Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tản
mạn CSVN
Chủ đề:
HCM
Tác giả:
Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư Thỉnh Giảng
–University of Pennsylvania
–St Joseph’s University
–Chestnut
Hill College
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
ỦY BAN TRUY TỐ TỘI ÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRUNG TÂM ĐIỀU HỢP TRUNG ƯƠNG
P.O.BOX
6147
FULLERTON, CA 92834, USA
TELE: 626–257–1057
Orange county, California–USA. Ngày 29/8/2020
Kính gởi:
–Đồng bào Quốc nội và Hải ngoại.
–Quý
chiến Hữu QLVNCH/CSQG Việt Nam Cộng Hòa
XIN PHỔ BIẾN RỘNG RÃI
Trong bài “Chung Quanh Nghi
Vấn Hồ Chí Minh Chết năm 1932”, chúng tôi có nói là mặc dù có
nhiều dữ kiện lịch sử hỗ trợ lập luận Hồ Chí Minh đã chết vào năm
1932 hay 1933. Tuy nhiên, những bằng chứng này chỉ cho phép người
đọc có cơ sở khá vững chắc để loại suy kết luận có tính khả tín
cao. Nhưng khẳng định là Hồ Chí Minh đã chết vào năm 1932 hay
1933 đòi hỏi nhiều bằng chứng cụ thể trực tiếp xác định sự kiện
này. Dữ kiện lịch sử do tác giả Huỳnh Tâm đưa ra là một tài liệu
trực tiếp xác định cái chết của Hồ Chí Minh vào năm 1932 hay
1933: “Nguyễn Ái Quốc thực sự đã chết vì bệnh lao năm 1933, tuy
nhiên cũng có những tài liệu khác cho rằng đương sự chết năm
1932, xác ông ấy hỏa táng, tro cốt lưu trữ (mã số 00567) tại
nghĩa trang Kuntsevo Moscow Russia.” (danlambao. Paris
21/10/2017, Kỳ 2). Nhưng đây chỉ là một tài liệu. Muốn có giá trị
lịch sử thì cần phải có nhiều tài liệu khác khẳng định cùng một
sự kiện. Rất tiếc là không có tài liệu lịch sử nào khác trực tiếp
xác nhận Nguyễn Ái Quốc chết vào năm 1932 hay 1933, ngoại trừ báo
chí quốc tế cộng sản như tờ Pravda của Nga, tờ Labour Monthly của
Anh, tờ The Worker của Anh, và tờ l’Humanité của Pháp cũng như
chính phủ Pháp, thông báo là Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932.
Ngay chính báo điện tử của CSVN cũng xác nhận điều này (Xem
Nguyễn Văn Thái. “Chung Quanh Nghi Vấn Hồ Chí Minh Chết năm
1932”), nhưng sau đó đã cải chính là Nguyễn Ái Quốc vẫn còn sống,
cắt nghĩa là tình báo Pháp tung tin thất thiệt để làm nhụt chí
đấu tranh của nhân dân hay là người cộng sản tung tin thất thiệt
để che mắt mật thám Pháp đang theo dõi Nguyễn Ái Quốc.
Một lối khảo cứu khác có thể chiếu rọi
ánh sáng vào hai lập trường trái ngược nhau này: (1) Nguyễn Ái
Quốc đã chết vào năm 1932 hay 1933 và (2) Nguyễn Ái Quốc vẫn còn
sống và tiếp tục hoạt động cách mạng cho đến ngày 2 tháng 9 năm
1969. Trong bài “Chung Quanh Nghi Vấn Hồ Chí Minh Chết năm 1932”,
chúng tôi đã trưng bày những tài liệu lịch sử hỗ trợ kết luận là
Hồ Chí Minh đã chết vì bệnh lao phổi nặng mà không có thuốc trụ
sinh đặc trị. Nhưng dù người ta có tin chắc kết luận này đến thế
nào đi nữa, kết luận vẫn chỉ là một loại suy vì những dữ kiện
lịch sử trích dẫn chỉ là những dữ kiện gián tiếp. Tuy nhiên, kết
luận này lại hé lộ một lối nhìn mới. Kết luận Nguyễn Ái Quốc chết
năm 1932 hay 1933 tất nhiên đòi hỏi phải có hai Hồ Chí Minh: một
Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc của giai đoạn từ 1890 đến 1932/1933
và một Hồ Chí Minh, không phải là Nguyễn Ái Quốc, của những năm
từ 1932/1933 đến 1969.
Nếu chứng minh được Hồ Chí Minh là hai
nhân vật khác nhau đóng hai vai trò cho hai giai đoạn lịch sử thì
kết luận Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932 hay 1933 càng được
xác tín hơn.
Ông Hồ Tuấn Hùng, một giáo sư môn sử học tại Đài Loan, là người
mở đầu cho lập luận Hồ Chí Minh của những năm 1890–1932/1933 và
Hồ chí Minh của những năm 1932/1933–1969 là hai nhân vật khác
nhau. Ông đã bênh vực, nếu không nói là chứng minh, lập trường
này qua tác phẩm Hồ Chí Minh Bình Sinh Khảo một cách cẩn trọng,
khúc chiết, mạch lạc bằng cách trưng bày những dữ kiện lịch sử đã
được nghiên cứu bởi những nhà sử học danh tiếng chuyên môn về Hồ
Chí Minh như William J. Duiker, Jean Lacouture, Sophie Quinn
Judge...
Mặc
dù vậy có hai người đã thẳng thừng bài bác lập luận này. Đó là
nhà văn Vũ Thư Hiên và nhà báo Bùi Tín (vừa mất ngày 11 tháng 8
năm 2018). Ông Vũ Thư Hiên là con của ông Vũ Đình Huỳnh, một
trong ba thư ký riêng của ông Hồ Chí Minh. Ông Bùi Tín là cựu đại
tá quân đội nhân dân Việt Nam, đã từng là Phó Tổng biên tập của
tờ báo Nhân dân. Vũ Thư Hiên nói rằng lúc 17 tuổi ông đã có lần
gặp Hồ Chí Minh, thực sự là một ông già 60 tuổi chứ không phải
một người 49 tuổi mà Hồ Tuấn Hùng đã cố chứng minh là Hồ Tập
Chương (sinh 1901), đã được huấn luyện tại Nga thay thế Nguyễn Ái
Quốc (sinh năm 1890, trong căn cước Pháp cấp ngày 4 tháng 9 năm
1919, khai là 1894). Lập luận chính của ông Vũ Thư Hiên là hằng
ngàn, hằng vạn người đã từng gặp Hồ Chí Minh mà chẳng có ai nhận
ra ông là người Tàu là một điều không thể tin được. Ông Bùi Tín
thì lấy bằng chứng là khi “chủ tịch” Hồ Chí Minh về thăm quê, có
một ông lão chỉ vào tai Hồ Chí Minh có vết thẹo do khi nhỏ đi câu
cá bị lưỡi câu móc vào tai và ông ta la lên: “hắn là thằng Côn
đây nè!”. Ông Bùi Tín còn nói là ông Hồ Chí Minh nói tiếng Nam
Đàn rặt. Bùi Tín cho cuốn sách Hồ Chí Minh Bình Sinh Khảo là “tào
lao” và là sách giả tưởng, không đáng đọc.
Thực sự thì
về phương diện cách nhau về tuổi tác, người ta sẽ thấy những
người cách nhau 3–4 tuổi trong thời còn là thanh niên khác biệt
nhau rất nhiều. Nhưng trên 50 tuổi người ta thường sẽ thấy khó
phân biệt những người cách nhau độ khoảng 6 đến 10 tuổi. Còn phân
biệt giữa một người Tàu và một người Việt không dễ dàng như ông
Vũ Thư Hiên nghĩ, nhất là khi người đó đã được tình báo quốc tế
huấn luyện.
Sự kiện ông lão gọi “chủ tịch” Hồ Chí Minh là “hắn” thì cũng khó
tin. Hơn nữa, Hoàng Tùng trong hồi ký của ông ta cho biết là câu
chuyện vết thẹo trên tai của Hồ Chí Minh lại là do bà Bạch Liên
(bà Thanh), chị ruột của Hồ Chí Minh, kể lại khi bà thăm viếng
ông. Còn việc Hồ Chí Minh có nói rặt tiếng Nam Đàn hay không đã
được chứng minh hết sức rõ ràng trong cuộc phỏng vấn Hồ Chí Minh
bởi phóng viên Suzuki Toshi Iti của đài truyền hình NTN Nhật bản
(https://www.youtube.com/watch?v=nCPdpYMrhzI). Trong cuộc phỏng
vấn này Hồ Chí Minh nói giọng lơ lớ và phải cầm giấy đọc và đọc
tiếng Việt cũng không suông chảy được.
Không biết nhà văn Vũ Thư Hiên và nhà
báo Bùi Tín có đọc Hồ Chí Minh Bình Sinh Khảo hay không vì không
thấy hai ông này phản biện quan điểm nào của Hồ Tuấn Hùng cả, ít
nhất cũng là một vài điểm chính yếu của cuốn sách. Vả lại, ông Vũ
Thư Hiên và ông Bùi Tín nếu có thấy mặt Hồ Chí Minh thì cũng thấy
Hồ Chí Minh từ 1945 về sau mà thôi, nên cũng khó có tiêu chuẩn để
đối chiếu. Những người biết Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là Võ
Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Trường Chinh, Hoàng Văn
Hoan, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong,
Lâm Đức Thụ, Nguyễn Giản Thanh, Đặng Xuân Hồng, Trương Quốc Huy,
Lê Cầu, Nguyễn Công Viễn, Nguyễn Thị Minh Khai, Trần Phú, Bùi
Công Trừng, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Lương Bằng,
Nghiêm Kế Tổ, Trương Bội Công, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần,
Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Phong Sắc, Đỗ Ngọc Du, Dương
Hạc Đính, Nguyễn Tuân, Mai Ngọc Thiệu, Trần Tư Chính và Nguyễn
Sơn (Hồng Thủy). Những người này không nói ra hẳn phải có lý do
riêng. Tuy nhiên, đa số có lẽ là vì lệnh của cộng sản quốc tế.
Ông Bùi Tín
còn nói là sử gia Hồ Tuấn Hùng đã bịa đặt chuyện Nguyễn Ái Quốc
và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau. Đọc Hồ Chí Minh Bình Sinh
Khảo, người ta sẽ thấy ông Hồ Tuấn Hùng đã dùng nhiều sự kiện
lịch sử gom góp lại từ những học giả nổi tiếng nghiên cứu về Hồ
Chí Minh để bênh vực lập luận của ông. Ngoài ông ra, cũng có
nhiều tài liệu khác vạch trần Hồ Chí Minh là một người khác đóng
vai Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn từ 1934 đến 1969. Sau đây là
những dữ kiện hỗ trợ lập luận Hồ Chí Minh là một nhân vật khác
đóng tiếp vai trò của Nguyễn Ái Quốc:
1. Về bệnh lý
Sự kiện lịch sử đầu tiên khó bác bỏ
được là bệnh lý của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn từ 1927 đến
1933. Như đã được trình bày trong bài “Chung Quanh Nghi Vấn Hồ
Chí Minh Chết năm 1932”, Nguyễn Ái Quốc bị bệnh lao phổi mãn tính
trong giai đoạn từ 1927 đến 1931 và bệnh tình trở nên cấp tính
trong giai đoạn từ 1931 đến 1932/1933, trầm trọng đến nỗi ho ra
máu nhiều lần mà không có thuốc trụ sinh đặc trị, vì những thuốc
này chỉ được sáng chế vào những năm 1943 và 1946. Dữ kiện lịch sử
này cho phép người ta tin là Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932
hoặc 1933.
Nhưng theo sử gia Céline Mérangé thì Nguyễn Ái Quốc xuất hiện tại
Moscow và theo học trường Quốc tế Lê Nin năm 1934. Tình báo Pháp
cũng xác nhận là Nguyễn Ái Quốc vẫn còn sống. Cuộc đời hoạt động
của Nguyễn Ái Quốc vẫn tiếp tục cho đến ngày 2 tháng 9 năm 1969.
Tuy nhiên,
tình trạng bệnh lý của Hồ Chí Minh từ 1934 trở đi cho phép người
ta tin rằng Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là một
người khác đóng tiếp vai trò của Nguyễn Ái Quốc. Bệnh lao phổi
của Nguyễn Ái Quốc càng ngày càng trầm trọng nhất là vào những
năm 1931–1933 đến nỗi chính ông phải thú nhận trong một bức thư
gửi Lâm Đức Thụ là ông có thể chết trong tù. Thế mà bỗng nhiên từ
năm 1934 trở về sau, tuyệt nhiên không có một tài liệu nào đề cập
đến bệnh lao phổi của Hồ Chí Minh nữa. Vả lại ông còn hút thuốc
nặng nữa. Chỉ có tài liệu nói ông bị bệnh sốt rét. Năm 1945, “Một
y sĩ thuộc Trung tâm chiến lược Hoa Kỳ (nhóm nhảy dù) chẩn đoán,
Hồ Chí Minh ngoài bệnh sốt rét còn mắc thêm chứng kiết lỵ.
(Truyện Hồ Chí Minh– William J. Duiker, trang 301– 302)”.
Bệnh sốt rét
thì đã có tài liệu lịch sử rõ ràng:
Từ 1944 đến 1950, trong những giai đoạn
Hồ Chí Minh đi công tác ở Trung quốc, Hoàng Văn Hoan kể: “Cuối
tháng ba năm 1945, sau chuyến công tác tại địa khu Đông Khê,
chúng tôi chuyển đến Xuân Sơn tổ chức mấy cuộc phát động quần
chúng, chính là lúc gặp Hồ Chủ Tịch từ Bắc Pha đi xuống. Tôi đi
cùng Chủ Tịch một đoạn. Trên đường Hồ Chí Minh lại lên cơn sốt
rét (hoặc nhiễm ngược tật, chợt nóng chợt lạnh. Khi nóng, nhiệt
độ tăng cao, toàn thân hầm hập. Khi lạnh, hàm răng run cầm cập,
gọi là sốt rét). Đồng chí Phạm Việt Tử phải dùng bơm tiêm ký ninh
vào tĩnh mạch, nói rằng, loại thuốc này có hiệu quả cắt cơn ngay
tức khắc.” (Giọt nước trên biển cả – Hoàng Văn Hoan, trang
180–181, NXB Giải phóng quân, Trung Quốc, 1987).
Tháng bảy năm
1945, Võ Nguyên Giáp kể: “Trên đường từ Tĩnh Khê (Trung Quốc) về
Việt Nam, bệnh cũ Hồ Chí Minh tái phát, nhiều ngày liền sốt cao,
hôn mê bất tỉnh. Chúng tôi tìm được một thầy lang người dân tộc
Đại biết cách điều chế môn thuốc hạ nhiệt cho Bác uống mỗi ngày
hai ba lần, cuối cùng bệnh cũng thuyên giảm, sau đó mới tiếp tục
công việc”.
Từ
1933 đang bị bệnh lao phổi trầm trọng phải ho ra máu nhiều lần,
lại không có thuốc trụ sinh chữa trị, bỗng đột nhiên đến năm 1934
trở về sau, Hồ Chí Minh không còn bệnh lao phổi nữa, mà chỉ bị
bệnh sốt rét và kiết lỵ, rồi chết vì bệnh tim ngày 2 tháng 9 năm
1969. Bệnh lý ở hai giai đoạn quá khác biệt nhau; thách thức luận
lý, nếu khẳng quyết đó là bệnh lý của chỉ một người.
2. Về Lộ
trình đi Mạc Tư Khoa
Lộ trình đến Mạc Tư Khoa vào năm 1933,
theo những nhà nghiên cứu về Hồ Chí Minh, cũng cho chúng ta thấy
có hai lộ trình khác nhau.
Theo Hồ Tuấn Hùng thì “Nếu đem ghi chép
về Nguyễn Ái Quốc trong hồi ký của Paul Draken đối chiếu với
William J. Duiker, Sophie Quinn–Judge, cùng cuốn sách Chủ tịch
nước Việt Nam Hồ Chí Minh của Lý Gia Trung, cựu Đại sứ Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam, có dẫn dụng cả ‘Sự kiện Hương
Cảng năm 1931’ của Nguyễn Việt Hồng, thì quá trình rời khỏi Hương
Cảng của Nguyễn Ái Quốc hầu như hoàn toàn nhất trí [thống nhất]”.
Có thể xem đây chính là sự thật lịch sử. Từ đó suy luận tiếp
theo: “Cuối tháng giêng năm 1932, Nguyễn Ái Quốc rời khỏi Hương
Cảng cùng với bạn của Paul Draken là cô Anne Kennedy, người có
chiếc thủy phi cơ Trân Châu Trung Quốc, bay đến bến sông Hoàng
Phố, sau đó một đồng chí chèo con thuyền nhỏ đón Nguyễn Ái Quốc
về Thượng Hải. (Anne Kennedy là chị họ của tổng thống Hoa Kỳ thứ
35 John Kennedy, thân phụ là trùm dầu mỏ Hoa Kỳ, giáo phụ hắc
bang Thượng Hải Hoàng Kim Vinh là cha nuôi)”. Và theo hồi ký của
Bảo Long La thì cũng “Đầu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đi chiếc thủy
phi cơ nhãn hiệu ‘Trân Châu Trung Quốc’ từ Hương Cảng bay đến bến
sông Hoàng Phố rồi về Thượng Hải trên con thuyền nhỏ.”
Trong lúc đó,
đa số những nhà nghiên cứu khác lại mô tả là “Đầu năm 1933, Hồ
Chí Minh từ Hạ Môn đến Thượng Hải.” Theo Hồ Tuấn Hùng thì sự khác
biệt này là sự nhầm lẫn giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh [tức
Hồ Tập Chương]. Nguyễn Ái Quốc được tình báo viên Anh Paul Draken
đưa lên thuỷ phi cơ đi thẳng đến sông Hoàng Phố, được một đồng
chí đón vào Thượng Hải rồi chết trên đường đi Mạc tư Khoa. Còn Hồ
Chí Minh thì đi từ Thái Lan [Xiêm La] đến Hạ Môn, rồi đi Thượng
Hải để tiếp tục đi Mạc Tư Khoa.
“Mùa thu năm 1929, Hồ Tập Chương có
người anh thứ ba là Hồ Tập Phỉ cùng với em rể Lưu Anh Hán và một
người bạn ở Trung Lịch, đến bến Cơ Long, xuống tàu Nhật đi Thượng
Hải. Trước sau năm 1932, những người bạn thay nhau truyền tin về
gia đình là, Hồ Tập Chương làm việc tại ‘Liên minh mậu dịch Thái
Bình Dương’ Thượng Hải, khoảng thời gian giữa mùa hạ và mùa thu
năm 1931, vì việc in ấn tài liệu mà bị bắt tạm giam nhưng đã trốn
được đến Quảng Châu, sau đó lại bị bắt ở Quảng Châu, đến khi được
giải cứu thì chuyển về vùng biên giới Việt–Trung, Xiêm La hoạt
động.”
... Đặc
biệt vào năm 1930, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương đã cùng ở
trong Ban trù [sic] bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Mùa hè
năm 1931, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương đồng thời bị bắt ở
Hương Cảng và Quảng Châu... Năm 1931, Hồ Tập Chương đổi tên là Hồ
Chí Minh, vì vậy mà hộ chiếu mang tên Hồ Chí Minh, và danh xưng
này đến sau năm 1942 thì được dùng thường xuyên” (Hồ Tuấn Hùng).
3. Về diện
mạo
Nguyễn Ái
Quốc và Hồ Chí Minh [Hồ Tập Chương] khác nhau. Tuy nhiên, Hồ Tập
Chương hao hao giống Nguyễn Ái Quốc, và giáo sư Hồ Tuấn Hùng đã
dùng di ảnh của hai người đối chiếu để phân biệt ai là Nguyễn Ái
Quốc và ai là Hồ Tập Chương. Nhưng đặc biệt là tài liệu mà tác
giả Huỳnh Tâm cho biết là từ hồ sơ lưu trữ của quân đội Trung Hoa
Dân quốc thì khi bị bắt năm 1942 bởi quân đội Tưởng Giới Thạch,
Hồ Tập Chương đã khai với đại tá La Trác Anh (Luo Zhuoying –
羅卓英), người có trách nhiệm thẩm vấn tù binh, là: “Thưa ngài cũng
đã biết Nguyễn Ái Quốc là ai rồi, nay tôi xác minh Nguyễn Ái Quốc
và tôi cả hai đều khác nhau rất nhiều mặt, tuy tôi đã hoá trang
và chỉnh hình cũng vẫn là Hồ Tập Chương, một đứa con trai của đất
nước Trung Quốc (胡集璋儿子中国). Trước đây tôi đã trình bày rồi nhưng
chưa đủ chi tiết, xác định lại tôi không phải Nguyễn Ái Quốc,
nhưng về hoạt động của y, tôi phải thực tập, kết hợp cá tính và
sinh hoạt hằng ngày cho thật nhuần nhuyễn với giai cấp Nguyễn Ái
Quốc.” Và “Về tướng mạo Hồ Tập Chương (胡集璋), theo lý lịch đảng có
chiều cao 1 mètre 62, trán [sic] cao, thân gầy, cân nặng 51kg,
mắt trái khuyết sâu hơn mắt phải, đôi môi dày.” Thẻ căn cước
(carte d’identité) do Pháp cấp ngày 4 tháng 9 năm 1919 cho Nguyễn
Ái Quốc, thì Hồ Chí Minh sinh năm 1894, có chiều cao là 1 mét 65,
mũi tẹt, phía dưới mũi ngang bằng, tóc đen, mắt đen.
Về vết thẹo ở
tai như là dấu ấn của Nguyễn Ái Quốc, như Bùi Tín có đề cập, thì
cũng chưa hẳn đúng vì chỉnh hình có thể tạo nên vết thẹo này. Vả
lại, Hồ Chí Minh chỉ trở về nước sau 34 năm (1911–1945) nên cũng
khó đối chiếu sự khác biệt.
4. Về trang phục
Trang phục
của hai người cũng hoàn toàn khác nhau. Nhà báo Hoàng Tùng trong
một hồi ký có kể câu chuyện như sau: “gặp Bác ở đình Phú xá. Hôm
đó tôi cũng mặc bộ quần áo mùa thu bình thường như các vị ở đây
thôi. Bác nhìn tôi, hỏi anh Trần Đăng Ninh: – Quan nào mà diện
thế?”
“Nói
chung, trang phục thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần
áo đồng màu như Lenin hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần
chất phác, không mấy coi trọng hình thức, thậm chí còn có vẻ quê
mùa. Đây chính là kiểu sinh hoạt rất đặc biệt của Hồ Chí Minh.
Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất hợp thời
trang. Ví dụ, năm 1907, lúc Nguyễn Ái Quốc 17 tuổi, rời nhà vào
Huế học hệ [sic] sơ học Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế
giễu đã chủ động cắt tóc ngắn, trang phục như trào lưu thời
thượng. Tại nước Pháp, Liên Xô hay Trung Quốc, cho dù gặp lúc
kinh tế quẫn bách, nhưng tại các cuộc họp, Nguyễn Ái Quốc vẫn tạo
mọi điều kiện để mặc Âu phục, thắt cravate.”
Giáo sư
William J. Duiker cũng có nhận xét một sự khác biệt về thói quen
giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh: “Nguyễn Ái Quốc ăn mặc rất
chải chuốt và luôn luôn thắt cà vạt còn trang phục của Hồ Chí
Minh thì rất luộm thuộm, ông ta không bao giờ thắt cà vạt, trông
rất quê mùa.” (William J.Duiker, Ho Chi Minh: A Life, New York
Hiperion, 2001).
5. Về tình cảm đối với gia đình
Tình cảm đối với gia đình của Nguyễn Ái
Quốc cũng hoàn toàn khác tình cảm của Hồ Chí Minh. Từ khi rời
Việt Nam trên tàu Latouche–Tréville đi Pháp, Nguyễn Ái Quốc chỉ
nghĩ đến sự tiến thân, làm quan cho Pháp khi nạp đơn xin vào học
École Coloniale (Trường Thuộc địa), trường chuyên môn đào tạo cán
bộ cho Pháp trở về nước quản trị Việt Nam. Ông còn nhờ ông Cả
Khiêm (anh ruột) đang giúp việc tại toà Khâm sứ Trung kỳ vận động
cho ông được vào trường này. Nguyễn Ái Quốc cũng rất lo cho cha.
Ông đã gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ xin nhờ chuyển 15 đồng (Đông
dương) cho cha vì “cha ông không nhận mandat trực tiếp được”. Và
theo cuốn sách Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh của Lữ Phương
thì “... không phải chỉ gửi tiền giúp, anh còn có ý xin chính
quyền thuộc địa phục chức hoặc tìm việc cho cha nữa... Bản khai
của Bùi Quang Chiêu với Mật thám Sài Gòn ngày 21/9/1922 có nói
đến việc ông gặp Nguyễn Tất Thành (mang tên Văn Ba) trên tàu
Latouche–Tréville (ông nói đã quên tên) như sau: “Anh đang làm
việc trên tàu. Anh đến gặp tôi vì tôi từng là giáo sư nông nghiệp
dạy cha anh tại Huế khoảng 1901–1902. Anh nói với tôi rằng lần
đầu tiên anh sang Pháp, mục đích là để khiếu nại cho cha anh về
việc ông vừa mới bị bãi chức. Anh muốn đến ở nhà thuyền trưởng
Do–huu–Chan (?) đang công tác tại Marseille, với tư cách là người
giúp việc nhà cho ông, để nhờ ông giúp đỡ trong việc khiếu nại
đó”.
Ngày
15/12/1912, khi qua Mỹ, thư gửi Khâm sứ [sic] Huế báo rằng trong
ba cái mandat gửi cha, anh chỉ nhận được một thư trả lời, ấy là
nhờ do lần ấy mandat đã được chính Khâm sứ chuyển trực tiếp. Lần
này anh muốn gửi tiền hàng tháng cho cha, cũng nhờ Khâm sứ giúp
đỡ và nhân đó xin Khâm sứ tìm việc làm cho cha nữa. Trong thư, có
những đoạn lời lẽ như sau:
“Ôi! Hoàn cảnh của tôi gay go biết bao!
Sống quá xa cha mẹ, rất hiếm nhận được tin tức của họ, muốn giúp
đỡ họ mà không biết làm sao!
Thôi thúc bởi tình yêu của đứa con, tôi
dám xin Ngài vui lòng thuận cho cha tôi một công việc như là thừa
biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?) để, dưới tấm lòng nhân
hậu cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh nhai.”
Rõ ràng là Nguyễn Tất Thành qua Pháp
với “mục đích khiếu nại cho cha về việc ông vừa mới bị bãi chức.”
Và ở đây chúng ta cũng thấy rõ Nguyễn Tất Thành rất lo lắng cho
cha.
Nhưng Hồ
Chí Minh thì lại khác. Khi làm “chủ tịch” nước, Hồ Chí Minh lại
quên người cha chết “tha phương ở vùng Cao Lãnh hoang lạnh...
hững hờ nghe tin đồng bào miền Nam đã cưu mang đùm bọc xây dựng
bảo trì an táng cha ruột của mình.” (Thiên Đức. “Vụ án buôn vua
Việt Nam Hồ Chí Minh”. Đối Thoại, tháng 2 năm 2009.
www.doithoaionline.com).
Tác giả Phạm Quế Dương trong bài “Đề
nghị làm sáng tỏ vụ việc: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam
hay Đài Loan” kể lại là: “Nhiều người đến trao đổi với tôi, hầu
hết là những người từng trực tiếp tham gia kháng chiến, là bộ
đội, là cán bộ tuyên huấn... Một số người phản đối, cho cuốn sách
[Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch] là bịa đặt,
đổi trắng, thay đen. Một số người thì bảo chuyện này cũng đã được
nghe từ lâu. Và tin lời Tác giả [Trần Dân Tiên]. Họ dẫn chứng:
năm 1957, cụ Hồ Chí Minh về thăm quê ở xã Kim Liên, huyện Nam
Đàn, tỉnh Nghệ An mà không ra thắp hương mộ thân mẫu là cụ Hoàng
Thị Loan. Năm 1945, khi bắt đầu làm Chủ tịch nước, bà chị là
Nguyễn Thị Thanh ở quê ra thăm, cụ Hồ tránh mặt, không dám gặp,
chỉ cử 2 cán bộ cao cấp tiếp.”
Theo Hoàng Tùng, Ủy viên Trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam, trong cuốn Những Kỷ niệm về Bác Hồ thì kể
là bà Bạch Liên ra thăm bác và “Bác nói tôi đưa bà [Bạch Liên] về
nhà tôi ở. Để ở Bắc bộ Phủ thì không tiện. Bà ăn trưa, ngủ đêm
tại nhà tôi, còn ban ngày đưa bà đi chơi thăm các nơi. Sau chuyến
này tôi không biết bà có ra thăm Bác lần nào nữa không. Lúc đó
tôi ở 23 Hàng Nón. Bà có mang theo biếu Bác hai chục cái trứng
gà. Bác bảo đem luôn về nhà tôi” (Vy Thanh. Hồ Chí Minh cứu nước?
1st ed. Tủ sách Sự Thật. Seal Beach, Calif., USA, 2016). Hoàng
Tùng cũng còn kể câu chuyện là khi bà Bạch Liên qua đời, Hồ Chí
Minh cũng thoái thác không về thăm.
Lê Nguyên trên danlambao, mùa Thu
California, 2014 kể lại là: “Lúc ông Cả Khiêm tức Nguyễn Sinh
Khiêm (anh cả của Nguyễn Tất Thành) và bà Nguyễn thị Thanh (chị
của Nguyễn Tất Thành) còn sống ở Nghệ An, Chủ tịch Hồ Chí Minh
không hề về quê nhà để thăm hai anh, chị ruột. Thậm chí khi hai
người này qua đời, Hồ Chí Minh cũng không về Nghệ An để phúng
điếu.”
“Ðối
với gia đình xem như là người xa lạ và tuyệt tình. Thậm chí một
hành vi ‘nghĩa tử nghĩa tận’ đối với cái chết của anh và chị
ruột, Hồ Chí Minh cũng không làm. Trong suốt thời gian làm chủ
tịch, Hồ Chí Minh không bao giờ tổ chức được một buổi ăn sum họp
gia đình hay kỵ giỗ cha mẹ, ông bà tổ tiên.” (Thiên Đức. Vụ án
buôn vua Việt Nam Hồ Chí Minh. Đối Thoại, tháng 2 năm 2009.
www.doithoaionline.com)
Thái độ này của Hồ Chí Minh phản ánh
một tâm lý hoàn toàn khác biệt với tâm lý của Nguyễn Tất Thành.
6. Về phương
diện tình ái
Về phương diện tình ái cũng thế. Nguyễn Ái Quốc là người giàu
tình cảm đối với vợ, nhất là đối với Tăng Tuyết Minh. Còn “Chủ
tịch” Hồ Chí Minh thì không màng hỏi han gì đến Tăng Tuyết Minh
vì Tăng Tuyết Minh là vợ của Nguyễn Ái Quốc chứ không phải của Hồ
Chí Minh. Hồ Chí Minh chỉ tha thiết yêu Lâm Y Lan. Năm 1938, Hồ
Chí Minh sống với Lâm Y Lan như vợ chồng.
Năm 1926,
Nguyễn Ái Quốc làm đám cưới với Tăng Tuyết Minh có sự tham dự của
Đặng Đỉnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai, Thái Sướng, và cố vấn Nga
Mikhail Borodin. “Mùa xuân năm 1930, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị
Minh Khai cử hành hôn lễ đơn giản tại nhà khách qua sự chứng kiến
của các đồng chí đến từ Sài Gòn và Đông Kinh.” (Hồ Tuấn Hùng. Hồ
Chí Minh Bình Sinh Khảo). Đến năm 1931, Tống Văn Sơ [Nguyễn Ái
Quốc] bị bắt khi đang sống chung với Nguyễn Thị Minh Khai, một
đồng chí của Nguyễn Ái Quốc.
Đối với Nguyễn Thị Minh Khai thì thời
gian sống chung của hai người rất ngắn ngủi. Năm 1930, tại Hương
cảng, Nguyễn Ái Quốc mang theo Nguyễn Thị Minh Khai từ Việt Nam
và đang sống chung với cô thì vào 2 giờ sáng ngày 6 tháng 6 năm
1931 bị cảnh sát Hương Cảng bắt nên cũng không có tài liệu gì nói
về tình cảm của Nguyễn Ái Quốc đối với Minh Khai. Nhưng đối với
Tăng Tuyết Minh thì đã là vợ từ năm 1926 nên tình cảm của Nguyễn
Ái Quốc rất mặn mà, tha thiết. Tình cảm này được biểu lộ qua bài
thơ dưới đây. Nguyễn Ái Quốc cũng đã nhiều lần nhờ người chuyển
thư cho Tăng Tuyết Minh, nhưng không có kết quả. Khi ở Thái Lan
ông viết bức thư này bằng chữ Hán cho Tăng Tuyết Minh, được N.H.
Thành chuyển ngữ như sau:
Cùng em xa cách,
Ðã hơn một năm,
Thương nhớ tình thâm,
Không nói cũng rõ.
Cánh hồng thuận gió,
Vắn tắt vài dòng,
Ðể em an lòng,
Ấy anh ngưỡng vọng.
Và xin kính chúc,
Nhạc mẫu vạn phúc.
Chuyết huynh Thụy.
Nhưng “Chủ tịch” Hồ Chí Minh thì tuyệt
đối không bao giờ hỏi han gì đến Tăng Tuyết Minh mặc dù đã có
nhiều lần sang Trung quốc công tác trong những năm 1944–1950,
cũng như thăm viếng và chữa bệnh vào những năm 1950–1957, và theo
Mark Bowden, còn từ giữa tháng 9 đến cuối tháng 12 năm 1967, rồi
từ đầu tháng Giêng cho đến cuối tháng Tư năm 1968 (Mark Bowden.
Huế 1968: A Turning Point of the American War in Vietnam).
“Năm 1949 Mao
chiếm lục địa. Ngày 19/5/1950 bà Tăng Tuyết Minh đọc báo thấy Chủ
tịch Mao Trạch Đông chúc mừng sinh nhật thứ 60 của Hồ Chí Minh
(lúc đó đang ở chiến khu Việt Bắc) tưởng rằng chồng cũ của mình
còn sống. Bà tìm cách hỏi đại sứ Hoàng Văn Hoan tại tòa đại sứ
Việt Nam ở Bắc Kinh và chính quyền Trung quốc để xin liên lạc với
chồng nhưng cả hai nơi đều im lặng. Lý do đơn giản là Hoàng Văn
Hoan và chính quyền Trung quốc đều biết Hồ Chí Minh ở Việt Bắc
không phải là Nguyễn Ái Quốc, chồng cũ của bà.” (Trần Bình Nam.
“Một nghi vấn lịch sử về HCM”. Feb. 26, 2013).
Ngược lại Hồ
Chí Minh rất thắm thiết với Lâm Y Lan, người tình đã sống chung
với Hồ Chí Minh từ những năm 1930 khi Hồ Chí Minh đang bị đặc vụ
tình báo Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch theo dõi ráo riết thì
Bí Thư Tỉnh ủy Quảng Đông Đào Chú bố trí một cán bộ tên là Lâm Y
Lan giả làm vợ Hồ Chí Minh để bảo vệ cho ông. “Lúc chia tay, HCM
ôm lấy LYL, dùng khăn tay lau nước mắt cho cô: ‘ãy cứng rắn lên,
đừng để kẻ thù cười chúng ta mềm yếu’, nói rồi lấy quyển nhật ký
đưa cho LYL: ‘Tâm sự của tôi đều ở trong này, sẽ cùng đi với em’”
(Nguyễn Văn Phúc. “Hồ Chí Minh và tri kỷ má hồng – Lâm Y Lan tiểu
thư” Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012 | 22:36).
Đến năm 1958, khi Đào Chú qua Việt Nam
thăm Hồ Chí Minh, hai người ngồi câu cá trên bờ sông ở Hà Nội, Hồ
Chí Minh nhờ Đào Chú làm môi giới với lãnh đạo Bắc kinh cho phép
Hồ Chí Minh đón Lâm Y Lan về Việt Nam làm đám cưới để hưởng tuổi
già và toại nguyện lời thề năm xưa. Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai
tỏ vẻ ưng thuận. Ở Việt Nam, trong một buổi họp, Tổng Bí thư Lê
Duẫn đã phản đối yêu cầu đám cưới này của Hồ Chí Minh(Nguyễn Văn
Phúc, xem trên).
7. Về khả năng ngôn ngữ
Sự khác biệt giữa nhân vật Nguyễn Ái
Quốc và Hồ Chí Minh lại càng nổi bật khi đối chiếu khả năng tiếng
Việt và tiếng Hoa của hai người.
Trong giai đoạn từ 1911 cho đến 1933,
Hồ Chí Minh [Nguyễn Ái Quốc] chỉ viết bằng tiếng Pháp. Thời kỳ
năm 1925 – 1926, Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu đã viết 88 bài xã
luận bằng tiếng Pháp đăng trên báo “Thanh niên”. Về tiếng Hoa thì
ngoài bức thư gửi cho Tăng Tuyết Minh, Hồ Chí Minh [Nguyễn Ái
Quốc], khi tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc Quốc dân Đảng lần
thứ II tại Quảng Châu năm 1926, đã “gửi Đại hội một bức thư ngắn
gọn bằng tiếng Trung (tôi nhận thấy, đây là lần thứ nhất và cũng
là duy nhất, Nguyễn Ái Quốc công khai viết bằng tiếng Trung),
trình bày Việt Nam bị thực dân Pháp áp bức thống khổ. Trong Đại
hội, Nguyễn Ái Quốc phát biểu bằng tiếng Pháp được Lý Phú Xuân
chuyển dịch sang tiếng Hoa...” (Hồ Tuấn Hùng. Hồ Chí Minh Bình
Sinh Khảo).
Rồi đột nhiên từ 1938 đến 1945, Hồ Chí Minh không hề mở miệng nói
tiếng Việt mà chỉ nói tiếng Quảng Đông hoặc tiếng Phổ thông rất
giỏi. Hồ Chí Minh cũng không dùng tiếng Việt hoặc tiếng Pháp để
viết văn mà chỉ dùng Trung văn để viết về những chính đề trường
thiên, rất phức tạp. Ông tỏ ra rất thông thạo về văn hoá Hán tộc
và phân tích tình hình chính trị Nhật bản qua báo chí Nhật, nghĩa
là biết tiếng Nhật mà chỉ có Hồ Tập Chương mới biết tiếng Nhật.
Hán văn thì rất uyên bác; ông còn dùng ngón tay để viết thư pháp
Hoa văn nữa. “Càng kỳ lạ hơn là, Hồ Chí Minh dùng chữ Hán viết
thư gửi về Việt Nam, lại được các báo, tạp chí Việt Nam dịch sang
tiếng Việt và tiếng Pháp, rồi phổ biến khắp các địa phương, tuyên
truyền Trung Quốc kháng Nhật cùng những hoạt động của phái
Troskism tại Trung Quốc”. (Hồ Tuấn Hùng. Hồ Chí Minh Bình Sinh
Khảo). Có lẽ ai cũng biết khả năng Hán văn của Nguyễn Tất Thành
trước 1911 chỉ vỏn vẹn có 3–4 năm thời học tiểu học. Còn trong
thời gian bôn ba từ 1923 đến 1933 thì lo sinh hoạt công tác và bị
bệnh lao phổi hành triền miên nên làm sao có thì giờ để học
chuyên cần về Hán văn tới mức uyên bác được, và chỉ uyên bác từ
1938 trở đi mà thôi. Điều đáng ngạc nhiên hơn nữa là trong những
bài chính đề trường thiên này, có những câu như “tôi không hiểu
tiếng Việt Nam” và “tôi là người Trung quốc” xuất hiện nhiều lần
(Hồ Tuấn Hùng. Hồ Chí Minh Bình Sinh Khảo.)
“Sau cuộc họp thứ 8 Trung ương Đảng, Hồ
Chí Minh từ Dốc Bắc đến huyện Tĩnh Tây gặp Chu Ân Lai báo cáo
tình hình chiến khu Việt Minh. Ngày 06 tháng 6 năm 1941, tại Tĩnh
Tây, Hồ Chí Minh viết lời hiệu triệu gửi đồng bào cả nước, ký tên
Nguyễn Ái Quốc (阮爱国) viết bằng tiếng Trung Quốc. Ủy ban Trung
ương Đảng dịch sang tiếng Việt Nam, kêu gọi người dân Việt Nam
tiến nhanh, thống nhất dưới sự lãnh đạo của ‘Mặt trận Việt
Minh’”. (Huỳnh Tâm. Danlambao. Paris, kỳ 16/27).
Một điều rất đặc biệt nữa là Hồ Chí
Minh, dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, đã viết cuốn tiểu sử đầu tiên
của mình bằng tiếng Hoa, xuất bản năm 1947 [sic]. Sau đó mới được
dịch ra tiếng Pháp. Bản tiếng Việt với tiêu đề Những mẫu chuyện
về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch chỉ là bản dịch từ nguyên
bản tiếng Hoa (Thiên Đức. “Vụ án buôn vua Việt Nam Hồ Chí Minh”.
Đối Thoại, tháng 2 năm 2009. www.doithoaionline.com).
Phạm Quế Dương trong “Đề nghị làm sáng
tỏ vụ việc: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay Đài Loan”
nhận xét, “Truyện Hồ Chí Minh”, bút danh Trần Dân Tiên, bản Trung
văn, “Ba Nguyên thư ốc”, Thượng Hải xuất bản năm 1949 [sic]. Năm
1958, cuốn sách đổi tên là “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của
Hồ Chủ Tịch”, xuất bản bằng tiếng Việt tại Hà Nội).
Vậy Hồ Chí
Minh viết tiểu sử bằng tiếng Trung quốc cho ai đọc? Hay là Hồ Chí
Minh không biết tiếng Việt.
Trần Đĩnh trong cuốn Đèn Cù kể chuyện
Hồ chí Minh khi đến thăm tỉnh Mông Cáy đã tỏ ra rất quen thuộc
đường sá và thông thạo tiếng Hakka (Hẹ). Giáo Sư Hồ Tuấn Hùng
trong Hồ Chí Minh Bình Sinh Khảo có đề cập đến việc Hồ Tập
Chương, người Miêu Lật (Hakka), đã có lần làm việc tại Mông Cáy.
Về khả năng tiếng Việt, một người Việt
uyên bác Hán văn và có thể dùng ngón tay để viết thư pháp Hoa văn
như Hồ Chí Minh thì khả năng nói và viết tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ
của mình, nếu không hơn tiếng Hoa thì ít nhất cũng tương đương
chứ không thể kém xa được. Thế mà Hồ Chí Minh phải dùng đến 3 năm
(1460 ngày) để viết một bản di chúc 2 trang, được giữ bí mật
“tuyệt đối”; ý tưởng thì nghèo nàn, nét bút thì nguệch ngoạc,
đánh vần lệch lạc, sai dấu hỏi ngã, sửa lui, sửa tới đến 3 lần
(1965, 1968, và 1969) mới có sự đồng ý với chữ ký chứng nhận của
Tổng bí thư Lê Duẫn. Đọc tiếng Việt thì giọng lơ lớ, không giống
tiếng Nghệ An chút nào, đọc được hai ba từ thì lại ngừng, phải
nhìn vào giấy (xem
https://www.youtube.com/watch?v=nCPdpYMrhzI).
8. Những dữ
kiện lịch sử khác
Ngoài ra, còn nhiều chi tiết lịch sử
khác cho thấy Nguyễn Ái Quốc đã chết và Hồ Tập Chương đã đóng vai
trò Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh từ 1934 đến 1969.
Dưới bút danh
Trần Thắng Lợi, Hồ Chí Minh viết bài “Đảng Ta” có đoạn: “Cuối năm
1929, đồng chí Nguyễn ái Quốc trở lại Tàu, cùng với đại biểu các
nhóm khai hội ở Hương Cảng. Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí
Nguyễn ái Quốc và tôi, nay chỉ còn...”. Câu này chứng minh rõ
ràng Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc là hai người khác nhau.
Trong một cuộc triển lãm tại Hà Nội với
chủ đề: “Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung Quốc”, hình ảnh Hồ Quang
được trưng bày như là Hồ Chí Minh. Trên blog “vhqdnvt” của
“trường văn hóa quân đội Nguyễn Văn Trỗi”, từ [sic] 3/8/2007 đã
xác nhận: “Thiếu Tá Hồ Quang PLA Trung Cộng (1938–1940) chính là
Hồ Chí Minh”. (Phạm quang Chiểu. “Tàu Cộng công bố Hồ Chí Minh
chính là Thiếu Tá Hồ Quang thuộc quân đội Nhân Dân Tàu Cộng!”).
Cả Trung quốc lẫn Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đều công nhận thiếu tá Hồ Quang trong Bát lộ quân là Hồ
Chí Minh. Trong lúc đó “tài liệu lưu trữ của Trung quốc tiết lộ
mấy dòng vắn tắt đính kèm theo ảnh chụp rất mờ (chỉ đọc được phần
chú thích tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Anh): “Sơ yếu lý lịch
của Hồ Quang (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) tại lớp huấn luyện Nam
nhạc, thuộc tỉnh Hồ nam. Năm 1939 Hồ Quang phụ trách điện đài, 38
tuổi, Quảng đông, Thiếu tá, tốt nghiệp Đại học Lĩnh nam, giáo
viên trường trung học, biết ngoại ngữ, quốc ngữ.” (Vy Thanh. Hồ
Chí Minh cứu nước? 1st ed. Tủ sách Sự Thật. Seal Beach, Calif.,
USA, 2016).
Hồ Quang ở đây nhất định không phải là Hồ chí Minh/Nguyễn Ái Quốc
mà là Hồ Chí Minh/Hồ Tập Chương. Hồ Tập Chương sinh 1901 nên đến
năm 1939 là đúng 38 tuổi, và chỉ có Hồ Tập Chương mới tốt nghiệp
đại học, mới làm giáo sư trung học.
Ngoài ra, trong cuốn Những Kỷ niệm về
Bác Hồ, nhà báo Hoàng Tùng có kể câu chuyện như sau: “Cụ hỏi tôi:
– Chiều nay đồng chí vào trong thành có nghe chuyện gì lạ không?
Tôi nói: – Thưa đồng chí, có hai việc, việc thứ nhất dư luận đang
bàn tán Hồ Chí Minh có phải là Nguyễn Ái Quốc không? Cụ hỏi: –
Anh em mình trả lời thế nào? Tôi trả lời là anh em ta nói mập mờ.
Không nói là phải, mà cũng không nói là không. Cụ nói: – Như thế
là anh em mình nói đúng.”
Việc Hồ Chí Minh từ chối mình không
phải là Nguyễn Ái Quốc đã xảy ra khá nhiều lần. Trong cuốn Từ
Thực dân đến Cộng sản: Một Kinh nghiệm của Lịch sử Việt Nam,
Hoàng Văn Chí cũng khẳng định là Hồ chí Minh đã “nói nhiều lần
ông không phải là Nguyễn Ái Quốc.” Hơn nữa, “Các chuyên viên sở
Mật thám Pháp quyết đoán Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc mặc
dầu sau 20 năm gian khổ, vóc dáng và nét mặt họ Nguyễn có thay
đổi rất nhiều. Bằng cớ là vành tai phải của hai bức ảnh đều nhọn,
trong khi tai bên trái vẫn đều đặn. Nhưng ông Hồ cứ chối, nói
rằng mình không phải là Nguyễn Ái Quốc. Ngay cả khi tướng Salan,
đại diện Pháp dự cuộc đàm phán năm 1946, hỏi thẳng vào mặt ông
Hồ, ông vẫn một mực chối cãi.” (Trần Việt Bắc. Hồ Chí Minh: “Đồng
Chí Nguyễn Ái Quốc và Tôi” 10/2013).
Một dữ kiện lịch sử khác chứng tỏ là Hồ
Chí Minh từ năm 1934 trở đi không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ
Tập Chương. Nếu là Nguyễn Ái Quốc còn sống và đang ở tại Moscow
thì Nguyễn Thị Minh Khai không thể làm đám cưới với Lê Hồng
Phong, người lãnh đạo “mới” của Đảng Cộng sản Đông dương. Nếu là
Nguyễn Ái Quốc thì tại sao sau khi được đào tạo tại viện Quốc tế
Lê Nin từ 1934 đến 1938, Nguyễn Ái Quốc lại không về thẳng Việt
Nam mà lại phải khổ cực băng qua cả hằng ngàn dặm đường để đi đến
Diên An, tổng hành dinh của Mao Trạch Đông, rồi theo Diệp Kiếm
Anh về cơ quan Bát lộ quân ở Quế Lâm sát biên giới Trung–Việt mà
vẫn không về Việt Nam, mãi cho đến 1941 mới về. (Hồ Tuấn Hùng. Hồ
Chí Minh Bình Sinh Khảo).
Cũng theo Hồ Tuấn Hùng, “Năm 1931
Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng thì Hồ Chí Minh bị Quốc dân
Đảng Tàu bắt ở Quảng Châu... Mùa hè năm 1931, Phó Đại Khánh
[Troskist] bị giam ở nhà lao Nam Thạch Đầu, Hà Nam có gặp Hồ Chí
Minh, tự nghĩ là, đây không thể nào là Nguyễn Ái Quốc. Thời gian
ấy, Nguyễn Ái Quốc đang bị giam tại nhà tù Victoria, Hương Cảng,
không thể đồng thời lại bị giam ở nhà ngục Nam Thạch Đầu. Vì thế
‘Hồ Chí Minh’ bị giam ở đây nhất định phải là Hồ Tập Chương....”
Ngay chính Hồ
Chí Minh cũng tự xưng mình là người Hán. Năm 1965, Hồ Chí Minh
đến phía bắc Trường Sa (Hồ Nam) yết kiến Mao Trạch Đông, ông cho
biết: “Tôi đã đến thăm dân làng Tính Hồ (Xinghu–姓胡), và đã ở Hồ
Nam vài ngày. Tôi và Mao Chủ tịch cùng đồng quê hương và cùng một
tổ quốc Trung Hoa”. Mao Trạch Đông nói: “Bạn đến thăm Tính Hồ,
tất nhiên là người Trung Quốc, ở đây bạn muốn cung cấp bất cứ
điều gì cũng có thể chấp nhận theo đề nghị. Tuy nhiên bạn phải
thực hiện cuộc Cách mạng Văn hóa, bởi bạn là người khởi tạo đất
nước Việt Nam”. (Huỳnh Tâm. Danlambao, Paris: Kỳ 23/27).
Theo tác giả
Huỳnh Tâm dựa trên một tài liệu lưu trữ của Quân đội Trung hoa
Dân quốc thì “nửa đêm 29 tháng 8 năm 1942, quân đội Trung Hoa Dân
Quốc giăng lưới túm gọn được Hồ Tập Chương tại mật khu Túc Vinh,
huyện Tĩnh Tây, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam, ngày nay thuộc tỉnh
Quảng Tây, Trung Quốc.” Trước sự thẩm vấn của đại tá Đàm Đức Văn
(Tan Dewen – 谭德文), dưới sự chỉ huy của tướng Trương Phát Khuê, Hồ
Tập Chương đã khai như sau: “– Thưa ngài, tiểu sử giản lược của
tôi, sinh năm 1901 (Minh Trị thứ 34), tên khai sinh Hồ Tập Chương
(胡集璋), tức vào ngày 11 tháng mười năm Tân Sửu tại trang Đồng La,
quận Miêu Lật, gốc người Hakka (客家) Đài Loan. Cha là Hồ Dần
Lượng, mẹ là Lý Thị, tôi người thứ 7 trong số 10 anh chị em. Cha
tôi vốn là tú tài (sinh đồ), ở nhà dạy học kiêm nghề bốc thuốc
chữa bệnh độ nhật. Từ năm 1910 đến 1915, vào học trường phổ thông
Đông La, từ năm 1916 đến năm 1921, học Khoa Hóa học ứng dụng
trường Đại học Công nghiệp Đài Bắc. Năm 1921 tốt nghiệp, đến 1922
trở về Miêu Lật cùng với huynh trưởng mở xưởng nấu rượu và kết
hợp với một người bạn sản xuất xì dầu. Năm 1925 tôi được Chu Ân
Lai (Zhou Enlai – 周恩來) giới thiệu gia nhập đảng Cộng sản Trung
Quốc. Năm 1926, kết hôn với người con gái cùng thôn, Lâm Quế, vào
năm 1928, sinh được một con gái đầu lòng tên Hồ Tố Mai. Mùa thu
năm 1927, xuống tàu tại bến cảng Cơ Long đi Thượng Hải, tham gia
tổ chức kinh tài Quốc tế Cộng sản ‘Lao động Thái Bình Dương’,
cùng năm tôi được đảng tín nhiệm bố trí gia nhập Bát Lộ Quân Quế
Lâm Quảng Tây, sau khi tốt nghiệp trường quân sự Hoàng Phố, đảng
bố trí bí danh 胡泉–Hồ Quang hay Hồ Đề và Lý Thụy, bút hiệu Hồ Cẩm,
quân hàm tại chức Đại tá, và bí danh cuối cùng 胡志明–Hồ Chí Minh”.
Đại tá Đàm
Đức Văn (Tan Dewen – 谭德文) thẩm vấn tiếp Hồ Tập Chương:
– Ông hoạt
động ở Việt Nam đã bao lâu, và nhiệm vụ cụ thể?
– Thưa ngài, tôi cùng với một số sĩ
quan được đảng ủy nhiệm, theo lệnh của trung ương đảng (Chủ Tịch
Mao) thành lập PKP–1930 (老党, PKP–1930–đảng Cộng sản Việt Nam) vào
ngày 7 tháng 11 năm 1930. Nhiệm vụ, khai thác nhân dân Việt Nam
đấu tranh cướp chính quyền, với sách lược “đoàn kết công nhân,
nông dân” (xảo ngữ), đúng với ngôn ngữ cách mạng. Mục đích cướp
nước Việt Nam để hòa tan vào nước Trung Hoa, cuối cùng thành lập
nhà nước của người Trung Hoa hải ngoại, điểm cao nhất tập hợp
thống nhất phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là các quốc
gia thuộc địa thiết lập chính quyền Xô Viết, định hướng thế kỷ 20
chủ nghĩa Marx lan toả. Hiện nay chúng tôi đang chuẩn bị thành
lập Hiệp hội Myanmar (缅) (Deqin Party) sẽ trở thành trung tâm
tuyên truyền chủ nghĩa Mác, đây là “vũ khí Marx đáng tin cậy
nhất, bất cứ những ai khác quan [sic] điểm, và chống lại chủ
nghĩa nhất định chúng tôi tiêu diệt”. (Huỳnh Tâm. Danlambao.
Paris: 19/10/2017, Kỳ 1 và 21/10/2017, Kỳ 2).
Sau cùng,
theo kinh nghiệm thường nghiệm, ai cũng biết là ước vọng cuối
cùng của người sắp chết là điều trung thực nhất của lòng mình.
Ước vọng sau cùng của Hồ Chí Minh trước khi chết vì bệnh tim,
ngày 2 tháng 9 năm 1969 là được nghe một bài hát Tàu. Bài báo “Ba
lần Bác cười trước lúc Đi xa” được đăng trên trang mạng qdnd.vn
của nhà nước [Việt Nam] vào ngày 25/01/2010, do Nguyễn Hòa dịch
lại từ bài viết của Vương Tinh Minh, y tá trưởng Bệnh viện Bắc
Kinh, thành viên Tổ bác sĩ Trung Quốc sang Việt Nam chữa bệnh cho
“Bác” Hồ, vào tháng 8 năm 1969, có đoạn: “Chiều hôm đó sức khỏe
của Bác đã có chuyển biến tốt lên một chút, Bác nói muốn nghe một
câu hát Trung Quốc. Các đồng chí đề nghị tôi hát. Tôi nói thật là
hát cũng không tốt lắm, nhưng để vui lòng Bác, vì tình hữu nghị
Trung–Việt, tôi đã hát một bài hát mà nhiều người thuộc và hát
được, bài hát có nội dung chính là ra khơi xa phải vững tay
chèo.” (qdnh.vn. 25.01.2010. “Ba lần Bác cười trước lúc Đi xa”).
Tóm lại, dựa
trên bệnh lý, lộ trình đến Mạc Tư Khoa, diện mạo, cách trang
phục, tình cảm đối với gia đình, tình yêu, khả năng ngôn ngữ Việt
và Hán của hai người và những dữ kiện lịch sử khác nữa, người ta
thấy có quá nhiều bằng chứng khẳng định Nguyễn Ái Quốc đã chết
vào năm 1932 hay 1933, và Hồ Chí Minh từ 1934 trở đi là một người
Tàu tên là Hồ Tập chương, đã được Nga huấn luyện để thay thế
Nguyễn Ái Quốc, đại diện Quốc tế Cộng sản qua trung gian Trung
cộng điều khiển Đảng Cộng sản Đông dương để xâm chiếm Việt Nam và
sát nhập nước Việt Nam vào với Trung cộng. “Năm 1933, Hồ Tập
Chương (với bí danh P.C. Lin) bị gọi về Mạc Tư Khoa vì bị nghi
ngờ là theo Lý Lập Tam. P.C. Lin chịu sự điều tra của tổ 3 người
gồm Dmitry Manuilsky, Vera Vasilieva và trùm đặc vụ Trung Quốc
Khang Sinh và bị Khang Sinh đề nghị tử hình. Tuy nhiên P. C. Lin
đã được Vera Vasilieva bảo trợ, vì thấy Hồ Tập Chương (P.C. Lin)
có diện mạo khá giống Nguyễn Ái Quốc, cũng như có quá khứ tương
tự, lại đã từng hoạt động chung nên đề nghị muốn [sic] ‘biến’ ông
này thành Nguyễn Ái Quốc, người đã bị chết vì bệnh lao năm 1932.
Quốc Tế Cộng Sản đảng đồng ý, Hồ Tập Chương sau 5 năm huấn luyện
đã biến thành Nguyễn Ái Quốc với bí danh Hồ Quang và Hồ Chí Minh
sau này.” (Trần Việt Bắc. Hồ Chí Minh: “Đồng Chí Nguyễn Ái Quốc
và Tôi”, 10/2013). Hồ Quang chính là bí danh của Hồ Chí Minh từ
năm 1939 đến 1942, sau khi từ Mạc Tư Khoa về Trung Quốc. “Bí danh
của Hồ Chí Minh ở Liên Xô là P.C. Lin (Lin là phiên âm của chữ
“Lâm”, cũng là họ bên vợ của Hồ Tập Chương tại Đài Loan, Lâm Quế
muội [sic]. “P.C” thì không rõ có dụng ý gì, nhưng chữ “Quang”
trong “Hồ Quang” thì chính là tên người con trai duy nhất của ông
[Hồ Tập Chương] ở Đài Loan, Hồ Thự Quang. (Phạm quang Chiểu. “Tàu
Cộng công bố Hồ Chí Minh chính là Thiếu tá Hồ Quang thuộc quân
đội Nhân Dân Tàu Cộng!”).
Dĩ nhiên kết luận Nguyễn Ái Quốc có
thực sự đã chết vào năm 1932 hay 1933 hay không và Hồ Chí Minh có
phải là một người Tàu tên là Hồ Tập Chương đóng vai trò của
Nguyễn Ái Quốc hay không phải là kết quả của sự thẩm định giá trị
những tài liệu lịch sử và của sự đắn đo suy nghĩ cẩn trọng của
mỗi độc giả. Và cũng dĩ nhiên là kết luận này có một tầm ảnh
hưởng sâu rộng – trên phương diện hoạt động chính trị –– đến vận
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và tiền đồ của dân tộc và của đất
nước Việt Nam thân yêu.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO:
Bản phóng ảnh Báo l’ Humanité ngày thứ Ba, Mồng 9, Tháng 8,
năm 1932.
Báo
L’Humanité (Nhân đạo) năm thứ 29, số 12292, thứ ba 09/08/1932.
Trần Thị Hải Ý (Danlambao) dịch.
Bút Sử. “Tại sao có tin Hồ Chí Minh
Chết nằm 1932?”
http://hon-viet.co.uk/ButSu_TaiSaoCoTinNguyenAiQuocChetNam1932.htm
8/2015
Danlambao. “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và
‘tôi’”: Tài liệu đảng CS xác nhận HCM và NAQ là hai người khác
nhau và NAQ đã chết vào năm 1932.
Duiker, William J. Ho Chi Minh. New
York: Hyperion, 2000.
Hồ Tuấn Hùng. Hồ Chí Minh Bình Sinh
Khảo. Thái Văn dịch. 11 tháng 01, 2013.
http://viteuu.blogspot.com/2013/06/ho-chi-minh-sinh-binh-khao-cua-ho-tuan.html
Huỳnh Tâm. “Hu Zhiming, tên ma đầu đại
bịp”. (15 kỳ)
http://danlambaovn.blogspot.com/2017/11/hu-zhiming-ten-ma-au-ai-bip-ky-1.html
Lacouture,
Jean. Ho Chi Minh: A Political Biography. Trans. Peter Wiles. New
York: Random House, 1968.
Lê Bá Vận. “Tản Mạn về Ngày 2/9 và Hồ
Chí Minh”. http://www.ykhoahuehaingoai.com.
Lê Nguyên. “Sự nghiệp tình ái của Hồ
Chí Minh”. Danlambao, ngày 26 tháng 12, 2016.
https://www.facebook.com/danlambaovn/posts/971878522867466:0
Mark Bowde. Huế 1968: A Turning Point
of the American War in Vietnam. New York: Atlantic Monthly Press,
June 2017.
Nguyên Thạch. “Về Hồ Chí Minh”.
Paul Draken. “Nhật ký Paul Draken– Ghi
chép về Nguyễn Ái Quốc”. YAO Publisher, 2000?
Phạm Quang Chiểu. “KẺ CƯỚP DANH XƯNG
NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ CHÍ MINH”. Ngày 9 tháng 11, 2018.
Phạm Quang Chiểu. “Tàu Cọng công bố Hồ
Chí Minh chính là Thiếu Tá Hồ Quang thuộc quân đội Nhân Dân Tàu
Cọng!”
Phạm
Quế Dương. “Đề Nghị Làm Sáng Tỏ Vụ Việc: Chủ Tịch Hồ Chí Minh Là
Người Việt Nam hay Đài Loan”.
Tinh Vệ (Diệu Tần). “Lật Tẩy “Nhật Ký
Trong Tù”“ (Nguyên Tác: Huyễn Thoại hay Huyền Thoại): Hội Văn Hoá
Việt phỏng vấn GS. Lê Hữu Mục. http://giaocam.saigonline.com
Thiên Ðức. “Vụ Án Buôn Vua việt Nam Hồ
Chí Minh”. Đối Thoại (tháng 2 năm 2009): www.doithoaionline.com.
Trần Đĩnh. Đèn Cù. Hoa Kỳ: Người Việt
Books, 2014.
Trần Việt Bắc. Hồ Chí Minh: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi”
danlambaovn.blogspot.com 10/2013
Vũ Đông Hà. “Hồ Chí Minh/Hồ Tập Chương
– “cha già” Việt hay Tàu?”
danlambaovn.blogspot.com 08/09/2018
Vy Thanh. Hồ
Chí Minh Cứu Nước.
https://app.luminpdf.com/viewer/Mx9sXAw6dzn6bfekb
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Liên Thành chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
September 1, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang