Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
lính kể chuyện
Tác giả:
Bút ký Lôi Hổ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trên chiếc phi cơ loại L–20, do
phi công Ðài loan lái. Ðại tá Hồ Tiêu, và một Ðại tá Mỹ ngồi băng
giữa; băng sau tôi, và Nguyễn thái Kiên; khoang sau là 2 túi dù,
đựng hành trang của 2 đứa. Nguyễn thái Kiên mặt mày buồn so. Chắc
có lẽ sau hơn 1 năm, từ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đổi về Sở Liên Lạc,
sống gần gia đình. Nên bữa nay xa nhà, nhớ vợ con chăng?
Sau khi tôi học xong khóa 58–B Nhảy Dù
(chỉ có tôi từ Biệt Ðộng Quân về, chưa có bằng dù phải đi học
thôi), chúng tôi 5 SQ gồm: Văn thạch Bích, Nguyễn thái Kiên,
Nguyễn văn Thụ, Phạm văn Hy, và tôi, lên Trung Tâm Huấn Luyện
Long Thành để nắm toán trưởng.
Cũng nên nói rõ là: các toán viên đã
được huấn luyện thuần thục rồi. Mỗi toán có 3 quân nhân Mỹ, 9
Việt Nam (hoặc Nùng). Các toán dùng tên các Tiểu bang Mỹ. Nhưng
chúng tôi dùng tên toán 1, 2, 3, 4, 5, vân vân. Mấy tuần sau
Thiếu uý Phan nhựt Văn lên nắm toán 6. Tôi nắm toán 5.
Về huấn luyện, chúng tôi chỉ cần học kỹ
thêm về các loại mìn bẫy, và phá hoại; cùng sử dụng các loại vũ
khí của các nước khối cộng sản. Học điều không tiền tuyến, hướng
dẫn phi cơ, chỉ điểm oanh kích, câu dây trực thăng. Riêng về các
bài học liên quan đến thám sát, thì cũng không có gì đặc biệt;
như thủ lệnh, xóa bỏ dấu vết, vân vân; thì căn bản cũng giống như
các bài học chiến thuật, dạy tại các quân trường.
Riêng phần tôi đã qua 2 khóa: Căn bản
Biệt Động Quân, và Hành quân Biệt động Rừng Núi Sình Lầy rồi, thì
khóa Thám sát này, coi như học ôn lại thôi.
Chúng tôi cũng được thực tập hành quân
vùng sông Lá Buông, mỗi chuyến 7 ngày, để các thành phần trong
toán ăn khớp với nhau. Về điạ hình di chuyển hay vị trí, và sử
dụng vũ khí của mỗi người trong toán, thì chúng tôi cùng đồng ý,
không có ý kiến gì dị biệt giữa các cố vấn toán. Nhưng theo tổ
chức cuả Mỹ, thì 3 cố vấn Mỹ: được gọi là one–zero (Team Leader)
one–one; one–two.
Ðội hình nếu hành quân 6 người thì toán
trưởng đi thứ hai, sau tiền đạo; nếu hành quân 12 người thì toán
trưởng đi thứ ba sau 2 tiền đạo. Ðiều này cũng không trở ngại, vì
mấy chuyến thực tập, tôi vẫn ở vị trí như vừa nêu. Các toán
trưởng khác cũng làm như thế, nhưng có điều khi liên lạc với phi
cơ, thì one–zero của toán liên lạc. Ðiều này cũng dễ hiểu thôi,
vì không có người VN ngồi [vị trí] tiền không sát.
Nghiễm nhiên người cầm ống liên hợp,
điều khiển và chỉ huy luôn. Và lấn cấn bắt đầu từ đây. Phe ta
muốn được quyền chỉ huy, phiá Mỹ thì muốn nắm quyền điều động.
Công bằng mà nói: chúng tôi lên Long
Thành, từ chỗ ăn, chỗ ngủ, cũng có người lo, quân trang quân
dụng đều do phía Mỹ lo hết. Bây giờ họ không được quyền chỉ huy,
thì họ đâu có chiụ. Thật sự thì các cố vấn của toán rất tốt,
nhưng những cố vấn ở các phòng ban, thì thật khó ưa. Làm như
những gì trại phát cho toán, là của riêng cuả nó cho vậy. Tôi nhớ
lại lúc ở Biệt Động Quân, mấy tên cố vấn dễ thương kể gì. Sợ sĩ
quan chúng tôi ra phết. Ở đây nhìn chung mọi người hình như rất
nể tụi Mỹ. Các toán trưởng chúng tôi đưa vấn đề này lên Trung úy
Trần thụy Ly, sĩ quan liên lạc, hướng dẫn, để trình bày lên
thượng cấp. Không biết phải do vấn đề nêu trên không, mà vài ngày
sau, tất cả chúng tôi được lệnh rút về. Và kết quả là bây giờ,
tôi và Nguyễn thái Kiên đang ngồi trên phi cơ tháp tùng với Ðại
tá Hồ Tiêu để đi qua Lào.
Ðược biết Sở Liên Lạc có nhận yểm trợ
cho Phân khu Tchépone, nơi này có 1 Tiểu đoàn của Hoàng gia Lào.
Không biết tôi và thằng Kiên qua Lào làm trò gì đây? Lúc ở phi
trường Tân Sơn Nhất, tôi có nghe Ðại tá Hồ Tiêu nói chuyện với
phi hành đoàn, là phi cơ sẽ ghé Ðà Nẵng, để cho vị Ðại tá Mỹ
xuống, và đổ xăng luôn. Xong, ra Ðông Hà đón 1 sĩ quan Lào, sau
đó phi cơ sẽ đáp ở Khe Sanh, và vị sĩ quan Lào này sẽ hướng
dẫn phái đoàn qua Tchépone.
Phi cơ theo bờ biển bay về hướng bắc,
vì bay thấp nên chúng tôi nhìn thấy nước biển trong xanh, tàu
thuyền qua lại rất rõ. Tiếng phi cơ rì rì êm tai, nên tôi thấy
Nguyễn thái Kiên đang ngáy kho kho. Hai ông Ðai tá vẫn rì rầm
nói chuyện. Lúc này tôi bỗng nhớ lại đơn vị BÐQ xưa quá. Ðường
đi Lào chắc còn xa, vậy quý vị cho tôi nhớ về đơn vị cũ một chút
nhé!
Lúc tôi
nhận được công điện của Bộ Tổng Tham Mưu về Sở Liên Lạc. Tôi
nghĩ chắc có lẽ do ông NQT, Tham mưu trưởng SÐ Dù xin đây. Thôi
thì phen này, sẽ giã từ vũ khí, về đi liên lạc thôi. Năm 1964
các đại đội biệt lập BÐQ tuy là đã sáp nhập lại thành Tiểu đoàn
rồi. Nhưng các đại đội vẫn còn biệt phái cho Tiểu khu, Chi khu,
ít khi nào gom lại hành quân chung cấp Tiểu đoàn. Tiểu đoàn chưa
đưa sĩ quan xuống bàn giao. Nên tôi vẫn phải chờ khoảng gần
tháng sau khi nhận được lệnh thuyên chuyển. Tiểu đoàn tôi bị một
trận phục kích, thiệt hại rất nặng. Tiểu đoàn mở đường từ Bình
Long xuống Lai Khê. Ðại đội tôi vừa ra khỏi quận Chơn Thành hơn
1 cây số thì bị phục kích. Các đại đội đang đóng ở Tân Khai, Tàu
Ô, vì đi tiếp viện, liền bị chiến thuật “công đồn đả viện” của
địch. Kết quả Tiểu đoàn trưởng bị bắt, cố vấn Tiểu khu chết; tiểu
đoàn chết mất 5 sĩ quan, đại đội tôi, 1 SQ chết 1 SQ bị thương;
phần binh sĩ chết và bị thương rất nhiều. Ðại đội tôi sau trận
này, quân số khiển dụng chưa được 60 người. Không có sĩ quan
xuống bàn giao thay thế. Suốt ngày nghe vợ con binh sĩ khóc
than, chồng vừa chết, đại đội như còn chưa ổn định tinh thần. Ở
hoàn cảnh này, tôi bỏ đi sao đành. Ðại đội trưởng bị thương,
Thiếu úy Tùng trung đội trưởng trung đội 1 chết. Ðại đội chỉ
còn tôi là sĩ quan; nên kiêm luôn Ðại đội trưởng. Do đó tôi về
trình diện SLL trễ hơn 3 tháng. Một phần tôi dùng dằng không
muốn rời đại đội, vì đại đội này, là đơn vị đầu tiên tôi phục vụ
khi mới ra trường sĩ quan. Và trận bị phục kích vừa rồi, 1 đệ tử
ruột của tôi bị chết: Binh nhất Chắt. Tôi nhớ đêm đầu tiên ở hậu
cứ đại đội, vì lạ chỗ, tôi trằn trọc đến khuya, cũng chưa ngủ
được. bỗng nghe tiếng ca vọng cổ rất to ngoài vọng gác: Khoan
khoan bớ Nguyệt thu Nga tên em 6 năm qua đã đơm bông nở nhụy
trong quả tim này... sau đó, là vô vọng cổ môt đoạn dài. Suốt đêm
hễ lúc nào tôi thức giấc đều nghe quen thuộc có bấy nhiêu câu
hát đó. Sáng hôm sau tôi hỏi Thượng sĩ Khiêm, thường vụ, xem ai
hát, mà sao hát hoài suốt đêm cũng chỉ có 1 câu đó thôi.
Ðược biết đó là Binh I Chắt, sở dĩ hát
suốt đêm, là vì các binh sĩ khác vì muốn gần vợ con, nên mướn hạ
sĩ Chắt gác thế. Nó người Sông Ông Ðốc, (Cà Mau), tướng tá vạm
vỡ; nhưng hiền lành chất phác.
Trong đại đội nó tải đạn cho súng trung
liên. Tôi để ý, đạn nó giữ luôn sạch sẽ, ba–lô ngoài đạn trung
liên ra, chỉ có võng; một cái khăn rằn lớn, vừa dùng để làm mền,
vừa dùng để làm khăn tắm; còn lại toàn gạo sấy. Tuy nó không phải
“tà lọt”, nhưng mỗi lần đóng quân, tôi đều gọi nó đến gần, chia
sớt đồ ăn cho nó. Một kỷ niệm khác mà tôi suốt đời chẳng bao giờ
quên. Buổi chiều hôm đó sau khi đi mở đường về hậu cứ, tôi đang
ngồi đọc báo, thì thấy nó đi qua, đi lại nhiều lần như muốn hỏi
điều gì. Tôi bèn gọi hỏi xem nó cần gì. Chần chừ mãi một hồi lâu
nó mới mở miệng:
– Thiếu úy, phải con gái tụi nó có 2
lỗ, 1 lỗ tiểu, và một lỗ lửa. Nếu không biết... đút vào lỗ
lửa thì cháy... cu phải không?
Tôi định cười thật to, vì sự khù khờ
của nó, và kềm lại được, bèn hỏi: “Ai nói với Anh như thế?”
Nó đáp Thượng sĩ Khiêm. Tôi bảo Thượng
sĩ Khiêm gạt anh đó. Mà mỗi lần đại đội về Bình long, sao anh
không đến Hàng Keo, đi chơi cho biết. Tôi nghĩ hôm nào đai đội
về Bình long chắc tôi phải dẫn nó đi một chuyến quá. Tôi bèn
giải thích thật cặn kẽ cho nó biết.
Khoảng vài tháng sau, nó cho biết là nó
sắp lấy vợ. Nó cưới con Lài, có gánh bán bánh canh; trước một
tiệm hủ tiếu duy nhứt ở quận Chơn Thành. Con Lài con nhà lao
động, mà nước da trắng bóc, thân hình nảy nở, thật cân đối. Tôi
thấy các HSQ Biệt Động Quân, HSQ Chi khu, có cả một vài SQ chi
khu, cũng thường tán tỉnh. Nhưng lù khù có ông Cù độ mạng. Nó lại
thương thằng Chắt mới lạ. Và từ đó mỗi chiều, nếu đại đội không
hành quân xa, thì nó ra nhà con Lài giúp đỡ, những gì nó làm
được. Nhìn nó 2 tay xách 2 thùng nước chạy, chớ không phải đi,
thì phải biết nó khoẻ như thế nào. Ngày cưới, Ông già nó từ Cà
Mau lên, xách theo 2 con vịt xiêm thật to. Ðàng trai duy nhứt chỉ
có Ba nó, và đại đội 2 chúng tôi. Quần áo của tôi đưa, nó chỉ
mặc vừa được cái áo, mà gài nút còn không muốn được. Ðành phải
quần “treilli”, giày “bốt–đờ–sô”. Ðám cưới thật vui, nhậu hơn 10
lít rượu đế. Tôi thấy con Lài mặt mày hớn hở, chạy tới chạy lui,
mời mọc mọi người, còn thằng Chắt chỉ biết đứng cười. Dì hai của
con Lài cảm động, thỉnh thoảng đưa khăn chậm nước mắt.
Thế mà, 2 tuần sau, thằng Chắt bị tử
trận. Con Lài muốn chôn thằng Chắt tại Chơn Thành, không đưa về
Cà Mau. Sáu chiếc hòm được quàn trong hậu cứ. Các bà vợ Tử sĩ
khác, lăn lộn khóc lóc, tôi thấy con Lài ngồi bất động, mắt nhìn
vào khoảng không hàng 15, 20 phút. Tôi nghĩ, cử chỉ này, chứng
tỏ một niềm đau thương rất sâu đậm. Tội nghiệp thằng Chắt, hay
những tuổi trẻ VN ở nông thôn như nó.
Chiến tranh đã cướp mất đi tuổi thơ.
Chưa từng có người yêu dẫn đi dạo phố. Chưa từng có một thời làm
học trò biết ghi lưu bút ngày xanh.... Còn, còn rất nhiều mất mát
thiệt thòi khác nữa. Chả bù với chúng tôi, lớp thanh niên thành
phố. Nứt mắt 16, 17 tuổi đã là thân chủ thường xuyên của chị Dậu
chị Tình ở xóm mới Gò vấp từ khuya rồi.
Xin lỗi, đã làm quý vị vài giây dao
động, xin quay lại theo tôi qua thăm xứ Lào.
Phi cơ đáp phi trường Khe Sanh, sau khi
đón vị sĩ quan Lào tại Ðông Hà, đã thấy Trung uý Trần thụy Ly,
qua trước đó mấy hôm, đang chờ sẵn rồi. Khe Sanh cách Ðông Hà
không xa, mà thời tiết và cảnh vật thật là cách biệt. Cây cối
xanh tươi, khí hậu mát mẻ, tuy mới quá trưa mà không gian bao
trùm một màn sương mỏng. Không khí thật dễ chịu. Phi trường Khe
Sanh cũng là phi trường cuả trại LLÐB.
Khe Sanh nằm trong quận Hương Hoá, nơi
đây trồng rất nhiều cà–phê. Từ trại theo Quốc lộ 9, qua quận
Hương Hoá, qua Lao Bảo (nơi này có 1 trại tù Chính trị thời Pháp
thuộc) qua Làng Vây; rồi mới đến biên giới 2 nước.
Ðại tá Hồ Tiêu được vị Ðại tá Lào phân
khu Tchépone niềm nở đón tiếp, và đưa vào phòng thuyết trình.
Doanh trại đều là nhà tranh, vách đất, phòng thủ sơ sài. Vị sĩ
quan ban 3 thuyết trình bằng tiếng Pháp. Tôi phải lôi vốn liếng
Pháp văn, từ lúc học trường Lycée Franco–Chinoise ra để theo dõi
buổi thuyết trình. Về tình hình địch, thì cũng không có đơn vị
địch nào xuất hiện gần. Về tình hình bạn, thì chỉ có duy nhất
Tiểu đoàn 33 này mà thôi.
Xong buổi thuyết trình. Ðại tá Hồ Tiêu
quay về Khe Sanh, và trở về Sài Gòn cùng buổi chiều hôm đó.
Buổi tối, không biết là có dịp lễ nào
cuả Lào không, nhưng họ nói là có buổi tiếp tân tiếp đón phái
đoàn. Máy phát điện được chạy thắp sáng khắp doanh trại. Tôi
thấy có làm 1 con bò. Và cư dân Lào quanh vùng tập trung về tham
dự rất đông. Nghe nói có người ở sát biên giới cũng về tham dự.
Có điều rất ngạc nhiên là 7, 8 chục
phần trăm là các cô. Quần áo đều rất tươm tất, loại áo quần bó
sát, mà ta thường trông thấy qua những hình ảnh nước Lào. Trang
sức nữ trang bằng bạc. Các cô tuổi khoảng từ 17, 18 hoặc quá 25
là cùng. Sắc đẹp thì trên trung bình; chỉ có các bà vợ cuả các
sĩ quan và binh sĩ, thì da dẻ trông trắng trẻo, có lẽ họ là
người thành phố, vì ít lao động chăng. Các cô ở điạ phương, thì
phần nhiều mập, và lùn. Chắc đã có chỉ thị, nên các cô vây quanh
chúng tôi mời mọc, ăn uống. Có một món như là bê thui chấm một
thứ nước gì sền sệt bỏ vào muỗng, rồi khum người lại mời chúng
tôi ăn, vừa ngậm miệng lại, chúng tôi không dám nhai, cũng không
dám nuốt; bèn bước lui ra ngoài hè nhà để nhổ.
Món nước chấm này, là phần bên trong
ruột non cuả [con] bò, pha với một loại nước mắm của Lào, do đó
để không bị các cô mời, tôi phải có một món khác ngậm trong
miệng, để các cô thấy, khỏi mời. Sau buổi tiệc là khiêu vũ. Ðiệu
nhảy cũng giống như vũ điệu của Thái Lan và Cao Miên. Các cô cũng
lôi chúng tôi ra. Có điều chỉ bước tới, đi ngang, 2 tay cứ xoay
xoay, cũng dễ. Không biết có phải phong tục Lào theo mẫu hệ hay
không, mà các cô tự do vui chơi đến sáng.
Thời tiết lành lạnh, không khí thật
dễ chịu. Mặc dù hôm qua trải qua một chặng đường xa, sáng nay
dậy chúng tôi thấy thật khỏe, không thấy mệt. Trung úy Ly cho
biết, nhiệm vụ cuả chúng tôi là nằm ở một tiền đồn với binh sĩ
hoàng gia Lào, để quan sát 1 đoạn đường xâm nhập cuả địch bằng
quân xa mỗi đêm (thời gian này quân xa địch chưa dám chạy ban
ngày). Phát hiện báo cáo, số lượng, và mức độ xâm nhập cuả địch
mỗi đêm. Tuy nhiên cách nay 4 hôm, đoạn đường này vừa bị phi cơ
Mỹ oanh kích dữ dội. Không còn nghe tiếng xe địch hằng đêm
nữa. Chúng tôi chờ lúc nào địch hoạt động trở lại, thì chúng tôi
thi hành công tác. Toán chúng tôi gồm Trung úy Ly, Kiên, tôi, và
2 HSQ truyền tin.
Nhưng mỗi lần gửi công điện cần quay
đầu bò (bộ phận phát điện), bên phía Lào đều tăng phái 2 binh
sĩ qua làm công tác này. Hai nhân viên truyền tin của ta ngồi
chơi khoẻ ru. Mỗi buổi sáng, bên Bộ chỉ huy Tiểu đoàn Lào đều
mang qua cho bên Việt Nam, một rổ xôi. Xôi họ thổi khô, nhưng rất
mềm, và dẻo. Nơi đây không có chợ búa gì cả. Ngày nào ngán xôi,
thì mấy HSQ truyền tin rang cơm nguội, ăn với cá mòi Sumaco. Buồn
quá, tôi rủ thằng Kiên ra ngoài làng chơi. Nó không chịu đi, cứ
ngồi chửi là nó bị “Ðì”, nên đày nó qua đây. Vì lúc cả nhóm đòi
phải được quyền chỉ huy, nếu không được tôi và nó xin được trở về
đơn vị cũ. Tôi không cho là điều nó nghĩ là đúng. Tánh thằng
Kiên là vậy; nó nóng nảy nhưng trực tính, việc gì nó cho là không
đúng, là nó chửi toáng cả lên. Bất kể là quan lớn hay bé. Phần
tôi có việc gì nó không đồng ý là nó chử “Số ngày mày đi lính,
không bằng ngày tao bị lậu”.
Mà sự thật: Năm 1954 nó có tham dự trận
Ðiện Biên Phủ. Những người cùng thời với nó bây giờ, đều mang lon
“quan ba, quan bốn”, còn nó vẫn làm “quan một” dài dài. Với nó,
mà đem chuyện “thi hành trước, khiếu nại sau” thì còn khuya nó
mới làm. Vì tính khí nó như thế, nên sau này nó bị đổi ra bộ
binh, làm việc ở Phòng 2 Quân đoàn I. Thỉnh thoảng có đi công tác
về Ðà Nẵng, tôi có ghé khu phòng vãng lai sĩ quan độc thân thăm
nó. Bây giờ nó bất mãn còn dữ nữa. Cho là đuổi nó ra khỏi “nhảy
dù” là làm nhục nó. Thời gian sau, nghe nói nó tình nguyện vào Sở
Bắc. Kinh Kha lúc sang Tần là thanh niên trai tráng. Còn thằng
Kiên thì một vợ 4, 5 con rồi. Mà nghĩ cũng lạ, thanh niên trai
trẻ tình nguyện thiếu gì. Sao lại chọn nó làm chiến sĩ vô danh.
Biết rằng ra đi sẽ không có ngày trở lại. Bị tù gần 20 năm. Vượt
biên qua Mỹ, đang lo thủ tục bảo lãnh vợ con. Chưa qua được Mỹ
đoàn tụ với nó, thì vợ nó đã mất ở Việt Nam. Các bạn nào chưa
quen biết nó mà thấy nó hơi hơi chạm điện, thì hãy thông cảm.
Chúng ta mà va vào trường hợp như nó,
sợ bây giờ chắc đã theo ông bà ông vải từ lâu. Rồi thì Ông Trời
cũng có mắt. Sau này nó cũng có ở với một bà. Bà sau này, chiều
chuộng và lo cho nó hết mình. Ðền bù lại những ngày tù đày của
nó. Con gái riêng của bà, cũng kính trọng thằng Kiên như cha
ruột. Chắc bà sau này, kiếp trước còn mắc nợ nó bây giờ phải trả
đây. Giờ thì tính nóng của nó cũng giảm được 5, 7 phần rồi.
– Kiên ơi! Nếu mày có đọc tới đây, thì
tụi mình bây giờ, còn gì nữa đâu: “Chiều xuống êm đềm” nghe Kiên.
Thằng Kiên không đi thì tôi đi môt
mình. Làng Husane chỉ cách trại khoảng 1 cây số, nằm cạnh sông
Tchépone, dưới bóng rợp mát của những tàn dừa. Ðường làng thật
sạch sẽ, phần nhiều là nhà sàn, khác với người Miên và người
Thượng, họ không nuôi trâu bò và gia súc dưới sàn. Dân làng thật
cởi mở, hiếu khách, vui vẻ, mời tôi leo thang, lên nhà uống
nước. Phần đông việc đồng áng do thanh niên, con gái đều ở nhà
làm việc nhà hay dệt vải. Khung dệt được đặt dưới sàn nhà. Các cô
quỳ và dùng tay để phóng con thoi qua lại. Phần nhiều mọi nhà đều
tự dệt vải để dùng. Vải dệt có những hình hoa văn rất đẹp. Ngồi
nhìn các cô dệt suốt buổi, chỉ biết cười, và làm điệu bộ ra dấu
thôi, có biết tiếng Lào đâu mà nói. Buổi chiều tôi theo mấy HSQ
truyền tin đi tắm sông. Ðoạn sông Tchépone chảy ngang qua làng
không sâu, và bờ sông lài lài, nên rất dễ dàng lên xuống. Các cô
cũng không e thẹn, khi tắm chung với người khác phái. Có điều
theo phong tục, họ phải đứng trên dòng nước chảy. Khi các cô muốn
xuống nước, thì họ đi từ từ, bên trong cạn, ra sâu, rồi ngồi hụp
xuống thật nhanh, cùng động tác, nâng khăn lên, và ném khăn vào
bờ. Có nhanh mấy đi nữa, thì tụi tôi cũng nhìn thấy đủ hết rồi.
Có thể đến gần, miễn là vẫn ở dưới
dòng. Nước sông không trong lắm, nhưng những gì mình muốn thấy
thì vẫn thấy rõ ràng. Họ đùa giỡn thật vô tư. Khi muốn lên bờ,
thì một cô quay người ngược về chúng tôi, chạy nhanh lên bờ,
choàng khăn xong, từ đó ném khăn xuống cho các bạn. Mấy thuở mà
nhìn được một lần 5, 7 sơn nữ Phà–ca cùng tắm sông một lúc, phải
không các bạn.
Chưa có công tác, vẫn ngồi chờ. Tôi và
thằng Kiên qua Khe Sanh chơi. Quốc lộ 9 đoạn này còn rất tốt,
chưa bị chiến tranh tàn phá. Rừng cây cổ thụ cao to 2 bên đường,
khiến con đường mát lạnh. Dân khai thác lâm sản, thấy rừng cây cổ
thụ 2, 3 người dang tay ôm không hết này, thì mê kể gì. Nếu đường
sá thông thương, thì giờ này làm gì còn. Cũng trên đoạn đường này
lần đầu tiên trong đời, tôi nhìn thấy chim trĩ. Lúc nhỏ xem hát
bội, thấy đào kép có giắt lông trĩ trên mão, giờ đây mới thấy
tận mắt. Nó thường đi từng cặp. Thấy xe đến gần, nó chỉ bay tới
một đoạn ngắn, rồi đáp xuống cây, đợi xe chúng tôi đến gần mới
bay, suốt một đoạn đường dài như vậy. Nếu chúng tôi dừng xe, đứng
nhìn, thì con trống xù lông điệu bộ rất đẹp. Thỉnh thoảng cũng
thấy một loại chim như con công, nhưng không to và đẹp bằng.
Quận Hương Hoá chỉ có 1 con đường độc
đạo. Cũng có một vài tiệm tạp hóa, kiêm luôn bán cà–phê. Hàng
hoá khá đắt, vì phải thồ từ Ðông Hà lên. Vì là nơi sản xuất
nhiều cà–phê, nên tôi có hỏi về cà–phê cứt chồn. Ông chủ quán cho
biết là: để đi nhặt những hạt cà–phê do chồn ăn rồi bài tiết ra
thì biết bao lâu mới được 1 ký. Riêng ông thì, vì có trồng
cà–phê, những cây gần nhà, ông cứ để cho thật chín, rụng xuống
đất. Chờ thời gian phần thịt bên ngoài hạt cà–phê vữa đi, nhặt
những hạt này về rửa sạch phơi khô. Vì có cùng một độ già, độ
chín giống nhau, nên hương vị khác hơn những loại khác. Thỉnh
thoảng qua Khe Sanh chúng tôi cũng mua được thịt rừng. Buổi cơm
chiều đó chúng tôi được bồi dưỡng thịt tươi.
Hơn 2 tuần không có việc gì làm, bắt
đầu thấy buồn; thì có công điện, 2 đứa chúng tôi phải về trình
diện SLL ngay. Thằng Kiên nó mừng kể gì. Chiều ngày hôm sau, là
chúng tôi có mặt ở Phòng 3 SLL rồi. Ðược biết là chúng tôi trở
lên lại Long Thành, các anh Bích, Thụ, và Hy đã lên trước rồi.
Hai tuần vừa qua, xem như vừa được đi
du lịch. Cám ơn dân làng Husane, cám ơn Tchépone, cám ơn những
sơn nữ Phà–ca, đã cho tôi 2 tuần lễ khó quên.
Chúng tôi lại trở về toán cũ. Bây giờ,
sau khi đã được bàn cãi ở cấp cao, giữa 2 bên Mỹ–Việt. Tiếng
Counterpart được thay thế tiếng Advisor. Nghiã là không có ai chỉ
huy ai. Hai bên quyền hạn như nhau. Chúng tôi bắt đầu nhận công
tác hành quân. Bắt đầu những chuyến đi, mà “mười lần đi, có đội
ba lần không trở lại”.
Năm 1969 tôi có dịp hành quân trở lại
vùng này. Những hố bom B–52 chi chít. Ðường Quốc lộ 9 đã bị cày
nát nhiều đoạn. Làng mạc tiêu điều. Thật kinh khủng. Không biết
những Sơn nữ Phà–Ca xưa, nay còn hay mất. Trôi lạc phương trời
nào.
Bút ký Lôi Hổ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tony nguyen chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, December 1,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang