Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện ngắn
Chủ đề:
Lính
Tác giả:
Nguyễn Vô Danh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời
giới thiệu: Một câu chuyện hiếm có, đầy tình người rất
cảm động với những hình ảnh hãi hùng không bao giờ quên....
Trần Văn Giang
Mất mấy ngày mới về tới Sài Gòn. Thành phố giờ có tên mới – cái tên
của kẻ sát nhân. Tui hổng quen dùng cái tên mới đó thấy là Xã hội
dưới tay đảng CSVN xuống dốc như xe hổng thắng. Ai cũng nghèo,
đói, và khổ cực.
Bây giờ tui hổng có kỳ vọng nào hơn là
sẽ có một ngày cái nhóm mắc dịch, khốn nạn, vô thần, vô đạo đức
này tan rã cho tui nhờ và cho người dân bớt khổ.
Ngày đó chắc là phẻ re há?
Nguyễn Vô Danh
Mọi chuyện dường như là có sự sắp đặt. Trong cuộc
đời tui, bao nhiêu lần vào sanh ra tử, cứ tưởng là sắp đi thăm
ông bà ông vãi, nhưng lại chưa. Bà xã, thỉnh thoảng vẫn chọc quê,
“Nghèo mà ham; anh tưởng muốn đi là đi hả? Tui chưa cho anh đi
thì hổng được đi đó. Nghe chưa?” Chuyện tình duyên thì cũng rụp,
rụp, rụp – ý tui muốn nói là xuông xẻ đó. Còn chuyện người anh
kết nghĩa thì như trên trời rớt xuống. Đúng là người tính hổng
bằng Trời tính mà. Tía tui hay nói như dzậy.
Nói xa nói gần hổng bằng nói thiệt. Tui
là con một trong gia đình nông dân nghèo. Nghe Má kể lại thì lúc
được 1 tuổi rưỡi, tui bị bịnh ban gì đó, mà hai thầy thuốc Nam
trong miệt cồn Dừa (tỉnh Phong Dinh) này đều bó tay. Tía bằng
lòng bán miếng ruộng duy nhất của gia đình để có tiền đưa tui lên
Sài Gòn chữa bịnh, nhưng đường đi quá cực khổ, và có thể tui sẽ
chết trên đường trước khi tới nhà thương, thành ra lại phải trở
về khi đi chưa được một phần năm đường. Hổng lẽ ngồi khoanh tay
nhìn con mình chết, Tía nghe người ta mách hái mấy lá gì đó trộn
với xả nấu cho tôi uống. Uống xong, nghe Má kể lại, tôi giựt giựt
mấy cái rồi nằm xụi lơ, rồi ngủ luôn 2 ngày. Khi tui thức dậy, Má
khóc quá trời vì quá mừng. Qua được cơn bịnh này thì tui hơi chậm
lớn và cũng hơi chậm nói – nghe Má nói như vậy. Giờ ngồi nghĩ lại
thấy thương ổng bả quá trời.
Khi được 5 hay 6 tuổi tui hay theo Tía
ra đồng coi dùm Tía mấy cái cần câu trong lúc ổng làm ruộng. Ngồi
hổng có gì làm, tui thường lượm gạch hay sỏi để chọi chim, rắn
hay chuột đồng. Nhiều hôm tui chọi trúng được vài con chuột hay
chim đem về cho Má nướng. Còn cá trê Tía câu Má kho tiêu ngon
lắm. Thỉnh thoảng Tía uống rượu đế với mồi cá kho tiêu, và khi
uống rượu Tía nói nhiều hơn mọi ngày. Phải nói là cuộc sống khá
êm đềm.
Tới 8
tuổi tui mới đi học, nhưng tui học dở lắm, chắc là tại quá ham
chơi. Khi rảnh tui làm ná bắn chim (thay vì chọi đá như hồi nhỏ).
Tui cũng hay chơi bắn bi với tụi nhỏ hàng xóm. Phải nói là tui
dùng ná rất giỏi vì ngày nào tui cũng đem chim, vịt trời hay
chuột về cho Má làm đồ ăn. Khi bắn bi cũng vậy, tụi bạn thua tui
dài dài, thành ra có tiền mua bánh tráng, xôi với “cà lem” ăn.
Chỉ có học là tui dở thôi. Học đó rồi quên đó. Phải học lớp Năm
đến 2 hay 3 lần mới được lên lớp Tư.
Có lần tan học, trên đường về, tui theo
bạn bè vào vườn mía đỏ bỏ hoang (thân mía màu ửng đỏ hồng, mềm và
ngọt khỏi chê luôn). Muốn được mía lớn tui phải đi tuốt vô trong
sâu. Đang kéo chiến lợi phẩm ra, thì tui thấy đau điếng dưới
chưn. Nhìn xuống thì trời ơi, một con trăn bự đang cắn chặt vô
cái bắp chuối. Tui cố kéo chưn ra nhưng hổng xong vì con trăn
mạnh quá. Thân nó trườn tới và quấn luôn chưn kia. Biết là hổng
xong nếu tiếp tục cái đà này, tui la cầu cứu nhưng vì ở tuốt
trong sâu, hổng ai nghe. Hai chưn bị trăn cột xiết rồi, tui ngã
sóng soài – chuyện đi thăm ông bà là cầm chắc trong tay. Hai chưn
đã tê cứng. Chợt nghĩ tới Tía và Má, tui như bừng tỉnh và quơ đại
cái cặp táp. Đang dùng cái cặp táp da đập vô đầu con trăn, cây
viết văng ra. Tui dùng cây viết đâm túi bụi vào mắt con trăn. Đâm
hết mắt này rồi đâm qua mắt kia. Chắc là bị tui đâm khá sâu vào
mắt, con trăn tự nhiên nhả chưn ra, lăn lộn, hổng xiết nữa, và bò
đi nơi khác. Hôm đó Má khóc nhiều lắm. Má cứ lẩm bẩm cám ơn ông
bà che chở. Má nói là cái số tui chưa rụng. Tía tới vườn mía
hoang và bắt được con trăn mù tổ bà chảng. Đem ra chợ bán thịt
được gần hai chục đồng. Lúc đó 1 lượng vàng chỉ có 65 đồng. Tía
nói sẽ dùng tiền này cho tui khi đi học xa, hay lúc cưới vợ. Tía
cấm hổng được đi vô rừng mía đó nữa. Nói cho cùng, sau cái vụ
trăn quấn thì có cho tiền tui cũng hổng dám vô.
Tui học ạch đụi tới năm 15 tuổi mới học
xong lớp Nhứt. Thấy tôi học chậm, Tía cho tui ở nhà phụ làm rẫy.
Mùa hè năm sau nhóm trẻ tụi tui đá banh thắng nhóm bên cồn Cát
3–2. Tui đá vô “gôn” luôn 2 trái trong vài phút chót vì tui chạy
lẹ lắm. Được 80 đồng phần thưởng, tui dẫn “đội banh nhà” ra chợ
ăn gỏi đu đủ và uống nước mía. Thắm, cô bán nước mía, nhận ra
tui, nhưng tui hổng nhận ra cổ. Hỏi ra mới hay là tui học cùng
lớp với Thắm 6 năm trước. Cổ khác hẳn con nhỏ ốm nhom, đen thui
hồi đó. Thắm giờ có da có thịt, da bánh mật, nói chuyện có duyên,
và biết buôn bán. Sau lần đó, tụi tui kết nhau. Đưa Thắm về nhà,
Tía và Má mừng lắm. Má nói là Má luôn muốn tui có người anh để
giúp đỡ bảo bọc vì tui chậm chạp và thật thà. Nay có người bạn
đời giỏi như Thắm đến với tui, Má vui lắm. Tám tháng sau, tụi tui
lập gia đình. Khoảng 1 năm sau khi cưới vợ thì tui phải nhập ngũ.
Chỉ sau vài tháng trong Quân Trường
Quang Trung, vì được nhiều sự chú ý của các huấn luyện viên cao
cấp bởi tui chạy đua rất mau (chắc vì muốn thắng đá banh để có
tiền mua nước mía), và tui bắn súng hết xẩy (hay là vì chọi đá
bắt chuột, dùng ná bắn chim, bắn bi kiếm tiền mua đồ ăn... hồi
nhỏ), tui được huấn luyện đặc biệt để trở thành xạ thủ. Khi mãn
khóa ở Quang Trung, tui được chuyển đi Kontum với cấp bực binh
nhì trong đội Biệt Kích. Nhiệm vụ của tui là trốn trên những đồi
cao có nhiều cây, quan sát, truyền tin và bắn tẻ khi được lịnh.
Có khi tui đi chung nhóm 3 hay 5 người, và có khi chỉ có mình ên.
Thường được thả trên rặng Trường Sơn vào những đêm sương mù dầy
đặc. Những lúc đi xa, tui nhớ Thắm, nhớ Má và Tía lắm. Cái sướng
của công việc này là tui dùng sở trường của mình (chạy mau và bắn
giỏi) để phục vụ đất nước. Tui cũng khoái vụ trốn trên núi cao vì
hồi nhỏ thích chơi Năm Mười. Xếp tui dặn là bất cứ ai hỏi thì tui
phải nói tui là lính kiểng gác kho gạo trên Đà Lạt. Mà cũng hay,
vì sau khi núp trên núi vài tháng nên da trắng và tóc dài, tui
dòm cũng giống lính kiểng lắm chớ bộ. Sau mỗi lần đi công tác vài
tháng tui được nghỉ phép cả tháng với rất nhiều tiền (hình như là
tiền tử) khi về thăm gia đình. Tiền bạc dồi dào, tui mua đồ cho
mọi người mút chỉ. Vì vậy bạn bè, hàng xóm thương, che chở và
giúp đỡ tui.
Lần đó sau khi về thăm nhà chưa được 2 tuần lễ, tui bị gọi về gấp
vì có chuyện lớn. Đi lẹ ra Ô Môn, vô sân bay Trà Nóc, bay thẳng
về KonTum để nhận lịnh. Trước khi được điều động lên một địa điểm
bí mật trên rặng Trường Sơn để thăm dò như các lần trước, tui
được dặn là phải cố gắng nhiều vì 2 đồng nghiệp Biệt Kích (BK) đã
mất tích trong vùng đó. Điều may mắn lần này là tui tìm được 2
người BK kia không xa nơi đáp xuống. Một người đang bị bịnh. Máy
truyền tin bị hư, và đạn dược thiếu thốn tại một số lớn quân nhu
bị rớt mất khi thả dù. Tụi tui núp trong 1 hang núi có nhiều cây
rậm rạp. Điều không may mắn lần này là tụi Việt Cộng biết được sự
có mặt của nhóm BK vì họ tìm ra số quân nhu và dụng cụ bị rớt. Họ
lùng kiếm ráo riết. Để được an toàn, tụi tui im hơi lặng tiếng và
chỉ bắn khi thiệt cần.
Sau cùng cũng phải bắn trả vì tụi nó
tới quá gần, nhưng tụi tui bắn thật ít vì thiếu thốn đạn dược.
Tụi Việt Cộng dù đông hơn, nhiều đạn hơn, nhưng hổng dám mạnh dạn
tiến lên vì họ ở vị trí dưới thấp, trong khi nhóm tụi tui phía
trên cao bắn xuống phát nào trúng phát nấy. Cầm cự được hơn 6
tiếng đồng hồ, thì nhóm tui gần như hết đạn. Chỉ còn vài trái lựu
đạn để tử thủ. Tui không nghĩ là mình qua được con trăng này.
Nghĩ tới Thắm, Tía và Má, tui chạnh lòng.
Trong cơn nguy hiểm như chỉ mành treo
chuông, bỗng nhiên máy bay trực thăng tiếp cứu tới. Máy bay phải
đánh đông phạt tây (điệu hổ ly sơn) và dùng hỏa mù để cứu nhóm
tui. Trong phi vụ này, tui bị thương vì té gẫy tay và được đưa về
Chẩn Y Viện Cộng Hòa điều trị.
Sau thời gian dưỡng thương, tại tay
hổng còn khỏe và chính xác như ngày trước, tui được chuyển về 1
quận lỵ nhỏ gần Suối Dây, tỉnh Tây Ninh với cấp bực Hạ sĩ Nhứt và
giã từ cuộc sống BK Đặc Biệt từ đó.
Khoảng 4 tháng sau thì Thiếu úy Đức
(TUĐ) người Bắc tới làm Phó quận trưởng. Tui được lựa làm
gạc-đờ-co (bảo vệ) cho ông Phó. Vài lần đang lái xe jeep chở ông
Phó đi quan sát ngoài biên giới quận thì tụi Việt Cộng bên kia
rừng Tràm bắn lén. Vừa nghe tiếng nổ là tui phản xạ đẩy TUĐ nằm
xuống, che cho ông, và cùng lúc tui nhả hàng loạt đạn về phía
tiếng nổ. Sau vài lần như vậy, tui được tin cẩn hơn và trở thành
cánh tay trái của ổng. Tui luôn khuyên ổng phải cẩn thận, vì đây
là vùng xôi đậu không biết ai là địch, ai là thù. TUĐ là thượng
cấp, nhưng ổng cũng xem tui như người nhà. Một lần đưa ổng đi xem
nhà cửa của dân làng do nhóm lính sửa chữa, TUĐ gặp cô Hân (con
gái bà chủ căn nhà ở cuối quận, kế bên con sông nhỏ ngăn cách khu
rừng Tràm âm u bên kia). Theo như tui thấy thì hình như lúc gặp
cô Hân, TUĐ bị tiếng sét ái tình hay sao đó vì ổng đứng như trời
trồng và nói năng lắp bắp. Thấy kỳ quá, thêm nữa khu này nguy
hiểm khi trời sâm sẩm tối, tui nói thay cho ổng:
– Trễ rồi, Thiếu úy. Mình phải đi
dzề. Chào cô.
Cô Hân đẹp, ăn nói khéo léo... chắc là
người bên kia, gài lại đây. Tía của cô vắng mặt. Hay là ông ta đã
tập kết ra Bắc? Thêm nữa, tên Ba Thọt (ở đối diện nhà cô) – một
người có tiểu sử và hành động rất khả nghi – thường qua lại nhà
cô thăm viếng.
Mỗi sáng khi cô Hân đi làm ngang văn
phòng quận, tui thấy cô cố tình đi chậm lại. Hay là cô đang nghe
ngóng tin tức? Hay là xem cá có cắn câu chưa? Hay là đang dò xét
tình hình trong văn phòng quận để tường trình cho phe bên kia?...
Hàng trăm câu hỏi, nhưng hổng có câu trả lời. Thôi, tốt nhứt là
đề phòng thì vẫn hơn.
Vài tháng sau, Kontum, Ban Mê Thuột và
nhiều vùng cao nguyên thất thủ. Rồi Bảo Lộc–Madagui vào tay bọn
quỷ đỏ... Một buổi chiều tháng tư, tụi Việt Cộng đem xe tăng,
súng lớn tới tấn công quận. Đại úy Long quận trưởng mất tích. TUĐ
và các anh em quân đội tụi tui liều chết bắn chặn quân địch.
Trước hỏa lực quá mạnh của địch, lực lượng tiểu đoàn phòng thủ
quận tan rã. Kẻ chết, người bị thương, người chạy trốn. Tui và
TUĐ đều bị thương nhẹ. Cùng đường, hai thầy trò chạy về phía cuối
quận. Đinh ninh là Ba Thọt hay cô Hân sẽ chờ để bắt sống hay
thanh toán tụi tui ở đó, tui cầm chắc khẩu tiểu liên sẵn sàng
mạng đổi mạng. Khi chạy tới gần con sông cuối quận (gần nhà cô
Hân), TUĐ ngã quỵ vì kiệt sức. Đang đỡ TUĐ lên, thì cô Hân chạy
ra mở cửa rào ra dấu cho tụi tui vào nhà gấp. Khi vào trong, cô
băng bó cánh tay của TUĐ. Cô đưa cho tụi tôi 2 nắm cơm và ít nước
lạnh để ăn cầm hơi. Trong lúc tui và TUĐ ăn, cô lấy 2 ruột xe
đạp, bơm lên, và đưa cho tụi tui. Cô ta chỉ tay vào con sông sau
nhà:
– Hai
anh thả nổi chừng 8 hay 9 cây số tới nhà thờ Suối Dây. Nhớ tìm
người linh mục gốc Nam Định xin giúp đỡ. Chừng nào khỏe lại thì
đi. Nếu tình hình lộn xộn quá, thì trốn qua Kampuchia. Hai anh đi
cho lẹ trước khi họ tới đây.
Lúc đó tui mới biết là mình sai. Cô Hân
là người ơn, chứ không phải là vẹm như tui nghĩ. Món nợ cứu mạng
này lớn lắm.
Khi tụi tôi xuống sông thì trời đã tối. Nương theo dòng nước hai
thầy trò tới nhà thờ Suối Dây khoảng 2 giờ sáng. Người Linh Mục
dấu tụi tui ở đó gần 3 tuần lễ dưỡng thương. Khi gần như hồi phục
hoàn toàn, TUĐ và tui chia tay. Hôm đó cả hai đều khóc. TUĐ nghẹn
ngào:
– Hạ
sĩ Nhất Sơn. Tôi bao giờ cũng xem chú... như người nhà. Cám ơn
chú... đã làm việc với tôi trong 2 năm qua, và... đã giúp đỡ tôi
trong cơn hoạn nạn này. Nếu còn duyên thì anh em mình sẽ gặp lại.
Sau khi từ giã TUĐ và người Linh Mục,
tui về Cần Thơ đoàn tụ với gia đình. Mất mấy ngày mới về tới Sài
Gòn. Thành phố giờ có tên mới – cái tên của kẻ sát nhơn. Tui hổng
quen dùng cái tên mới đó. Phải mất thêm cả tuần nữa mới quá giang
về đến cồn Dừa vì xe cộ bị đình trệ sau ngày đổi đời – cái ngày
mà hàng vạn người vui, nhưng hàng triệu người buồn. Khi bước vô
nhà, Má bật khóc vì quá mừng. Thắm thấy tui tiều tụy quá cũng
khóc. Tía thì nhờ người hàng xóm đi mua ít đồ ăn mừng ngày đoàn
tụ.
Hai hôm
sau, 3 người Công An tới nhà chỉa súng bắt tui đi lên xã. Xã
trưởng là một tên Bắc Kỳ răng hô mã tấu với khuôn mặt khắc khổ
nhăn nheo như cái mền rách. Hắn đập bàn đánh phủ đầu với giọng
Bắc đặc sệt:
– Mày có biết tội phản động làm việc cho CIA của Mỹ Ngụy nặng
như thế nào không? Tội ác của mày lớn lắm. Mày có nợ máu với nhân
dân.
– Thưa
đồng chí xã trưởng...
– Ai là đồng chí với bọn phản động như
mày.
– Dạ thưa
xã trưởng. Tui chỉ là lính kiểng gác kho ở Đà Lạt. Tui có bắn
giết ai đâu?
–
Tao có hồ sơ của mày. Đừng chối cãi nữa. Nhận tội đi. May ra được
Đảng khoan hồng.
– Thưa Xã Trưởng, chắc là có người
trùng tên, chứ tui đâu có làm gì như dậy.
– Giam thằng này lại. Đồ ngoan cố, mất
dạy. Tuần tới đưa nó lên phòng Công An tỉnh để giải quyết.
Tui bị nhốt 8 ngày trước khi bị chuyển
lên ty Công An tỉnh Cần Thơ. Khi vào gặp Trưởng phòng Công An,
tui không dè đó là thằng Huân trong đội đá banh ngày nào. Nó ăn
gỏi đu đủ bò khô và uống nước mía với tui sau các trận đá banh
vài lần. Thêm nữa mỗi lần tui về thăm nhà, tui đều có mua đồ cho
thằng Huân và cho dì Tám má nó. Tui cũng nói là làm lính kiểng
trên Đà Lạt, khi nó hỏi.
Thằng Huân nhận ra tui ngay. Tui chỉ
trả lời bằng những gì mà Xếp cũ của tui dặn nói. Tui đổ thừa là
có người trùng tên. Nhờ thằng Huân dễ dãi, tui thoát nạn.
Tui đi cải tạo mấy ngày dành cho Hạ sĩ
quan. Sau đó được “khoan hồng” về làm rẫy với gia đình ở cồn Dừa.
Xã hội dưới tay đảng CSVN xuống dốc như
xe hổng thắng. Ai cũng nghèo, đói, và khổ cực. Gia đình tui làm
rẫy, cũng bữa đói, bữa no, nhưng đỡ hơn nhiều người. Tui lại bắn
chim sẻ, vịt trời như hồi nhỏ. Tiếp tục bắt chuột đồng, bắt cá
lóc hay cá trê dưới ruộng làm khô lén để dành cho những ngày mưa
gió. Hai năm sau Thắm cho gia đình tui một tin vui là thằng con
trai đầu tiên. Rồi năm sau nữa thì thằng thứ hai. Khi miếng ruộng
duy nhất của gia đình bị xung công, Tía rầu rĩ sanh bệnh và ra đi
năm sau đó. Mất đất trồng trọt, gia đình dọn về Ô Môn năm 1979.
Vợ chồng tui làm công làm mướn bất cứ thứ gì ở chợ Ô Môn để kiếm
tiền.
Đã 8 năm
từ ngày rời Suối Dây, tui hổng có tin tức gì về Thiếu úy Đức
(TUĐ). Tình cờ năm 1983 khi đi mua bán đồ ở chợ Cái Răng, tui gặp
Đại úy Long (ĐUL) Quận Trưởng năm nào. ĐUL mới được thả về từ
trại cải tạo trước đó 6 tháng, và còn đang bị quản chế. Đi đâu
cũng phải xin phép và trình diện mỗi tuần. Thấy tình trạng ĐUL
thảm quá, tui cho ổng 1 con khô mực và nửa ký gạo dấu trong sách
tay. ĐUL nói là có gặp TUĐ trong trại cải tạo mùa thu năm 1977.
Khoảng 2 năm sau, nghe nói là TUĐ vượt
ngục rồi bị bắn chết ở gần biên giới Lào làm gương cho kẻ khác.
ĐUL cũng cho biết là khi được thả, trên đường về ổng nghỉ một đêm
tại quận lỵ ngày xưa vì không còn xe về Sài Gòn. Quận tiêu điều
lắm. Tui hỏi về mấy người ở cuối quận kế bên con sông nhỏ. ĐUL
nói là 2 căn nhà đó đã bỏ hoang, xiêu vẹo, không người ở. Nghe
làng xóm nói là bà già (má cô Hân) đã chết và chôn trong ngôi mộ
nhỏ sau nhà. Đứa con gái (cô Hân) thì biệt tăm. Hình như đã chết
trôi vì người ta tìm thấy dép của cổ và cục xà bông ở bờ sông sau
nhà. Tui nghe xong cảm thấy choáng váng như bị trúng gió. Hôm đó
tui về nhà khóc. Vợ tui hỏi. Tui kể lại sự tình. Tội nghiệp vợ
tui. Thắm làm một bàn thờ cho TUĐ trên nóc tủ kế bên bàn thờ của
Tía và Má, và tối đó cúng 1 chén cháo trắng.
Làm ăn ở chợ Ô Môn khó khăn, gia đình
tui mướn một miếng đất cách Ô Môn 20 cây số để trồng khoai mì và
khoai lang. Tui dậy 2 đứa nhỏ làm bẫy bắt chuột đồng, làm ná bắn
chim... Vợ chồng tui thì quen cảnh nghèo rồi. Chỉ tội 2 đứa nhỏ
thiếu ăn và tương lai mù mịt. Nhiều đêm nóng nực hổng ngủ được,
tui cứ nhớ lại những ngày tui ở Suối Dây. Nhớ TUĐ và nhớ cả người
đã cứu hai thầy trò. Chỉ biết chắc lưỡi thở dài cho người vắn số.
Sau nhiều kế hoạch kinh tế đảng CS đưa
ra đều thất bại, chính quyền thả lỏng và có ý muốn đi theo kinh
tế thị trường tự do. Cuộc sống dân nghèo trở nên dễ thở hơn một
chút. Gia đình tui bắt đầu nuôi heo để thanh toán số khoai lang
ung thúi khi bán hổng hết.
Làm sao tui quên được buồi chiều hôm
ấy. Đó là một buổi chiều đầu tháng Tư năm 1995, khi tui đang làm
rẫy, ngăn nước không cho vào đất trồng trọt quá nhiều, thì Thắm
ra rẫy gọi về nhà có khách. Khi về nhà thì thấy 2 người ăn mặc
sang trọng có vẻ đàng hoàng. Tui không nhận ra người đàn bà,
nhưng người đàn ông thì nhìn quen lắm. Sau vài giây ngỡ ngàng,
người đàn ông nhìn tui và nói một cách ngậm ngùi trong nước mắt:
– Chú Sơn có nhận ra tôi không?...
anh Đức đây?
–
“Hả... Ôi trời, Thiếu úy Đức... ông Phó!...” Tui trả lời khi nước
mắt bắt đầu ứa ra vì quá mừng.
– Đừng gọi như vậy. Gọi là anh hay anh
Đức vì chú là em của tôi mà.
– Dạ, dạ... ông Phó, à quên... anh Đức.
Tưởng là anh đã... Gia đình tui làm bàn thờ cho anh mười mấy năm
nay.
– Thắm
ơi, đây là anh Đức. Thằng Tân, thằng Hoàng, ra chào Bác Đức.
– Còn đây là bà xã của anh.
– “Dạ, chào chị. Dạ, chị tên gì?” Tui
hỏi.
– “Chú
nhìn kỹ xem ai? Cô Hân ở Suối Dây đó.” TUĐ trả lời.
Tui lặng cả người và đứng chết trân.
Người ơn của tui bằng xương bằng thịt ngay trước mặt. Thời gian
như dừng lại. Nước mắt bắt đầu chảy tràn trên mặt, và giọng nói
lạc đi:
– Tui
hổng có dè có ngày này... 20 năm rồi. Cám ơn anh chị... đã nhớ
đến tui... Tui mừng quá. Sao... tới bây giờ anh chị mới tới? Tui
có nằm mơ hông?
TUĐ lau nước mắt, rồi chậm rãi nói:
– Chuyện dài lắm. Sẽ kể sau. Bây giờ
anh chị mời cả nhà đi ăn mừng. Tốn cả tuần đi kiếm cô chú đó.
* * *
Nghe
anh kể lại chuyện trốn khỏi trại tù năm 1979, và bao nhiêu lần
vượt biên hụt, tui nể quá. Chuyện chị giả chết trôi để trốn khỏi
Suối Dây và những lần vượt biên bị bắt thì cũng ly kỳ quá trời.
Rồi đến khúc hai người gặp lại nhau bên Mỹ, tui mừng như là
chuyện của mình. Tui hãnh diện có được ông anh và bà chị dâu giỏi
như vậy.
Mấy
bữa sau, vợ chồng anh mướn xe đưa gia đình tui đi thăm Suối Dây.
Trên đường về, có ghé Vũng Tàu tắm biển. Thấy thương bà xã và 2
đứa con tui quá. Lần đầu tiên vợ con tui được đi xe hơi, được đi
ra khỏi Cần Thơ, được lên Sài Gòn, được đi Suối Dây, được ra tắm
biển Vũng Tàu, được đi ăn nhà hàng, được uống nước ngọt cô-ca
cô-la...
Trước
khi về Mỹ, tui hổng dè vợ chồng anh lại giúp một số tiền lớn để
mua một cửa hàng gần chợ Ô Môn buôn bán nông phẩm cho gia đình
tui đỡ cực. Anh chị nói sẽ về thăm thường xuyên hơn.
Tối hôm đó tui thắp nhang cho Tía và
Má. Tui thì thầm “Má ơi, Má luôn muốn là con có người anh để che
chở cho con. Má ơi, điều Má muốn đã xảy ra. Con cám ơn Tía và
Má.”
Như tui
đã nói, cuộc đời tui như có sự an bài hay sắp xếp. Vào sanh ra tử
bao lần, mà hổng sao. Duyên phận cũng thẳng tắp. Khúc sau cuộc
đời, cực thiệt, nhưng lại có thêm người anh nuôi và chị dâu hỗ
trợ. Bây giờ tui hổng có kỳ vọng nào hơn là sẽ có một ngày cái
nhóm mắc dịch, khốn nạn, vô thần, vô đạo đức này tan rã cho tui
nhờ và cho người dân bớt khổ.
Ngày đó chắc là phẻ re, há?
Nguyễn Vô Danh
Seattle, một ngày buồn cuối tháng 4, 2019.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thắng cảnh thiên nhiên Bắc Mỹ châu. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, August 18, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang