Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
chuồn chuồn đi mây về gió
Tác giả:
Sơn Trường
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Giữa
một thung lũng xanh tươi man mác thuộc vùng núi rừng cao nguyên
Trung Việt, từng đàn trực thăng rầm rộ lao vào, mang theo những
chiến binh không kỵ đầu tiên quân lực Hoa Kỳ của thập niên 60,
nhưng khi chân họ vừa chạm mặt đất cũng là lúc hàng tràng đạn lớn
nhỏ giòn giã nổ vang đón tiếp như đã chờ đợi từ lâu; cuốn phim
“We Were Soldiers” đang đến đoạn gay cấn, thì tiếng chuông điện
thoại reo lên, theo thói quen thường lệ, đợi đến hồi chuông gần
dứt, hắn mới nhắc điện thoại lên áp vào tai rồi chậm rãi cất
tiếng:
–
“A–lô! Tôi là Mẫn đây! Xin lỗi ai đầu máy.”
Như đã nhận ra giọng người đối thoại,
cái âm thanh bỡ ngỡ ban đầu mau chóng đổi qua hân hoan:
– “Dạ! Trung úy Mẫn đó hả! Em là
Phương, Trung sĩ Phương, cơ phi phi đoàn 225 đây! Trung úy còn
nhớ em không? Em trong phi hành đoàn của Trung úy Tuấn và Thiếu
úy Tiến bị bắn rớt ở Cà Mau hồi...”
Hắn giật mình hơi sửng sốt bàng hoàng
một phần vì lối xưng hô mà đã từ lầu rồi hắn chẳng còn được nghe,
một phần vì cách gợi trí nhớ bằng một câu chuyện của người bên
kia đầu giây thật bất ngờ, nên từ đó cho đến khi chấm dứt cuộc
điện đàm tâm hồn hắn cứ ngơ ngẩn như kẻ đang sống ở thế giới
này, đột nhiên bị ném trở về một nơi chốn nào đó chẳng phải lạ
lẫm gì lắm đối với hắn đâu, nhưng sao thật là xa vời mà lại cũng
vừa thân cận làm sao! Ừ nhỉ mới đó đã hơn hai mươi lăm năm rồi!,
hắn thầm nhủ. Cái thời khoảng hào hùng, dọc ngang đi về với gió
lộng, mây ngàn ăm ắp biết bao kỷ niệm đầy trầm thống vinh nhục
một thời là chất men cay nồng trong ly rượu chinh chiến mà cuộc
sống lúc nào cũng sẵn dành cho những kẻ như hắn, hương vị xuân
xanh của tuổi trẻ đầy nhựa sống chưa tận hưởng được bao nhiêu,
thì đã vội vã hào sảng ngửa cổ nốc cạn những mật ngọt đắng cay
ấy.
“Trung úy
Mẫn!” Hắn lại lẩm bẩm mẫu danh xưng một thuở thật là quen thuộc
này, và rồi quãng đời oanh liệt cùng với ẩn tích kỷ niệm quá
nghiệt ngã kia bỗng hiện rõ dần trong tâm tưởng hắn sống động như
hình ảnh chiếc trực thăng trúng đạn lảo đảo đập mình xuống nền cỏ
xanh mơn mởn trên màn ảnh truyền hình trước mặt hắn.
.....
Xạ thủ phi hành trực thăng UH–1.
Ðang lặng yên thưởng thức hương vị đậm
đà tách cà phê đầu ngày qua từng ngụm nhỏ, bỗng có tiếng máy nổ
vang vọng đến từ cuối con hẻm khuấy nhiễu sự tĩnh mịch của khu
cư xá sĩ quan đầy khiêm tốn này, thế là hắn uống cạn cốc cà phê
đen còn nóng đã vừa giúp hắn xua đuổi cơn ngái ngủ, đứng dậy xách
chiếc túi đựng nón bay bên cạnh, dừng chân ghé lại chiếc giường
còn nóng ấm hơi người, hôn vội lên môi vợ và vầng trán thơm tho
của hai đứa con trai đang say sưa đều hơi thở, rồi bước nhanh ra
ngõ; đây là cái thói quen mà gã đã có kể từ lúc khép mình vào
cuộc đời bay bổng đầy bấp bênh, gian nguy của kiếp hoa tiêu trực
thăng thời binh lửa mà cái chết lúc nào cũng rình rập đâu đó như
một hứa hẹn không chờ đợi; hơn nữa có ai biết được nụ hôn nào cho
người thân yêu là nụ hôn cuối đời! Bên ngoài trời vẫn tối đen,
ánh sáng mờ mờ từ một vài cột đèn đêm rải rác dọc theo con lộ duy
nhất soi bóng chiếc Honda của Tuấn đang rẽ đến, nhảy gọn lên phía
sau. Chiếc xe gắn máy rú lên lấy sức chuyển bánh, tiếng động cơ
lại vang lên nặng nề trêu chọc bầu không khí yên lặng của khu xóm
buổi tàn đêm, đâu đó vài tiếng chó sủa phụ họa, Tuấn mở miệng vài
câu pha trò lấy lệ:
– “Khôn hồn thì câm mồm lại! Nếu không
thì ông gởi chúng mày ra cái quán ở cầu Bình Thủy ‘chả chìa, rựa
mận’ chúng mày bây giờ.”
Cổng vào Sư đoàn và phi trường sáng
choang ánh đèn của phiên gác đêm gần mãn, hắn giơ tay chào đáp
lại người quân cảnh bên lề lối nhỏ phía trái. Con đường tráng
nhựa quanh co qua các phần sở dẫn đến phòng hành quân phi đoàn
thưa thớt bóng người, rải rác dăm ba người lính đổi phiên co ro
rảo bước trong làn sương lạnh ẩm ướt, vừa phì phèo trên môi điếu
thuốc, cứ thỉnh thoảng lại sáng lên theo từng hơi rít đầy thỏa
mãn.
Trong lúc
Tuấn lui cui dựng chiếc xe, hắn bước vào phòng hành quân, giờ này
vắng lặng không một bóng người lai vãng ngoài viên sĩ quan trực
phiên đêm đang ngồi che miệng ngáp nơi chiếc bàn một bên sau cánh
cửa ra vô, những dãy ghế trước mắt lạnh lẽo bất động lờ mờ nửa
tối nửa sáng nhìn lên chiếc bảng xanh ghi tên những phi hành
đoàn trong ngày, to choáng gần hết chiều ngang căn phòng. Hắn rút
cây bút trên túi áo vai chuẩn bị điền số phi vụ lệnh trước khi ra
phi đạo để làm tiền phi, bỗng Tuấn lớn tiếng đầy vẻ xì nẹt hỏi
người sĩ quan trực:
– “Ai đổi phi hành đoàn của phi đội tôi
vậy?”
– “Ông
33, Đại úy Tường chứ ai.”
Giọng Huế nhỏ nhẹ của Thiếu úy Chư như
đã chuẩn bị từ trước, đi kèm với nụ cười cố hữu có ý vuốt giận
người đàn anh. Có tiếng lẩm bẩm chửi thề, hắn bước vội ra ngoài
tránh lên tiếng để làm dịu đi cái tình huống lận cận mất vui này.
Bình thường mỗi khi cắt cử phi vụ, Tuấn hay chọn gã ngồi ghế
trái để đi “lead” trong các phi vụ võ trang yểm trợ, thật ra
chẳng phải vì tài ba bay bổng gì của hắn, mà chỉ vì cả hai đã
quen biết nhau lúc còn thời gian huấn luyện, nhà thì ở cùng một
khu cư xá rất tiện cho việc đi về và có lẽ một phần lớn là do cái
kinh nghiệm từng trải qua nhiều tình trạng nguy hiểm cũng như
khẩn cấp thuở còn phục vụ một phi đoàn nơi vùng Tam Biên nổi
tiếng hiểm địa trước khi thuyên chuyển về đây, và Tuấn đã nghe kể
lại từ những người bạn thân của hai người. Ðã có lần Tuấn tâm sự
“nhảm” cùng hắn: “Nếu lỡ tàu hay tôi có bề gì! Ði với ông vẫn
nhiều hy vọng hơn, vì ông có nhiều kinh nghiệm và đủ khả năng để
có thể đem tôi về với vợ con tôi!”; và chính hắn đã bật cười trêu
đùa cái ý tưởng bi quan kỳ quặc này của bạn mình. Do đó chả trách
gì Tuấn nổi “cau”, khi bị đổi tên qua bay chiếc số hai với Thiếu
úy Quách Dũng Tiến, một hoa tiêu vừa mới “check out” hành quân
không bao lâu, còn hắn thì vẫn đi “lead” với Đại úy Tường.
Hai chiếc trực thăng võ trang xề xệ bên
hông hai bó “rocket”, súng đạn nặng nề oai nghi lướt mình trong
sương mai, rời căn cứ khi mặt trời vừa nhô lên ngang ngọn cây.
Quốc lộ 4 như con rắn len lỏi giữa những thửa ruộng xanh tươi
ngút ngàn đã bắt đầu ồn ào khoe sức sống của một ngày mới với rộn
rịp xe cộ qua lại. Và đây dòng sông Hậu bao ghe đò tấp nập nhấp
nhô trên sông, cùng trườn mình quanh co dạt dào sinh lực, tẻ ra
nhiều nhánh chan hòa khắp mọi nơi, rồi ào ạt tuôn nước ra hướng
đại dương; tất cả những sinh động quen thuộc ấy của miền Tây thân
yêu trải dài dưới ánh bình minh của một buổi sáng chớm xuân.
Trong phòng lái qua khung cửa kính hắn
lặng yên kéo hơi thuốc lá đầu ngày đã được dành sẵn, đôi mắt mơ
màng tận hưởng những giây phút thoải mái hiếm hoi này; tiếng cánh
quạt chém gió hòa vào âm thanh động cơ nổ đều đều xen lẫn với
tiếng gió ve vuốt thân tàu đã giúp hắn trong khoảnh khắc tạm quên
bao khổ lệ, nhọc nhằn đời quân ngũ cũng như những gian truân,
rình rập của kiếp chim trời! Chả trách gì thế nhân cứ thi vị hóa
lối sống của những người như hắn! Dẫu thế cũng có dăm sự ganh tị
nho nhỏ khá dễ thương của vài đồng nghiệp bay qua những đặc danh
dành riêng cho phi công trực thăng như “tài xế máy bay” hay
“pilot xe đò” bởi khả năng đáp hầu như vô giới hạn bất kể diện
tích lớn nhỏ của nơi hạ cánh.
Khách quan mà nói cũng như chẳng phải
để phân biệt, bất kể loại máy bay nào, nỗi gian nguy cũng đều như
nhau bởi có lần cất cánh nào bất trắc chẳng chực chờ; tuy nhiên
có những lạc thú mà chỉ có hoa tiêu trực thăng mới có cơ hội trải
qua như: một buổi chiều khi sương mù sắp phủ trên đỉnh đồi căn cứ
Nam vùng Dak To, dang chân làm một cái “tiện nhỏ” mà nghe gió núi
lùa vào thổi phồng chiếc áo bay làm mát lạnh cả toàn thân, hay
ngất ngưởng kéo vội vài hơi rượu Cần nơi tiền đồn Dak Peck heo
hút của núi rừng Tam Biên rồi vội vã cất cánh trước khi các đám
mây đen dày đặc chung quanh ngọn Ngọc Long chực chờ giang phủ lối
về, hoặc buổi trưa dừng cánh ở ngôi làng nhỏ gần quận lỵ thuộc
tỉnh Chương Thiện, khề khà chai bia nóng với món mắm lóc dẻo
quánh thơm phức vừa mới đào lên sau vườn và còn nhiều lắm kể sao
cho hết; nhưng bên cạnh đặc thù kể trên, chẳng thể nào không nói
về sự tận mắt đau xót chứng nhân cho bao khổ nạn mà người lính
Việt Nam phải oằn nặng trên vai trong cuộc chiến đầy oan nghiệt
này; căn hầm gác chật chội ngay vòng đai an ninh trông xuống con
đường mòn HCM của căn cứ lực lượng đặc biệt Ben Het, người lính
biệt động quân biên phòng miền cao nguyên xoay sở vất vả để vừa
tạm trú cho cả gia đình, vợ, và ba con, vừa sẵn sàng chiến đấu
khi Cộng quân tấn công; còn nữa chị vợ trẻ một quân nhân nào đó
của đồn Trà Tiên lẻ loi vùng Rạch Giá, Hà Tiên không đường bộ
liên lạc, chờ mãi phương tiện di chuyển vào thăm chồng và nhận
tiền lương, cho đến khi cạn cả tiền đường đành bán chút nhan sắc
đương xuân nơi cái quán nhỏ bên lề đường, để kéo dài thời gian
chờ đợi mong gặp gỡ người chồng thân yêu! Ðang miên man với mớ ý
tưởng hỗn độn này, thì giọng nói của Đại úy Tường lại vang lên
phân trần về chuyện vừa xảy ra đã đưa hắn trở về với tình huống
kém vui này, và cũng có lẽ vì nguyên cơ này mà liên lạc bình
thường trên tần số nội bộ giữa hai chiếc hầu như không có kể từ
lúc cất cánh cho đến bây giờ.
Từ xa những cao ốc, nhà cửa biểu tượng
nếp sống phố thị đang ló dạng, hắn chuẩn bị điều chỉnh cần lái
cho tàu giảm dần cao độ đáp xuống phi trường Cà Mau. Tuấn vẫn giữ
thái độ lầm lì, tránh nói chuyện ngay cả với hắn, và trong buổi
thuyết trình về tình trạng áp lực của địch tại mục tiêu cũng như
kế hoạch thi hành phi vụ, Tuấn cũng không đưa ra một ý kiến nào
cả; mặc dù thường nhật, là một hoa tiêu can trường Tuấn rất hăng
say trong việc đóng góp ý kiến nhất là những lúc quan hệ như lúc
này bởi sinh mạng của người hoa tiêu lẫn con tàu và bao người
khác thường được định đoạt trong cái phút giây ấy, chỉ cần một sơ
xuất hay thiếu sót nhỏ thôi, hậu quả sẽ không thể nào lường được!
Biết rằng bạn vẫn còn bực cái “của” mình (chữ của Tuấn thường
dùng khi không hài lòng về một chuyện gì!), hắn cũng như Đại úy
Tường cũng cố gắng pha trò, nhưng chẳng làm Tuấn thay đổi thái
độ.
Khoảng xế
trưa sau giờ cơm, ba chiếc trực thăng, hai võ trang và một tản
thương được lệnh quay máy cất cánh lấy cấp bay về hướng tọa độ
mục tiêu. Nắng đã lên cao, rải rác trên bầu trời xanh lơ thơ vài
cụm mây trắng lửng lơ vô định, từng thửa ruộng xanh tươi mát nối
tiếp nhau trải dài ngút tầm mắt thỉnh thoảng lại điểm dăm ba hố
bom tràn nước lấp lánh dưới ánh mặt trời, chính nơi đây là chỗ
trú thân bao loài thủy sản cho nên thường là địa điểm ghé kiếm
chất “tươi” cho buổi nhậu của nhiều phi hành đoàn trực thăng sau
những chuyến hành quân cực nhọc.
Nơi làm việc là một cứ điểm quân sự
trọng yếu nhằm nghe ngóng sự di chuyển và ngăn chận những hoạt
động của lực lượng địch trong vùng; do đó Việt cộng thường xuyên
đẩy mạnh áp lực tấn công cũng như quấy rối vào đồn này. Ðã hơn
một tháng nay ngày nào chúng cũng pháo kích hoặc tấn công lai rai
vào lực lượng trú phòng. Nhất là trong thời gian gần đây, các
chuyến bay tiếp tế hay tản thương bị đình trệ vì bãi đáp không
còn an toàn, khoảng hai tuần trước đã có một chiếc trực thăng tản
thương suýt rớt vì hoả lực của địch; do đó căn cứ này đã tạm coi
như trong tình trạng cô lộp dù là chỉ cách quận lỵ Năm Căn vài
cây số đường chim bay. Tinh thần anh em binh sĩ trong đồn xuống
thấp là điều có thể hiểu được nên bộ chỉ huy tiểu khu Cà Mau hy
vọng là chuyến tản thương sẽ nâng cao quyết tâm chiến đấu của các
anh em.
Theo
kế hoạch dự định, hai chiếc võ trang vào trước để dọn đường cũng
như “clear” bãi đáp, chiếc tản thương sẽ bay vị trí số ba vô đáp;
trong lúc ấy hai trực thăng võ trang làm vòng chờ bên trên bao
vùng bảo vệ an toàn bãi đáp cho đến khi chiếc tản thương hoàn tất
phi vụ bình yên rời khỏi mục tiêu; sau đó với hoả lực còn lại hai
trực thăng võ trang sẽ làm việc với quân bạn trong đồn để giải
tỏa phần nào áp lực của địch xung quanh. Như thông lệ trước khi
vào một bãi đáp “hot”, phi hành đoàn được lịnh nai nịt cẩn thận,
hắn siết chặt chiếc “chicken plate” trước ngực vừa đủ để thở dễ
dàng, đẩy chắn đạn hông của ghế ra trước, kiểm soát lại cái cần
an toàn đỏ bên cửa trái và sau đó là, hít những hơi thở thật dài
rồi ngồi “đồng” để chờ đợi những phút giây căng thẳng sắp tới mà
có lẽ chỉ có những kẻ đã kinh qua mới thông cảm được mà thôi.
Trong thời khoảng ác nghiệt này, dường
như não bộ cũng muốn tê liệt, hình ảnh kẻ thân yêu cũng chập chờn
trong hư ảo; tiếng phần phật vòng quay, tiếng gào thét động
cơ, tiếng ào ào của gió đập vào thân tàu, tất cả trộn lẫn vào
nhau tạo thành loại âm ba cuồng nộ, chát chúa; và rồi khi con tàu
tiến vào gần mục tiêu, từng tràng đạn đại liên gầm vang đe dọa,
thân tàu rung lên như giận dữ, tiếng lách cách của vỏ đạn chạm
vào sàn tàu mang theo mùi thuốc súng nồng nồng; mắt hắn dán chặt
vào các phi kế trước mặt, chân tay trong tư thế sẵn sàng chụp lấy
các cần điều khiển; mé rừng cây thấp gần mục tiêu lớn dần theo độ
cận tiến phi cơ! Bỗng có tiếng báo cáo của Tuấn vang lên một cách
hốt hoảng trên tần số nội bộ phi đoàn:
– “Số hai bị trúng đạn nặng! ‘break’
trái rời vùng”.
Ðại úy Tường cũng vội vã cho con tàu
làm vòng quanh gắt về trái vừa cố gắng liên lạc với chiếc số hai.
Riêng hắn quay hẳn nửa người bên trái đẩy vội cái chắn đạn ra
sau, ngước mắt nhìn lên tìm kiếm bóng dáng con tàu của bạn mình.
Trên cao khoảng hai mươi bộ hướng một giờ, con tàu trúng đạn bốc
khói đen mù mịt đang lảo đảo cắm đầu tìm chỗ hạ cánh. Hắn rùng
mình kinh sợ cho số phận phi hành đoàn lâm nạn bởi cái cảm giác
trông con tàu bị bắn cháy giữa thinh không chẳng lạ xa gì đối với
hắn!
Trực
thăng vận.
Trong một cuộc hành quân cuối năm 1972, phi cơ hắn đã bị phòng
không địch bắn bốc cháy trong lúc đổ quân trên đỉnh Phượng Hoàng
đầu phi đạo Ðức Cơ. Năm đó, phi đoàn hắn, Lạc Long 229 cùng Thần
Tượng 215 phối hợp với Sư Đoàn 23 Bộ binh trong một cuộc hành
quân lớn vùng Tam Biên, hôm ấy hắn và Phước “râu bắp” bay vị trí
số ba của hợp đoàn gồm nhiều chiếc; đội hình bay là hàng dọc, mỗi
chiếc cách nhau bốn mươi lăm giây, hoả lực địch được báo cáo bởi
tin tình báo cho biết là rất dữ dội quanh vùng hành quân, đại
liên 12.7ly chỉ là đồ ăn chơi; món ăn chính là súng phòng không
14.5ly. Ðể bảo đảm an ninh, hợp đoàn chỉ ra vào một hành lang,
với cao độ thấp. Ngay trong đợt đầu của cuộc đổ quân, vì nhiều
nguyên nhân có thể là địa thế đáp quá hiểm trở, gió lại khá lớn;
do đó chiếc số hai (thường là vị trí dành cho hoa tiêu “non” tay
nhất của hợp đoàn) cứ cố kềm tàu trên bãi đáp nên khi số ba vào
đến rồi mà chiếc số hai vẫn còn chưa rời vùng; thế là chiếc số ba
đành phải “treo lồng đèn”; và ngay giây phút hiểm nghèo ấy, phi
cơ hắn đã trở thành tấm bia ngon lành đẻ tác xạ cho pháo thủ
phòng không 14.5ly của địch. Con tàu hắn bị trúng đạn, tắt máy,
bốc cháy trên không, cố lết khỏi vùng, trước khi chạm đất hắn còn
nghe vang vang trên tần số nội bộ VHF công điện sắc, gọn đến lạnh
người của “Báo Mun”, trưởng hợp đoàn trực thăng võ trang 229:
– “Báo cáo Charlie! Chiếc số ba bị bắn
cháy! Phi hành đoàn chắc tiêu rồi!”
Vận may chưa hết nên tàu đã xuống đất
kịp lúc! Thoát nạn thiêu sống và sau đó chiếc tàu do Lý Cương
Quyết, trưởng phi cơ thuộc phi đoàn 215 đã nhào xuống bốc phi
hành đoàn hắn trước khi địch quân có đủ thời gian truy đuổi; nếu
không có lẽ giờ này xác thân hắn đã theo con tàu tan thành tro
bụi và vợ con hắn cũng đã là quả phụ, cô nhi rồi!
Chiếc số một bất lực bay kề sát bên
hông như cố gắng chia sẻ những giây phút cùng cực này với con tàu
lâm nạn! Riêng hắn, hai bàn tay nắm chặt, đôi mắt mở to, nói lớn
như gào: “Rán lên Tuấn ơi! Gần tới đất rồi!”. Bỗng dưng miệng hắn
khô khốc lại, âm thanh chết cứng trên môi vì cảnh tượng kinh
hoàng xảy ra trước mắt; còn khoảng ba thước, con tàu kiệt lực uất
ức hét lên một tiếng nổ lớn rồi ngọn lửa bùng mạnh dữ dội, thân
tàu quay nhanh những vòng cuối tức tưởi, uất ức đập mạnh xuống
mặt ruộng xăm xắp nước, dẫy dụa rồi lật ngửa phơi bụng thoi thóp
hấp hối giữa vòng lửa cường hung!
Ðại úy Tường cho tàu hối hả hạ càng đáp
trên bờ ruộng cách khoảng độ gần hai mươi thước, đầu hướng về mé
rừng cây, hắn tháo vội nón bay quay ra sau thét lớn thúc hối hai
người cơ phi, xạ thủ rời tàu để tiếp cứu phi hành đoàn lâm nạn.
Nhưng cả hai có lẽ như bị chết cứng vì sợ hãi trước thảm cảnh quá
rùng rợn đang xảy ra trước mắt. Hắn điên lên vì giận dữ, giật
tung dây an toàn, vất chiếc nón bay xuống ghế, leo vội ra sau đẩy
mạnh vai người hạ sĩ quan cơ khí một làn nữa để thúc giục; rồi
nhảy khỏi tàu. Do nước ruộng sâu vừa đủ làm hắn té chúi nhủi về
phía trước, chống vội hai tay đứng dậy, nước bùn ngập gần gối cứ
níu kéo chân khiến hắn khấp khểnh tung bước co chạy về hướng
chiếc phi cơ đang bị ngọn lửa bao trùm; vài loạt súng AK của địch
cất cao giọng hăm dọa, vang vang từ mé bìa rừng nhưng chưa đủ để
ngăn cản cái cơn “khùng” của hắn lúc bấy giờ. Ðám cháy vẫn ngạo
nghễ cất cao, hơi nóng hắt mạnh vào người, rõ ràng nước ruộng đã
toa rập đẩy ngọn lửa lan thật nhanh bao kín cả con tàu, hắn bất
lực gào to tên bạn mình rồi lúp xúp chạy quanh đám cháy.
Chợt trước mặt hắn một thân người trong
chiếc áo bay xám nằm úp mặt xuống nước hai tay dang ra như xác
chết trôi, hắn mừng rỡ nắm lấy hai cổ chân lật ngửa thân người
với hy vọng nhìn lại được khuôn mặt quen thuộc. Nhưng khi nhận ra
đó là người cơ phi, nên thất vọng hắn vừa nắm chặt cổ chân lôi
tấm thân bất động này vừa tiếp tục công việc tìm cứu. Lại một
thân người nữa trong tư thế nằm ngửa, rất nhanh hắn nhận ra được
người đó cũng chẳng phải là kẻ hắn đang mong mỏi. Thế là hai tay
hì hục lôi hai tấm thân bất động ấy, hắn tiếp tục cuộc chạy đua
tuyệt vọng với số mệnh giữa tiếng đạn giòn giã bắn ra từ chiếc
phi cơ đơn độc giữa cánh đồng về phía mé rừng cây để che chở và
kéo dài dăm phút giây phù du bảo vệ hắn. Ðến lúc biết là không
còn hy vọng gì cả! Hắn đành bước thấp bước cao trở lại con tàu
với hai thương binh mà sinh mạng vẫn còn nằm trên làn ranh sống
chết, bất lực ngoái lại nhìn ngọn lửa vẫn đang hăm hở thiêu đốt
chiếc phi cơ và hình hài của hai bằng hữu hoa tiêu kém may mắn,
Trung úy Tuấn và Thiếu úy Tiến. Tít trên cao tàu tản thương vẫn
bay vòng vòng để chia sẻ niềm đau đớn với phi hành đoàn hắn.
Ngồi yên như chết trên chuyến bay hối
hả trở lại phi trường Cà Mau, chẳng buồn làm cả cái nhiệm vụ
thông thường của một hoa tiêu ghế trái, tay chân rã rời, đầu óc
trống rỗng, mắt mờ mờ như muốn khóc mà sao dòng lệ chẳng chịu
tuôn ra; hắn cắn chặt răng lại chịu đựng! Có tiếng phía sau rên
rỉ, đau đớn, hắn quay lại lặng lẽ nhìn người cơ phi bị thương vừa
hồi tỉnh, nằm xóng xoài trên sân tàu bên cạnh anh xạ thủ có lẽ
bị nặng hơn nên vẫn còn mê man. Bên ngoài nắng đã dịu theo bóng
dáng buổi chiều, ngọn gió quen thuộc vẫn luồn qua thân tàu, hắn
gục đầu hai bàn tay đập từng hồi vào chiếc nón bay để cố xua đuổi
đi nỗi bi thương khốn nạn đang dày vò tâm tư.
Ðăm đăm nhìn theo chiếc trực thăng tản
thương đang vội vã băng mình cất cánh rời phi đạo, tiếp tục cuộc
chạy đua còn lại với thần chết để giành lại mạng sống của hai
thương binh cùng đơn vị; hắn trở lại tàu tiếp tục tình trạng
“chờ”, vì phi hành đoàn hắn tình nguyện trở vào vùng để yểm trợ
quân bạn tiến vào vị trí con tàu bất hạnh kia với mong mỏi thu
lượm những di thể người tử nạn còn sót lại khi đám cháy tan; mặt
trời xuống dần mang theo những tàn lụi mong manh của kiếp sống
cũng như bao hy vọng nhỏ nhoi tội nghiệp sót lại của hắn! Cho đến
khi trời gần sụp tối, chẳng còn làm gì hơn được, phi hành đoàn
hắn đành lẻ loi độc phi trên đường trở về căn cứ; gió vẫn thổi,
mây vẫn trôi, con tàu vẫn miệt mài bay bay trong niềm đau luyến
tiếc những cánh chim mãi mãi vừa lìa đàn, xa bầy!
Một hợp đoàn Trực thăng UH–1 trong phi
phụ chuyển quân.
Trước cửa phòng hành quân, một số nhân
viên phi hành của phi đoàn đang tụ tập để hỏi hắn cũng như chia
sẻ niềm đau mất mát với người trở lại. Thuận, người bạn cùng
khóa, khều nhẹ tay hắn ra ngoài rồi nói nhỏ:
– “Về lẹ đi mày! Vợ mày tưởng mày đã
‘đi’ rồi! Tao có nói mà bả không tin vì hồi tối mày bảo là đi
bay với thằng Tuấn, bà ấy đang ôm con khóc như ‘rươi’ ngoài khu
cư xá đấy, leo lên đây tao đưa về!”
Chẳng buồn nói một lời, hắn lẳng lặng
theo chân bạn ra xe trở về nhà, dọc hai bên đường đèn đã tỏ ngọn.
Vừa tới đầu ngõ chưa kịp rẽ vào, hắn đã thấy hình dáng vợ trên
tay bồng đứa bé chưa tròn tuổi, còn đứa con trai lớn thì đang
đứng một bên níu áo mẹ, mắt mũi cả ba mẹ con đang đầm đìa những
giọt lệ, trông thấy hắn từ xa vợ hắn bỗng bật khóc lớn thành
tiếng.
Hắn vội
vàng ôm chầm lấy vợ con mà không kềm được dòng nước mắt, vừa vỗ
về an ủi; hai bên con hẻm có nhiều ánh mắt nhìn theo như chia sẻ
niềm vui lẫn đau đớn này, hắn liếc nhanh về phía cuối hẻm, trong
đó giờ phút này có người thiếu phụ với thai nhi chẳng bao giờ có
dịp biết mặt bố đang tuôn tràn những giọt lệ khóc thương cho một
mất mát vĩnh viễn; và thằng bé đầu lòng tuổi vừa biết ra ngõ đón
mong bố, để rồi không kịp cởi chiếc áo bay còn thoáng mùi thuốc
súng, bạn hắn chạy đuổi theo chiếc xe ba bánh be bé mà Tuấn đã
dành tất cả số tiền thưởng Tết để mua cho con; những vòng bánh xe
con con đó đã vừa đổi chỗ bao vòng quay oan nghiệt cuối cùng cuốn
theo niềm hạnh phúc tươi mát ngọt ngào vào hố sâu tàn bạo của tan
tác, phân ly! Ðêm xuống thật chậm hun hút như cuốn trôi hắn vào
nỗi cay đắng khôn cùng; trên cao hình như có hai vì sao vừa bất
chợt rụng rơi!
Có những cánh chim mùa bão loạn,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?
Một lần
cất cánh nào ai hỏi,
Ðâu chả là nơi để
trở về.
Sơn Trường
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nguyễn vân tùng chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, November 30,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang