Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hồi
ký của một cựu phi công “Cò
Trắng”
Chủ đề:
Số Mệnh
Tác giả:
Phan Thanh Vân
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Người từ cõi chết trở về
Bây giờ lại nhắm hướng quê thiên
đàng
Mai này trong cõi huy hoàng
Xin đừng quên đám họ hàng
KQ
Ó Biển 227
Lời nói đầu:
Năm
1957, sau khi tiếp thu các phi đoàn vận tải của KQ Pháp giao lại
(như các phi đoàn Béarn, Franche–Comté và Sénégal đóng tại TSN),
với cấp bực Trung úy, anh làm huấn luyện viên phi công vận tải
tại Liên Phi đoàn 1 vận tải dưới quyền chỉ huy của Trung tá
Nguyễn cao Kỳ.
Đầu năm 1958, anh được biệt phái sang Hàng
Không Dân sự, lái phi cơ cho hãng Hàng Không VN (Air Vietnam)
thay thế cho các phi công dân sự Pháp bị sa thải hồi hương.
Năm 1961, anh được gọi trở về Bộ Tư lệnh KQ để nhận lãnh
nhiệm vụ mới. Anh được chỉ định chỉ huy và lái một trong hai
chiếc “Cò Trắng”, có nhiệm vụ đặc biệt bay thám thính, tiếp tế và
thả dù các toán gián điệp biệt kích ra miền Bắc CSVN, (lúc bấy
giờ chỉ có hai phi hành đoàn Cò Trắng được thành lập để bay ra
Bắc theo kế hoạch hoạt động tình báo do CIA Mỹ tổ chức và điều
động, một phi hành đoàn do Trung tá Kỳ chỉ huy và lái, phi hành
đoàn thứ hai do Trung úy Vân chỉ huy. Gọi là Cò Trắng vì 2 chiếc
phi cơ C47 dành riêng cho các phi vụ đặc biệt này đều được
“sterilized”, tẩy xóa hết mọi cờ quạt, quốc huy, quốc hiệu để lại
toàn thân chiếc phi cơ một mầu nhôm trắng toát.)
Ngày 1
tháng 7, năm 1961, anh lãnh một nhiệm vụ đặc biệt thay thế cho
ông Kỳ, lái phi cơ ra miền Bắc để thả dù tiếp tế biệt kích. Trong
chuyến bay định mệnh này, phi cơ của anh đã bị hỏa tiễn tầm nhiệt
của phòng không CSBV bắn rơi lúc 01 giờ 15 phút rạng ngày
2/7/1961, khi phi cơ bay sát từ mặt biển vừa vào đất liền. Máy
bay bị rơi xuống một nơi thuộc xã Tô Hiệu, huyện Kim Sơn, tỉnh
Ninh Bình. Phi hành đoàn do anh chỉ huy và lái, gồm thêm 2 phi
công phụ (Trung úy Phan Khắc Thích, Thiếu úy Trần Minh Tâm), 2
điều hành viên (Thiếu úy Tiêu Huỳnh Yên, Chuẩn úy Phạm Trọng
Mậu), 1 vô tuyến điện viên (Trung sĩ Nguyễn Văn Nở), 1 cơ khí
viên (Thượng sĩ Phạm Văn Đăng), ngoài ra còn có 3 biệt kích dù
(Thượng sĩ Lộc, Trung sĩ Tiết, và Thượng sĩ Khoa) thuộc phòng 46
(Sở Bắc, sau đổi thành Nha Kỹ thuật).
Cả thảy 10 người
trên phi cơ lúc bị bắn rơi xuống bãi sình lầy, rồi bốc cháy,
người chết cháy vì kẹt lại trong phi cơ, người bị thương nặng rồi
chết sau đó, chỉ còn lại 3 người sống sót là anh, người cơ khí
viên và 1 biệt kích dù. Cả 3 đều bị thương tích nặng và bị dân
quân CSBV trên bờ ào ra bắt giữ. Sau một thời gian bị giam giữ
hỏi cung tại trại giam Hỏa Lò–Hà Nội, ngày 15 thàng 11 năm 1961,
anh bị đưa ra Tòa Án Quân Sự Trung ương CSBV xét xử cùng với 2
đồng hành với bản án như sau:
– Đinh Như Khoa, biệt kích
dù, 15 năm tù,
– Phan thanh Vân, trưởng phi cơ, 7 năm tù,
–
Phạm văn Đăng, cơ khí viên, 3 năm tù.
Sau khi lãnh án, anh
bị đưa đi cải tạo ở trại Bắc Bạc, Ba Vì–Sơn Tây, rồi sau đó bị
đưa lên giam giữ tại trại E ở Phố Lu (Lào Cai).
Năm 1971,
anh được CSBV phóng thích sau một thời gian 10 năm (tù giam và
quản thúc), và nhờ sự lo lắng của gia đình người chị ruột, qua
Hồng Thập Tự Pháp, anh được đưa sang Pháp để đoàn tụ với gia đình
và sinh sống.
Phan Thanh Vân
Hôm
nay đã là 29 tháng chạp, chỉ còn vài ngày nữa là Tết rồi. Tết năm
nay là Tết Tân Hợi (1971) và đúng là cái Tết thứ 10 mà mình sống bơ
vơ, xa gia đình, xa quê hương xứ sở.
Chiều hôm nay, sau khi hoàn thành xong
chiếc giường đôi rẽ quạt, gã chính ủy (ủy viên chính trị) quản lý
hợp tác xã mộc Đồng Tiến ở thị xã Ba Vì, tỉnh Sơn Tây gọi tôi lên
văn phòng và nói:
– Anh nghỉ việc sáng hôm nay, về lán thu
xếp để chuẩn bị ngày mai về Hà Nội.
Tôi thắc mắc:
– Dạ, báo cáo cán bộ, tôi về Hà Nội có
chuyện gì và về bao lâu?
Gã lạnh như tiền:
– Anh đừng thắc mắc, đó là lệnh trên của
trung ương, tôi cũng không biết lý do. Anh cứ chuẩn bị sẵn sàng đi,
và có lẽ anh sẽ không trở về đây đâu.
Ra khỏi văn phòng cán bộ, tôi trở về lán
thu xếp đồ nghề mà trong lòng nghĩ ngợi miên man; lại cái gì đây?
Được đưa về đây sống quản thúc ở hợp tác xã mộc này đã gần 2 năm
nay, ngày ngày tháng tháng lòng mình lúc nào cũng thấp thỏm lo âu
với cái tội nặng nề thầm kín mang trong người là “giặc lái Mỹ ngụy”.
Năm 1961, sau khi lãnh cái án tù 7 năm, là
từ Hỏa Lò Hà Nội đến trại này trại kia, cuối cùng là trại E Phố Lu
(Lào Cai), tôi đã “ngoan ngoãn” cải tạo tư tưởng để trở thành “thành
phần tiến bộ”, để sau khi hết án 7 năm tù, được hưởng thêm 2 năm “tự
giác” ở lại trại giam. Và cuối cùng cho đến năm 1969, tôi đã thở
phào nhẹ nhõm người khi được nhân dân, Đảng và nhà nước trả tự do,
đưa về đây quản thúc với nghề thợ mộc, “ngày động tối điểm” (ban
ngày lao động: cưa xè, đóng bàn, đóng giường, tối điểm danh trước
khi đi ngủ).
Tối
hôm nay trằn trọc mãi, không tài nào ngủ được, lo nghĩ lại chuyện gì
sẽ đến với mình đây, tại sao lại bị đưa về Hà Nội, tại sao... tại
sao... nằm mãi không ngủ được thôi thì dậy, phì phèo vài điếu thuốc
lào.
Ngoài lán,
các “đồng chí” đang quây quần bên đống lửa to, canh nồi bánh chưng.
Nghĩ lại nếu không có cái lệnh đi Hà Nội thì giờ này mình cũng ngồi
ngoài đó vì ban sáng mình đã được phân công canh nấu bánh chưng tối
nay.
Sáng rồi,
chưa tới 9 giờ thì thấy đã có một chiếc xe Molotova loại nhỏ như xe
Jeep của Mỹ, đậu sẵn ở trong sân của Hợp tác xã. Tôi cũng đã sẵn
sàng khi đồng chí cán bộ quản lý xuống kêu lên văn phòng gặp cán bộ
trung ương. Vào đến văn phòng là tôi khựng lại, nghĩ thầm trong
lòng: Lại cái ông Toán này nữa, cái ông cán bộ công an đã săn sóc
mình trong mấy năm qua, từ khi mình được trở thành người tự do!
Sau khi anh quản lý bảo tôi ngồi xuồng rồi
đi ra, ông Toán mới chậm rãi:
Anh có được khỏe không? Hôm nay tôi lên
gặp anh để đưa anh về Hà Nội và sau đó đưa anh ra sân bay để anh đi
Pháp đoàn tụ với gia đình. Đảng và nhà nước đã rất khoan hồng đối
với anh và đã chấp thuận lời xin của gia đình người chị của anh ở
bên Pháp, cho anh về Pháp sum họp gia đình.
Nghe đến đây tôi như tắt thở, mừng đến nỗi
nhịp tim đập mạnh như muốn nhảy ra ngoài, tuy nhiên vẫn cố lấy bình
tĩnh để nghe tiếp những lời lải nhải của đĩa hát cũ đã rè, lập đi
lập lại, nào là anh phải biết ơn nhân dân, biết ơn Đảng và nhà nước,
nào là anh phải tiếp tục cải tạo tư tưởng để thành người tiến bộ,
trở về phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng và nhà nước, v.v. và v.v.
Ông Toán nói tiếp:
Đây là giấy thông hành tạm cấp cho anh để
anh dùng đi đường ra nước ngoài, còn đây là giấy máy bay của hãng
hàng không Pháp Air France đi từ Hà Nội đến Paris. Giấy máy bay này
do người chị của anh mua và gởi sang cho chúng tôi để nhờ đưa lại
cho anh dùng. Thôi chúng ta chuẩn bị lên đường kẻo trễ, anh còn có ý
kiến, còn muốn phát biểu gì không?
Tôi lập bập: Dạ báo cáo cán bộ, dạ dạ thưa
không!
Đứng dậy
ra xe chân mình bủn rủn, đi hết muốn vững. Đâu có ngờ!
Ra đến xe thấy cán bộ quản lý chạy lại:
Anh cầm lấy túi bánh chưng này, đây là quà Tết của hợp tác xã tặng
anh, cầm theo mà ăn đi đường.
Xe lăn bánh rời Ba Vì, bon bon trên đường
hướng về Hà Nội. Ngồi trên xe mà lòng tôi lâng lâng, nửa tỉnh nửa
mơ, mừng lo lẫn lộn, vì chưa hẳn dám tin đó là chuyện thật, hai bên
đường cây cối trơ trụi, bụi đường tung tóe theo lằn bánh xe lăn,
nhưng sao mình thấy cái gì cũng vui tươi, cái gì cũng đẹp sáng, tưng
bừng như... Tết.
Mải triền miên với trăm nghìn ý nghĩ trong đầu, tôi không để ý đã
băng qua Hà Nội lúc nào và đang trên đường tiến vể sân bay Bạch mai.
Xe đến cổng phi trường thì chạy chậm lại, tài xế lái xe vào đậu ở
gần nhà ga hành khách, ông Toán bước xuống quay lại bảo tôi xuống xe
theo ông vào trong làm thủ tục giấy tờ.
Tôi liếc nhanh quanh sân bay, ngoài bãi
đậu xa hai ba chiếc máy bay rải rác đậu, một chiếc máy bay kiểu
Illouchine 14 của Nga (loại máy bay vận tải chở hành khách loại nhỏ
đang chuẩn bị, năm ba người nhân công chạy chung quanh, người đổ
xăng, người đi vòng phi cơ kiểm tra.
Tôi nghĩ bụng mình sẽ đi với chiếc phi cơ
này. Sau khi theo ông Toán vào quầy hành khách để trình giấy tờ,
giấy thông hành, giấy máy bay... làm xong thủ tục, ông Toán nói:
Thôi đến giờ rồi, anh theo ra máy bay đi,
anh đi mạnh giỏi và hãy nhớ những gì anh đã tiếp thu được mà cố gắng
trở thành người tốt.
Dạ báo cáo cán bộ, dạ tôi xin cám ơn!
Mình lập bập, hối hả theo sau độ năm mười
người nữa ra hướng máy bay đậu. Nhìn những hành khách khác, không
biết là Việt hay Tàu, người nào cũng áo bốn túi, cổ Mao, chắc toàn
là cán bộ đi công tác, còn mình thì chả giống ai với bộ bà ba nâu,
chân đi dép cao su Bình Trị Thiên, tay quảy túi bánh chưng bây giờ
mới để ý thấy có bốn cái, mình lững thững bước lên vào tìm chỗ ngồi
trong phi cơ. Nhìn anh phi công cao lớn, da đỏ có lẽ là người Nga,
mặc đồ phi hành dân sự, đi giữa hai hàng ghế hành khách để lên buồng
lái, tôi ngẩn ngơ nhớ lại... ngày nào!
Chiếc vận tải cơ Illouchine 14 của hãng
hàng không Nga từ từ chuyển bánh ra phi đạo, ngừng lại chỗ thử máy
và sau đó cất cánh nhẹ nhàng. Toàn thân tôi rung mạnh theo đà máy
bay lăn trên phi đạo rồi từ từ rời đất liền và theo chiều cao bay
lên, bỗng dưng hai mắt tôi nhắm nghiền lại, người tôi tự nhiên thấy
ớn lạnh khi chợt nghĩ đến... một chuyến bay!!!
Rồi những kinh hoàng, hãi hùng của những
giây phút rùng rợn gần 10 năm xưa dần dần tiếp diễn qua tâm trí tôi
như một cuốn phim:
Tôi nhớ rõ chiếc máy C47 trắng ngần do tôi
lái khi vượt qua vĩ tuyến 17, bay là sát mặt biển xâm nhập vào bầu
trời của miền Bắc, dù còn ở ngoài khơi của biển Đông, cả 7 người
trong phòng lái chúng tôi đều bắt đầu thấy thần kinh căng thẳng;
người này lo lắng liếc mắt nhìn người kia, không ai nói với ai một
lời. Khi máy bay vào sâu nội địa, tôi còn nhớ lúc ấy khoảng hơn 1
giờ đêm, đột nhiên tôi thấy nhoáng lên như ánh chớp màu da cam ngay
trước mặt tôi trong bầu trời như bức màn đen, máy bay tự nhiên rung
giật mạnh, không hề nghe một tiếng nổ hay bất cứ một âm thanh gì,
hai tay tôi ôm cứng lấy tay lái, cố giữ thăng bằng cho chiếc máy
bay, mắt tôi còn thoáng thấy anh Mậu điều hành viên và anh Thích phi
công phụ ôm chầm lấy nhau, rồi... tôi không còn biết gì nữa!
Không biết mãi bao lâu sau, khi thấy lạnh
run, tôi cố mở mắt nhìn trong đêm tối đen kịt, người tôi như vỡ nát
ra trăm mảnh, tôi không cử động được tay chân, đau đớn tận cùng hồn
tôi lửng lơ, tôi tưởng như tôi đã chết rồi, hay đang... chết. Sau đó
dần dần một lúc, tôi mới cảm thấy đau nhừ khắp cả người, chỗ nào
cũng đau, tôi không nhìn thấy gì cả, cố thu hết tàn lực đưa tay quờ
quạng hốt ít nước bùn lầy đưa lên mặt để rửa. Nước bùn nhầy nhụa hòa
với một thứ nước mằn mặn trên gương mặt loang lỗ của tôi, “máu” mặt
tôi đầy máu, tôi cố mở mắt nhiều lần nhưng vẫn không thấy gì, đầu
tôi như có ai cầm chiếc gậy đập đều đều, tôi lại mê man, tâm trí như
có một khoảng trống rỗng, chẳng còn ý niệm gì về thời gian, không
gian.
Tôi cũng
chẳng biết là cho đến bao lâu nữa, mãi khi tai tôi chợt nghe văng
vẳng trong gió lao xao của đêm khuya: Chết tôi rồi, chết tôi rồi,
nóng quá, nóng quá, chết... tôi rồi!
Tiếng kêu thảm thiết của những người đang
chết cháy! Tôi không nhúc nhích gì được, cả một nửa người của tôi đã
ngập sâu dưới bùn lầy, tôi cố mở mắt to: xa xa cách chỗ tôi “đứng”
độ vài trăm thước, một đám cháy to, lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt và
những tiếng thét kinh hoàng mà tôi nghe từ đó vọng ra, tôi như nửa
tỉnh nửa mê, chợt lờ mờ có ý niệm rằng chiếc C47 do tôi lái đã bị
bắn rơi xuống đây và đang bốc cháy!
Tôi lại mê man bất tỉnh cho đến khi mở
choàng mắt ra, lúc này đã nhìn được lờ mờ thấy khung cảnh đồng ruộng
sình lầy, đầu tôi đau nhức như có người lấy dao nạo vào óc, rồi tôi
nghe rõ tiếng người hò hét xa xa, tiếng léo nhéo, quát tháo vẳng
trong gió đêm. Một ý thức bừng dậy thành phản xạ của sự sống còn ập
đến như một đòn bẩy, tôi cố vùng vẫy, nhô người lên khỏi đám sình
lầy, nhưng tôi quá yếu, bất lực! Tiếng quát tháo lẫn lộn của đàn ông
lẫn đàn bà càng lúc càng gần cùng với những ngọn đuốc lập lòe di
động đốt sáng cả một góc trời, phần vì khắp người đau như dần với
bao nhiêu thương tích, phần vì quá khiếp sợ, đầu óc tôi tê đi, cho
đến lúc họ đã quát tháo ầm ầm bên tai tôi mà tôi vẫn đứng im như một
xác chết. Họ hò nhau túm lấy tay chân tôi, kéo tôi ra khỏi sình lầy.
Lúc này trời đã sáng tỏ, tôi lờ mờ thấy không biết bao nhiêu người,
đàn ông, đàn bà lố nhố vây quanh tôi, súng ống gậy gộc, họ hầm hè
như muốn nhai xương, nuốt sống, ăn thịt tôi, tôi đau đớn sức tàn,
tôi sợ quá, nhắm mắt lại, rồi lịm đi, văng vẳng nghe tiếng quát,
tiếng chửi rủa ập ngoáy vào tai tôi: Coi chừng, coi chừng, nó hãy
còn sống, đập chết nó đi, đập chết nó đi, nó là biệt kích ác ôn của
Mỹ Diệm!
Cuốn
phim đến đây tự nhiên tắt ngay, tôi giựt mình bừng tỉnh dậy. Tôi
đang ngả người trên chiếc ghế nhung của hành khách, máy bay đang bay
êm, tiếng máy đều đều... trong máy bay gió lạnh nhưng người tôi ướt
đẫm mồ hôi, ướt thấm cả bộ quần áo nâu tôi đang mặc, tôi cảm thấy
lạnh, lạnh ớn xương sống... với giấc chiêm bao vừa qua! Vói tay với
cái mền đắp lên người mới nhớ ra các giấy tờ mang theo trong người,
lần mò móc ra xem, ngoài tờ giấy thông hành tạm, đóng dấu đỏ của Bộ
Công An Hà Nội là giấy máy bay của hãng hàng không Pháp Air France,
trong đó ghi chặng đường đi: Hà Nội, Canton, Hồng Kông, Paris.
Tôi nghĩ thầm trong bụng: tại sao ghé qua
Quảng Đông (Canton) đó là đất đai của Trung cộng, nếu mà lôi thôi
trở ngại biết làm sao? Mãi loay hoay với ngàn ý nghĩ lo lắng, tôi
không để ý đến đèn báo hiệu buộc dây an toàn bật cháy, cho đến khi
người chiêu đãi viên đến nhắc tôi vì máy bay chuẩn bị đáp. Phi
trường Quảng Đông vắng tanh, lạnh ngắt, không thấy một sinh hoạt
nhộn nhịp nào như các phi trường dân sự khác, không thấy một chiếc
máy bay nào khác đậu ở sân bay, ngoài chiếc máy bay tôi đang đi, từ
từ vào bến đậu, ngay trước nhà ga hành khách. Tôi được mời xuống máy
bay theo sau lẻ tẻ hai ba người hành khách khác, đi vào trạm nhà ga.
Vì đã quen với cách thức đi lại của các
phi trường quốc tế, tôi tìm ngay đến quầy tiếp khách đại diện của
Air France. Sau khi trình giấy tờ, giấy máy bay của tôi cho người
nhân viên, một người Tầu, bập bẹ nói tiếng Pháp, anh ta xem xong rồi
nói: Hiện tại chúng tôi không có đường bay nối tiếp (connection)
giữa Canton và Hồng kông, theo lộ trình đã được chỉ định và trả tiền
trước, chúng tôi sẽ lo liệu cho anh đi Hồng Kông bằng đường xe lửa,
và khi đến Hồng Kông anh sẽ tiếp tục lấy máy bay đi Paris, anh chuẩn
bị theo tôi ra xe để tôi đưa anh ra nhà ga xe lửa cho kịp giờ.
Ngồi trên xe theo người nhân viên Air
France từ phi trường ra ga xe lửa, quang cảnh hai bên đường xe chạy
lạ hoắc, nhưng tôi đâu còn tâm trí nào để nhận xét! Nhà ga xe lửa
Quảng Đông thật nhộn nhịp ồn ào khác thường, đặc nghẹt hành khách và
hành lý. Người nhân viên Tầu dắt tôi len lỏi qua đám người, chen
chúc đến quầy lấy vé và đưa tôi lên một toa giữa con tầu để tìm chỗ
ngồi, may mắn tìm được một chỗ trống gần cửa sổ, anh ta chỉ cho tôi
ngồi xuống và đưa tay bắt tay tôi chúc may mắn (bonne chance).
Khi xe lửa bắt đầu lệnh khệnh lăn bánh,
một kiểu xe lửa từ thời chiến tranh 1914–1918, cũng là khi tôi thấy
đói lả, mệt nhừ! Chợt nhớ túi bánh chưng xách tòn ten theo từ khi
rời Hà Nội, tôi mở ra lấy một cái, bóc lá, nhỏm nhẻm ăn ngon lành,
thả hồn thưởng thức hương vị của bánh chưng Tết, mặc kệ cho quang
cảnh ồn ào chung quanh, tiếng cười, tiếng nói “xí xí ngộ cỏn” của
các hành khách nông thôn Tầu đủ loại, đang chen chúc nhau trong toa
tàu chật hẹp.
Trời đã xế chiều, tôi không có ý niệm chính xác về thời gian, đoán
chừng là đã 4, 5 giờ chiều thì xe lửa từ từ dừng lại vì đã tới trạm
ranh giới giữa Quảng Đông và Hồng Kông. Sau khi xe lửa ngừng hẳn,
giữa cảnh ồn ào nhốn nháo của hành khách, tôi thấy hai người mặc
quân phục, một người Anh và một người Tầu, tôi đoán là nhân viên của
Sở Di trú (Immigration) lên toa xe để kiềm soát giấy tờ.
Khi họ đến chỗ tôi ngồi và sau khi xem xét
giấy thông hành tôi trình ra, nhân viên người Anh lật qua lật lại tờ
giấy của tôi, xem xong rồi chậm rãi nói:
Với giấy thông hành này của CS Hà Nội cấp
cho anh đi đường, vì không phải là sổ thông hành chính thức, chúng
tôi chỉ chấp nhận cho anh đi qua(transit) đất Hồng Kông 24 tiếng
đồng hồ mà thôi, sau thời gian đó, anh phải đi ra khỏi Hồng Kông,
nếu không chúng tôi sẽ bắt giữ anh và trục xuất anh về Hà Nội, anh
có hiểu rõ lời tôi nói không?
Tôi xanh mặt, lẩm bẩm trả lời: Yes, yes
Sir!
Tay run run
cầm tờ giấy thông hành người nhân viên Anh đưa trả lại, bụng nghĩ
thầm: Chết cha thằng nhỏ rồi, rồi đây biết lo liệu làm sao?
Xe lửa ngừng hẳn ở nhà ga Hồng Kông, hành
khách chen chúc nhau đi xuống, tôi đặt chân xuống nền gạch sạch mát
của nhà ga, lòng tự nhiên thấy hả hê, vui lây với quang cảnh sinh
hoạt của thế giới tự do! Tôi nhìn đồng hồ nhà ga, đã hơn 6 giờ
chiều, tôi vội vã len lỏi ra khỏi nhà ga, tìm đường mò về phi trường
Kaitak vì biết chắc đó là phi trường quốc tế của Hồng Kông. “Thả cọp
về rừng”, may là đường sá ở Hồng Kông đâu có xa lạ gì với tôi khi
tôi còn lái cho Air Vietnam và đã từng ghé qua ăn cơm bữa ở đây. Cất
bước như vừa đi vừa chạy, băng ngang qua các phố xá đông nghịt người
vui nhộn như cảnh Tết, nhưng tôi đâu có dám dừng chân để thưởng thức
gì, vừa mệt vừa lo sao cho kịp đến phi trường Kaitak để bắt cho kịp
chuyến máy bay Air France đi Paris. Vào đến phi trường là lúc phố xá
đã lên đèn, người tôi mệt nhoài, tôi hổn hển tìm đến quầy vé hãng
Air France, trình giấy máy bay để đi cho kịp chuyến AF 1002, cất
cánh lúc 20 giờ đi từ Hồng Kông sang Paris theo như trên bảng khởi
hành (departure) mà tôi đã nhanh mắt nhìn qua. Người nhân viên hãng
Air France sau khi ghi nhận và xem xét giấy thông hành của tôi, anh
ta nói:
Đây nhé,
chúng tôi rất tiếc là không thể nhận cho anh đi trên chuyến bay này
vì anh mang trong mình giấy tờ cùa CSBV và máy bay của chúng tôi
phải làm transit ở Bangkok, tôi e ngại rằng nhà cầm quyền Thái Lan
sẽ làm khó dễ cho anh, tôi khuyên anh nên nhẫn nại chờ chuyến sau,
hoặc bay thẳng, hoặc ghé nơi nào có thuận lợi cho anh hơn thì anh
hãy đi.
Cầm giấy
tờ người nhân viên đưa trả lại mà tôi “hỡi ơi, sao lại gặp rắc rối
quá trời như thế này”. Chân đi không vững, tôi lần mò ra ghế băng
ngồi nghỉ đợi, trong lòng “trống đánh thùng thùng”, lo âu cứ nghĩ
đến giờ sẽ bị trục xuất! Chợt có ai đằng sau vỗ vai tôi và một giọng
phụ nữ vui vẻ nói bằng tiếng Pháp:
Ê có khỏe không? Anh có phải là anh Vân,
captain Air Vietnam? Đi đâu mà ăn mặc kỳ cục không giống ai hết vậy?
Tôi ngỡ ngàng quay lại, một người đẹp
trong bộ y phục chiêu đãi viên hàng không tươi cười đưa tay cho tôi
bắt:
Anh quên tôi
rồi sao? Tôi là Francoise, hôtesse Lufthansa nè!
Tôi ngạc nhiên, sượng sùng nhìn người
thiếu phụ quen quen không nói được một lời, chị ta tiếp tục huyên
thuyên kể lể.
À!
Thì té ra là Francoise Dupuis, nữ chiêu đãi viên bay cho hãng hàng
không Đức, người mà thời xưa, lúc tôi còn lái cho Air Vietnam, đã
từng được tôi mời mọc, ăn uống mỗi khi gặp nhau ở các escale Hồng
Kông hay Tokyo....
Tự nhiên tôi thấy thoải mái, mừng lây với
cái vui mừng vồn vã, hồn nhiên của người xưa, nay gặp lại nhau, tự
nhiên tôi thấy có can đảm để “bốc” với nàng, đem “nghề của chàng” kể
lể cuộc đời đã qua với hoàn cảnh hiện giờ của tôi cho nàng nghe.
Nghe xong nàng vui vẻ:
Anh đừng lo, tôi sẽ cố gắng thu xếp giúp
anh. Anh đưa vé máy bay của anh cho tôi, tôi sẽ lo liệu cho anh trên
chuyến máy bay Lufthansa của tôi, cất cánh đi Francfort lúc 10 giờ
đêm, có ghé qua Paris, có điều là tôi dặn anh phải nhớ, khi đáp
xuống Bangkok để tiếp tế xăng và lấy thêm hành khách, anh phải giả
bệnh nằm lại trên phi cơ, tôi sẽ tìm cách thu xếp ổn thỏa cho anh
tránh khỏi qua sự kiểm soát của Thái Lan, anh nhớ nhé. Thôi anh đi
theo tôi làm thủ tục cho kịp.
Tôi vui mừng vô cùng, lững thững đi theo
người đẹp mà trong lòng thầm nghĩ sao lại còn may mắn gặp được cảnh
“thánh nhân đãi kẻ khù khờ”.
Sau bao nhiêu gian truân trắc trở, lo lắng
trên đoạn đường đời của một người “từ cõi chết tìm về tự do” cuối
cùng tôi đặt chân xuống phi trường Orly (Pháp) ngày 7 tháng 2, năm
1971.
Cò Trắng Phan Thanh Vân
Xuân 2002
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những bài liên quan
Phi Vụ CÒ TRẮNG & Những Nấm Mồ Còn Lại
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật,
March 1, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang