Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược
dòng Thời gian
Chủ đề:
MT–68 & Tội phạm Chiến tranh
Tác giả:
Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư Thỉnh Giảng
–University of Pennsylvania
–St Joseph’s University
–Chestnut
Hill College
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
ỦY BAN TRUY TỐ TỘI ÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRUNG TÂM ĐIỀU HỢP TRUNG ƯƠNG
P.O.BOX
6147
FULLERTON, CA 92834, USA
TELE: 626–257–1057
Orange county, California–USA. Ngày 1/9/2020
Kính gởi:
–Đồng bào Quốc nội và Hải ngoại.
–Quý
chiến Hữu QLVNCH/CSQG Việt Nam Cộng Hòa
XIN PHỔ BIẾN RỘNG RÃI
Kính quý độc giả:
Hiện tượng đảng CSVN cho cán bộ xâm nhập
vào hàng ngũ cộng đồng người Việt Quốc gia tại hải ngoại không
cần phải được chứng minh. Nghị Quyết 36 là bằng chứng cụ thể.
Tình hình hiện nay của cộng đồng người Việt Quốc gia tại hải
ngoại cho phép chúng ta suy luận là Đảng CSVN có những hoạt động
(1) tung tin thất thiệt chia rẽ cộng đồng để người Việt hải ngoại
không thể đoàn kết trong bất cứ công việc chống cộng nào và (2)
khuyến dụ người Việt Quốc gia hải ngoại (a) ca ngợi đảng CSVN và
(b) dấn thân vào những sinh hoạt có lợi cho đảng. Đảng CSVN có
thể thực hiện những điều này tương đối dễ dàng vì đảng có nhiều
phương tiện và tài chánh.
Một số người Việt hải ngoại
hoặc bị sa ngã về sự lôi cuốn của tiền bạc mà làm việc cho đảng
CSVN hay vì còn tin vào ảo tưởng “thiên đàng cộng sản” như trường
hợp nhà giáo Hoàng Phủ Ngọc Tường trước kia đã tôn sùng đảng CSVN
mà dấn thân vào tội ác diệt chủng; nhưng nay, cuối đời, đã tỉnh
ngộ trong ăn năn.
UBTTTAĐCSVN xin đăng lại bài, “Nhìn Quá
Hiện Tượng Hoàng Phủ Ngọc Tường” như là dấu ấn đậm nét của một sự
sai lầm tai hoạ. Và kính yêu cầu quý vị phụ huynh khuyến khích
giới trẻ, con em, đọc bài này (có bản tiếng Anh theo sau bản
tiếng Việt) để có một sự hiểu biết sơ lược về CS.
Dear young readers:
The phenomenon that
the Vietnamese Communist Party (VCP) is having cadres infiltrate
the overseas nationalist Vietnamese community no longer needs to
be proven. Resolution No 36 is indisputable evidence. The current
situation of the overseas nationalist Vietnamese community
permits us to extrapolate that the VCP is conducting activities
in (1) providing disinformation to render overseas nationalist
Vietnamese incapable of calling forth unity in any anti–communist
attempts and (2) instigating overseas nationalist Vietnamese to
(a) extoll the virtues of the VCP and (b) engage in activities
beneficial to the VCP. The VCP can realize these goals fairly
easily because it has the means and finance.
A number of
overseas Vietnamese either succumb to the seduction of money or
still believe in the mirage of the “Communist Utopia” as in the
case of Hoàng Phủ Ngọc Tường, a teacher, who had previously
worshipped the VCP and submerged himself in sordid genocidal
crimes; but now, approaching the end of his life, he has become
disenchanted in remorse.
UBTTTAĐCSVN would like to repost
the article, “Beyond the Hoàng Phủ Ngọc Tường Phenomenon” as an
indelible impression of a catastrophic mistake. The English
version of the article — dedicated to the younger generation of
Vietnamese–Americans — follows the Vietnamese.
[Bài này được tác giả phỏng dịch sang tiếng Anh đính kèm sau đây để các bạn trẻ có thể theo dõi]
Nguyễn Phúc Liên Thành
Mới đây vào ngày 22 tháng
Hai, năm 2018, Hữu Nguyên của tờ Saigon Times (SGT) qua tựa đề
bài báo “Phỏng Vấn Bên Bờ Sông Hương” đã mô tả lại cuộc phỏng vấn
Hoàng Phủ Ngọc Tường về những diễn biến của vụ thảm sát Mậu Thân
1968.
Trong
cuộc phỏng vấn này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thú nhận là ông ta
đã:
(1) nói
láo là không có mặt trong vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968,
(2) đích thân nhúng tay vào việc giết
người trong vụ Tết Mậu Thân,
(3) viết về những diễn biến trong vụ
Tết Mậu Thân một cách không trung thực vì phải viết theo lệnh của
Đảng Cộng sản,
(4) biến chất –– vì Đảng Cộng sản lừa
dối – từ một con người nhân hậu không bao giờ biết nói dối thành
một con người tàn ác, gây chết chóc và tang tóc cho bảy, tám ngàn
người (lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường) dân Huế vô tội,
(5) xác nhận Cộng sản Việt Nam là một
tổ chức xấu xa, ghê tởm, đầy tội ác, và lường gạt nhân dân đi
theo con đường tội ác đó, và
(6) khuyến cáo “bất cứ ai có lương tâm
và trí khôn... hãy ngàn lần lên án tôi – Hoàng Phủ Ngọc Tường –
kẻ đã theo Việt Cộng, bị Việt Cộng đánh thức tất cả thú tính
trong con người tôi, nên tôi đã gây nên muôn vàn tội ác với quê
hương, dân tộc, thân nhân, bằng hữu... và ngay cả bản thân tôi.
Xin hãy lấy bi kịch của cuộc đời một tên Việt Cộng nằm vùng như
tôi làm gương, vĩnh viễn đừng bao giờ theo Việt Cộng.”
Con đường đi từ một tên sát nhân cuồng
bạo đến ngày thú tội đại gian, đại ác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là
một hành trình khập khễnh rất dài, chiếm một khoảng thời gian 50
năm (1968–2018), và có lẽ đầy dẫy những khắc khoải vừa bệnh hoạn
vừa đau thương.
Từ vụ Tết Mậu Thân 1968 đến 1982 –
khoảng thời gian 14 năm đang còn đầy ắp hơi men chiến thắng –
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được ông Burchett, người làm ra 13 tập
phim tài liệu Vietnam: A Television History [Việt Nam: Trang sử
Qua Truyền Hình], phỏng vấn về vụ thảm sát Mậu Thân. Trong cuộc
phỏng vấn này, Hoàng Phủ Ngọc Tường khẳng định là ông ta đã có
mặt tại Huế trong thời gian này, và đổ tội cho người Mỹ đã thả
bom vào bệnh viện gần chợ Đông Ba, giết chết 200 người dân Huế vô
tội; một số ngụy quân, ngụy quyền thì bị người dân bất mãn nổi
dậy giết chết để trả thù vì những hành vi ác đức mà những người
đó, những người có tội, đã gây ra; còn một số ít là do bị cách
mạng giết lầm và việc giết lầm này là chuyện xảy ra ở bất cứ cuộc
chiến nào.
Thực ra không có trái bom nào được thả xuống gần chợ Đông Ba,
cũng như không có vụ đồng bào tổng nổi dậy. Mặc dù vậy, trong
“Những Ngôi Sao trên Đỉnh Văn Lâu”, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn mô
tả ông đi trong một con đường hẻm tối dẫm lên máu của người dân
bị Mỹ ném bom chết mà ngỡ là đã dẫm lên bùn. Đoạn văn này chủ ý
xác định hai điểm:
(1) Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt trong
vụ thảm sát Mậu Thân,
(2) người dân Huế
đã bị người Mỹ ném bom giết chết.
Tài liệu tham khảo trích dẫn ở cuối bài
có dư để minh chứng là điểm (2) chỉ là một vu cáo trắng trợn.
Điểm (1) thì chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tự phản bác trong cuộc
phỏng vấn với Thuỵ Khê (RFI: Radio France Internationale) tại
Paris ngày 12 tháng 7, năm 1997. Trong cuộc phỏng vấn này, Hoàng
Phủ Ngọc Tường xác định là ông ta tham gia kháng chiến, lên bưng
từ 1966 và chỉ trở lại Huế năm 1975. Do đó, ông không có mặt tại
Huế trong dịp Tết Mậu Thân và cũng do đó không thể nhúng tay vào
máu của đồng bào Huế như những lời vu cáo là ông làm chủ toạ cho
một vụ xử án tại trường Gia Hội Huế và đã ban hành lệnh chôn sống
204 người dân Huế vộ tội, trong số những nạn nhân này, một số là
học trò cũ của ông khi ông còn dạy trường Quốc Học, Huế; cũng như
cùng với Nguyễn thị Đoan Trang đã bắn chết Ông Phó Thị Trưởng
Trần Đình Thương (HPNT nói sai là Thị Trưởng).
Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã quên là
15 năm trước đó, trước khi trả lời cho Thuỵ Khê, ông đã khẳng
định với Burchett là ông đã có mặt tại Huế, cũng như trong “Những
Ngôi Sao Trên Đỉnh Văn Lâu” ông cũng xác định là ông đã dẫm chân
lên con hẻm đầy máu đồng bào Huế do Mỹ Ngụy ném bom gây nên. Để
dàn xếp sự mâu thuẫn khó chối cãi này, Hoàng Phủ Ngọc Tường – qua
bức thư “Lời Xin Lỗi chưa Trọn Vẹn” –– đã xác định là “người
ngoại cuộc, nhưng đã nhận vơ là nhân chứng khi trả lời nhà báo
Burchett”; cũng như đã thổ lộ tâm tình qua bài “Lời Cuối cho Câu
Chuyện Quá Buồn” do Nguyễn Quang Lập đăng trên Facebook ngày thứ
Sáu, mồng 9 tháng Hai, năm 2018. Trong bài này Hoàng Phủ Ngọc
Tường khẳng định là ông không có mặt tại Huế trong dịp Mậu Thân,
nhưng tất cả những gì ông nói trước đó về những diễn biến trong
vụ thảm sát Mậu Thân đều đúng với sự thật. Duy chỉ có một điều
sai là ông đã mạo nhận ông là người chứng kiến những diễn biến
đó, nhưng sự thực, theo ông, là ông chỉ nghe các đồng chí của ông
thuật lại mà thôi. Biện giải này cho phép người ta nghĩ là Hoàng
Phủ Ngọc Tường vô tội, trong lúc tội ác của người Mỹ và ngụy
quân, ngụy quyền là có thực và đáng lên án.
Trong “Phỏng Vấn Bên Bờ Sông Hương” của
Hữu Nguyên, ngày 22 tháng 2, năm 2018, khi được hỏi là vì lý do
nào mà ông đã mạo nhận, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trả lời là:
“Trong hoàn cảnh của tôi, giữa tội mạo nhận và tội ác giết người,
tôi phải chọn một. Tội mạo nhận chỉ bị khinh bỉ, nhưng không bị
ghê tởm và đời đời bị nguyền rủa, bị lên án, bằng tội giết
người.” Nghĩa là ông đã giết người, như ông đã thú tội.
Tóm lại những tố cáo về tội ác của
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như những biện giải của Hoàng Phủ Ngọc
Tường chủ yếu xoay chung quanh vấn đề Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt
tại Huế trong vụ thảm sát Mậu Thân hay không. Tuy nhiên, sự kiện
Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt hay không tại Huế trong vụ thảm sát
Mậu Thân không còn là vấn đề then chốt nữa khi mà Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã thú nhận tất cả tội lỗi và chính ông đã khuyến cáo “bất
cứ ai có lương tâm và trí khôn... hãy ngàn lần lên án tôi – Hoàng
Phủ Ngọc Tường – kẻ đã theo Việt Cộng, bị Việt Cộng đánh thức tất
cả thú tính trong con người tôi, nên tôi đã gây nên muôn vàn tội
ác với quê hương, dân tộc, thân nhân, bằng hữu... và ngay cả bản
thân tôi. Xin hãy lấy bi kịch của cuộc đời một tên Việt Cộng nằm
vùng như tôi làm gương, vĩnh viễn đừng bao giờ theo Việt Cộng.”
Đã rõ ràng như thế thì Hoàng Phủ Ngọc
Tường có đáng bị nhân dân nguyền rủa hay đưa ra toà án quốc tế về
tội diệt chủng như người Do Thái đã và đang làm hay không?
Xét cho cùng thì Hoàng Phủ Ngọc Tường
chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất. Bản chất biến thái
khi con người vong thân, bị dẫn đưa đến thành một trong nhiều
hiện tượng khác nhau. Bản chất là tự do nằm giữa hai cực – theo
Erich Fromm – tự do đi đến (Freedom to) và tự do thoát khỏi
(Freedom from). Tự do đi đến là tự do khai phá nhằm đạt được
chân, thiện, mỹ trong triết học áp dụng vào cuộc sống và nghệ
thuật. Tự do thoát khỏi là thứ tự do nhận thấy mình bị áp bức, bị
câu thúc, bị kềm kẹp, bị gông cùm, bị nô lệ, bị đô hộ và nhận
thấy mình có nhu cầu bức thiết phải thoát khỏi những ràng buộc
đó. Theo chứng minh của Erich Fromm thì loại tự do này khi đạt
được, không giải thoát con người mà trái lại làm cho con người
cảm thấy bơ vơ, lạc lõng và đơn độc, dẫn đến kết quả –– trên bình
diện cá nhân cũng như lịch sử các quốc gia – là đi tìm đối tượng
để áp đặt những gì mình đã từng chịu đựng trước kia, như áp bức,
nô lệ, v.v.
Là
một nhà trí thức lý tưởng, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận thấy chính
quyền miền Nam đầy giẫy thối nát, tham nhũng, lạm quyền và lệ
thuộc ngoại bang; mất chủ quyền quốc gia khi Tiểu đoàn Thuỷ Quân
Lục Chiến Mỹ đổ bộ tại Đà Nẵng năm 1965 mà không cần tham khảo ý
kiến của chính quyền; ngân sách quốc gia hoàn toàn lệ thuộc vào
viện trợ Mỹ. Thoát khỏi sự nô thuộc này là một nhu cầu thiết yếu!
Mặt khác, theo một lối nhìn phiến diện thì Đảng cộng sản đã có
công đưa Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của người Pháp và đảng này
lấy lý thuyết Mác–xít làm nền tảng, một lý thuyết mà sự phân tách
sự bóc lột của “tư bản man rợ” đối với công nhân –– dựa trên vận
hành của cuộc cách mạng kỹ nghệ tại Anh vào cuối thế kỷ 18 và đầu
thế kỷ 19, và tại Mỹ vào khoảng cuối thế kỷ 19 – rất có cơ sở và
đầy tính nhân bản. Do đó cũng dễ hiểu tại sao Hoàng Phủ Ngọc
Tường đi theo cộng sản để đi tìm thứ tự do thoát khỏi gông cùm,
thoát khỏi nô thuộc.
Tuy nhiên, điểm quan trọng mà Hoàng Phủ
Ngọc Tường không nhận chân được về chính quyền miền Nam là không
có chính quyền nào trên thế giới mà không có thối nát, tham
nhũng, và lạm quyền. Vấn đề là vấn đề cường độ. Thử nhanh chóng
so sánh cường độ thối nát, tham nhũng, và lạm quyền của nền Đệ I
và Đệ II Cộng Hoà với chính quyền cộng sản Việt Nam hiện nay thì
rõ ràng ngay. Về vấn đề lệ thuộc ngoại bang thì đành là Hoa Kỳ có
thái độ lấn áp đối với chính quyền miền Nam. Nhưng sự hiện diện
của họ hoàn toàn không có mục đích xâm chiếm lãnh thổ, khai thác
tài nguyên quốc gia, mà chỉ có mục đích thoả mãn nhu cầu ngăn
chặn sự bá quyền của Nga và Trung cộng mà thôi. Đúng ra thì nhu
cầu này cũng phù hợp với nhu cầu quốc gia tự do miền Nam. Về ảo
tưởng tính độc lập của chính quyền miền Bắc, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đâu có biết trong chiến dịch chống Pháp, chống Mỹ, Trung cộng đã
chuyển trên 300,000 binh lính Tàu vào Việt Nam và Nga thì tiếp tế
súng đạn. Nợ nần đang phải trả gần như là toàn lãnh thổ quê hương
Việt Nam hiện nay! Về thuyết Mác–xít, trên bình diện thực hành ––
chưa nói đến những sai lầm trong việc ứng dụng luận lý có tính
tâm linh của Hegel qua biện chứng pháp duy vật của Marx–Engel –
thì chuyên chính vô sản không thể thực hiện được vì:
(1) quần chúng vô sản không có khả năng
để quản trị,
(2) phải có thành phần trí thức ưu tú và chuyên viên đảm trách
guồng máy chính quyền, và
(3) một khi thành phần ưu tú nắm được
quyền lực thì sẽ không bao giờ buông thả và quyền lợi của quần
chúng vô sản đã biến thành quyền lợi của giai cấp ưu tú nắm quyền
lực. Cách mạng của giai cấp vô sản đã nghiễm nhiên biến thành
thành trì kiên cố bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi của những cá
nhân độc tài, tàn ác như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông mà kết quả
là trên một 100 triệu người đã phải chết đi một cách tức tưởi và
phi lý.
Hoàng
Phủ Ngọc Tường là một nhà trí thức, nhưng là một nhà trí thức nửa
mùa. Hiểu biết không tới nơi tới chốn, thiếu tầm nhìn, và trên
con đường tìm thứ tự do giải thoát chứ không phải thứ tự do sáng
tạo, đã đồng hoá bản ngã với một lực lượng vô đạo đức, vô nhân
tính, nhưng khoác chiếc áo đạo đức dân tộc giả để lường gạt nhân
dân. Từ những thập kỷ 60 cho đến nay, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nửa
tỉnh nửa mê, khập khiễng trên mê lộ của vong thân, đánh mất bản
ngã, rồi bỗng thức dậy qua cuộc “Phỏng Vấn Bên Bờ Sông Hương”.
Nhưng trước khi thức tỉnh, tại sao ông
ta, một giáo sư hiền hoà, ăn nói văn hoa, được đa số học trò mến
chuộng, lại có thể trở thành một tên sát nhân dã man, ra lệnh
chôn sống 204 người tại trường Gia Hội, và tham gia vào cuộc thảm
sát 5327 người dân Huế vô tội và bắt đi mất tích 1200 người.
Như đã có nói trên, một khi ông đã đồng
hoá mình với lực lượng vô đạo đức, vô nhân tính, nhưng khoác
chiếc áo đạo đức dân tộc giả, tức Đảng Cộng sản, mà ông gọi là
“lương tâm dân tộc”, là “quan điểm chiến tranh cách mạng” thì ông
đã hoàn toàn đánh mất bản ngã mà chỉ còn là một hiện tượng phản
ánh những phần li ti bên ngoài của đảng Cộng sản mà thôi. Ông
không còn có tự do hành động mà chỉ hành động như những con người
máy (robot) của đảng cộng sản, theo lệnh của đảng cộng sản. Đảng
Cộng sản cướp của, giết người thì Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng giết
người, không còn biết trách nhiệm, vì trách nhiệm thuộc về đảng.
Chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thú nhận như thế.
Để cắt nghĩa điều phi lý này, Stanley
Milgram, một nhà tâm lý xã hội và là giáo sư tại đại học Harvard
và Yale, đã thực hiện một cuộc thí nghiệm về sự vâng phục và đã
phát hành cuốn sách Obedience to Authority [Sự Vâng Phục Uy
Quyền] năm 1974 nói về cuộc nghiên cứu này. Cuộc thí nghiệm gồm
có một số người cò mồi của Stanley, ngồi phía bên kia tấm kiếng.
Bên này tấm kiếng là một người được làm thí nghiệm, ngồi trước
một cái máy cho điện giật những người bên kia tấm kiếng khi họ
học không thuộc một danh sách của một số từ được chọn ngẫu nhiên.
Máy cho điện giật có những nút vặn từ cường độ nhẹ lên nhiều
cường độ mạnh hơn, cho đến độ ghi rõ là nguy hiểm đến tính mạng.
Bên cạnh người được làm thí nghiệm là một nhà khoa học, lạnh
lùng, khoác chiếc áo trắng của phòng thí nghiệm. Cứ mỗi lần học
viên học không thuộc thì ông chỉ nói là “không sao, cứ tiếp tục
trừng phạt”. Những người được làm thí nghiệm là những người tình
nguyện được chọn ngẫu nhiên từ giới bác sĩ, kỹ sư, giáo sư, cũng
như từ những người bình thường trong các giới và cấp bậc trong xã
hội. Những người này cứ thản nhiên trừng phạt những học viên từ
nhẹ đến nặng hơn rất nhiều, và trên 60 phần trăm đã thản nhiên
trừng phạt đến chỗ nguy hại đến tính mạng. Dĩ nhiên là dây điện
buộc vào tay các học viên chỉ là giả, nhưng các học viên thấy
được những đèn trước mặt mình sáng lên theo nút bấm nặng nhẹ từ
phía bên kia tấm kiếng và đã được huấn luyện la hét tuỳ theo độ
nặng nhẹ. Để tìm hiểu thêm, giáo sư Stanley sau đó còn cho học
viên ngồi sát bên cạnh người trừng phạt. Trong trường hợp này đã
có người không những trừng phạt tới mức nguy hiểm đến tính mạng
học viên mà còn dùng tay đè học viên ngồi xuống khi học viên vùng
vẫy, giãy giụa vì quá đau đớn.
Điều này giúp giáo sư Stanley hiểu được
tại sao những người Đức Quốc Xã đã có thể giết hằng triệu người
Do Thái trong các phòng hơi ngạt hay chôn sống họ một cách thản
nhiên. Họ có thể thực hiện công việc giết người tàn ác như thế vì
họ tin tưởng ở cấp trên thần tượng của họ cũng như những người
được làm thí nghiệm tin tưởng vào nhà khoa học mang chiếc áo
khoác trắng. Họ không còn có tự do lựa chọn mà chỉ biết thi hành
lệnh do thần tượng của họ ban ra; thần tượng của họ đúng và đã
lãnh phần trách nhiệm rồi.
Thần tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường là
“lương tâm dân tộc”, là “quan điểm chiến tranh Cách Mạng”, là
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhưng tại sao Hoàng Phủ Ngọc Tường lại
có thể thức tỉnh?
Câu trả lời có lẽ nằm ở chỗ:
(1) những người Việt quốc gia mà Hoàng
Phủ Ngọc Tường gọi là “có lương tâm và trí khôn” đã liên tục
trong suốt 43 năm (1975–2018) cố gắng đánh thức ông dậy khỏi cơn
mê vong thân bằng cách trưng dẫn những bằng chứng cụ thể và chính
xác về những hành động tội lỗi và tàn ác của ông,
(2) tuổi của ông đã già cộng thêm bệnh
đột qụy, phải ngồi xe lăn với ý thức cuối đời là mình có thể ra
đi – không biết về đâu, nhưng xác suất về chỗ ổn định, hạnh phúc
hẳn là không cao –– bất cứ lúc nào,
(3) nhất là gia tài tinh thần để lại
cho con cháu thì thật là thê thảm, và
(4) sau cùng là những gì ông đã từng
tranh đấu suốt đời để chống lại, như chính quyền thối nát, tham
nhũng, lạm quyền; nô thuộc ngoại bang; lý thuyết và triết lý sống
của chính quyền miền Nam thực ra đều trăm nghìn lần tốt đẹp hơn
những gì ông đang chứng kiến.
Ông đã đánh mất bản ngã, đã đắm chìm
trong mê lộ vong thân. Tiếng kêu thất thanh của ông không cứu vãn
được một bản ngã đang sắp rơi vào cõi hư vô, nhưng vang vọng của
tiếng kêu này còn có hy vọng cảnh báo những người khác cũng đang
lầm lạc trong mê lộ này và cũng đang vận hành như những hiện
tượng, như những người máy, không có linh hồn, không có tự do
sáng tạo vì hào quang giả tạo của Đảng Cộng sản đã chiếu rọi ánh
sáng vào một khả năng đánh lừa họ vô tiền khoáng hậu –– như đã
đánh lừa Hoàng Phủ Ngọc Tường –– và đã đánh cắp bản ngã chân
chính của họ. Niềm hy vọng của những người “có lương tâm và trí
khôn” là những người tôn sùng Đảng Cộng sản làm thần tượng sớm
thức tỉnh trước khi cảm thấy mình già cỗi, sắp đi vào cõi chết
với ý thức rất rõ ràng là mình đang để lại cho con cháu một gia
tài tinh thần bi đát đáng kinh tởm. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một
hiện tượng của quá khứ. Chúng ta chỉ nhìn vào tương lai đang sáng
toả trong niềm hy vọng những con người vong thân nhất quyết giành
lại bản chất tự do sáng tạo của mình.
Philadelphia, ngày 11 tháng 9, 2018
TÀI
LIỆU THAM KHẢO:
1. Fromm, Erich, Escape From Freedom.
New York, New York: Farrar & Rinehart, 1941.
2. Milgram, Stanley. Obedience to
Authority. New York, New York: Harper & Row, Publishers, 1974.
3. Bảo, Trung. “Thà Ông Im Lặng Còn
Hơn.” Ngày 10 tháng 2, 2018.
4. Bezmenov, Yuri Alexandrovich. “Tình
Báo KGB Tiết Lộ Việt Cộng Tiến Hành Thảm Sát Huế 1968 Như Thế
Nào.” 1970.
5.
Chu, Mỹ Dung. “Huế Mậu Thân”.
6. Hoàng, Phủ Ngọc Tường. “Lời Cuối cho
Câu Chuyện Quá Buồn”. Ngày 9 tháng 2, 2018.
7. Khuê, Thuỵ. “Nói Chuyện với Hoàng
Phủ Ngọc Tường về Biến Cố Mậu Thân.” RFI, 12 Tháng 7, 1997.
8. Nguyễn, Liên Thành. “Bác Sĩ Định”.
9. –––––, –––––. “Trích Huế Thảm Sát
Mậu Thân 1968.”.
10. –––––, –––––. “Thư Gởi Hoàng Vũ
Ngọc Tường.” Tháng 2, 2018.
11. Nguyễn, Thái Hoà. “Nhân Chứng
Nguyễn Thị Thái Hoà”.
12. Nguyên, Hữu. “Phỏng Vấn Bên Bờ sông
Hương”, Saigon Times, 22 tháng 2, 2018.
13. Sang, Tôn Thất. “Đi Nhận Xác Thầy”.
***
CƯỚC CHÚ: Những tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt nêu ở trên đây là chứng từ chính xác cho tất cả những dữ kiện được đề cập trong toàn bài viết này của tác giả Nguyễn Văn Thái. Những tài liệu này được lưu trữ tại: https://docs.google.com/folder/d/0B2xRw_cSQGrydS1VWjNIaVRuRG8/edit
Beyond
the Hoàng Phủ Ngọc Tường
Phenomenon
Author:
Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư
Thỉnh Giảng
–University of Pennsylvania
–St Joseph’s
University
–Chestnut Hill College
Recently, on February 2, 2018,
Hữu Nguyên of the Saigon Times in an article entitled “Interview
on the Bank of the Perfume River” recounted his
interview with Hoàng Phủ Ngọc Tường about the events during the
Tết Offensive of 1968.
In that interview, Hoàng Phủ Ngọc Tường
admitted that he
(1)hadlied about not being present in
Huế during the Tết Offensive of 1968,
(2)hadpersonally involved himself in
the killing of many people during the Mậu Thân [Year of the
Monkey] Massacre of 1968 in Huế,
(3)haduntruthfully written articles
about the Mậu Thân Massacre of 1968 because he had to write under
the orders of the VietnameseCommunist Party (VNP),
(4)had been transformed – due to the
deceiving nature of the VNP – from a truthful and loving person
to a cruel monster, who brought about death to “7
to 8 thousand innocent Huế people” [his own words],
(5) had affirmed that the VNP was an
evil, repulsive organization abounding in crimes and deceptions,
(6) had pleaded “whoever
still has conscience and intelligence to perennially continue to
indict me, Hoàng Phủ Ngọc Tường, a Việt cộng follower, whose
animal instincts had been awakened by the Việt cộng, which
resulted in my committing thousands of crimes against my country,
my people, my relatives, my friends... and myself... Please take
the drama of the life of an undercover Việt cộng like myself as
an example in order for you to not ever follow the Việt cộng.”
Hoàng Phủ Ngọc Tường’s journey from the
day of a sadistic murderer to the day he confessed his hideous
crimes has been a long, rugged one spanning a stretch of time of
more than 50 years, replete with pathological anguish and
torment.
During the time from the Tết Offensive of 1968 to 1982 – a period
of time during which the passion of victory was still warming the
hearts of such self–proclaimed revolutionaries like Hoàng Phủ
Ngọc Tường – he was interviewed on February 29, 1982 by Wilfred
Burchett for the Stanley Karnov American documentary,Vietnam: A
Television History, a part of the Vietnam collection, created by
Richard Ellison. In this interview concerning the Huế Massacre of
1968, Hoàng Phủ Ngọc Tường asserted thathe was present in Huế
during this period of time and claimed that Americans had dropped
bombs on a hospital near Đông Ba Market, killing 200 innocent
people; that a number of soldiers and civil servants were killed
by theuprising populace, who soughtrevenge for the atrocious acts
committed by those “guilty” traitors; and that onlya small number
of people were mistakenly killed by the revolutionaries, which,
he said, would bebound to happen in any kind of war. The fact is
there was not any bomb dropped near Đông Ba Market and there was
no popular uprising. Yet, inhis article “The Stars over the Văn
Lâu Pinnacle”, he described he was walking on a dark alley in the
City of Huế, hissteps flopping on the blood of those killed by
Americans, thinking he was treading mud. This segment of the
story was intended to indicate that(1) hewas in fact present in
Huế during the Massacre of 1968 and (2) Americans were the ones
who killed innocent people.
There does exist more than adequate
amount of materials cited at the end of this essay to prove
thatpoint number (2) is simply malicious slandering. Concerning
point number (1), it is Hoàng Phủ Ngọc Tường who contradicted
himself during an interview by Thuỵ Khê (RFI: Radio France
Internationale) in Paris on July 12, 1997. In this interview,
Hoàng Phủ Ngọc Tường asserted he hadjoined the resistance and
left for the jungles in 1966 only toreturn to Huế in 1975.
Therefore, he couldn’t have been present in Huế during the Tết
Offensive and involved in the killing of Huế people as some
people with malevolent intent had maliciouslycarried out a smear
campaign about him and falsely accused him of chairing a
committee ordering the burying alive of 204 innocent people,
among whom some were his former students when he was teaching at
Quốc Học High School; and of –– together with Nguyễn thị Đoan
Trang – shooting dead Nguyễn Đình Thương, Mayor of Huế (Actually,
Nguyễn Đình Thương was Deputy Mayor).However, Hoàng Phủ Ngọc
Tường forgot that 15 years earlier, before that interview by Thuỵ
Khê, he hadstated to Mr. Burchett that he was present in Huế
during the Tết Offensive of 1968. Also, in “The Stars over the
Văn Lâu Pinnacle”, he described he was walking in a dark alley,
hissteps treading the blood of innocent people killed by American
bombing.
With
the intent to negotiate this undeniable contradiction, Hoàng Phủ
Ngọc Tường, via a letter entitled “An
Incomplete Apology”, stated he “was onlyan outsider
but had arrogated to himself the claim of a witness when
answering Mr. Burchett.” He also reiterated his scheme of
thoughts in another article, “Last
Word for So Sad a Story”, posted by his friend Nguyễn
Quang Lập on Facebook on Friday, February 9, 2018. In this
narrative, Hoàng Phủ Ngọc Tường re–affirmed he was not present in
Huế during the Mậu Thân Massacreof 1968.He confirmed, however,
that everything he had recounted before with regard to the events
concerning the Huế Massacre was true. The only “alternative”
fact, he insisted, was his claim to be a witness of those events
when as a matter of fact, he only heard his comrades retell the
stories. This apologia was intended to allow people to think he
was innocent while the crimes committed by Americans and their
“lackeys” were real and deserved indictment and retribution.
When asked ––
duringthe “Interview on the Bank of the Perfume River”
by Hữu Nguyên on February 22, 2018 ––for which reason he had made
that false claim, Hoàng Phủ Ngọc Tường’s response was, “In
my situation, between the two choices: making a false claim and
admittingmurdering innocentpeople, I have to choose one. The sin
of making a false claim only evokes contempt, which is not as
damnable and anathematic as anadmission of crimes of murder.”
This obviously entails he hadin fact committed crimes of murder
as he ended up confessing.
In sum, all indictments of crimes
committed by Hoàng Phủ Ngọc Tường as well as all excusesof his
revolve around whether or not he was present in Huế during the
Mậu Thân Massacre of 1968. However, thisno longer isa key issue
once he himself already confessed all his crimes and suggested
that “whoever still has conscience and intelligence” condemn him,
“Hoàng Phủ Ngọc Tường, a Việt
cộng follower, whose animal instincts had been awakened by the
Việt cộng”, resulting in him “committing
thousands of crimes against [his] country, [his] people, [his]
relatives, [his] friends... and [himself]”... He also pleaded
with all people to, “Please take the drama of the life of an
undercover Việt cộng like myself as an example in order for you
tonot ever follow the Việt cộng.”
All facts
have been brought to light. The question remains as to whether
Hoàng Phủ Ngọc Tường deserves to be cursed and should be brought
to justice as the Jews have been doing to the Nazis.
In the final
analysis, Hoàng Phủ Ngọc Tường is but a representational
phenomenon, not hisessence. Essence through self–alienation could
be transformed into various phenomena. And self–alienation may be
represented in the form of freedom bifurcated into two types:
“freedom to” and “freedom from” (Erich Fromm, Escape from
Freedom), with “freedom from” as the preferable choice. “Freedom
to” is the type of freedom to explore and search for the true,
the good, and the beautiful in philosophy applied to life and
art. “Freedom from” is the type of freedom to escape from
perceived constraints, oppressions, subjugations, and
dominations.And with that perception, one mustfeel the urgent
need to liberate oneself from those limitations. According to
Erich Fromm, once that type of freedom has been achieved, people
would not necessarily feel liberated. On the contrary, they may
feel morealienated, lonely, and lost, which ultimately and
historically results in – on the individual as well as the
national level – an effort to try to find other victims to
inflict upon them withwhatever they themseles had previously
beeninflicted.
As an idealistic intellectual, Hoàng
Phủ Ngọc Tường attested to the spectacle of a government fraught
with corruption, decadence, abuse of power, and complete
dependence on a foreign power, the US, and the absence of
national sovereignty when the first battalion of American Marines
disembarked in Đà Nẳng in 1965 without any consultation with the
Southern Vietnamese government. He also bore witness to the fact
that the Vietnamese national budget totally depended on American
aid. Liberating the country from this dependence would be
perceived as an essential need. Furthermore, from a rather
lopsided point of view, the VNP was perceived as owning the
credit for having liberated the country from the French
domination, with a theoretical foundation undergirded by the
Marxist–Leninist ideology, of which the analysis of the
exploitation of workers by savage capitalists – based on the
historicity of the industrial revolution in England at the end of
the 18th century and the beginning of the 19th century, and in
the United States at the end of the 19th century – has some basis
for veracity and humanistic values. It is thus understandable
that Hoàng Phủ Ngọc Tường joined the communists in search for the
type of freedom from perceived subjugation and slavery.
However, the
essential point that Hoàng Phủ Ngọc Tường missed recognizing in
his criticism of the government of South Vietnam was there does
notexist in this world any government that is free of corruption,
bribery, and abuse of power. It is onlya matter of degree. Let’s
take a quick look at the degree of corruption, bribery, and abuse
of power of the First and Second Republics of South Vietnam in
contrast with that of the current Vietnamese government under the
guardianship of the VNP. The picture hasbecome very clear.
As far as the
issue of lack of respect for national sovereignty and dependence
on a foreign power is concerned, it was true that the United
States exerted uncalled–for pressures and demands on the
government of South Vietnam. However, the Americans did not come
to Vietnam for domination or for the seizure of land and natural
resources. They came to harness territorial, political, and
economic hegemony by the Chinese and the Russians over South–East
Asia. This coincided with the objectives of the government of
South Vietnam as well. The fine pointin politics, however,
resides in the masterlyskills of leadership to negotiate national
interests with those of the allies. On the other hand, Hoàng Phủ
Ngọc Tường’s belief in the independence of the government of
North Vietnamwas simply misconstrued and illusionary. He probably
was unaware of the fact that during the war against the French
and the Americans, China had transferred over 300,000 Chinese
troops and advisors to Vietnam while Russia provided tons of
modern up–to–date weaponry and ammunition. The debts Vietnam is
demanded topayback nowprobably areworth the entire land and
maritime territories of the country.
With regard to Marxism–Leninism, on the
level of practice – let alone the fallacies in the application of
Hegel’s spiritual dialectic to the materialistic dialectic by
Marx and Engel – the dictatorship of the proletariat simply
cannot be implemented because (1) the proletarian masses are
incapable of governance, (2) there needs to be an intellectual
elite and professionals to be in charge of governing the country
as Lenin advocated, and (3) once the elite and professionals
acquire power, they won’t ever let go of it. Consequently, the
interests of the proletariat ultimately turn into those of the
elite in power. The proletarian revolution subsequently becomes a
fortress protecting the special interests and privileges of
greedy and cruel despots like Lenin, Stalin, and Mao Tse Tung,
who irrevocably put to death over 100 million innocenthuman
beings.
Hoàng
Phủ Ngọc Tường is actually a pseudointellectual, whose knowledge
of the Marxist–Leninist theories is only “half–knowledge”,
without any perspective for the creative type of “freedom to”
discover the good, the true, and the beautiful. Instead, it leads
him into the labyrinth of self–alienation and assimilation with
the immoral, inhuman force of communism, which cloaks itself with
the deceptive appearance of humanism and patriotism. From the
60’s until now, Hoàng Phủ Ngọc Tường has been spiritually
limping, semi–conscious, along his rugged journey of deception
and self–alienation to finally wake up to reality on the occasion
of the “Interview on the Bank of the Perfume River.”
However, one
cannot help but wonder how in the world a pacific, well–spoken
and well–loved teacher like Hoàng Phủ Ngọc Tường had turned into
a cruel, savage murderer, who ordered 204 innocent people to be
buried alive at Gia Hội School and participated in the massacre
of 5,327 and the disappearance of 1,200 other citizens of Huế.
The explanation must lie in the fact that once he had assimilated
himself with the immoral, inhuman force of communism cloaked in a
deceptively ethical and patriotic appearance, which he glorified
as “the conscience of the people”, “the viewpoint of the
revolutionary war”, he completely lost his self, his
trueidentityand essence, in the process of self–alienation and
became just a reflection of the multiplemeaningless minutiae that
deck the VNP. He no longer had freedom of choice and acted like a
robot under the orders of the VNP. If the Party plundered and
killed, Hoàng Phủ Ngọc Tường would do the same, without any sense
of responsibility because responsibility belonged to the Party.
Hoàng Phủ Ngọc Tường had so confessed.
In order to explicate this absurdity,
Stanley Milgram, a social psychologist and professor at Harvard
and Yale Universities, conducted an experiment on obedience,
resulting in the publication of his book entitled Obedience to
Authority in 1974. This experiment included a number of Dr.
Milgram’s stooges sitting on one side of a glass partition,
expected to learn a list of randomly chosen words and one
experimental subject sitting on the other side of the partition
with a machine designed to punish the learners. The machine had a
knob with graded levels electrocution from very mild to stronger
and stronger, up to lethal. The experimental subject was
instructed by a designated scientist in a white coat standing
next to him, to simply continue applying punishment if the
learners didn’t master the list. The Stooges had been trained to
act in pain in accordance with the levels ofpunishment reflected
from the lights in front of them and the wiring was of course
fake. The experimental subjects were randomly selected from all
walks of life: doctors, business people, professionals, workers,
etc... The result was over 60% of the experimental subjects
turned the knob up to the lethal level with the scientist
instructing them to continue because he said it wouldnot damage
the tissues. In a further experiment. Dr. Milgram had the stooges
sitting next to the experimental subjects, a number of whom went
as far as pushing the stooges down to their chairs when the
latter recoiled in pain.
This experiment helped Dr. Milgram to
understand why the Nazis were able to kill millions of Jews in
gas chambers, shot them dead, or buried them alive without any
feeling of empathy or responsibility. They could perform those
atrocious murdering acts because they believed in their
superiors, their idols as the experimental subjects in the
Milgram experiment believed in their scientist, who was supposed
to know better and to take responsibility for all
theconsequences. Hoàng Phủ Ngọc Tường’s idol was what he called
“the conscience of the people”, “the viewpoint of the
revolutionary war”, and ultimately “the Vietnamese Communist
Party”.
But why was he able to wake up?
The answer could possibly lie in the
fact that (1) the many Vietnamese nationals that Hoàng Phủ Ngọc
Tường labeled “those still with conscience and intelligence” keep
–– during the last 43 years (1975 to 2018) –trying to wakehim up
from his state of dull–wittedness of self–alienation by revealing
authentic and accurate evidence about his criminal acts of
cruelty, (2) old age –– on top of a severe stroke forcing him
topermanently sit in a wheelchair, with the final realization
that he could depart any time – doesn’t appear to secure him a
safe place anywhere in the netherworld, (3) his legacy for his
children looks so darned pitiable, and(4) lastly, all the things
that he spent most of his adultlife fighting against such as
corruption, bribery, abuse of power, lack of respect for national
sovereignty, dependence on a foreign power, inequality and lack
of individualfreedom in the government of South Vietnam are
actually many–fold better than what he has been witnessing in the
current government under the guardianship of his revered
Vietnamese Communist Party.
Hoàng Phủ Ngọc Thường has lost his
self. He had immersed himself in the labyrinth of
self–alienation,his cries of despair and hopelessness unable to
save his soul, his essence, from disappearing into nothingness.
Nonetheless,their echoes are reverberating warnings to those who
are currentlylosing their ways in this same labyrinth, acting
like robots without a soul, without the ability to be free and to
be creative because the illusory halo of the Vietnamese Communist
Party’s falsehood had focused its spotlight on its everlasting
deceptiveness that keeps deluding generations after generations
of idealistic, but gullible youngsters into romancing a socialist
utopia as it had beguiled Hoàng Phủ Ngọc Tường, by robbing via a
process of metamorphosis their authentic, true selves. The only
hope, to which those people “with conscience and intelligence”
are persistently hanging on, is for those youngsters who worship
the VNPas their idol to recover from this lethargic infatuation
early enough, before they evidentlyrecognize they are too old ––
facing unavoidable death that is very soon coming straight at
them –– with the tragic realization that their legacy for
posterity is so lamentable and repulsive. The Hoàng Phủ Ngọc
Tường case represents a miserable error of the past. We must
needs look towards a future that is illuminated with the hope
that those self–alienated people could find their ways back to
their genuine identity of freedom and creativity.
Philadelphia, October 25,
2018
BIBLIOGRAPHIC REFERENCES:
1. Fromm,
Erich, Escape From Freedom. New York, New York: Farrar &Rinehart,
1941.
2.
Milgram, Stanley. Obedience to Authority. New York, New York:
Harper & Row, Publishers, 1974.
3. Bảo, Trung. “Thà Ông Im Lặng Còn
Hơn.” Ngày 10 tháng 2, 2018.
4. Bezmenov, Yuri Alexandrovich. “Tình
Báo KGB Tiết Lộ Việt Cộng Tiến Hành Thảm Sát Huế 1968 Như Thế
Nào.” 1970.
5.
Chu, Mỹ Dung. “Huế Mậu Thân”.
6. Hoàng, Phủ Ngọc Tường. “Lời Cuối cho
Câu Chuyện Quá Buồn”. Ngày 9 tháng 2, 2018.
7. Khuê, Thuỵ. “Nói Chuyện với Hoàng
Phủ Ngọc Tường về Biến Cố Mậu Thân.” RFI, 12 Tháng 7, 1997.
8. Nguyễn, Liên Thành. “Bác Sĩ Định”
9. –––––, –––––. “Trích Huế Thảm Sát
Mậu Thân 1968.”
10. –––––, –––––. “Thư Gởi Hoàng Vũ
Ngọc Tường.” Tháng 2, 2018.
11.Nguyễn, Thái Hoà. “Nhân Chứng Nguyễn
Thị Thái Hoà.”
12.Nguyên, Hữu. “Phỏng Vấn Bên Bờ sông
Hương”, Saigon Times, 22 tháng 2, 2018.
13.Sang, Tôn Thất. “Đi Nhận Xác Thầy.”
***
FOOTNOTE: The reference list in Vietnamese cited above is authentic evidence for all the incidents and facts described in this essay by author Nguyễn Văn Thái and can be accessed in: https://docs.google.com/folder/d/0B2xRw_cSQGrydS1VWjNIaVRuRG8/edit
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)/a>
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Liên Thành chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
September 1, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang