Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký Chiến trường
Chủ đề:
Trận Thường Đức–Quảng Nam,
8/1974
Tác giả:
Lê Huy Trứ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Nhảy
Dù Cố Gắng
Cố
Gắng, dân quân ngậm ngùi thương cảm
Cố Gắng, dù thịt nát máu
lệ rơi
Cố Gắng, hàm chứa chịu đựng vô biên
Cố Gắng, cùng hy
sinh vô điều kiện
Cố Gắng, bằng mồ hôi hòa máu lệ
Cố Gắng,
đòi hỏi kỷ luật sắt thép
Cố Gắng, dù phải tan xương nát thịt
Cố Gắng, không xanh cỏ cũng đỏ ngực
Cố Gắng, bảo vệ tổ quốc
phò dân
Cố Gắng, Nhảy Dù vì nước trận vong.
Lê huy Trứ
Trời
sẫm tối, chờ bắt tay với Tiểu Ðoàn 9 không được, Ðại Ðội 11 phải
tạm đóng quân đêm tại B và B1. Ðêm đó, đặc công địch bò trở lại
đột kích B1 bằng B–40 rồi bỏ chạy. Chuẩn úy Tuyến, Trung Ðội
Trưởng, bị hy sinh. Sáng hôm sau, 20/8/1974, địch pháo kích mạnh
mẽ bằng đạn 122ly vào B và B1 nhưng không chính xác nên [ta]
không bị tổn thất. Khoảng 11 giờ trưa, Thiếu tá Quý và Ðại Ðội 14
bắt tay với Tiểu Ðoàn 9 cũng xuất hiện và đóng chốt tại B2.
Kế đó, TÐ1ND tiếp tục tiến về cứ điểm
C, một tiền đồn mạnh mẽ của quân CS Bắc Việt. Ðại Ðội 14 đi đầu
và chạm địch. Thiếu tá Nguyễn Văn Quý đi với cánh quân bọc hậu là
Ðại Ðội 11 của Ðại úy Thể. Một phần vì địa thế hiểm trở, thêm vào
đó yếu tố bất ngờ không còn nữa. Ðịch đã chuẩn bị sẵn sàng với
hầm hố kiên cố để đón Ðại Ðội 14. Lại thêm rừng cây cổ thụ cao
lớn, ta sử dụng pháo binh rất khó vì sợ đạn chạm ngọn cây nổ từ
cao gây thương tích cho quân bạn...
Sau [3 ngày cầm cự] khi địch tháo chạy
vì sự tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu
Ðoàn 1 Nhảy Dù, hai Ðại Ðội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí
phòng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối
sơn pháo 130ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng
già, khói phủ mù mịt trận địa. Nhờ bung rộng ra và hầm hố kiên cố
của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi
trận mưa pháo tập trung và chính xác này.
Càng tiến gần về 1062, địa thế càng
hiểm trở, rừng rậm rạp hơn, cây to nhiều hơn, sườn dốc đứng hơn.
Từ cứ điểm C nhìn lên mục tiêu, ở cao hơn 2 vòng cao độ (theo bản
đồ quân sự tương đương 20 thước). Cách xa chừng 150 thước, ta
thấy rõ địch đang lố nhố chạy tới, chạy lui tăng cường phòng thủ.
Thiếu tá Quý gọi xin pháo binh bắn “cắm chỉ” lên mục tiêu đó ngày
và đêm. Ðây được gọi là mục tiêu D, một trong 5 đỉnh của 1062.
Giữa C và D là một thung lũng (eo yên ngựa) sâu khoảng hơn 20
thước. Như vậy, quân ta nếu tấn công mục tiêu D, ít nhất phải
vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40 thước. Từ D, địch thỉnh
thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên xuống mục tiêu D,
nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân bạn.
Lúc này Tiểu Ðoàn 8 và 9 còn cách quá
xa 1062, chỉ có Tiểu Ðoàn 1 là gần và đang ở cao địa, không ai
bảo vệ cạnh sườn để tiếp ứng kịp thời. Ðịa thế địch hiểm trở, dễ
thủ, khó công. Ðịch chuẩn bị chiến trường đợi ta với những trận
địa pháo và hầm hố kiên cố. Ðỉnh 1062 có 5 đỉnh nhỏ. Năm đỉnh nhỏ
này nằm theo thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ
dàng.
Diện
tích rộng khoảng 2 đại đội mới bao phủ nổi.
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích
đêm và lợi dụng gió Ðông làm một trận hỏa công. Lực lượng xung
kích gồm 2 Trung Ðội với Thiếu úy Lê Văn Bá chỉ huy một Trung Ðội
thuộc Ðại Ðội 14 và Thiếu úy Trần Thanh Quang chỉ huy một Trung
Ðội của Ðại Ðội 11... Ðại Ðội 11 làm thành phần trừ bị sẵn sàng
tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công... Hỏa lực yểm trợ gồm
súng cối 60ly và 81ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong
rừng già đã tắt hẳn. Hai Trung Ðội bắt đầu xuất phát. Thiếu úy
Quang dẫn Trung Ðội đi bên trái, Trung Ðội của Thiếu úy Bá bên
phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến
40 thước. Pháo binh 105ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục
tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sát quân
ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi ba giờ trôi qua.
Tình hình vẫn yên tĩnh, một thứ yên
lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội mình.
Hệ thống liên lạc vẫn tốt. Thiếu úy Quang thì thầm trong máy:
– Rất gần địch, tiếng chửi thề của
chúng nó nghe rõ mồn một, Ðích Thân.
– Ðược! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu tá
Quý trả lời nho nhỏ trong máy với gọng Huế chay.
Bỗng nghe một loạt đạn nổ bên phải rồi
im lặng. Pháo binh [ta] ngưng tác xa, hai cánh quân vừa bắn vừa
hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy
trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu úy Quang. Bộ Chỉ Huy
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển tác xạ về hướng Tây để
bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
– Chiếm được đỉnh rồi, Ðích Thân! Hầm
quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung
rộng chờ cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc
được Thiếu úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu tá Quý đứng dưới mục
tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo
bằng súng cối sơn pháo 130ly của địch.
Tiếng của Quang vang lên trong máy:
– Chúng pháo dữ dội quá, Ðích Thân,
nhưng hầm hố kiên cố, không sao!
Rồi hàng loạt tiếng đạn AK–47 kêu rít,
tiếng Quang hét trong máy:
– Chúng nó phản công, đông lắm! Cho
Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo!
Pháo mau lên!
Ban đêm tời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng
đồi yên ngựa. Trung Ðội Thiếu úy Bá thì không liên lạc được ngay
từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được là Bá và 4 binh sĩ đã hy
sinh vì mìn Claymore... ngay từ lúc đó.
Thiếu tá Ngô Tùng Châu (Tiểu Ðoàn
Trưởng) bảo Quý:
– Nếu thấy không được thì bảo Quang rút
về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.
Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không
thể nghe lệnh!). Hai Trung Ðội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù
đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất
đông. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra
như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù rỉa bắn không nghỉ tay. Trước khi
gần hết đạn, Quang gọi Thiếu tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ
chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng
sản Bắc Việt. Thiếu úy Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị
thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và anh
dũng hy sinh trên mục tiêu D...
Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần
địch và 3 phần quân bạn. Xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh
Ðồi 1062. Trung Ðội của Thiếu úy Quang có 15 chiến sĩ anh dũng hy
sinh...
Mức độ
hy sinh không bờ bến của các chiến sĩ Nhảy Dù:
Về những hy sinh to lớn của các chiến
sĩ Nhảy Dù tại mặt trận Thường Ðức như sự hy sinh vừa kể của
Thiếu úy Quang và 15 chiến sĩ thuộc trung đội dưới quyền của vị
sĩ quan này, các tác giả viết: “‘Cái giá’ để chiếm được Ðồi 1062
thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các
chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm Tiểu Ðoàn Dù bị tổn
thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu tá Võ Thanh Ðồng,
quân số hao hụt gần 50 phần trăm.”
Trong phạm vi của bài viết ngày hôm
nay, chỉ xin trích dẫn một vài đoạn tiêu biểu trong bài viết của
hai tác giả đã được đề cập tới, nói lên những gai lửa của trận
chiến cùng những hy sinh, gian khổ không bút mực nào tả xiết mà
các chiến sĩ Nhảy Dù đã cống hiến cho dân chúng miền Nam Việt
Nam, chỉ với một mục đích không hề lay chuyển của Sư Ðoàn bách
chiến, bách thắng này là bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ của miền Nam
tự do trước cuộc tấn công xâm lược điên cuồng của Cộng sản Bắc
Việt, có sự yểm trợ tối đa của Cộng sản Quốc Tế và sự đồng lõa,
cố ý cũng có mà vô tình cũng có, của phần còn lại của thế giới
hồi các thập niên 1950, 1960 và 1970 trong thế kỷ trước.
“Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu
tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân,
quyết liều sống chết với Cộng sản Bắc Việt. Thiếu úy Quang đã tập
trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở
lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D (đã trích
dẫn)... Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu úy Ðoàn
Tấn và Chuẩn úy Ðến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương
vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu úy Tấn định nhào lại lấy
thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa...”
Thiếu tá Vân nghe tiếng Ðại úy Ðàng hét
trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã
tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn,
nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Ðại úy Ðàng
và anh em trong Ðại Ðội cầm cự, xông xáo, tả xung, hữu đột, người
nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Ðàng
nguyên là cận vệ của Trung tướng Nguyễn Viết Thanh.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn gọi 3 phi tuần khu
trục giội bom napalm xuống đốt cháy sườn đồi. Sau đó, từng đợt
pháo binh bắn hỏa tập trợ chiến. Sau khi pháo dứt, những cán binh
Bắc Việt lại tràn lên thấy Ðàng bị thương nặng còn ngất ngư vì
trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì
người anh bị ghim như lông nhím. Ðàng ngồi chết trân mà đôi mắt
hãy còn trợn trừng không khuất phục... Ðại Ðội 34 của Trung úy
Thư, lên tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung
hiểm vô cùng! Ðịch hô: “Hàng sống, chống chết,” nhưng Thư cứ hăng
máu lấy AR–15 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để
cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3
Nhảy Dù mà phải cầm cự với cả Trung đoàn của Sư đoàn 304 [Ðiện
Biên], địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các
sĩ quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù như Ðại úy Phạm Văn
Thư, Thiếu úy Tô Văn Nhị đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng
chết chung với hằng trăm xác địch...
Về con số các chiến sĩ Nhảy Dù Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong chiến dịch kéo dài gần ba
tháng trời tại Thường Ðức, thiết tưởng cũng chỉ cần nêu tên một
số các sĩ quan ưu tú Dù đã bỏ mình trong trận chiến này –thêm vào
con số hằng trăm, hằng nghìn chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
thuộc nhiều quân, binh chủng đã bỏ mình trong trận đánh– cũng đủ
thấy mức độ hy sinh to lớn của tập thể chiến sĩ Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam tự do trước đây, theo
đúng nghĩa của tinh thần thượng võ và khí phách “chiến đấu đến
hơi thở cuối cùng.”
Qua bài viết của hai tác giả “35 Năm
Nhớ về Mặt Trận Thường Ðức,” các sĩ quan Nhảy Dù sau đây đã bỏ
mình ngay trên chiến trường: Thiếu úy Hoàng Văn Tiến, Thiếu úy
Nghiêm Sĩ Thành, Chuẩn úy Tuyến, Thiếu úy Quang, Trung úy Bằng,
Trung úy Khánh (Truyền Tin), Thiếu úy Ðoàn Tấn, Chuẩn úy Ðến,
Trung úy Vũ Ðức Tiềm, Ðại úy Ngụy Văn Ðàng, Trung úy Phạm Văn
Thư, Thiếu úy Tô Văn Nhị, Chuẩn úy Bảo, Trung úy Thịnh, Thiếu úy
Trần Ðại Thanh, Thiếu úy Lê Hải Bằng... Một số sĩ quan khác có
thể cũng đã tử trận trong chiến dịch tái chiếm Thường Ðức, mà vì
lý do này hay lý do khác, đã không thấy được kể tên. Dĩ nhiên là
con số Hạ sĩ quan và Binh sĩ Thiên Thần Mũ Ðỏ hy sinh trong trận
này còn cao hơn nhiều so với số các sĩ quan tử trận.
Trận Thường Ðức ác liệt không thể tưởng
Sau hết, về cường độ các cuộc giao
tranh và mức độ ác liệt của trận chiến Thường Ðức, hai tác giả đã
đưa ra các nhận định sau đây trong bài viết của họ:
“Ðỉnh 1062 là một nấm mồ tập thể khổng
lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi
quân ta vừa chiếm được 1062, thì lập tức địch giội pháo, điên
cuồng xông lên quyết chiếm lại cho bằng được. Cả hai bên mất đi,
giành lại đỉnh 1062 nhiều lần... ‘Cái giá’ để chiếm được Ðồi 1062
thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các
chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn
thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu tá Võ Thanh Ðồng,
quân số hao hụt gần 50 phần trăm (đã trích dẫn)...
Gần một tháng quần thảo, ta và địch đều
bị tổn thất nặng quanh Đỉnh 1062. Chiếm xong lại mất, mất rồi thì
chiếm lại bằng mọi giá... Vào giờ này, lực lượng địch bu quanh
1062 dày đặc như ruồi bu quanh viên kẹo... Cối 75ly và sơn pháo
của địch từ những cao độ phía Tây Bắc bắn từng nhịp 4 trái, và bộ
đội Bắc Việt từ hướng đó đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến
thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù
đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mãnh liệt. Súng bắn
không cần nhắm. Lựu đạn ném không cần lấy đà. Hàng hàng, lớp lớp
Cộng quân rơi rụng...”
Theo lời hai tác giả, tổn thất chung
cuộc của ta và địch sau ba tháng giao tranh là như sau:
“Từ khi khởi đầu chiến dịch Thường Ðức
vào ngày 15 Tháng Tám [1974], liên tục trong 3 tháng chiến đấu ác
liệt quanh khu vực Ðồi 1062, các đơn vị Nhảy Dù đã thiệt hại đến
50 phần trăm quân số, với gần 500 chết và 2,000 bị thương. Sư
Ðoàn Nhảy Dù sử dụng luân phiên tổng cộng 7 Tiểu Ðoàn trong chiến
dịch này, và đến giữa Tháng Mười Một có đến 6 Tiểu Ðoàn hoạt động
trong khu vực Ðồi 1062.”
“Ba Trung đoàn Cộng sản Bắc Việt (24,
29, 66) gần như bị xóa tên với 2,000 bộ đội chết và 5,000 bị
thương...”
“Cả
hai bên đều kiệt sức sau một chiến dịch đẫm máu.”
(Tài liệu: Col.
William E. LeGro trong “Vietnam from Ceasefire to Capitulation”)
Từ trận chiến Thường Ðức đến cuộc Chiến
Tranh Việt Nam
Trận đánh Thường Ðức, trận đọ sức cuối
cùng của quân đội hai miền Nam, Bắc trong cuộc Chiến Tranh Việt
Nam vừa qua, ngoài việc cho thấy tính ưu việt của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa trước Quân đội Nhân dân Cộng sản Bắc Việt, còn tiêu
biểu cho những hy sinh không bờ bến của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa, bất kể họ là Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân,
Không Quân, Hải Quân, Bộ Binh, Ðịa Phương Quân hoặc Nghĩa Quân...
qua cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam trước 1975 trong bối
cảnh cuộc chiến dấu cho tự do của nhân loại bị phản bội khi chiếc
tiền đồn chống Cộng tại Ðông Nam Á bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn.
Không ai có thể tưởng tượng được rằng,
chỉ vì một ngọn đồi khô cằn tại một quận lỵ đèo heo hút gió xa
cách những vùng cư dân trù phú dưới miền đồng bằng duyên hải miền
Trung, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I, Vùng I Chiến Thuật, đành phải chấp
nhận đưa lá bài chủ lực của mình tại Vùng Hỏa Tuyến, là hai Lữ
Ðoàn của Sư Ðoàn Nhảy Dù, vào trận địa để thanh toán mục tiêu,
tức là nhổ cho bằng được cái chốt địch đang ngạo nghễ chiếm đóng
Ðồi 1062 ngó xuống quận Thường Ðức đặng từ đó đưa pháo tầm xa về
khống chế các cơ sở quân sự –trong đó có bản doanh của Quân Ðoàn
I– và dân sự cùng phố phường, làng xã của dân chúng tại miền
duyên hải Quảng Nam–Ðà Nẵng.
Phải biết rằng, trong tình thế lúc bấy
giờ, các lực lượng Tổng Trừ Bị trấn đóng tại Quân Ðoàn I, như Sư
Ðoàn Nhảy Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến cùng với các Liên
Ðoàn Biệt Ðộng Quân thiện chiến, đang bị căng kéo và dàn mỏng đến
mức tối đa trên địa hình hiểm trở của Vùng I Chiến Thuật, chiếc
ải địa đầu của miền Nam Việt Nam, nơi xuất phát và cũng là nơi
đánh dấu biết bao nhiêu trận đánh lớn trong cuộc Chiến Tranh
Quốc–Cộng kể từ khi đất nước Việt Nam bị chia đôi bằng con sông
Bến Hải cho tới năm 1975.
Ðiều rõ ràng nhất và cũng là điều nổi
bật nhất chính là mức độ hy sinh rất cao, cao đến độ không bờ
bến, của tất cả các lực lượng tham chiến trong chiến dịch chiếm
lại Ðồi 1062 và giành lại quận Thường Ðức khỏi tay Cộng quân,
trong đó phải kể tới rất nhiều lần các chiến sĩ Nhảy Dù đã kêu
phi pháo giội bão lửa ngay trên đầu mình để thí một mạng của mình
đổi lấy bốn, năm mạng của địch quân. Chưa có trận đánh nào mà,
chỉ trong khoảng thời gian không đầy ba tháng, lại có nhiều sĩ
quan ưu tú và binh sĩ kiên cường của Sư Ðoàn Nhảy Dù phải hy sinh
tại mặt trận đến thế. Chưa có trận đánh nào mà, chỉ trong khoảng
thời gian không đầy ba tháng, các lực lượng chính quy Cộng sản
Bắc Việt và du kích địa phương, đặc biệt là Sư đoàn 304 Ðiện
Biên, đã phải tổn thất nặng nề đến như vậy.
Lê Huy Trứ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Trần Hồng Minh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, August 19,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang