Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Thời
sự Hải ngoại
Chủ đề:
CNCS
Tác giả: Trần Trung Chính
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
ỦY BAN TRUY TỐ TỘI ÁC ĐẢNG CỘNG SẢN
TRUNG
TÂM ĐIỀU HỢP TRUNG ƯƠNG
P.O.BOX 6147
FULLERTON, CA 92834
TELE: 626–257–1057
EMAIL:
ubtttadcsvn68@gmail.com
Orange county, CA–USA. Ngày 19/2/2020
Kính gởi:
–Đồng bào Quốc nội và Hải ngoại,
–Quý chiến Hữu QLVNCH/CSQG Việt Nam Cộng
Hòa
XIN PHỔ
BIẾN RỘNG RÃI
T Ứ V Ô
Năm 1971, Ký giả Francois Revel
của báo L’Express của Pháp (một tờ báo hữu khuynh) có xuất bản một
quyển sách tựa đề là NI JESUS – NI MARX mô tả “cuộc nổi loạn” của
sinh viên học sinh Paris chống lại Tổng Thống Charles de Gaule.
Những sinh viên học sinh xuống đường vào năm 1968 thì không xuất
xứ từ nhà thờ Công Giáo và cũng không phải là nhóm “tả khuynh” hay
có chân trong Đảng Cộng sản Pháp. Tự ái vì những cuộc “xuống
đường” của sinh viên, Tổng Thống De Gaule cho “Trưng Cầu Dân Ý”
bất thường, bất thường vì nhiệm kỳ Tổng Thống Pháp là 7 năm, nhiệm
kỳ đầu là 1958–1965, nhiệm kỳ hai là 1965–1972. Năm 1968 mới chỉ
gần giữa nhiệm kỳ 2, kết quả tuy hơn 50% nhưng không đạt 67% nên
ông De Gaule rời chính trường và bầu cử lại chức vụ Tổng Thống,
kết quả ông George Pompidou lên làm Tổng Thống thứ hai của Đệ Ngũ
Cộng Hòa Pháp.
Những người theo chủ thuyết cộng sản bị coi là những kẻ chủ trương
TAM VÔ. Đó là Vô Tổ Quốc, Vô Tôn Giáo và Vô Gia Đình. Marx và
Engels khi viết TƯ BẢN LUẬN không hề đề cập đến Tổ Quốc hay Quốc
Gia. Ngay trong Tuyên Ngôn cộng sản (Manifesto), hai ông tổ sư của
chủ thuyết cộng sản đã hô hào: “VÔ SẢN CÁC NƯỚC HÃY ĐOÀN KẾT LẠI”.
Vô Tôn Giáo vì các lãnh tụ của cộng sản
coi Tôn Giáo là liều thuốc phiện ru ngủ con người.
Vô Gia Đình vì Marx và Engels coi quan
hệ hôn nhân là một loại tư hữu (trích từ quyển sách “The Origin of
the Family, Orivate Property, and the State = Nguồn gốc của Gia
Đình, Tư Hữu và Nhà Nước”. Vì thế để tiêu diệt tư hữu, tư bản,
Marx và Engels đề xuất xóa bỏ gia đình, xoá bỏ hôn nhân, giải
phóng tình dục. Để đạt được mục đích đó, Marx và Engels đề xuất:
Việc xóa bỏ tư hữu hôn nhân sẽ xóa
bỏ mọi băn khoăn lo lắng về “hậu quả”, thứ đã trở thành nhân tố xã
hội quan trọng – cả về đạo đức lẫn kinh tế – cho việc một người
phụ nữ có thể trao mình cho người đàn ông mà cô ta yêu. Liệu nỗi
lo lắng ấy có đưa tới sự gia tăng các vấn đề quan hệ tình dục
không kiểm soát, và có đưa tới việc công chúng ngày càng hạ thấp
tiêu chuẩn đối với phẩm giá của phụ nữ không?
Nói cách khác, bên cạnh những mong muốn
xóa bỏ tư hữu về kinh tế, trên danh nghĩa của cái gọi là tình yêu
và giải phóng phụ nữ, Marx và Engels đã đề xuất phá bỏ tư hữu hôn
nhân, giải phóng tình dục.
Năm 1904, Lenin đã tửng viết: Dâm dục có
thể khiến năng lượng tinh thần được giải phóng – không phải vì
những giá trị gia đình dối trá – mà để cho chủ nghĩa xã hội tiến
đến thắng lợi, phải ném cục máu này đi.
(Trích trong sách Cách Mạng Tình Dục Tháng 10, tác giả Melnichenko
Alexander, 2017)
Năm 1911, Trosky viết thư cho Lenin
rằng: “Không còn nghi ngờ gì nữa, sự áp bức về tình dục là thủ
đoạn chủ yếu của những kẻ nô dịch. Một khi còn áp bức thì không
thể có tự do thực sự. Gia đình giống như thành phần cấu thành của
giai cấp tư sản, cần phải khiến nó hoàn toàn mất đi”
Lenin trả lời: “Không chỉ là gia đình.
Bất cứ sự cấm đoán nào về quan hệ tình dục đều phải bị xóa bỏ...”
(Cách Mạng Tình Dục Tháng 10 – Tài liệu đã dẫn)
Chú thích: Tất
cả phần in chữ nghiêng vừa nêu đều trích trong Websites:
www.trithucvn.
Đến cuối những năm 1920, đầu những năm 1930, một điều bất ngờ xảy
ra: Liên Sô đột nhiên thắt chặt chính sách về tình dục. Trước khi
chết vào năm 1924, Lenin từng nói chuyện với nhà hoạt động phụ nữ
Clara Zetkin, ông ta đã quay ra lên án mạnh mẽ “chủ nghĩa cốc
nước” (một đặc ngữ của Liên Sô thời 1923, trong đó nhu cầu thỏa
mãn tình dục cũng đơn giản và bình thường giống như uống một cốc
nước, bất kể là với ai.): Lenin coi “chủ nghĩa cốc nước” là “phản
chủ nghĩa Marx”, là “phản xã hội”. Thực chất là vì giải phóng tình
dục đã gây ra những hậu quả to lớn:
1. Trẻ sơ sinh không ai quan tâm nuôi
dưỡng.
2. Việc
giải thể gia đình dẫn đến sự tan rã của xã hội.
3. Bệnh tật tình dục lan tràn (bản thân
Lenin cũng chết vì bệnh giang mai – syphilis – mà mãi tới 1944
Fleming mới tìm ra penicillin).
4 Năng suất lao động suy giảm nghiêm
trọng.
Tóm lại
“giải phóng tình dục” đã gây ra hậu quả nặng nề cho kinh tế và xã
hội của Liên Sô.
“QUỐC GIA” phải bao gồm 3 yếu tố chính
yếu: Lãnh Thổ, Dân Chúng và Chính Quyền. Đây là 3 yếu tố dính liền
bất khả phân ly. Nhưng Quốc Gia không thôi chưa đủ, chính quyền
phải biết giáo dục dân chúng “lòng yêu nước” thì Quốc Gia đó mới
trở thành TỔ QUỐC.
Thí dụ minh họa: từ 1960, các đế quốc
Anh, Pháp, Bồ Đào Nha... đã trả thuộc địa ở Phi Châu cho người bản
xứ tự cai trị đất nước của họ. Nhưng chúng ta đã thấy, các quốc
gia này trước đây là lãnh dịa của các đế quốc thực dân, gồm nhiều
chủng tộc khác nhau, nhiều bộ tộc khác nhau, nhiều tôn giáo khác
nhau, nhiều ngôn ngữ khác nhau... Bây giờ họ đã có quốc gia, nhưng
dân chúng không có ý thức về YÊU NƯỚC, cho nên có thể nói rằng ý
niệm TỔ QUỐC là một ý niệm hoàn toàn xa lạ với họ. Đó là lý do,
lục địa Châu Phi liên tục có những cuộc chiến gây bất ổn cho an
ninh khu vực và là một cản trở lớn cho sự phát triển kinh tế cũng
như nâng cao mức sống và dân chúng không được hưởng một nền giáo
dục tiên tiến như lục địa Á Châu và Châu Mỹ La–tinh!
Người viết chọn nhóm chữ TỨ VÔ cho bài
viết này xuất phát từ những thực tế mà TẬP ĐOÀN TĂNG LỮ BÌNH TRỊ
THIÊN (đứng đầu là nhà sư Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh, Thích
Đôn Hậu, Thích Huyền Quang...) đã thực hiện mà vẫn còn để lại
những di hại không biết đến bao giờ mới chấm dứt. TẬP ĐOÀN TĂNG LỮ
BÌNH TRỊ THIÊN thông qua Giáo Hội Phật Giáo Ấn Quang đã thực hiện
TỨ VÔ như sau:
1. Vô Tổ Quốc: tất cả những bài giảng, những buổi
thuyết pháp, những băng cassettes, những CD cũng như những video
của GHPG Ấn Quang không bao giờ đề cập đến TỔ QUỐC ViỆt NAM.
2. Vô Quốc Gia: TẬP
ĐOÀN TĂNG LỮ BÌNH TRỊ THIÊN và GHPG Ấn Quang cũng không bao giờ đề
cập đến QUỐC GIA VIỆT NAM, cho nên không biết lãnh thổ của VNCH
hay lãnh thổ của VNDCCH là lãnh thổ của 2 quốc gia riêng biệt có
công pháp quốc tế công nhận. Chính vì danh phận không được minh
định tìm hiểu, cho nên GHPG Ấn Quang “đồng lõa” với bọn cướp nước
Việt Cộng mà vẫn nghĩ họ theo “chính nghĩa”.
3. Vô Lễ: Thích Trí
Quang và những nhà lãnh đạo khác của GHPG Ấn Quang không tôn kính
coi trọng ĐỨC PHẬT. Dẫn chứng mùa hè năm 1966 bọn “tăng ni dỏm”
xúi dục được bọn “phật tử dỏm” đem tượng Phật và bàn thờ Phật tại
thành phố Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn “xuống đường” biểu tình để tranh
quyền lực với chính phủ Nguyễn Cao Kỳ. Thái độ Vô Lễ với Đức Phật
bị Đại tá Nguyễn Ngọc Loan hóa giải.
Ông bạn CVT của tôi phát biểu: “Cũng may
là Đức Phật đã tuyên bố trước là Ngài không có power để ban bố ân
huệ cho bất cứ ai, cũng như không có power để trừng trị bất cứ ai.
Cho nên tượng Phật ngồi xếp bằng nhắm mắt tham thiền, chứ nếu Ngài
có power thì Ngài sẽ mở mắt đứng dậy bước xuống đường, giơ chân đá
mấy tên ‘tăng ni dỏm’ không bể dái thì cũng gẫy giò.”
Ông bạn CVT còn nói thêm là PG truyền
vào VN từ thế kỷ thứ 2 sau Thiên Chúa Giáng Sinh chưa có tên phật
tử nào dám dùng Đức Phật như là một công cụ để mưu đoạt quyền lực
chính trị như Thích Trí Quang.
4. Vô Lý: Tất cả những
hành xử của GHPG Ấn Quang xuất phát từ ý muốn của “LÃNH TỤ TỐI
CAO” THÍCH TRÍ QUANG chứ không đặt trên nền tảng Giáo Lý của Đạo
Phật nào cả.
Chú thích: nhóm từ “LÃNH TỤ TỐI CAO” là do Tiêu Dao Bảo Cự – một
lãnh tụ sinh viên tranh đấu hồi 1966 tại Huế, gọi THÍCH TRÍ QUANG
chứ không phải do người viết đặt ra và sử dụng. Tiêu Dao Bảo Cự
minh xác “đoạn văn này nên coi như một tư liệu tham khảo cho những
người quan tâm, với nhận định hoàn toàn chủ quan, qua mắt nhìn của
một sinh viên tranh đấu 21 tuổi ở chính thời điểm đó, không nhằm
mục đích phê phán hay ngợi ca, về một nhân vật đã đi vào lịch sử
và gây ra những nhận thức trái chiều”.
4.1 T. T. Quang và Khối Ấn Quang
sử dụng phương thức Khủng Bố và Bạo Lực
(xem bài viết của Nguyễn Văn Lục, Thí dụ: mưu sát TT
Tâm Châu.)
4.2 Dùng lời lẽ đường mật để dụ
dỗ những phật tử khờ khạo “tự thiêu” (đám đệ tử và tay
chân thân tín của Trí Quang thì không một ai tình nguyện tự thiêu
cả.)
4.3 Giữ chặt ý niệm THAM, SÂN, SI suốt cả đời: các cá
nhân cũng như GH Ấn Quang chưa bao giờ tỏ ra ăn năn hối cải (không
bao giờ nghe nói đến 2 chữ XIN LỖI và HỐI TIẾC, đã vậy còn dám
nói: “Thằng Tâm Châu hòa giải thì phải đem đầu của
Thiệu, Kỳ đến đây...” (nhân chứng: anh Hồ Minh Lữ ở
Anaheim.)
Một
thí dụ điển hình khác là bọn “tăng ni dỏm” của khối Ấn Quang không
cho Hòa Thượng Tâm Châu cử hành Lễ Phật Đản tại Nam Cali trong các
chùa của bọn chúng xây dựng nhờ quyên góp của bá tánh khiến đệ tử
của Ngài phải thuê Công Viên Square Mile của thành phố Fountain
Valley hành lễ. Mãi tới năm 2008, Thích Viên Lý xích mích sao đó
với Võ Văn Ái nên bị sư Quảng Độ khai trừ. Thích Viên Lý vội vàng
mời Hòa Thượng Tâm Châu đến làm lễ tại chùa Điều Ngự để vớt vát
“thế giá” cho chùa.
Năm 1972, Trần Đình Minh bị CSQG Thừa
Thiên bắt giữ, y không bị giải giao đi Côn Sơn tắm biển vì Đại tá
Cao Chánh Hựu đang làm Chánh Án Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Vùng 1 can
thiệp với Đại tá Dương Quang Tiếp – Chỉ Huy Trưởng CSQG Vùng 1.
Năm 2008, cựu Đại tá Cao Chánh Hựu qua đời tại San Diego (ông cũng
là một huynh trưởng GĐPT), Trần Đình Minh không cho làm lễ cầu
siêu vì chùa Điều Ngự không muốn dính dáng đến Mỹ – Ngụy!!!
4.4 Hoàn toàn im lặng tán đồng
với VC v/v “giải thể” GHPGVNTN để thành lập PGQD và đào tạo “sư
quốc doanh” chiếm giữ các chùa trong nước và tung ra hải ngoại
dưới chiêu bài “di dân tôn giáo”. Tục tĩu hơn nữa là một số chùa
trong nước tấn phong cho HCM lên làm “Bồ Tát” và đặt tượng của y
trước tượng Phật Thích Ca: không thấy GHPGVNTN Khối Ấn
Quang lên tiếng gì cả (chắc các sư trụ trì tại hải ngoại đang bận
tổ chức ca nhạc, thi đua Hoa Hậu Áo Dài và trình diễn Thời Trang
gây quỹ cho chùa nên không để ý chăng?
Ở trong nước, phật tử dỏm lại bày đặt
làm lễ tắm cho tượng bồ tát HCM, một netter vẽ chữ chú thích vào
miệng của cô gái đang dội từng gáo nước lên tượng HCM với lời chú
đáng ghi nhớ như sau: “Bác ơi. Bác đã mất hơn 50 năm rồi mà người
vẫn còn hôi mùi BƯỚM, để em gội cho bác bằng nước eau de cologne
cho bay mùi BƯỚM nhé”.
Để chứng minh rằng lời kết tội VÔ LÝ =
VÔ GIÁO LÝ của Thich Trí Quang và tập đoàn tăng lữ Bình Trị Thiên,
người viết xin được trích dẫn nguyên văn nhận định của Giáo sư
NGUYỄN NGỌC HUY về những nguyên tắc căn bản của Giáo Lý Nhà Phật:
Trích dẫn
(Trong quyển sách có tựa để CÁC ẨN SỐ CHÍNH TRỊ TRONG TIỂU
THUYẾT VÕ HIỆP của KIM DUNG)
1. Giáo Lý nhà Phật không kêu gọi
con người phải nhắm mắt tin tưởng theo mình và tuyệt đối tuân hành
mạng lịnh các giáo sĩ của môn phái mình để được cứu rỗi hay được
hưởng phước lành. Trái lại, nó dạy con người phải dựa vào mình
trước nhứt và phải cố gắng để tự giải thoát lấy mình. Ngay đến
pháp môn Tịnh Độ dạy người tu hành bằng cách niệm Phật cũng không
phải là một lối giải thoát hoàn toàn dựa vào tha lực, vì việc niệm
Phật hàm ý là người tu theo pháp môn Tịnh Độ tự nguyện làm lành
lánh dữ và giữ các giới cấm tối thiểu của người Phật Tử. Sự tu
hành theo Phật Giáo thuộc mọi tông phái đều đòi hỏi con người phải
có sự đại hùng đại lực, tức là một sức mạnh tinh thần vững chắc và
dồi dào.
Về mặt
suy luận, tinh thần đại hùng đại lực mà Phật Giáo đòi hỏi nơi con
người đưa đến sự tự do tư tưởng. Người theo Phật Giáo chơn chánh
không để cho mình bị cột buộc vào bất cứ tín điều hay định kiến
nào mà phải tự mình suy nghĩ để tìm CHÂN LÝ.
Trong bộ kinh Anguttara Nikaya tức là
Tăng Nhứt Tập, có chép việc Đức Phật dạy người Kamala không nên
nhắm mắt tin theo dư luận, truyền thống, kinh sách hay một bực đạo
hạnh cao siêu mà mình nhận làm thầy, mà chỉ nên tin theo cái phải
hay cái quấy mà chính tâm trí mình nhận thức được. Trong lịch sử
nhơn loại, Đức Phật là vị Giáo Tổ duy nhất nhiều lần căn dặn các
đệ tử mình không nên tin ngay những điều Ngài nói mà phải xét kỹ
lại những lời nói của Ngài, chừng nào nhận thấy chắc chắn nó có
giá trị thì mới tin theo.
2. Chẳng những tự mình theo đúng nguyên
tắc tự do tư tưởng, người theo Phật Giáo chơn chánh còn tôn trọng
sự tự do tư tưởng của người khác. Đức Phật đã dạy đệ tử phải đối
xử với các giáo lý và giáo phái khác một cách khoan dung. Có lần
người cầm đầu một môn phái khác sai đệ tử là Upali đến gặp Đức
Phật để đấu lý về thuyết luân hồi. Sau khi thảo luận với Ngài, ông
Upali thấy Ngài có lý hơn nên xin làm đệ tử của Ngài. Nhưng Đức
Phật đã bảo: “Ông phải suy nghĩ cho thật đính chính về lời nói của
tôi chớ không nên vội vã”. Khi thấy ông thiết tha nài nỉ, Đức Phật
yêu cầu ông đừng bỏ thầy cũ, mà trái lại phải cung kính phụ giúp
người thày này như trước.
Câu chuyện này cho thấy rằng Phật Giáo
dạy người phải mở rộng tâm hồn trí não để thông cảm với mọi giáo
lý khác, vì chơn lý vốn hiện ra muôn mặt và mỗi học thuyết đều có
chỗ sở đắc của nó. Người theo Phật Giáo chơn chánh phải phá trừ
kiến chấp, tránh sự cuồng tín hẹp hòi.
3. Nhưng sự khoan dung của Phật Giáo
không phải đưa đến sự tiêu cực thụ động trước những hành động tàn
bạo của kẻ sai quấy. Tinh thần đại hùng đại lực của Phật Giáo
chẳng những được dùng trong việc tự chiến thắng lấy mình để tìm
chơn lý và theo chánh đạo, mà còn phải được dùng trong việc chế
ngự các lực lượng tác hại. Tuy nhiên trong việc đối phó với những
kẻ sai quấy, tinh thần đại hùng đại lực của người theo Phật Giáo
cần phải được hòa hợp với tinh thần đại từ bi. Người theo Phật
Giáo chơn chánh dầu phải đứng vào thế đối kháng với một kẻ địch
hung bạo, vẫn không nuôi lòng thù hận khinh ghét kẻ địch ấy, mà
trái lại có sự xót thương đối với một con người đi vào con đường
lầm lạc. Thái độ của con người theo Phật Giáo chơn chánh đối với
kẻ địch chống lại mình, cũng giống như thái độ của xã hội dân chủ
tự do hiện nay đối với những kẻ phạm tọi ác trong lúc điên cuồng.
–Hết Trích
Chiếu theo 3 nguyên tắc căn bản của giáo
lý Phật Giáo mà Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy vừa nêu, người viết để cho
người đọc đánh giá xem Thích Trí Quang và các nhà sư trong
GHPGVNTN khối Ấn Quang chiếm được bao nhiêu % điểm.
Đầu năm 2020 vừa qua, ông Liên Thành
loan báo vào tháng 4 năm 2020 ông sẽ làm lễ gia nhập đạo Thiên
Chúa tại nhà thờ của Thành Phố Garden Grove.
Ông Liên Thành không phải là người thích
đọc các sách về triết thuyết Thần Học, ông gia nhập đạo Thiên Chúa
không phải mưu cầu danh và lợi (78 tuổi rồi, đâu còn làm việc nữa
đâu mà mưu cầu danh lợi). Ông gia nhập đạo Thiên Chúa tương tự như
người tỵ nạn cộng sản Việt Nam vì chịu không nổi sự áp bức của bọn
cộng sản nên mới phải đào thoát khỏi VN xin tỵ nạn chính trị. Theo
tôi, không phải tự nhiên mà ông chọn tháng 4 năm 2020, đó chắc
chắn phải mang một ý nghĩa chính tri). Điều mô tả nêu trên cũng có
nghĩa là ông không bị chiêu dụ hay hứa hẹn điều gì cả.
Những việc như về với Chúa, lên Thiên
Đàng, hay lên Niết Bàn... là do con người nghĩ ra chứ không có vị
Giáo Tổ nào tuyên hứa gì cả. Cộng đồng gia đình phật tử (không
viết hoa) đã đối xử tệ bạc với ông quá đáng (như Vũ Ánh thì viết
báo cho rằng Trung tá Phan Văn Khoa không có quyền bổ nhiệm ông
Liên Thành làm Phó Trưởng Ty Cảnh Sát, như Hoàng Long Hải viết báo
cho rằng ông Liên Thành lên làm Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên là
do ông Tráng Cử vận động với Đảng Đại Việt...) Ông Liên Thành
không muốn rằng khi ông qua đời thì các nhà sư dỏm lại tụng niệm
dưới ảnh của HCM, hay cả những kẻ mặc áo vàng tụng niệm lại là
những tên Công An mà ông đã từng bắt giữ trong quá khứ...
Đó là chưa kể một số tên còn hoạnh họe
không cho phép quan tài của ông vào chùa nữa kìa vì không muốn
quan hệ với Mỹ Ngụy...
Ông Liên Thành rời nước VN đến HK bằng
phương tiện của quân đội Mỹ hay quân đội VNCH chở thẳng đến đất Mỹ
nên cá nhân người viết đoan chắc là ông không biết danh từ
STATELESS mà người Mỹ gọi các người vượt biển sau này, một số
người dịch chữ này là VÔ QUỐC TỊCH là không đúng... STATELESS là
những người chối bỏ quốc tịch, cho nên chính quyền VC không thể
bắt họ trở lại Việt Nam dược.
Ông thoát khỏi đám Phật giáo BÌNH TRỊ
THIÊN là mừng cho ông. Xin cầu chúc ông và gia đình lấy lại được
thăng bằng sau bao lần sóng gió.
Trần Trung Chính
San Jose ngày 19 tháng 2 năm 2020
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Liên Thành chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, February 20, 2020
thư ký dù
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang