Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược dòng Thời gian
Chủ đề:
30-T4-Đen
Tác giả:
TS Lưu Nguyễn Đạt
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
Đêm
12 tháng 9, 2017 tại Kennedy Center, Washington, D.C. có buổi trình
chiếu tóm tắt phim [Screening of clips] THE VIETNAM WAR, do hai nhà
làm phim Ken Burns và Lynn Novick bỏ ra [mười năm!?] thu thập tài
liệu để thực hiện cuốn phim 10 đoạn [18 tiếng] này.
Phim đã được trình chiếu kể từ ngày 17
tháng 9 năm 2017 trên Đài Truyền Hình WETA TV 26 & PBS của Hoa Kỳ,
lúc 8 giờ tối miền Đông Hoa Kỳ.
Ngay trong phần trình chiếu mở đầu và những
đoạn kế tiếp, hầu như người làm phim tài liệu THE VIETNAM WAR [sic]
chỉ nhằm vào vài điểm “tiền chế” để hướng dẫn khán giả chấp nhận một
thành kiến sai lầm nhiều thiếu sót, với cố định xoá nhoà lịch sử:
1. Cái gọi là THE VIETNAM WAR được dẫn giải
như sự tiếp nối của cuộc chiến chống Thực Dân Pháp, với cái công to
lớn, độc nhất vô nhị của kép độc muôn mặt Nguyễn Ái Quốc/Quắc/Hồ Chí
Minh, mà cố tình bỏ sót các nhà cách mạng và các đoàn thể, đảng phái
chính trị Việt Nam khác cũng một lòng yêu nước, chống đô hộ Pháp.
Chứng cớ khi nhắc tới tổ chức chống Pháp dưới danh xưng Việt Nam Độc
lập Đồng Minh Hội [gọi tắt là Việt Minh, trong đó có nhiều “đồng
minh” quốc gia Việt Nam] cuốn phim tài liệu một chiều chỉ coi đó là
sản phẩm duy nhất của nhóm đảng cộng sản, dưới quyền lãnh đạo của
Nguyễn Ái Quốc, vốn là cán bộ Nga sô tại mặt trận Đông Dương.
2. Ngay cả trận cận chiến [pitched battle]
tại lòng chảo Điện Biên Phủ, mà Quân Đội Viễn Chinh Pháp muốn gài bẫy
dụ bộ đội Cộng sản Việt Minh lộ diện để tiêu diệt, đã bị trở cờ thành
thất bại. Cuốn phim không hề viện dẫn hai lý do chính – [a] Hoa Kỳ và
Anh quốc quyết định bỏ “đồng minh” Pháp vào giờ phút chót nên không
cung cấp phi vụ rải bom cần thiết và cũng từ chối trực tiếp tham gia
cuộc chiến quyết liệt này như đã cam kết, trong khi [b] Trung Cộng
tăng cường tiếp viện nhu liệu, vũ khí nặng và cử tướng Vi Quốc Thanh
đôn đốc chỉ huy mặt trận. Trong màn ảnh chỉ nhắc tới công lao vĩ đại
của Tướng Võ Nguyên Giáp, độc diễn thắng trận.
3. Hình ảnh chắp nối các cuộc giao tranh
tại Miền Nam từ 1963 cũng đưa ra những thành công lớp lang, quy mô,
đánh kính, đáng hãi của quân đội chính quy Bắc Việt và lực lượng
“Giải Phóng Miền Nam”, gọi chung là Việt Cộng, trong khi Quân Đội Hoa
Kỳ thường thất bại vì đơn độc tác chiến, lúng túng ngô nhận chiến
trường xa lạ, với hệ thống tình báo yếu kém, thất thường.
4. Bên cạnh chênh lệch là chính thể Việt
Nam Cộng Hoà và quân đội quốc gia đều bị cuốn phim xao nhãng, hay
chớp nhoáng tung hình ở mức độ kém cỏi, thác loạn, cốt để “tiền định”
sự thất bại chẳng đặng đừng của cái gọi là THE VIETNAM WAR.
5. Tất cả cuốn phim điển hình trên hoàn
toàn dùng những tài liệu cắt xén từ kho tài liệu giải mật quân sự Hoa
Kỳ, chắp nối với những đoạn hình ảnh [ma-dze in (North) Vietnam] sẵn
sàng bắc loa tuyên truyền, tô màu đánh bóng chế độ CSVN và quân lực
liên hệ, với mục đích chính là chứng minh CSVN đáng thắng và Quân Đội
Hoa Kỳ tương xứng đương đầu với địch tài giỏi, để xứng đáng bỏ cuộc,
xứng đáng hoà hoãn trong danh dự. No More Vietnams. Peace & Honor.
Có thể nhận xét một cách tổng quát, công
trình 10 năm thu thập tài liệu đúc kết thành cuốn phim trên không gì
đặc biệt, không khác mấy những tài liệu đã từng chiếu trên màn ảnh
nhỏ thập niên 60/70 tại Hoa kỳ làm thối chí các gia đình có con em
tham chiến tại Việt Nam lúc đó. Chỉ khác là bộ phim được uốn nắn, với
vài phần nhận định cập nhật để làm vui lòng, hoà giải công chúng Hoa
Kỳ, đã từng bị chia rẽ bởi cuộc chiến tại Việt Nam.
Đáng lẽ bộ phim này nên mang tên là POST
VIETNAM SYNDROME thì đúng hơn, vì người làm phim và cơ sở tài trợ
[Bank of America] không hề đặt trọng tâm vào mục tiêu chấn hưng lịch
sử của cái gọi là THE VIETNAM WAR, mà chỉ muốn thực hiện một công
trình dân vận tâm lý chiến [Civic Psycho War], mong hoà giải công
luận Hoa Kỳ khỏi căn bệnh tâm lý Vietnam Syndrome còn day dứt từ thế
kỷ trước.
Bank of
America proudly sponsors THE VIETNAM WAR, fostering dialogue through
different perspectives, in conversations, turning moments that could
divide us into opportunities, to unite us... it’s just one way we are
enabling social and economic progress to help build strong local
communities.
Trong
những buổi trình chiếu phim trên, đa số khán giả Mỹ chính gốc đều hể
hả, thoả mãn. Còn số nhỏ khán giả người Mỹ gốc Việt đều âm thầm, lạc
lõng, vì không thấy “dấu tích” họ và tầm vóc chính thực của “Chiến
Tranh Việt Nam” trong đó.
Quả thật, bộ phim THE VIETNAM WAR này không
danh chính ngôn thuận, vừa mạo danh cuộc chiến, vừa phiến diện, thiếu
sót [biased/incompleted], không đủ tầm vóc giải thích căn nguyên cuộc
chiến, xuất xứ từ những tranh chấp ý thức hệ quốc tế giữa Tây
Phương/Hoa Kỳ và khối cộng sản Nga Hoa, và “được viễn kiểm” bởi các
chủ thế giao tranh đó.
Mạo danh vì THE VIETNAM WAR không thực sự
xuất phát từ nhu cầu và quyền lợi dân tộc Việt Nam, cả Nam lẫn Bắc,
nên chỉ đáng gọi là THE VIETNAMESE BATTLEFIELDS [“Những Bãi Chiến
Trường Việt”] hay CHIẾN TUYẾN VIỆT NAM của cuộc tranh chấp quốc tế mà
thôi, như The KILLING FIELDS tại Kampuchia vậy.
Hơn một triệu binh sĩ Việt tử nạn cả Nam
lẫn Bắc, hơn hai triệu dân Việt chết oan trong cuộc chiến viễn kiểm,
với hậu cảnh ba/bốn triệu dân, cán, chính Việt, người tù đày “cải
tạo”, kẻ bỏ mạng trên rừng, ngoài biển, kẻ vất vưởng nơi đất khách
quê người, tất cả là những nạn nhân “âm thầm” của cuộc giao tranh
quốc tế, mà bộ phim THE VIETNAM WAR chỉ lướt qua như những kép phụ,
những vai vế hậu cảnh [figurants] chớp nhoáng tạm bợ, những vai diễn
nhất thời trong một vở tuồng quốc tế, mà cốt truyện và chương trình
diễn xuất đều ở ngoài tầm hiểu biết và khả năng quyết định “xuất
hiện” của họ.
The
Vietnam Syndrome, in US politics, is a non-medical conservative term
referring to public aversion to American overseas military
involvements, following the domestic controversy over the Vietnam
War, which ended in 1975. Since the early 1980s, the combination of a
public opinion apparently biased against war, a less interventionist
US foreign policy, and a relative absence of American wars and
military “Vietnam paralysis” are all the perceived results of the
syndrome.[Wikipedia]
Chính quyền Nixon năm 1969 đã xuất thần
phát sinh một từ ngữ “xiêu” chiến lược vừa thực tế, vừa phũ phàng mỉa
mai: “The Vietnamization Strategy” để minh thị trao cuộc chiến quốc
tế/Hoa Kỳ/ cho đồng minh Việt, vốn là toán đá phụ từng bị “treo giò”.
President Nixon announced his
Vietnamization strategy to the American people in a nationally
televised speech on November 3, 1969. He emphasized how his approach
contrasted with the “Americanization” of the war that had taken place
under his predecessor, President Lyndon B. Johnson... In the previous
administration, we Americanized the war in Vietnam...
Mỉa mai vì các “đồng minh” phụ [cả Nam lẫn
Bắc] và toàn dân Việt chỉ là những tác viên dư thừa đã vụng về đón
quan khách Tây/Mỹ/Nga/Hoa tới đấu đá, tiện việc “ăn ốc” Cửu Long/Hồng
Hà, rồi cả nhà “Hậu Đại Việt” tranh nhau “đổ vỏ ốc” cho đại khách
quốc tế. Đôi khi các kép phụ còn say sưa hơn các kép độc dòng chính
thống, dù tư bản hay cộng sản.
Trên đây chỉ là phần bình luận có chứng cứ
về một bộ phìm tầm thường, không đáng bỏ thì giờ xem và “học hỏi” qua
10 đoạn [18 tiếng] tài liệu phù phiếm, có chủ đích chữa chạy, có
thành kiến ăn có.
Với tầm nhìn chân thực, toàn diện của những người trong cuộc, của
những ai từng là nạn nhân và nhân chứng cuộc giao tranh quốc tế trên
mảnh đất Việt, thì bộ phim THE VIETNAM WAR là một biểu lộ sai lạc,
một phương trình xuyên tạc [false & misleading statement, a
misrepresentation] về một cuộc chiến giả tạo, lừa gạt [deceptive war,
under false pretenses] tại Việt Nam.
Thật vậy, cuộc chiến quốc tế tại chiến
tuyến Việt Nam, lấy danh nghĩa giả mạo là xây dựng và bảo vệ Dân Chủ
Tự Do cho Miền Nam Việt Nam, nhưng thực sự là để [a] giải quyết các
tranh chấp nội bộ giữa Hoa Kỳ, Nga, Hoa [b] bằng Chiến lược Be-Bờ
[Containment Doctrine], trường kỳ kháng chiến tới độ kiết sức, cuối
cùng [c] để xả hơi [detente] rồi chia chác quyền lợi và vị thế bá chủ
hoàn cầu: nhất Mỹ, nhì Tầu, v.v.
Hậu cảnh của cái gọi là THE VIETNAM WAR là
ba trạng thái thực tế đáng ái ngại:
1. Nhà tù và chế độ độc tài phi nhân, phản
dân chủ tại Việt Nam độc lập, nhưng sẵn sàng chấp nhận Tầu đô hộ;
2. Tại Hoa Kỳ, bề chìm với hiện tượng suy
nhược tinh thần tập thể, dưới dạng “Vietnam syndrome” trong khi thực
tế tại bề nổi thì Hoa Kỳ đã trở thành Đệ Nhất Siêu Cường Quốc, lâu
lâu tái diễn màn xuống đường động viên tự hoà tự thắng;
3. Và tại Châu Á thì thời cuộc Toàn-Cầu-Hoá
và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế đã tạo ra con Siêu Quỷ [thứ “Frankenstein’s
monster”] Khủng Long “made in China”, mỗi lúc vùng vẫy tham vọng tân
đế quốc, vừa thực dân, vừa xặc mùi xì dầu đồ nhái.
Cuốn phim và cuộc tranh hùng liên quan tới
THE VIETNAM WAR đã triệt để noi theo xấm trạng Winston Churchill: “We
have no permanent friends and we have no permanent enemies; but we
have permanent interests.” [Ta không có bạn vĩnh viễn và không hề có
kẻ thù muôn thuở; mà chỉ có quyền lợi hằng cửu].
Riêng về quyền lợi hằng cửu Hoa Kỳ và quyền
lợi vĩnh viễn các đối tác Nga Hoa, thì THE VIETNAM WAR đã đóng góp
hơn 5 triệu tử vong người Việt Nam, cả Quốc gia lẫn Cộng sản; cả dân
oan bom đạn, khủng bố, bóc lột; cả tù đày trong nước, xuất cảnh lao
động; cả mất tích trong rừng, ngoài biển, cả mất mạng tại hải ngoại;
chưa kể 58 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ, đa số vừa mãn trung học, còn ngơ ngác
xa lạ với cảnh quân dịch thời chiến.
Vậy người trong cuộc, có liên hệ trực tiếp
hay gián tiếp với cuộc chiến đó tại Việt Nam nên sáng suốt tìm hiểu
căn nguyên và chủ đích chính của cuộc chiến. Cái gọi là THE VIETNAM
WAR — “Chiến Tranh Việt Nam” có thực sự cổ xuý quyền lợi đất nước,
dân tộc Việt hay chỉ để củng cố quyền lợi thắng thế của Hoa Kỳ bên
này, hay quyền lợi thắng thế của Nga, Hoa bên kia.
“Chiến Tranh Việt Nam” /THE VIETNAM WAR/
cần đươc phơi bày đúng “chỉ số” của nó, liên can tới Chủ Nghĩa “Be
Bờ” của Hoa Kỳ tại tiền đồn Miền Nam Việt Nam, [a] một mặt để ngăn
chặn sự bành trướng của khối cộng sản Nga Hoa, [b] mặt khác để đôn
đốc giải bá chủ thế giới.
Do đó chúng ta cần xét kỹ chủ đề dưới đây
để thấy [a] lý do nào có cuộc chiến tranh này? diễn tiến ra sao? và
[b] kết quả, ai thắng ai bại?
THE VIETNAM WAR – Chiến Tuyến Việt Nam, Từ
Chủ Nghĩa Be-Bờ (Containment Doctrine) của Hoa Kỳ với Chiến Lược
Không “Đánh Thực”, “Không-Cốt-Thắng” Tới Ngày QUỐC HẬN Việt Nam.
I. Căn Bản của Chủ Nghĩa Be-bờ
Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine]
[1]
là nền tảng của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dùng áp lực quân sự
và ảnh hưởng kinh tế để “ngăn chặn” sự bành trướng của chế độ Cộng
sản trên thế giới, không khác mấy việc “kiểm dịch” [quarantine]
[2]
ngăn cản việc lây nhiễm của một căn bệnh hiểm nghèo. Chính sách
này nhằm một mặt gia tăng an ninh cho Hoa Kỳ và mặt khác tránh
“hiệu ứng Domino” [“domino effect”]
[3] gây cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo
khi một quốc gia lân cận bị cộng sản chiếm đoạt. Chủ nghĩa Be-bờ do
nhà ngoại giao Hoa Kỳ George F. Kennan
[4] khơi thuật từ năm 1947
[5]
và đã ảnh hưởng tới đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ kể từ thời Tổng
Thống Harry S Truman. [6]
Chủ Nghĩa Be-bờ căn cứ vào những nhận định
sau: [7]
• Xô-viết
cộng sản luôn luôn ở thế chiến đấu trường kỳ chống đối tư bản;
• Xô-viết cộng sản tìm mọi cách kết tác với
thành phần cảm tình viên trong thế giới tự do;
• Hiện tượng xâm lược của Xô-viết cộng sản
bắt nguồn từ truyền thống bài ngoại của Nga Xô;
• Cơ cấu của Xô-viết cộng sản cắt đứt với
thực tế nội bộ và ngoại tại.
Chủ Nghĩa Be-bờ đã hội nhập thành Chủ Nghĩa
Truman [Truman Doctrine] [8] để khẳng định nguy cơ của nguyên khối
cộng sản chuyên chế sẵn sàng xâm nhập thế giới tự do trong cuộc
“Chiến Tranh Lạnh” [Cold War].
[9] Theo chiều hướng ngăn chặn tiềm
lực đe doạ Xô-viết cộng sản, Truman xếp đặt một loạt những biện pháp:
• hỗ trợ như Kế hoạch Marshall [Marshall
Plan] [10], giúp tái dựng Tây Âu sau Thế chiến thứ 2, song song với
việc thành lập Ngân Hàng Thế Giới [World Bank] và Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
[International Monetary Fund];
• canh phòng giữa Hoa Kỳ và Tây âu dưới
hình thức liên minh quân sự Bắc Âu [NATO, North Atlantic Treaty
Organization] với khẩu hiệu: “Nga ngoài, Mỹ trong, Đức dưới” [“to
keep the Russians out, the Americans in, and the Germans down.”]
[11]
• Thu thập tin tức cẩn mật từ quốc ngoại
qua Cơ Quan Trung ương Tình Báo [Central Intelligence Agency/CIA]
dưới sự điều động của Ủy Ban An Ninh Quốc Gia [National Security
Council]. [12]
Về
mặt quân sự, Chủ Nghĩa Be-bờ chỉ chú trọng tới hình thức “ngăn chặn,
đề phòng” trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, hoặc nếu có xung đột, thì
áp dụng sách lược “Chiến tranh hạn chế” [“limited war” policy]. Điển
hình, tuy đã cho phép Douglas MacArthur vượt vĩ tuyến 38 tiến đánh
Bắc Hàn, Truman vẫn khiển trách danh tướng này đã chủ động “quyết
thắng” hơn là thi hành thuần Chủ Nghĩa Be-bờ, mà về mặt quân sự,
MacArthur chê là một giải pháp nhì nhằng “Không-Cốt-Thắng” [“No-win
policy”]. [13]
1.
Khai mở Chủ Nghĩa Be-bờ tại Việt Nam
Chủ Nghĩa Be-bờ và Thuyết Domino lại được
áp dụng qua chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ tại Việt Nam, trong nhiều
giai đoạn.
TT
Truman năm 1952 cấp viện 60 triệu Mỹ kim cho Pháp [đồng minh NATO]
trong việc chống du kích chiến cộng sản tại Việt Nam và mặt trận Đông
Dương.
TT Dwight D. Eisenhower [nhiệm kỳ 1953-61] đã nhấn mạnh
vào “hiệu ứng domino” để chỉ về nguy cơ phát triển của chủ nghĩa
cộng sản tại Đông Dương và cho rằng nếu Hoa kỳ không can thiệp để
phe cộng sản chiếm cứ Việt Nam thì Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến
Điện sẽ sụp đổ như quân bài domino và rơi vào khối cộng sản.
[14]
Do đó, Chính phủ Eisenhower tìm cách giúp đỡ
[15] đồng minh [NATO] Pháp vào giai đoạn cuối cùng của Chiến
tranh Đông Dương với 3 điều kiện:
• tăng cường quân đội tác chiến nếu 3 thành
phần Hoa Kỳ, Anh & Úc tham dự đồng đều;
• Chính quyền Pháp cam kết trả lại độc lập
cho các quốc gia Đông Dương;
• Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố khai chiến.
Trước tiên Thủ tướng Anh Winston Churchill
từ chối tham dự, sau đó, Quốc Hội Hoa Kỳ chỉ muốn áp dụng sách lược
“Chiến tranh hạn chế” tại Việt Nam, để tránh nguy cơ Thế chiến Thứ 3,
nên cũng đã từ chối không giúp Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Điện Biên
Phủ. Hậu quả là Chiến tranh Đông Dương đã chấm dứt, và với Hội Nghị
Genève [tháng 7 năm 1954] Việt Nam chia đôi để sau đó tiếp tục cuộc
chiến ý thức hệ, giữa Phe Tự do ở Miền Nam Việt Nam và Phe Cộng sản ở
Miền Bắc.
2. Việt
Nam Thành Thí Điểm Chủ Nghĩa Be-Bờ
TT JF Kennedy [nhiệm kỳ 1960-63] bổ nhiệm
học giả McGeorge Bundy vào chức vụ Cố vấn An ninh Quốc gia. Sau khi
Hoa Kỳ thất bại đổ bộ tại Vịnh Heo Cuba [Bay of Pigs Invasion]
[16]
và bị khiêu khích bởi Tường Ngăn Berlin, TT Kennedy & Bundy coi Nam
Việt Nam là thí-điểm-để-thực-hiện chiến lược Be-bờ tại Đông Nam Á và
nghĩa vụ phải giúp đỡ các đồng minh bản địa chặn đứng chủ nghĩa cộng
sản tại Miền Nam Việt Nam và Đông Dương. Đó là tiền đề để giải thích
cho sự can thiệp ngày càng sâu của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam và
sau này dẫn đến sự tham chiến trực tiếp của Quân đội Hoa Kỳ tại chiến
trường Đông Dương thời TT Lyndon Johnson.
Do đó, chính phủ Kennedy để lại một số dấu
ấn trên định mệnh Miền Nam Việt Nam:
Từ năm 1961, TT Kennedy tiếp tục sách lược
“chiến tranh hạn chế” tại Miền Nam Việt Nam, đôn đốc một lực lượng
tham chiến từ 800 tăng tới 16,300 binh sĩ Hoa Kỳ, với ý định rút quân
khỏi mặt trận Việt Nam càng sớm càng tốt.
Trong khi TT Dwight D. Eisenhower nhiệt
liệt ủng hộ sự thành lập đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của TT Ngô Đình Diệm, thì chính quyền Kennedy bắt đầu có triệu chứng
“thất sủng” TT Ngô Đình Diệm vì chính thể của Ông lúc đó hạn chế mức
độ dân chủ hoá Miền Nam Việt Nam vào trọng tâm ưu đãi của một thiểu
số gồm có gia đình họ Ngô, các cựu quan lại và lực lượng quân, dân,
cán chính thuộc Đảng Cần Lao, gốc Ky-Tô giáo. Hậu quả là gần 90% dân
chúng tại Miền Nam Việt Nam, gồm một số đảng phái như Đại Việt, Việt
Nam Quốc Dân Đảng, Dân Xã Đảng, v.v., các nhà trí thức độc lập, tín
đồ Phật giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, v.v. đã mất cơ hội tham dự vào Cao
trào Dân chủ mà Chủ nghĩa Be-bờ hứa hẹn đối với toàn dân của Chiến
Tuyến này. Hậu quả của chính sách “biệt đãi/cô lập” dân chủ hoá trên
đã tạo ra những xáo trộn trong khắp Miền Nam Việt Nam, một cách rất
đáng tiếc. Chúng ta đã mất một cơ hội hy hữu dựng nước toàn vẹn trong
tay của rất nhiều người Việt, cũng yêu nước, cũng tôn trọng dân chủ
tự do.
Sau hai
cuộc đảo chính hụt, và sức chống đối của dân chúng, nhất là các cuộc
Tranh đấu Phật giáo, TT Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã bị
bắt và hạ thủ bởi thuộc hạ của Đại tướng Dương Văn Minh và một số
tướng lĩnh trẻ trong cuộc Đảo Chính tháng 11 năm 1963. Nhiều tài liệu
lịch sử [mới được “giải mật”] đã xác định biến cố này có hậu thuẫn
của CIA Lucien Conein, Đại sứ Cabot Lodge, Bộ Ngoại gia Hoa Kỳ,
[17]
dù lúc xảy ra cuộc ám sát trên, TT Kennedy & Cố vấn Bundy đã khôn
khéo “vắng mặt” nơi nhiệm sở. Riêng Maxwel Taylor, Tư lệnh Hội Đồng
Tướng Lĩnh Hoa Kỳ ghi nhận trách nhiệm của Hoa Kỳ về cuộc đảo chính
và ám hại TT Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu.
[18]
Từ góc nhìn của Hoa Kỳ, vấn đề loại bỏ TT
Ngô Đình Diệm và Ô. Ngô Đình Nhu là do [a] tình trạng khiếm khuyết
dân chủ thực sự tại Nam Việt Nam, [b] ảnh hưởng tai hại của vợ chồng
Ngô Đình Nhu về chính sách tôn giáo, và [c] phần nào vì Ngô Đình Nhu
“hù doạ” chủ trương trung lập, thay thế TT. Ngô Đình Diệm, v.v. với ý
định làm giảm sức ép của Hoa Kỳ.
[19]
3. Biến Hoá Chủ Nghĩa Be-bờ tại Việt Nam
TT Lyndon Johnson [nhiệm kỳ 1963-69] tiếp
tục nhưng biến hoá đường lối đối ngoại “Be-bờ” của cố TT JF Kennedy,
bị ám sát vài tuần sau Anh Em họ Ngô. Năm 1964, khi ứng cử viên Cộng
hoà Barry Goldwater thách đố TT đương nhiệm: “Tại sao không nghĩ tới
chiến thắng?” [20] thì TT Johnson lại trả lời một cách nước đôi: “Chỉ
vào can thiệp tới mức đó thôi”.
[21] Thật vậy, đường lối “Can thiệp
giới hạn” này vừa tăng, vừa hãm, qua nhiều hình thức:
— Thông qua Biểu quyết về Vịnh Bắc Việt
[Gulf of Tonkin Resolution]
[22] để lấy cớ trừng phạt vụ các phóng
thủy lôi hạm Bắc Việt đụng độ với khu trục hạm USS Maddox & USS
Turney;
— Quyết
định chuyển Không Đoàn 18 Tác Chiến từ Okinawa đáp xuống căn cứ Đà
Nẵng và cho phép phản lực F-105 vượt vĩ tuyến 17 oanh tạc và thả bom
các địa phận thuộc lãnh thổ Bắc Việt, cốt gây áp lực hao mòn địch vận
để đưa tới thảo luận ngưng chiến;
— Lần lượt đáp ứng số gia tăng quân lực
chính quy [Quân Đội Nhân Dân] đột nhập từ Bắc Việt, phối hợp với quân
lực địa phương của Giải Phóng Miền Nam [GPMN], Hoa Kỳ đã gia tăng
quân lực từ 16,000 binh sĩ [năm 1963, cuối thời Kennedy] tới con số
cao nhất là 537,000 binh sĩ [năm 1968, thời Lyndon Johnson], với sứ
mạng duy nhất là canh phòng chung quanh các phi trường và các địa
điểm “phòng thủ” trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
TT Lyndon Johnson không rút quân dưới áp
lực đòi hoà bình của phe “Bồ Câu”, nhưng cũng không liều lĩnh tiến
quân đánh ra Bắc Việt như các tướng lĩnh và phe chủ chiến “Diều Hâu”
đòi hỏi, chỉ vì “sợ rằng” đó là những hành vi khiêu khích làm các
Quốc gia chủ chốt [Nga Xô & Trung cộng] phản ứng biến thành Đệ Tam
Thế chiến Nguyên tử. Đó là lý do tại sao TT Lyndon Johnson từ chối
không cho Tướng William Westmoreland đem quân sang Lào cắt đứt đường
tiếp liệu của Bắc Việt. Đó cũng là ưu điểm bắt nọn của Nga xô, Trung
Cộng và Bắc Việt cộng sản “thừa thắng” xua hết quân lực xâm nhập Miền
Nam mà không sợ ai dám phương hại nội tuyến.
Về phía Việt Nam, Giai đoạn “Hậu Đệ Nhất
Cộng Hoà” là một thời kỳ “quân quản” với 10 biến cố chính trị gồm
những cuộc đảo chính hụt và những cuộc “chính lý” thay quyền, đổi thế
giữa các tướng lãnh, thuộc Hội Đồng Quân Nhân cách Mạng, Ủy Ban Lãnh
Đạo Lâm thời, Thượng Hội đồng Quốc gia, Hội Đồng quân Lực và cuối
cùng là Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia trước khi thanh lập Việt Nam Đệ Nhị
Cộng Hoà với Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống và Thiếu
tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Phó. Sự bất ổn nội bộ gây thêm trở ngại trong
việc xây dựng dân chủ và thực thi bình định tại các nơi sôi động.
Đặc biệt trong giai đoạn này, Biến Cố Mậu
Thân 1968 có nhiều trạng thái về mặt quân sự và tâm lý chiến:
• về mặt chiến thuật, CSVN lợi dụng ngày
Tết để phát động một cuộc tổng công kích trên toàn cõi Miền Nam Việt
Nam, đã thất bại vì không đem lại cuộc tổng nổi dậy chiếm chính
quyền, với hậu quả trực tiếp là hạ tầng cơ sở nằm vùng đều bị tiêu
diệt hoặc lộ diện phải rút khỏi nơi công tác dân vận phá hoại.
• Nhưng về mặt chiến lược, cuộc tổng công
kích này đã đem một chiến thắng tâm lý cho CSVN. Biến cố Tết Mậu Thân
đã giúp báo chí và dân chúng thuộc Phe chủ hoà chống chiến tranh Việt
Nam bên Hoa Kỳ tuyên truyền gây ấn tượng là Hoa Kỳ và VNCH thiếu khả
năng tranh đấu hữu hiệu đến nỗi không đề phòng kịp cuộc công kích.
Một số chính khách và cả Phạm Văn Đồng đã cho rằng CS “thắng cuộc
chiến tại Việt Nam trên đường phố Hoa Thịnh Đốn”. Thật vậy, Việt Nam
đã mất vào tay CS ngay trong phòng sinh hoạt gia đình tại Hoa Kỳ, chứ
không phải nơi chiến trường tại Việt Nam [Vietnam was lost in the
living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam].
[23]
Thực tế đã cho thấy rõ, sự can thiệp của Hoa Kỳ qua chủ thuyết Be-bờ
tại Việt Nam đã bắt đầu bị coi là vô hiệu và vô ích, khi tới cuối
nhiệm kỳ của TT Lyndon Johnson, Hoa Kỳ hy sinh hơn 30,000 binh si tử
thương, không kể tin tức, hình ảnh số binh sĩ bị thương xuất hiện
hằng ngày trên Ti-vi Hoa Kỳ.
4 Chấm Dứt Chủ nghĩa Be-bờ tại Việt Nam
Khi thay thế Lyndon Johnson vào năm 1969,
TT Richard Nixon bắt đầu tái xét Chủ Nghĩa Be-bờ một cách thực tế
hơn, không nhất thiết nhằm chống cộng sản hoặc bênh vực dân chủ. Với
con số tử vong hơn 1,000 binh sĩ Hoa Kỳ mỗi tháng trong suốt 10 năm
từ 1963 tới 1972, TT Nixon và ngoại trưởng Kissinger đều thấy rõ cuộc
chiến không thể thắng tại Miền Nam Việt Nam, và họ cũng không thể kéo
dài tình trạng cầm cự này lâu dài thêm.
Do đó, theo “đường lối đối ngoại xả hơi”
[“Détente”] [24], Nixon một mặt gia tăng nỗ lực thương thuyết với Nga
Xô về “Chiến Lược Giảm Thiểu Vũ Khí Nguyên Tử” [Strategic Arms
Limitation Talks] , [25] mặt khác, cử Kissinger giao hảo với Trung
cộng để hứa hẹn những điều kiện căn bản nhằm chấm dứt chiến tranh
“trong danh dự” [26] tại Việt Nam đối với Hoa Kỳ.
Trong tinh thần đó, Nixon quyết định giảm
thiểu quân số tác chiến từ 537,000 xuống 27,400 binh sĩ vào cuối năm
1972 để chuyển sang giai đoạn “Việt Nam hoá” cuộc chiến
[Vietnamization], cũng gọi là “Chủ thuyết Nixon”,
[27] bằng cách rút
quân sĩ Hoa Kỳ về từng đợt và giao thêm trách nhiệm tác chiến cho
Quân Đội VNCH. Trong giai đoạn này đã xảy ra những chiến cuộc ác liệt
như sau:
• Cuộc
Hành Quân Lam Sơn tháng 2 năm 1971 [Lam Son Operation 719] sang Hạ
Lào một mặt có thể coi là chiến thắng cho Quân lực VNCH vì trong cuộc
hành quân này, QLVNCH đã phá hủy được phần lớn căn cứ hậu cần địch
dọc theo hệ-thống đuờng mòn Hồ Chí Minh tại cứ điểm Tchépone. Nhưng
mặt khác, cuộc hành quân này hao tốn nhiều xương máu của binh sĩ tham
chiến. Nhiều quân trang quân dụng cùng vũ khí đủ loại kể cả pháo binh
và thiết giáp đem vào khi xung trận, lại phải hủy diệt tại chỗ hay
biếu không cho địch. Chẳng có đơn vị nào còn nguyên vẹn trong cuộc
lui binh rầm rộ, hỗn độn.
• Trận Thành Cổ Quảng Trị là một trong
những trận chiến ác liệt nhất trong Chiến dịch “Mùa Hè đỏ Lửa” 1972.
Cuộc chiến khởi đầu từ trưa ngày 30 tháng Ba, 1972. Quân Bắc Việt
[QBV] bất ngờ phóng ra cuộc tấn công lớn nhất trong cuộc chiến Việt
Nam. Lần này QBV gần như đánh một trận đánh qui ước, với viện trợ
rộng rãi và vô giới hạn về đạn pháo, xe tăng Liên Xô và các vũ khí
phòng không mới nhất. QBV đã đạt nhiều thắng lợi lúc ban đầu. Sư đoàn
3 QLVNCH thoái lui và tan rã trước sức tấn công của 5 sư đoàn QBV và
nhiều trung đoàn xe tăng, phòng không, đại pháo, hoả tiễn đủ loại.
Đến tháng 5 năm 1972 thì QBV chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng
6, Quân lực Việt Nam Cộng hòa khởi sự phản công. Sau 81 ngày đêm
tranh đấu, các binh chủng Nhảy Dù, Biệt Kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến
của QLVNCH đã chiếm lại Cổ Thành.
• Cũng trong chiến dịch Mùa Hè 1972, sau 54
ngày giao tranh qua 7 cuộc tấn công tại An Lộc, Cộng quân đã thiệt
hại khoảng 30 ngàn binh sĩ. QLVNCH được coi là thắng trận vì Bộ binh
và Biệt Động Quân đã ngăn cản được Cộng quân Bắc Việt khi họ mưu mô
tiến đánh Thủ đô Sài Gòn. Trong trận An Lộc, Hoa Kỳ một mặt dùng
không quân chiến thuật yểm trợ QLVNCH phía Nam An Lộc, mặt khác, sử
dụng không quân chiến lược B-52 liên tiếp thả bom phía Bắc thị trấn
này để phá hủy kho vũ khí đạn dược mà Cộng sản Bắc Việt chuyển tới.
Sau nhiều cuộc thảo luận, thông đồng sau
lưng đồng minh và nhiều điều cam kết với ý định lừa lọc, Hiệp Định
Paris được ký kết vào năm 1973, giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà, Việt Nam Cộng Hoà và Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam [thành lập năm
1969, do Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch].
Năm 1973, Tổng trưởng Quốc Phòng
Schlesinger đề nghị Quốc Hội cho phép thả bom lại Bắc Việt nếu Hà Nội
vi phạm Hiệp Định Paris trong trường hợp họ đem quân đánh lớn tại
Miền Nam. Thượng Viện lập tức ra Đạo luật Case-Church Amendment để
cấm việc thả bom này. [28] Do đó, mọi cam kết bênh vực, mọi hứa hẹn
ngon ngọt của TT Nixon đối với TT NV Thiệu đều phải coi là hư ảo, nếu
không muốn gọi là lừa đảo.
Trong khi đó, QBV thao túng dùng đường mòn
Hồ Chí Minh tiếp tục tải thêm đơn vị tác chiến, thêm súng ống, đạn
dược đủ loại, với xe tăng, thiết giáp do Trung Cộng tiếp viện để
chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công dự tính từ 1975 tới 1976. Nhưng
cuộc Hành Quân 275 dưới quyền chỉ huy của tướng Trần Văn Trà đã đem
lại những kết quả nhanh chóng hơn dự tính của Hà Nội. Sau khi Ban Mê
Thuột bị bao vây, TT NV Thiệu ra lệnh Tướng Phú rút quân khỏi Pleiku
và Kontum ngày 12 tháng 3 năm 1975. Huế, rồi Đà Nẵng thất thủ vào
cuối tháng 3. Cuối cùng, Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975,
chấm dứt một cuộc chiến 20 năm nhiều hy sinh bẽ bàng.
[29]
• hơn 3 triệu binh sĩ và dân sự Hoa Kỳ đã
phục vụ tại chiến tuyến Việt Nam từ 1954 tới 1975, với tổng số 53,193
tử vong, 120,000 bị thương [trong đó hơn 20,000 người vĩnh viễn tàn
tật].
• khoảng
239,587 tử vong phía Việt Nam Cộng Hoà;
• khoảng 680,000 quân chính quy Bắc Việt và
251,000 binh sĩ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tổng cộng lên tới
931,000 tử vong;
•
Tổng số tử vong “bên lề chiến tranh” cả Nam lẫn Bắc Việt Nam được ước
lượng từ 1 triệu 500 ngàn tới 2 triệu người dân vô tội.
II. Phản Diện Chủ nghĩa Be-bờ tại Việt Nam:
Ai Thắng, Ai Thua?
1. Chủ nghĩa Be-bờ diễn tiến tại Việt Nam
như một vở tuồng bốn màn: [a] Khai mở với sáng kiến của TT Truman &
TT Eisenhower, [b] xác định vị trí “be-bờ” do TT JK Kennedy & Cố Vấn
Bundy, [c] biến hoá cao độ với TT Lyndon Johnson, [d] để lần lượt tụt
hậu và chấm dứt trong “danh dự”,
[30] với TT Nixon và ngoại trưởng
Kissinger.
Sự thực
cả bốn cảnh đó gom lại vẫn chỉ là “bề diện ngoài” của một ý đồ bền
bỉ, vốn là cái tâm của Chủ Nghĩa Be-bờ: quyền lợi của Tư bản. Căn cứ
vào chính ngôn từ của Chủ Nghĩa Be-bờ, cuộc chiến hạn chế ở nhiều mặt
trận trên thế giới và tại Việt Nam nhằm:
• vừa có tác động be-bờ bảo toàn an ninh
cho từng khu vực,
• vừa làm hao mòn đối tác của cuộc chiến hạn chế, kéo dài, chuyển
hoá, [31]
• vừa
vận chuyển guồng máy sản xuất chiến cụ “phòng thủ chiến lược” do tư
bản ứng vốn, thu lời.
Cái tiềm lực phồn thịnh lên xuống, đôi khi
mang tai ách của hiện tượng mà chính TT Eisenhower e ngại: trí tuệ,
thiện tâm đôi khi bị chi phối và tận dụng bởi cơ sở liên kết “Tập
Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial Complex].
[32] Cái phương
thức đấu tranh cho lẽ phải và hoà bình đôi khi quá đắt, quá đáng:
“This conjunction of an immense military
establishment and a large arms industry is new in the American
experience... In the councils of government, we must guard against
the acquisition of unwarranted influence, whether sought or unsought,
by the military-industrial complex. The potential for the disastrous
rise of misplaced power exists and will persist. We must never let
the weight of this combination endanger our liberties or democratic
process.” — President Dwight Eisenhower.
[33]
Quyền lợi của các tài phiệt sản xuất nhu
liệu chiến tranh mỗi lúc mỗi tăng trưởng, mỗi lúc mỗi phân hoá, biến
thể làm hao hụt công quỹ và tài lực của dân chúng. Tổng kinh phí của
chiến tranh tại Việt Nam lên tới 111 tỷ Mỹ kim [tương đương 900 tỷ Mỹ
kim theo vật giá năm 2016], dù hạn chế vừa đủ để nuôi dưỡng cái lò cơ
khí đạn dược siêu đẳng này, một lúc nào đó sẽ bị coi là quá đáng, quá
mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ. Dân sẽ chống đối, vì thuế cao, đời
sống đắt đỏ. Và khi tư bản Hoa Kỳ thấy hết lời, hết lợi ích đầu tư,
họ rút vốn xoá bài, và mặt trận tiêu thụ nhu liệu đó chấm dứt cái
một.
2. Với cái
“tâm” của Chủ Nghĩa Be-bờ trên, chúng ta thấy rõ là lý do tại sao
chính thể và quân đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được phép “thi hành” một
trận chiến phòng thủ, vừa tiêu mòn, vừa luộm thuộm, vì không ai [kể
cả tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến “đánh thực/thắng thực”, nhất là khi
“đồng minh” Việt Nam không hề “thực sự” được giao quyền sở hữu cuộc
chiến lẫn định mệnh sống còn. Quân dân Miền Nam Việt Nam tranh đấu
không khác gì những “con cờ người” đem nhiệt tình máu mủ vào một “bàn
cờ chính trị quốc tế” viễn kiểm bằng trí tuệ và quyền lợi tài phiệt
vô cảm. Chúng ta biết cảm ơn những binh sĩ trẻ đã tới Miền Nam bảo vệ
tính mạng dân chúng và những chính khách, chuyên viên có thiện chí
thực sự thi hành công cuộc “be bờ” tạo dựng dân chủ non nớt. Nhưng
chúng ta vẫn ai oán khi “chính trị thực tế” [Real Politics] cho thấy
chúng ta thực sự không có chủ quyền quyết định về vận mệnh của chúng
ta, ngoài việc nhận lấy những việc đã rồi, xắp xếp sau lưng chúng ta,
không một chút liêm sỉ và không mấy thướng xót cho kẻ đồng hành, đồng
minh kém vế.
Trong
cuộc “Chiến Tranh Việt Nam”, sau tháng Tư 1975, cả chính thể Quốc gia
lẫn nhân dân Miền Nam đều thất bại.
3. Ngay cả Quân đội và Nhân dân Bắc Việt
cũng lâm vào cảnh ngộ không sáng sủa gì hơn, nếu không nói là khốn
đốn, nguy ngập. Quân đội và Nhân dân Bắc Việt đã thắng nhờ vào kỹ
thuật chiến tranh có viện trợ của Nga Xô và nhất là của Trung cộng.
Quân đội CS Bắc Việt thực sự đánh cho Nga, đánh cho Tầu. Họ là kẻ
thắng trận, nhưng không hề thắng cuộc. Họ đã chiếm được Sài Gòn,
nhưng ngay sau 1975 và tới ngày hôm nay họ đang thua trên toàn quốc
Việt Nam vì đối nội thiếu khả năng quản trị Đất Nước trong “hoà
bình”, khi mất cớ lừa bịp dân chúng với chiến tranh, và nhất là về
mặt đối ngoại khi họ phải trả nợ hơn 50 năm viện trợ Trung Cộng bằng
cách xoá bỏ ranh giới, cầm cố đất đai, rừng già, bán biển, bán đảo,
bán dân.
VẬY AI LÀ
PHE THẮNG TRONG (QUA) CHIẾN TRANH VIỆT NAM?
“Đồng Minh” Hoa Kỳ, sau khi thực nghiệm bất
thành cái gọi là “Containment Doctrine/Cold War-Chủ Thuyết Be
Bờ/Chiến tranh lạnh/” đã tháo chạy với hội chứng “Vietnam Syndrome”
trên đài truyền hình và tại hậu phương Hoa Kỳ, nhưng thực sự đã
“thắng cuộc” để trở thành bá chủ [vô địch] thế giới, tạm cho tới ngày
nay.
Tuy nhiên,
Hoa Kỳ vì đảm nhận vai vế “hiến binh toàn cầu”, nên vẫn đắm đuối với
nhiều tai ương, sóng gió tiếp cận qua các cuộc chiến “tầm gửi” khác
trên thế giới, nhất là tại Trung Đông, Bắc phi, phần nào để duy trì
kho bạc “petro dollars” và nhu cầu nuôi dưỡng cơ sở (vĩ đại) phát
triển kỹ nghệ chiến cụ –”Military Industrial Complex”, cánh tay phải
của uy lực tư bản Hoa Kỳ.
Song song, kẻ thắng trận thứ hai là Trung
Cộng. Thật vậy, Trung Cộng từng đầu tư ồ ạt vào các cuộc chiến “đuổi
Tây, đánh Mỹ” xuyên hai thế kỷ, nên sau khi giao lưu “ping pong/coca
cola” [How Ping-Pong Diplomacy Thawed the Cold War] với các chính thể
Nixon-Kissinger và kế nhiệm, đế quốc cộng sản này đã trở thành “phó
chủ” toàn cầu [với kỳ vọng trở thành vô địch nay mai], sẵn sáng nuốt
chửng Đông Nam Á, dĩ nhiên cả Việt Nam, Biển Đông, và bất cứ nơi nào
thèm “tiền xì dầu” (nhân dân tệ Trung Quốc), hay thấy bắt buộc [chẳng
đặng đừng] phải tiêu thụ đồ rẻ, đồ độc “made in China”.
Phải chăng Trung Cộng đang trở thành con
khủng long thế kỷ 21, và Việt Nam là cái đuôi xã hội mafia của nó?
TẠM KẾT:
Cuộc chiến mù mờ trên tại Việt Nam cũng là
bài học chung cho những thế hệ sau. Đất nước là của chung, phải định
đoạt với nhau, không thể nhờ vả ngoại nhân, vì họ có mục tiêu và
quyền lợi của họ. Cái khôn là biết hợp tác để trao đổi thế lực, trí
tuệ và phẩm giá với nhau trong một cộng đồng nhân loại mở, nhưng việc
sống chết vẫn là quyết định của từng dân tộc, từng thể chế tác động
nhân danh dân tộc họ, chứ không phải theo quyền lợi của đảng phiệt,
của quân phiệt, của tài phiệt. Không ai sống hộ chúng ta và cũng
không ai chết thay chúng ta, ngoài chính chúng ta và con cháu chúng
ta. Cái vinh cùng hưởng, cái nhục cũng cùng chịu, khi theo đuổi, thực
hiện trên căn bản quyền lợi và và trách nhiệm chung hay tương tự.
Chúng ta, con cháu chúng ta hãy tránh là
nạn nhân lẫn tòng phạm của những cảnh khốn đốn luân phiên, luẩn quẩn
bao vây, hủy hoại từng thế hệ này sang thế hệ khác. Hãy lật ngược
những trang bi sử đó và nhất quyết trở thành sáng lập viên chung của
một vận nước cao đẹp, cởi mở, tử tế, vững bền, tích cực, trọng sinh,
trọng nghĩa mà con người toàn diện được bảo trọng, thân thương. Việt
Nam phải là của dân, do dân, vì dân một cách thực sự, nếu không muốn
bị vĩnh viễn xoá bỏ.
Để tránh làm nạn nhân của những cuộc chiến
ảo thuật bao vây “be bờ” trong tương lai, toàn thể nhân dân Việt Nam,
toàn thể Người Việt trong và ngoài nước, tất cả những Người Việt thực
sự yêu Nước phải sớm thực hiện tại Việt Nam, ngay từ bây giờ và tiếp
nối trong tương lai một Xã hội Chân chính Nhân bản, tự chủ, tự quyết
và một Chính thể Cộng Hoà hiến-định-trọng-pháp-trọng sinh, đa nguyên
đa đảng, không chuyên chế độc tài.
Dù là cộng sản hay không cộng sản, dù là
phát-xít, hay quân phiệt, tài phiệt, chủ trương và quyền lợi của một
đảng không bao hàm đủ quyền lợi và nhu cầu của cả một dân tộc. Do đó,
cứu cánh của quyền lực phải thuộc về dân. Xây dựng và bảo trọng một
Xã Hội Nhân bản Pháp trị & một Chính thể Dân Chủ Chân Chính, Tự do Tự
chủ, không bị ngoại xâm là giải pháp vậy.
Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM
Michigan State University
Cập nhật March 7, 2019
http://www.vietthuc.org
Nguồn:
https://www.vietthuc.org/ch%E1%BB%A7-nghia-be-b%E1%BB%9D-chi%E1%BA%BFn-tuy%E1%BA%BFn-vi%E1%BB%87t-nam
CHÚ THÍCH:
[1]
“Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S. Department
of State
[2] In March 1919, French Premier Georges Clemenceau
called for a cordon sanitaire, or ring of non-communist states, to
isolate the Russians. Translating this phrase, U.S. President Woodrow
Wilson called for a “quarantine.” Both phrases analogize communism to
a contagious disease.
[3] Referring to communism in Indochina,
U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into words during
an April 7, 1954 news conference: Finally, you have broader
considerations that might follow what you would call the “falling
domino” principle. You have a row of dominoes set up, you knock over
the first one, and what will happen to the last one is the certainty
that it will go over very quickly. So you could have a beginning of a
disintegration that would have the most profound influences.
[4] “Kennan and Containment, 1947”, Diplomacy in Action, U.S.
Department of State
[5] Kennan responded on February 22, 1946
by sending a lengthy 5,500-word telegram (sometimes cited as being
over 8,000 words) from Moscow to Secretary of State James Byrnes
outlining a new strategy on how to handle diplomatic relations with
the Soviet Union. At the “bottom of the Kremlin’s neurotic view of
world affairs”, Kennan argued, “is the traditional and instinctive
Russian sense of insecurity”. Following the Russian Revolution, this
sense of insecurity became mixed with communist ideology and
“Oriental secretiveness and conspiracy”.
Soviet behavior on
the international stage, argued Kennan, depended chiefly on the
internal necessities of Joseph Stalin’s regime; according to Kennan,
Stalin needed a hostile world in order to legitimize his own
autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism as a
“justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the
outside world, for the dictatorship without which they did not know
how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for
sacrifice they felt bound to demand... Today they cannot dispense
with it. It is fig leaf of their moral and intellectual
respectability.”
[6] Frazier, Robert. “Acheson and the
Formulation of the Truman Doctrine” Journal of Modern Greek Studies
1999 17(2): 229–251. ISSN 0738-1727
[7] At the “bottom of the
Kremlin’s neurotic view of world affairs”, Kennan argued, “is the
traditional and instinctive Russian sense of insecurity”. Following
the Russian Revolution, this sense of insecurity became mixed with
communist ideology and “Oriental secretiveness and conspiracy”.
Soviet behavior on the international stage, argued Kennan, depended
chiefly on the internal necessities of Joseph Stalin’s regime;
according to Kennan, Stalin needed a hostile world in order to
legitimize his own autocratic rule. Stalin thus used Marxism-Leninism
as a “justification for [the Soviet Union’s] instinctive fear of the
outside world, for the dictatorship without which they did not know
how to rule, for cruelties they did not dare not to inflict, for
sacrifice they felt bound to demand...
[8] Gaddis, John Lewis.
“Reconsiderations: Was the Truman Doctrine a Real Turning Point?”
Foreign Affairs 1974 52(2): 386–402
[9] Kort, Michael (2001).
The Columbia Guide to the Cold War. Columbia University Press
[10] Fossedal, Gregory A. Our Finest Hour: Will Clayton, the Marshall
Plan, and the Triumph of Democracy. (1993). Gimbel, John, The origins
of the Marshall plan (Stanford University Press, 1976).
[11]
Reynolds, The origins of the Cold War in Europe. International
perspectives
[12] Amy B. Zegart, Flawed by Design, The
Evolution of the CIA, JCS, and NSC
[13] MacArthur, North
Korea. Truman’s No-win policy
[14] Referring to communism in
Indochina, U.S. President Dwight D. Eisenhower put the theory into
words during an April 7, 1954 news conference: “Finally, you have
broader considerations that might follow what you would call the
“falling domino” principle. You have a row of dominoes set up, you
knock over the first one, and what will happen to the last one is the
certainty that it will go over very quickly. So you could have a
beginning of a disintegration that would have the most profound
influences.”
[15] Eisenhower’s memoirs of his years in the
White House, Mandate for Change (1963)
[16] Lynch, Grayston L.
2000. Decision for Disaster: Betrayal at the Bay of Pigs. Potomac
Books Dulles Virginia
[17] Assistant Secretary of State Roger
Hilsman had written in August 1963 that “Under no circumstances
should the Nhus be permitted to remain in Southeast Asia in close
proximity to Vietnam because of the plots they will mount to try to
regain power. If the generals decide to exile Diem, he should also be
sent outside Southeast Asia.” He further went on to anticipate what
he termed a “Götterdämmerung in the palace”. We should encourage the
coup group to fight the battle to the end and destroy the palace if
necessary to gain victory. Unconditional surrender should be the
terms for the Ngo family since it will otherwise seek to outmaneuver
both the coups forces and the U.S. If the family is taken alive, the
Nhus should be banished to France or any other country willing to
receive them. Diem should be treated as the generals wish.” Hammer,
Ellen J.(1987). A Death in November. New York City, New York: E. P.
Dutton. ISBN 0-525-24210-4.
[18] According to General Maxwell
Taylor, Chairman of the U.S. Joint Chiefs of Staff, “there was the
memory of Diem to haunt those of us who were aware of the
circumstances of his downfall. By our complicity, we Americans were
responsible for the plight in which the South Vietnamese found
themselves.”
[19]
Gettleman, Marvin E. (1966). Vietnam:
History, Documents, and Opinions on a Major World Crisis.
[20]
Senator Barry Goldwater, the Republican candidate for president in
1964, challenged containment and asked, “Why not victory?”
[21] President Johnson, the Democratic nominee, answered that
rollback risked nuclear war. Johnson explained containment doctrine
by quoting the Bible: “Hitherto shalt thou come, but not further.”
[22] “Gulf of Tonkin Measure Voted In Haste and Confusion in
1964”, The New York Times, 1970-06-25
[23] Television brought
the brutality of war into the comfort of the living room. Vietnam was
lost in the living rooms of America–not on the battlefields of
Vietnam. –Marshall McLuhan, 1975.
[24] Suri, Jeremi. Power and
Protest: Global Revolution and the Rise of Détente. Harvard
University Press (2003).
[25]
SALT [Strategic Arms Limitation
Talk]
[26] With honor
[27] Vietnamization or Nixon
Doctrine
[28] Senate passed the Case-Church Amendment to
prohibit such intervention. Hitchens, Christopher. The Vietnam
Syndrome. Karnow, Stanley (1991)
[29]
Battlefield: Vietnam | Timeline
20 Years After Victory, April
1995, Folder 14, Box 24, Douglas Pike Collection: Unit 06 –
Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam Archive, Texas Tech
University.
R.J.
Rummell (1997). “Table 6.1A Vietnam Democide: Estimates, Sources &
Calculations”. web site.
http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1A.GIF. Retrieved
2010-01-01.
Tran Van Tra, Tet, pp. 49, 50.web site (1997).
“North Vietnamese Army’s 1972 Eastertide Offensive”. web site.
http://www.historynet.com/north-vietnamese-armys-1972-eastertide-offensive.htm.
Retrieved 2010-02-01.
http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1B.GIF
Kevin
Buckley, “Pacification’s Deadly Price,” Newsweek 1972.
[30] Nixon,
Richard (1978). RN: The Memoirs of Richard Nixon. Simon &
Schuster.Also Text of President Nixon’s radio and television
broadcast announcing the initialing of the Paris ‘Agreement on Ending
the War and Restoring Peace in Vietnam’
[31] Effect of
the containment: The solution, Kennan suggested, was to strengthen
Western institutions in order to render them invulnerable to the
Soviet challenge while awaiting the eventual mellowing of the Soviet
regime.
[32]
Pursell, C. (1972). The military-industrial complex. Harper & Row
Publishers, New York, New York.
[33] President Dwight
Eisenhower, farewell speech to the nation, January 17, 1961
VIET THUC
FOUNDATION
3111 CRANLEIGH CT.
FAIRFAX, VA 22031, USA
drluunguyendat40@gmail.com
vietthuc.org@gmail.com
Mobile (703–395–7062)
Bấm vào đây để in ra giấy(Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by lnđ chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, March 17, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang