạm Huấn, đã trở thành chữ
nghĩa của thánh kinh! Rồi tất cả những văn chương, tư tưởng siêu
việt này, rốt cuộc hội tụ về một đoạn tiểu sử, được phổ biến rộng
rãi trên khắp các mạng lưới toàn cầu.
Xin chép lại nguyên
văn, để Quý Vị thưởng lãm:
“Phạm
Huấn là một nhà báo Quân đội và trong ‘Bộ Biên Tập Diều Hâu’,
thành viên Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên và 2 Bên, đặc trách về Báo
Chí, khi Hiệp Định Paris 1973 được ký kết, chủ tịch Hội Phóng
Viên Chiến Tranh Việt Nam, 1972–1975.
Tác giả đã theo
học... Trường Đại Học Quân Sự năm 1963. Và cả Trường Quân sự tại
Hoa Kỳ: Infantry School (Fort Benning, GA, 1958), Civil Affairs
School (Fort Gordon, GA), và Special Warfare School (Fort Braggs,
NC, 1965)...
Trong nghề phòng viên chiến tranh, Phạm Huấn
có một chỗ đứng riêng biệt, dù đi chung với những phóng viên nổi
tiếng hàng đầu của thế giới như Moshe Dayan, Dickey Chapel, hay
chỉ đi có một mình, bao giờ anh cũng được đón nhận nồng nhiệt của
mọi chiến hữu ở ngoài mặt trận...”.
Đọc qua
đoạn trên, quý vị có thấy độc giả bị coi thường quá hay không?
Cùng một “văn phong” này, tôi
nhớ đã được đọc đâu đó vài lần.
Lần đầu, năm 2005 thì
phải. Anh Bùi Đăng, bạn cùng Khoá 16 Đà Lạt với tôi, ở San Jose
bắc Cali, gởi cho tôi nguyên một trang nhật báo Việt Ngữ khổ lớn.
Nguyên trang báo, là bài Phân ưu Trung tá Phạm Huấn. Với nửa
trang trên, đầy đủ sự nghiệp vĩ đại của người nằm xuống. Toàn là
các khoá du học ngoại quốc, và các việc văn phòng. Anh Huấn quả
đã được quân đội đãi ngộ, ưu ái, và đầu tư vào kỹ hơn ai hết.
Và nửa trang dưới, đầy đủ tên tuổi quân nhân Nhảy Dù, từ Đại
tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Nguyễn Chánh Thi... cho đến em út
cấp úy, trong đó có tên tôi. Cầm tờ báo, tôi mới hay tin ông anh
qua đời vì bạo bệnh.
Anh bạn Bùi Đăng gởi báo cho tôi,
không họ Bùi, mà cũng chẳng tên Đăng. Mùa hè 1972, anh dẫn TĐ6ND
nhảy xuống Đồi Gió–Bình Long, mở đường máu vào cứu An Lộc. Bị
trận địa pháo, Phạm Kim Bằng bỏ lại Đồi Gió một con mắt, đi vào
An Lộc với một con. Trở thành Bằng đui, nhưng Bùi Đăng không chịu
rời Tiểu đoàn tác chiến Nhảy Dù.
Đầu năm 2007, Trung tướng
Ngô Quang Trưởng lại ra đi.
Trên Internet và báo chí, liền
ngay dưới sự nghiệp của Trung tướng Trưởng, lại có hàng chữ: “Tài
liệu của Đại tá Phạm Huấn, chủ tịch Hiệp Hội Ký Giả Chiến Trường”(!).
Ông lỏi tì nào đó ơi, “văn phong” này nặng mùi lắm, xin ông
dừng tay lại, đừng đem tên tuổi của ông anh mình ra mà diễu dở.
Cấp bậc, thì ai cho bằng Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ và Đại tướng
Nguyễn Khánh. Chức vụ, thì ai sánh nổi với Quốc trưởng Nguyễn
Khánh và Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ! Có thơm tho chi đâu. Phải nói
ngay từ bây giờ, kẻo nay mai, có một vì sao sáng nào khác rơi
rụng, ông lỏi tì lại lôi ông anh Phạm Huấn dậy, mà truy thăng lên
chuẩn tướng! Tội nghiệp cho ông anh.
Ông anh đã
và đang sám hối về cuốn “Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên” dưới kia.
Khó ăn, khó ở khi “hội ngộ” với anh em lính tráng người phàm, đã
tham dự Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên ngày xưa lắm.
Hỡi ông
lỏi tì ơi, hãy để cho ông anh được yên nghỉ.
Dậu đổ, bìm
leo. Viết lách chửi bới, mạt sát, mọi thứ thuộc Miền Nam Việt
Nam ngày trước, đã và vẫn đang là kiểu thời trang thịnh hành.
Có nhiều người viết, để vẽ lên hình ảnh mình là... người
hùng! Một số khác viết lên, để tỏ ra mình là người trí giả, là
nhà tư tưởng, dựa vào cuốn Kinh Tân Ước Phạm Huấn! Riêng nhà báo
vĩ đại Phạm Huấn, thì hùng dũng tỏ ra mình là nhà siêu quân sự,
siêu lãnh đạo, chê bai xoa đầu từ trên xuống dưới, chả chừa một
ai.
Chỉ nửa trang giấy, dẹp hết cả lực lượng một Quân
Đoàn. Phạm Huấn luận về các ông anh, ông thầy, các ân nhân của
chính anh ta, như Gia Cát Khổng Minh nói về các mạt Tướng Trương
Phi, Ngụy Diên!
Anh Phạm Huấn chỉ quên có một đôi điều nho
nhỏ. Thật nhỏ. Nhỏ xíu. Vì tầm mắt anh không thấy. Mặc dù anh vẫn
mặc quân phục tác chiến Nhảy Dù, mang lon thiếu tá của QLVNCH làm
việc tại Ủy Ban Quân Sự 2 bên, 4 bên. Đó là việc Lập Pháp Mỹ, qua
Quốc Hội Dân Chủ ngày đó, đã cúp hết viện trợ quân sự cho QLVNCH
từ mùa hè 1973!
Đó là việc Hành Pháp Mỹ, qua tên Do Thái
nói ngọng Henry Kissinger, đã công khai đứng về phía Lê Đức Thọ
và Nguyễn Thị Bình, để bức thúc Hòa Đàm Ba Lê, bức tử VNCH. Cho
nên, chuyện gì phải đến, đã đến. Theo Mỹ và Trung cộng, chuyện
đó, đáng lẽ phải xảy ra sớm hơn...
Trong hoàn cảnh đó, nếu
rước đại ký giả Phạm Huấn vào Dinh Độc Lập, liệu đương sự gồng
được mấy phút? Trong hoàn cảnh đó, nếu mời nhà báo Phạm Huấn sang
Bộ Ngoại Giao, liệu ông anh gồng được mấy giờ? Trong hoàn cảnh
đó, nếu phong cho Thiếu tá Phạm Huấn thay thế Đại tướng Cao Văn
Viên, Thiếu tá Huấn có lãnh đạo một tiểu đội ngày giờ nào chưa?
Các ông lính thợ vịn, ăn lương quân đội Miền Nam, mạt sát các
đơn vị quân đội Miền Nam, nhưng chả bao giờ biết chút gì về các
đơn vị này. Mạt sát, vì ganh tị, vì mất mát.
Bất cứ ai
thật sự có trải qua những tháng ngày gạo sấy nước ruộng, đều biết
rằng, cùng một cỡ đơn vị, cùng hỏa lực xấp xỉ nhau, bộ đội Cộng
sản chưa hề là đối thủ của Quân Đội Quốc Gia, dù là chính quy,
hay địa phương, dù là TQLC, BĐQ, hay Bộ Binh, Không Quân, Hải
Quân. Chiến thuật của Cộng sản, có hai chữ “biển người”, là vì
vậy.
Một phần ba thế kỷ đã trôi qua, bao nhiêu tài liệu đã
được giải mật. Henry Kissinger trước sau ba lần thú nhận, đã bán
đứng Nam Việt Nam. Lính tráng chúng tôi, là người phàm mắt thịt,
chả nói làm chi. Còn các ông nhà văn, nhà báo, nhà bình luận:
chất xám các ông để đâu, nấu bún ốc hết rồi sao? Bây giờ không có
bom rơi đạn réo, mà còn phù thịnh, còn nói vuốt theo Văn Tiến
Dũng, thì làm sao ngày xưa các ông dám phù suy, mà đỡ đần phần tí
ti nào cho Quân Dân Miền Nam? Bây giờ mà còn nói vuốt theo Văn
Tiến Dũng, là vô liêm, là bất trí...
Thảm cảnh tháng Tư,
người khách quan, không ganh tị, không càm ràm bệnh hoạn, ai cũng
thấy là vì hai lý do:
– Thứ nhất: Dân
chúng nghe quân Cộng sản tiến đến gần, đã kinh hoảng, đưa tới náo
loạn. Có đúng vậy không, thưa Quý Vị? Và
– Thứ hai:
các đơn vị quân đội lại không có được những tiếp liệu, yểm trợ và
hỏa lực tối thiểu nữa, để chu toàn nhiệm vụ chiến thuật được giao
phó, vì QLVNCH đã bị cúp quân viện từ năm 1973, chỉ còn cầm hơi,
“liệu cơm gắp mắm”.
Mùa hè năm sau, Trung tướng Tùy Viên
Quân Sự tòa Đại sứ Anh Quốc ra thăm hỏa tuyến, có ghé qua Bộ Chỉ
Huy/LĐIIND ở phía nam sông Thạch Hãn. Nghe thuyết trình xong, ông
đứng lên trước bản đồ, quay lại nói trước mặt tôi và đông đủ sĩ
quan tham mưu hiện diện:
– “Giới quan sát quốc tế cho rằng, các ông không
tồn tại nổi quá 6 tháng, sau Hiệp Định Ba Lê. Bây giờ, hơn một
năm đã trôi qua...” Bấy giờ, là tháng 7 năm 1974.
Suốt chiều
dài cuộc chiến, người lính mồ hôi, xương máu. Người dân quằn
quại, thống khổ điêu linh.
Còn các ông thợ vịn, lính
kiểng, sống phè phỡn ngay trong lòng Hòn Ngọc Viễn Đông, ăn tục
nói phét, làm chơi ăn thiệt. Bây giờ, mồ ma Miền Nam Việt Nam
không còn nữa, các ông muốn ăn thiệt, thì phải bò ra làm thiệt,
dù là ăn... welfare! Nên các ông tiếc nuối cái thời vàng son,
sáng Thanh Thế, trưa Givral, chiều Đồng Khánh. Và các ông cay cú,
các ông hằn học...
Có nhiều lý do làm
sụp đổ Miền Nam.
– Trước hết, là bàn tay lông lá của Mỹ
Nga Tàu, và xuẩn vọng của tên đồ tể họ Hồ.
– Kế đến, là
những tham nhũng thối nát, mà các ông đã ngoác mồm ra chửi bới
hơn ba chục năm qua. Mỹ, Pháp, Nga, Tàu, và nhất là Cộng sản Việt
Nam bây giờ, có thối nát tham nhũng hay không?
– Lý do thứ
ba là ai? Là đám làm chơi ăn thiệt, là lũ kiêu binh hàm thụ. Là
đám sâu bọ, giòi mọt, cặn bã của một Quân Đội hào hùng. Quân Đội
“cao số” đã bị lịch sử cận đại trao cho một sứ mạng oan khiên,
một “mission impossible”... Những tên né tránh, đánh bóng chữ
thọ, những bụi chùm gởi nặng trĩu trên thân cây gầy yếu Nam Việt
Nam trước cơn giông bão, không có tư cách mở mồm về đoàn quân
này...
Các cụ thường nói “Tiên trách kỷ, hậu trách
nhân”. Các ông suốt đời chỉ trích ta bà thế giới. Sao các
ông không dám nói, chính các ông mới là thủ phạm, mới là tội đồ
thiên thu, làm Miền Nam nước Việt sụp đổ vào tay Cộng sản.
Nhân vô thập toàn, ai cũng có lúc lầm lỗi. Vả lại, cái “lỗi
lầm” của Miền Nam Việt Nam, nếu có, là phần chính do cái thân
phận nhược tiểu mà ra. Hàng trăm nước nhỏ trên thế giới, đã, và
còn đang đau khổ về cái “lỗi lầm” này. Miền Nam Việt Nam không
còn nữa. Bây giờ đây, trách nhiệm đối với lịch sử và dân tộc,
đang treo trên đầu bọn cầm quyền ở Hà Nội.
Năm 1965,
tôi đi học Khoá “Tác Chiến Trong Rừng” ở Mã Lai–Tân Gia Ba. Việt
Nam lúc bấy giờ đang khói lửa mịt mùng, nhưng tôi thấy vẫn còn
“văn miên” hơn năm nước Đông Nam Á. Bây giờ, các nước đó đã là
“Ngũ Long Thái Bình Dương”. Cộng sản chiếm trọn lãnh thổ hình chữ
“S” đã một phần ba thế kỷ qua, không còn chiến tranh, lại được
“Việt Kiều Phản Động” hằng năm giúp nhiều tỷ đô la. Vậy mà bọn
cầm quyền Cộng sản đã đưa Việt Nam, cũng vào thứ hạng số 5 trên
thế giới: Nhưng là thứ năm, đếm từ dưới lên trên!
Tiếng nói của hải ngoại rất cần thiết. Quý Vị nào có sức, có trí,
có “gu”, muốn phân tách, muốn sửa sai, muốn dạy dỗ, thì Hà Nội
mới là hướng để quý vị trổ tài. Xin hãy thôi đè Miền Nam Việt Nam
ra mà xỉa xói, mà kiêu binh cái lỗ mồm! Thê thảm thay, chỉ vì
một lý do: Dối gạt luôn chính lòng mình. Tôi không dám nói là,
dối gạt chính lương tâm mình! Vì chỉ có trời, họa chăng mới biết,
các ông có lương tâm hay không!
Tội nghiệp cho Miền Nam Việt Nam, đã bao năm tháng cưu mang,
nâng niu, đãi ngộ các ông, ka–ki cũng như dân chính! Hít thở
không khí tự do của Miền Nam, Trịnh Công Sơn đã dệt lên được
những tình khúc bất hủ. Ngày Miền Nam sụp đổ, Trịnh Công Sơn lên
đài phát thanh, phừng phừng guitar hát bài “Nối Vòng Tay Lớn”.
Rồi lặn ngụp trong vòng tay lớn của xã hội chủ nghĩa một thời
gian, Trịnh Công Sơn đã mửa ra một ca khúc, chưa bao giờ nghe
thấy trong âm nhạc nhân gian: “Tiến Thối Lưỡng Nan”!
Sau
cùng, trên đỉnh cao trí tuệ của thời trang mạt sát Miền Nam Việt
Nam, là các... chiến lược gia.
Thôi thì, Xuân thu nhị kỳ,
luận đủ thứ chuyện chiến lược thiên trời địa đất. Cũng chỉ cùng
một kiểu: mạt sát hết mọi sự của Miền Nam Việt Nam. Để mình cố
nhón cao lên. Vì biết chắc rằng mình không đủ cao. Để tỏ ra mình
là người thức giả. Vì biết mình đang tơ lơ mơ, không thức thật.
Càng phải trực diện với việc áo cơm thân phận hằng ngày, nỗi
nuối tiếc mất mát thời vàng son, càng điên cuồng gào thét, dằn
vặt, gặm nhấm.
Khổ một điều, không biết đọc địa bàn, nên
không phân biệt nổi hướng Đông với hướng Tây, để mà bắn cái hỉ–nộ
ái–ố vô duyên đó đi. Và cứ nhằm mọi thứ của Miền Nam Việt Nam mà
phạng...
Đại sứ Graham Martin, không như vậy. Ông đâu có
muốn sự nghiệp ngoại giao trọn đời của ông, kết thúc cái kiểu
này. Giờ phút cuối của Miền Nam Việt Nam, ông cũng chỉ kịp cuốn
lấy lá cờ hoa. Bộ Tư Lệnh Quân Sự Mỹ (MACV) tại Sài Gòn, thì đã
nhanh chân “rút lui trong danh dự” ra soái hạm của Đệ Thất Hạm
Đội từ năm trước!
Cho nên, xin lỗi Quý Vị, ông Đại sứ cũng
chạy sút quần, ra tàu USS Blue Ridge ngoài biển đông, bước đến
boong tàu ngồi thở. Được cái là, ông Đại sứ biết đọc địa bàn. Ông
biết rõ phương, để mà ngậm ngùi. Ông biết rõ hướng, để mà trách
móc. Thở xong, ông chỉ vào lá cờ hoa, mà mắng cho mấy mắng:
“That’s not the way I saw American Honor”!
Tháng 4/2007
Lê Minh Ngọc
(Cựu Trung tá Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn II & Lữ Đoàn IV Nhảy Dù)
nguồn:
blog ong vo ve
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by tkd sưu tầm & trình bày
Đăng ngày Thứ Hai, February 21, 2022
Cập nhật ngày Thứ Sáu, March 28/2025 – đổi sang hệ thống bootstrap framework 5.x
tkd (thư ký dù). Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH