Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
Truyện
Chủ đề:
Chiến trận Tây–Bắc Xuân Lộc
Tác giả:
KB Vũ Đình Lưu
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Thiết giáp tại mặt trận Tây–Bắc Xuân Lộc, tháng 4/1975
Lời giới thiệu của KB Ngụy Sài Gòn: Những
ngày cuối cùng của cuộc chiến, Thiết Đoàn 5 KB và Sư Đoàn 18 BB
đã đánh một trận để đời tại Xuân Lộc, Long Khánh. Trận chiến là
một trong những trận chiến hào hùng nhất của QLVNCH. Trận đánh
làm nức lòng và được toàn dân ngưỡng mộ. Qua ngòi bút tài hoa của
Đại úy Vũ Đình Lưu, Chi Đoàn Trưởng CĐ 2/5 Thiết Kỵ, cho chúng ta
thấy sự chiến đấu dũng mãnh, sự hy sinh mà không bút mực nào
diễn tả được trong một trận đánh mà sự chênh lệch về quân số tham
chiến và vũ khí quá lớn. Trận chiến cô đơn nhưng hào hùng tại
Long Khánh đã tạm thời “khép lại” Chiến sử QLVNCH.
Một
hình ảnh đẹp nhất và uy nghiêm là hình ảnh toàn thể Kỵ Binh CĐ
2/5 TK đã đứng nghiêm chào kính để đưa tiễn những đồng đội về
nơi an nghỉ cuối cùng khi đã làm tròn nhiệm vụ của người trai
trong cơn binh lửa.
Xin trân trọng giới thiệu Bút ký chiến
trường: Quốc lộ 20, Hành Lang Của Tử Thần, tác giả Đại úy KB Vũ
Đình Lưu cùng Quý độc giả, Quý Chiến Hữu và những Kỵ Binh can
trường để nhớ lại một thời chinh chiến điêu linh...
–kb vđl
Sau
khi chiếm Tây Nguyên, đại quân cộng sản Bắc Việt (CSBV) gồm hàng
chục Sư Đoàn Bộ binh có chiến xa và trọng pháo yểm trợ... đã lần
lượt chiếm các tỉnh miền Trung và tiếp đến Phan Rang, Phan Thiết,
Bình Tuy, Lâm Đồng cũng rơi vào tay chúng. Cuối tháng 3 năm 1975,
quận Định Quán thuộc tiểu khu Long Khánh bị tràn ngập bởi Sư Đoàn
341 CSBV. Lực Lượng Đặc Nhiệm 52 (LLĐN 52) được thành lập, án ngữ
tại xã Túc Trưng (trên Quốc lộ 20 cách Ngã ba Dầu Giây 25km về
hướng Bắc), để ngăn chận bước tiến cuả địch gồm các đơn vị trực
thuộc Sư Đoàn 18 Bộ binh như sau:
– Trung đoàn 52 Bộ binh (Đại tá Ngô Kỳ
Dũng chỉ huy, cũng là Chiến đoàn trưởng), với 3 Tiểu đoàn:
– Tiểu đoàn 1/52 (Thiếu tá Cam Phú Tiểu
đoàn trưởng)
–
Tiểu đoàn 2/52 (Đại úy Huỳnh Văn Út Tiểu đoàn trưởng)
– Tiểu đoàn 3/52 (Thiếu tá Phan Tấn Mỹ
Tiểu đoàn trưởng)
– Thiết đoàn 5 kỵ binh (Trung tá Trần
Văn Nô Thiết đoàn trưởng)
– Chi đoàn 1/5 chiến xa (Đại úy Lê Đức
Việt Chi đoàn trưởng)
– Chi đoàn 2/5 Thiết Kỵ (Đại úy Vũ Đình
Lưu Chi đoàn trưởng)
– Chi đoàn 3/5 Thiết Kỵ (Đại úy Lê Sơn
Chi đoàn trưởng)
– Tiểu đoàn 182 Pháo binh
– Lực lượng tăng phái: Công binh và đơn
vị hỏa tiễn TOW
– Điạ phương quân: một Tiểu đoàn và
Nghĩa quân thuộc tiểu khu Long Khánh.
Lực Lượng Đặc Nhiệm 52 được thành lập
nhằm ngăn chặn đại quân CSBV đang tiến công dữ dội về hướng Nam
(Biên Hoà, Sài Gòn). Chiến trường khốc liệt máu lửa chính của
những ngày tháng 4 là địa danh Ngã ba Dầu Giây, cũng là giao điểm
của Quốc lộ 1 và Quốc lộ 20 cách thị xã Xuân Lộc 12km về hướng
Tây.
Vùng Túc
Trưng, Kiệm Tân–Gia Kiệm là vùng đất đỏ miền Đông trù phú, với
vườn cao su bạt ngàn và ruộng rẫy xanh tươi. Cư dân phân nửa là
công nhân cạo mủ cho đồn điền cao su và xen kẽ là những rẫy cà
phê xanh tươi bát ngát, những vườn sầu riêng, chôm chôm, xoài và
các loại trái cây khác của nông dân bản địa. Họ là những người
miền Bắc di cư năm 1954, sau bao năm dài thanh bình thịnh vượng
của miền Nam tự do, nay lại phải tức tưởi gồng gánh lánh nạn cộng
sản một lần nữa. Trước mắt tôi, dài theo QL–20 xuôi về hướng Biên
Hòa–Sài Gòn cả dòng người chạy giặc bằng mọi phương tiện từ thô
sơ đến cơ giới. Chiếc xe gắn máy hai bánh phải chở đến 4, 5 người
nheo nhóc trẻ con. Chiếc xe lam cong cả nhíp với bao người đu bám
xung quanh. Xe bò, xe trâu, xe thồ tấp nập di chuyển về một
chiều. Tất cả cùng một hướng xuôi Nam, nơi họ tin tưởng rằng còn
là phần đất tự do được bảo vệ, che chở bởi người lính Việt Nam
Cộng Hoà. Trên tất cả mọi khuôn mặt từ những ông bà già đến đứa
trẻ con đều lộ vẻ hốt hoảng, nặng trĩu lo âu không biết chuyện gì
sẽ xảy ra cho gia đình họ trong những ngày sắp tới.
Đêm 03 tháng 04 năm 1975, trời vừa tối,
một Trung đoàn của Sư Đoàn 341 CSBV tấn công vào đồn Địa phương
quân ở cầu La Ngà thuộc chi khu Định Quán tỉnh Long Khánh. Lực
lượng trú phòng một Tiểu đoàn trừ (–) và một Chi đội Thiết vận xa
M113 (thuộc CĐ 2/5 TK) bảo vệ cầu La Ngà (cầu La Ngà nằm trên
Quốc lộ 20 cách ngã ba Dầu Giây 29km về hướng Bắc). Chúng pháo
kích ác liệt suốt đêm và sau đó là tấn công biển người. Rạng sáng
ngày 04 tháng 04 Thiếu úy Nho Chi đội trưởng M113 Thiết Kỵ báo
cáo cho tôi (Chi đoàn trưởng Chi đoàn 2/5 Thiết Kỵ): “2 xe M113
bị bắn cháy, đồn Điạ phương quân bị tràn ngập, địch đang cận kề”.
Tôi ra lệnh cho Thiếu úy Nho dùng hết hỏa lực chống trả và rút
lui bằng đường rừng theo cánh rừng chồi xuôi về phiá Túc Trưng
nơi có quân bạn. Chi đội này có 4 xe 113 thì 2 xe bị bắn cháy, 2
xe bất khiển dụng vì bị bắn đứt xích. Thiếu úy Nho cũng đã dụ
địch bằng hai M113 bất khiển dụng. Ông lệnh cho anh em binh sĩ
dùng dây thun cột mỏ vịt 2 trái lựu đạn rồi rút chốt bỏ vào thùng
xăng, một lúc sau hai chiếc M113 cháy nổ dữ dội. Hơn nửa giờ, Chi
đoàn 2/5 Thiết Kỵ đã đến bắt tay với Chi đội và một trung đội Địa
phương quân trở về Túc Trưng. Riêng phần Chi đội thiệt hại 4 xe
M113 và 5 hy sinh và bị thương.
Ngày 5 tháng 4/1975, địch bao vây thị
xã Xuân Lộc. Thiết đoàn 5 Kỵ binh được lịnh rút về Long Khánh để
tăng cường phòng thủ Xuân Lộc. Chỉ còn Chi đoàn 2/5 Thiết Kỵ và 1
Chi đội chiến xa M41 của Chi đoàn 1/5 CX ở lại tiếp tục tăng phái
cho LLĐN 52.
Cầu La Ngà đã bị chiếm, áp lực của địch rất nặng nề với khoảng
cách chỉ còn 9km từ cầu La Ngà đến Túc Trưng nên ngày 08/4/1975
Lực Lượng Đặc Nhiệm 52 lui binh về hướng Nam lập Căn cứ dã chiến
tại ấp Nguyễn Thái Học, nằm trên QL–20 cách Ngã Ba Dầu Giây 4km
về hướng Bắc. Đây là một ấp nhỏ, chung quanh là vườn cao su bạt
ngàn. Dân cư phần lớn là phu cạo mủ của đồn điền, một số nhỏ là
nông dân làm các rẫy cây ăn trái ven lộ. Hầu hết dân chúng đã di
tản khỏi ấp khi thấy chiến trận đã cận kề.
Ngày 9 tháng 4/1975, Quân Đoàn 4 của
CSBV bắt đầu mở cuộc tấn công vào thị xã Xuân Lộc với cường độ
khốc liệt tiền pháo hậu xung.
Ngày 11 tháng 4/1975, Tiểu đoàn 2/52
tăng cường bảo vệ Xuân Lộc. Thời điểm này, LLĐN52 chỉ còn 2 Tiểu
đoàn Bộ binh, Chi đoàn 2/5 Thiết Kỵ +1 Chi đội chiến xa M41, Đại
đội 52 Trinh sát, Tiểu đoàn 182 Pháo binh, Công binh và đơn vị
hỏa tiễn TOW; đối diện với Sư Đoàn 341 CSBV tăng cường chiến xa
và pháo tầm xa.
Ngày 12 tháng 4, Chi đoàn 2/5TK và 1
Đại đội của Tiểu đoàn 1/52 trừ (–) hành quân mở rộng phòng tuyến
an ninh xuống Ngã ba Dầu Giây. Chi đoàn băng qua vườn cao su di
chuyển lên hướng Đông (Long Khánh) dọc theo phiá Nam Quốc lộ 1
cạnh khu nhà Tây (ấp Trần Hưng Đạo, dân địa phương còn gọi là ấp
97, cách Ngã ba Dầu Giây 4km). Bất ngờ đụng phải một lực lượng
CSBV phòng thủ kiên cố, cuộc giao tranh cực kỳ quyết liệt. Sau
hơn nửa giờ, một Thiết vận xa M113 của Thiếu úy Sơn bị bắn cháy,
Thiếu úy Sơn thoát thân ra ngoài với thân thể bốc lửa. Phía Nam
của đội hình Chi đoàn, xe của Thiếu úy Chiến cũng trúng đạn.
Thiếu úy Chiến (Đỗ Trinh Chiến K.10/72 SQTĐ/K.56SQ/CB/TG) và Binh
nhất Thành hy sinh.
Tuy vậy, kỵ mã sắt vẫn còn khả năng tác
chiến dưới sự điều động của Trung sĩ Hiếu, một hạ sĩ quan hành
quân dày dạn kinh nghiệm, mặc dù đã bị thương vừa bắn trả vừa lui
lại phiá sau. Sau nhiều giờ dằng co, Chi đoàn lùi về hướng Ngã ba
Dầu Giây và bố trí phòng thủ đêm trong rừng cao su tại đây. Một
đêm không thể chợp mắt được vì phía xa, hàng trăm ánh đèn soi
sáng chập chờn. Tôi bảo thiếu úy tiền sát viên Pháo binh xin
pháo. Khi tiếng “depart” pháo thì ánh sáng đèn tắt ngấm, sau loạt
pháo chúng lại tiếp tục soi đèn. Tôi bồn chồn đi vội lại xem tình
hình anh em hy sinh và bị thương.
Tổng kết ngày hôm đó, Chi đoàn có 3 hy
sinh, 3 bị thương. Bên phía bộ binh có 2 hy sinh và 4 bị thương
nằm rải rác trong các xe. Quì xuống gốc cây cao su, tôi làm dấu
Thánh Giá và cầu nguyện cho linh hồn các anh sớm về chốn bình yên
vĩnh hằng. Các anh đã trả nợ nước non, tôi cầu xin các anh che
chở cho những người còn lại thoát khỏi cơn hiểm nguy còn chập
chùng trước mặt. Vĩnh biệt các anh với đôi mắt ngấn lệ. Nhưng đêm
đó địch không đánh, có thể vì chưa biết chính xác vị trí của
chúng tôi.
Ngày 13 tháng 4/1975, lực lượng chúng tôi lại lùi về hướng căn cứ
Bộ chỉ huy Chiến Đoàn LLĐN ở ấp Nguyễn Thái Học và tái bố trí
phòng thủ trong rừng cao su cách căn cứ 1.5km, cạnh QL–20. Đến
trưa, chúng tôi lại hứng pháo, CSBV pháo từng chập, đạn nổ khắp
nơi, xung quanh, trên đầu, những cành lá cao su và miểng đạn bay
tung tóe. Hạ sĩ Thảo, hiệu thính viên truyền tin đã ngã gục trên
người tôi, máu anh đã nhuộm đỏ bộ quân phục màu xanh của tôi. Sau
tiền pháo là hậu xung, chúng ồ ạt tấn công. Với địa hình đã chuẩn
bị sẵn sàng, thiết giáp bố trí vòng tròn, bộ binh đào hầm sâu xen
kẽ, chúng tôi sẵn sàng chờ địch tới.
Cường độ trận đánh thật ác liệt, địch
ẩn núp sau các gốc cây cao su to, hết lớp này đến lớp khác bò
tới, thiết giáp bắn đỏ nòng các khẩu Đại liên 50 và 30ly. Khói
súng không thoát khỏi các tàn cao su dày đặc, mờ mờ như màn
sương. Hơn 1 giờ giao tranh, với lòng quả cảm và kinh nghiệm
chiến đấu Kỵ binh và Bộ binh đã đẩy lùi được địch. CSBV rút lui
với tổn thất nặng nề. Xác địch nằm rải rác trong vườn cao su từ
gần đến xa, đếm không xuể. Bộ binh lao lên thu chiến lợi phẩm gom
thành một đống cao đủ loại vũ khí. Tinh thần mọi binh sĩ cả Thiết
giáp và Bộ binh lên cao, hăng hái sau nhiều ngày lui binh từ chết
đến bị thương. Số vũ khí tịch thu được tôi cho 1 chiến xa M41 cán
nát vì có giữ cũng vô ích, cần chỗ trong xe để chở thêm đạn dược,
xăng dầu, lương khô sẵn sàng cho những ngày sắp tới.
Trinh sát báo về, địch quân chỉ còn
cách căn cứ không đầy 2km. Tôi gọi 18 (danh hiệu truyền tin của
Đại tá Ngô Kỳ Dũng) xin Chi đoàn về bố trí phòng thủ ở Bộ chỉ huy
Chiến đoàn (LLĐN 52) để tải thương và tiếp tế. Chúng tôi về và bố
trí các xe thành một vòng cung rìa ấp Nguyễn Thái Học, giữa các
xe là Bộ binh của Đại đội 52 Trinh sát. Công việc xong lúc 6:00g
tối.
Đêm đó,
13 tháng 4, 1975, Ngã ba Dầu Giây được phòng thủ bởi Tiểu đoàn 1/5 (–),
bị Sư Đoàn 6 CSBV tràn ngập. Mất Ngã ba Dầu Giây, toàn bộ Lực
Lượng Đặc Nhiệm 52 còn lại như cá nằm trên thớt, tứ bề thọ địch.
Trên QL–20 địch đã tiếp cận đơn vị chúng tôi. Phía Nam trên QL–1,
địch đã chiếm ấp Trần Hưng Đạo và giao tranh với chúng tôi trọn
ngày hôm qua. Đêm nay lại mất Dầu Giây nữa, tình hình mặt trận
chắc còn tệ hơn lực lượng Pháp đóng tại Điện Biên Phủ vào năm
1954.
Ngày 14
tháng 4/1975, một ngày yên bình hiếm hoi, sáng dậy tôi mới biết
là mình còn sống. Tôi xin trực thăng tản thương, tiếp tế xăng
dầu, đạn dược lương khô được chở theo bằng xe M548 (một loại xe
tải chạy bằng xích) và GMC. Tôi cho anh em kiểm tra bảo trì xe,
vũ khí sau 2 ngày liên tục quần thảo với CSBV, sẵn sàng cho một
cuộc giao tranh mới.
Tôi cùng các Đơn vị trưởng trực thuộc
có cuộc họp khẩn cấp tại Trung tâm Hành quân của LLĐN 52. Nơi họp
là một căn hầm kiên cố do Công binh xây dựng vách dày 1 mét, nóc
với hàng chục lớp bao cát. Sau cuộc họp tôi được biết tính hình
vô cùng nguy ngập trên tấm bản đồ Hành quân nhiều ký hiệu màu đỏ
chỉ LLCSBV đang bao vây và tiếp cận chúng tôi gồm: Sư Đoàn 341,
Sư Đoàn 6, Trung đoàn 95 thuộc Sư Đoàn 325, 2 Trung đoàn Địa
phương 33 và 274.
Trong khi đó LLĐN52 thì có Tiểu đoàn
1/52 kiệt sức và thiệt hại nặng (200 hy sinh và bị thương). Tiểu
đoàn 3/52 trấn giữ đồi Móng Ngựa (hướng Tây–Bắc cách Xuân Lộc
12km) để yểm trợ Bộ chỉ huy LLĐN52. Một Trung đội hỏa tiễn TOW.
Chi đoàn 2/5 Thiết Kỵ, Đại đội 52 Trinh sát, Pháo binh, Công
binh.
So sánh
lực lượng thì quân số CSBV 20 còn quân ta chỉ có 1. Địch dùng lực
lượng áp đảo này để mong xoá sổ toàn bộ Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa ở đây, để mở đường cho đại quân CSBV tiến chiếm Sài Gòn.
Trong những ngày kịch chiến vừa qua,
chỉ có pháo binh yểm trợ cầm chừng vì mặt trận Xuân Lộc đang hồi
quyết liệt. Nên tất cả các phi tuần oanh tạc đều tập trung vào
đó. Đơn vị tiếp ứng là Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh thì bị chận đứng tại ấp
Hưng Nghĩa hai ngày không tiến lên hướng Dầu Giây nổi. Trên QL–1,
địch quân bao vây thị xã Xuân Lộc và khống chế một đoạn đường dài
20km từ Ngã 3 Cua Heo ven thị xã Xuân Lộc đến ấp Hưng Nghĩa thuộc
xã Hưng Lộc... Phía QL–20, địch quân chiếm toàn bộ tỉnh Lâm Đồng,
chi khu Định Quán, Túc Trưng, Gia Kiệm. Lực lượng ta như một ốc
đảo trên sa mạc, bốn bề là địch quân.
Ra khỏi phòng họp hành quân, tôi không
về xe vội, ngồi xuống 1 thân cây ngã, lấy thuốc ra hút. Miệng cay
xè, râu ria tua tủa vì mấy đêm không ngủ. Nhìn về hướng Chi Đoàn
các binh sĩ đang tất bật lau chùi vũ khí chuẩn bị cho trận kịch
chiến sắp tới, biết chắc là sẽ xảy ra, bất cứ lúc nào, hôm nay,
ngày mai. Cường độ đánh sắp tới chắc sẽ vô cùng khốc liệt, ai
còn, ai mất? Đem thân làm lính Kỵ Binh thì ngày xưa lấy da ngựa
bọc thây, ngày nay nguyện chết trong lòng xe bọc thép. Bất giác
tôi nhớ đến 4 câu thơ cổ của Tàu mà bây giờ không còn nhớ tên tác
giả:
Bồ đào mỹ
tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng
thôi
Tuý ngọa sa trường quân mặc tiếu?
Cổ lai chinh chiến kỹ nhân hồi.
(Bồ đào chén ngọc khuyên mời
Tiếng tì trên ngựa dục người ra đi
Sa
trường nghiêng ngả –cười chi?
Xưa nay
chinh chiến mấy khi trở về.)
Dòng suy nghĩ miên man, thân nhân của
đồng đội tôi sẽ đau khổ như thế nào khi biết chồng con họ không
bao giờ trở lại sau tấm thảm kịch này? Nghĩ đến H. người vợ hiền
thục, thủy chung tháng nào cũng lặn lội thăm chồng trong vùng
hành quân xa xôi: Tây Ninh, Rạch Bắp, Dầu Tiếng, Bình Giã, Căn cứ
4... Thằng bé D. mới vừa 3 tuổi và con bé L. 2 tuổi, cứ thấy cha
thì cười toe toét đòi bồng. H. ơi! Liệu anh có về được để gặp em
và 2 con không?
Về lại xe tôi gọi các sĩ quan Chi đội
trưởng phổ biến tình hình. Gương mặt mọi người nặng trĩu nhưng
không ai lộ vẻ hốt hoảng, hoang mang. Chấp nhận đối mặt với mọi
tình huống xấu nhất! Đêm đó toàn thể quân nhân từ Kỵ binh đến Bộ
binh, Pháo binh. Từ cấp chỉ huy cao nhất đến anh tân binh vừa bổ
sung đơn vị tuần qua đều không ai ngủ được, căng mắt nhìn bóng
đêm. Bóng dáng tử thần lảng vảng mọi nơi, trên không trung, từ
hàng trăm gốc cao su già mập mờ trong màn sương, từ những tàn cây
rậm rạp ven suối... Nhưng đêm đó Cộng quân không tấn công. Mỡ
đang ở trước miệng mèo, sao không có hành động gì cả? Định chơi
trò hú tim sao đây?
Con suối Gia Nhan rộng chừng 10 mét,
chảy vòng cung ôm trọn hướng Nam và Đông–Bắc ấp Nguyễn Thái Học,
bọc lấy đồi Móng Ngựa; mùa này khô cạn, nước chảy róc rách. Hai
bên bờ là cây cối rậm rạp, chằng chịt dây leo, rất dễ cho địch
quân len lỏi tiếp cận đơn vị chúng tôi.
Ngày 15 thàng 4/1975, ngày dài nhất đã
đến. Rạng sáng, đồi Móng Ngựa nơi đóng quân dã chiến của Tiểu
Đoàn 3/52 hứng pháo, lúc càng dồn dập. Pháo 130ly, hỏa tiễn
122ly, cối 82ly từ nhiều hướng nổ chụp lên đồi Móng Ngựa. Cả ngàn
trái trên vị trí diện tích chưa đầy 5km vuông. Sau chừng 1 giờ
mưa pháo, Trung đoàn 95 của Sư Đoàn 325 CSBV tấn công biển người
vào vị trí phòng thủ của Tiểu đoàn 3/52 từ ven suối Gia Nhan. Các
Pháo đội của Tiểu đoàn 182 Pháo binh bắn yểm trợ tối đa từ căn cứ
ấp Nguyễn Thái Học. Nhưng không bao lâu chính vị trí Pháo binh
của TĐ 182 PB cũng bị đè bẹp bởi mưa pháo 130ly và hỏa tiễn 122ly
của CSBV, hết phương yểm trợ cho Tiểu Đoàn 3/52.
Tới trưa sau hơn 4 giờ giằng co từng
mét đất, đồi Móng Ngựa bị tràn ngập. Những lời yêu cầu tuyệt vọng
của các Đại đội trưởng của TĐ 3/52: Trung úy Nguyễn Thanh Trường,
Trung úy Mai Mạnh Liêu mà tôi nghe được qua hệ thống truyền tin
của LLĐN52, xin phi pháo dội nát đồi Móng ngựa, Pháo binh cứ bắn
lên đầu họ, họ đã bị tràn ngập. Lời yêu cầu lặp đi lặp lại vài
lần rồi tắt hẳn. Tôi ứa nước mắt khi nghe những lời yêu cầu này.
Thật là bi hùng, mã thượng như một bản anh hùng ca. Các cao điểm
bảo vệ Bộ chỉ huy Chiến đoàn đã hoàn toàn bị địch khống chế. Tới
4:00g chiều, ban Chỉ huy Tiểu đoàn 3/52 len lỏi địa thế rậm rạp
rút được về bố trí tại phiá Tây Quốc lộ 20, gần ấp Nguyễn Thái
Học.
Mất Đồi
Móng Ngựa, căn cứ Chiến Đoàn bị pháo liên tục. Mặt khác, Sư Đoàn
6 CSBV được bổ sung thêm 2 Trung đoàn Địa phương là Trung đoàn 33
và 274 bắt đầu tấn công căn cứ Chiến đoàn từ hướng Nam, Đông và
hướng Bắc là hướng Đồi Móng Ngựa vừa chiếm đưọc. Bắt đầu 1:00g
chiều, căn cứ nằm trong biển lửa, hàng ngàn quả pháo đủ loại dội
lên đầu chúng tôi.
Khoảng 2:00g chiều, hầm của Bộ chỉ huy
Chiến đoàn hứng hàng chục quả đạn pháo 130ly chính xác nên sụp
đổ. Như một trận đại hồng thủy đổ ập xuống Bộ chỉ huy Căn cứ, tôi
đứng trong xe, nhìn thấy toàn bộ Bộ chỉ huy chạy băng qua bên kia
Quốc lộ 20 vào vườn cao su.
Và tiếp theo, địch bắt đầu tấn công
chúng tôi, dưới ánh nắng gay gắt. Bò sau hàng trăm gốc cao su gìà
tiến tới, len lỏi bờ suối chạy lên. Sau hàng chục quả mìn định
hướng (mìn Claymore) được kích hỏa nổ vang trời, và tiếp theo, 4
khẩu Đại bác 76ly của Chi đội chiến xa M41, 20 khẩu Đại liên 50,
40 khẩu Đại liên 30, 3 khẩu cối 81ly, 3 khẩu 106ly không giật và
hàng trăm vũ khí cá nhân, M16, M79 của Bộ binh đồng loạt khai hỏa
vang cả một góc trời chiến địa. Bên kia, từng lớp từng lớp người
như những con thiêu thân, lao lên và ngã gục. Cơn cuồng phong dữ
dội không quật nổi tinh thần quyết chiến của con cháu Thánh
Gióng. Giữa hỗn độn âm thanh súng đạn của ta của địch, tôi nhận
được báo cáo một chiến xa M41 và một M113 bị bắn cháy, một M113
bị đứt xích vì B40. Tuyến một của Đại đội 52 Trinh sát đã bị cày
nát.
Phía sau
xe Chỉ huy của tôi, chiếc M548 và chiếc GMC chở đạn cũng bị pháo
trúng và bốc cháy. Rất may ngày hôm trước các xe này đã tiếp tế
nhiên liệu và đạn cho tất cả xe trong Chi đoàn, nếu bằng không
trên 5,000 lít xăng dầu, cả tấn đạn các loại chắc chắn xe Chỉ huy
của tôi và vài chiếc M113 gần đó sẽ bị hỏa thiêu. Trong lúc vạn
tử nhất sinh, Thiếu tá Nguyễn Thanh Trước Tiểu đoàn 182 Pháo binh
mặt mày đen sạm vì khói súng, cố gắng kéo hai khẩu 105ly còn lại
ra sát phòng tuyến trực xạ vào địch quân.
Tình thế cực kỳ hiểm nghèo, tôi buộc
lòng phải liên lạc với Đại tá Ngô Kỳ Dũng Chiến Đoàn Trưởng để
xin lệnh rút lui. Nguy ngập quá, trước sau gì cũng bể tuyến vì
lực lượng địch quá đông và hung hãn. Lúc đó, Đại úy Mừng Đại đội
trưởng 52 Trinh sát leo lên xe tôi và bảo: “Lưu ơi! Rút lui mày
ơi”. Tôi với tay bịt miệng anh ta và nói: “Tao đang liên lạc với
18 đây, im chút coi”.
Hôm nay, Đại úy Mừng khác chi lạ. Cách
đây hơn năm, ở Bến Cát, An Điền, Rạch Bắp... Đại úy Mừng ngày đó
tự tin, giọng nói oang oang, tiếng cười sảng khoái. Nhìn ông bụi
đất đầy người, bộ quân phục tác chiến lấm lem, nhàu nát, mặt mày
như được vẽ màu ngụy trang trông te tua quá!
Tôi bảo Đại úy Mừng cho anh em lên xe
gấp, kể cả bị thương và tử thương đều được đưa lên xe càng nhanh
càng tốt rồi ra lệnh rút lui qua bên kia QL–20, vào vườn cao su.
Đoạn hậu là 3 xe M41 và 2 Chi đội Thiết kỵ dưới sự điều động của
Chi đoàn phó là Đại úy Hồ Thúc Hạ, và phá hủy chiếc M113 bất
khiển dụng còn lại.
Xe Chỉ huy của tôi vừa trờ qua chiếc xe
Jeep bể bánh tôi nhìn thấy chú chó cưng Lucky nằm bẹp dưới gầm
xe. Lòng tôi lại chợt nhói lên. Con chó cưng trung thành, hằng
sáng thường cắn mùng đánh thức tôi dậy để khi tôi uống cà phê,
rót cho nó 1 dĩa nhỏ cà phê bốc khói. Chó mà ghiền cà phê! Tôi
bảo anh xạ thủ đại liên xoay nòng qua, một loạt đạn bắn tung
chiếc xe Jeep.... Lúc đó, Đại úy Hạ cũng cho bắn cháy chiếc M113
và hai khẩu pháo 105ly anh hùng.
May mắn làm sao, Chi đoàn và Đại đội
Trinh sát đã rút lui an toàn dưới làn mưa pháo và trước sức tấn
công dồn dập của địch. Vừa vào sâu được trong vườn cao su phía
Tây bên kia QL–20 và bố trí xong, tôi liên lạc với Đại tá Dũng.
Ông đến và lên xe tôi. Nếu không nhờ cặp lon Đại tá trên bâu áo,
tôi đã không nhận ra ông. Trước đây 24 giờ, Ông oai phong, với
giọng miền Nam ấm áp, rộn ràng, mệnh lệnh chắc nịch có phần cọc
cằn. Ngay trước mắt tôi lúc đó, cả thân thể quần áo ông nhuộm đỏ
màu đất và đen màu thuốc súng, luộm thuộm chỉ có đôi mắt là sáng
quắc đầy nghị lực.
Ngay lập tức tôi cũng nhận ra mình,
hình dáng cũng không khác ông và Đại úy Mừng. Màu xanh olive của
chiến bào nay đã thành màu loang lổ nâu đen đỏ, lem luốc tả tơi.
Chúng tôi trao đổi chừng 10 phút thì ngoài đường dầu, người dân
chạy loạn báo là một đoàn chiến xa CSBV đang chạy xuống từ Gia
Kiệm. Tiếp liền đó, một xe M113 lại bị bắn bởi 75ly không giật.
Đến nay tôi nhớ mãi hình ảnh anh lính lái xe Nghiêm khôn ngoan và
dũng cảm, đã lái chiếc xe ra khỏi đội hình phòng thủ chạy lẹ ra
hướng Quốc lộ 20, một khoảng xa. Tới đó anh liền nhảy ra khỏi xe
thoát thân bằng cửa tài xế. Vừa chạy được khoảng 100 mét, chiếc
M113 bật cháy ngùn ngụt.
Chưa bao giờ tôi có cái cảm giác vừa
buồn vừa đau khổ như lúc này, miệng thì khô đắng, mắt cay xè. Chỉ
trong 12 ngày Chi đoàn mất 8 xe M113 và 1 xe M41, chỉ còn lại 15
xe. Địch quân nhất quyết xoá sổ chúng tôi. Hướng Đông, nơi chúng
tôi vừa lui quân, địch đã xuất hiện. Hướng Tây vườn cao su tức
hướng ấp Bàu Hàm nhìn bằng mắt cũng thấy địch quân lố nhố. Hướng
Bắc, tức hướng Gia Kiệm địch bắt đầu tấn công mạnh. Hướng Nam tức
hướng Ngã Ba Dầu Giây súng nổ như bắp rang. Tứ bề thọ địch! Nếu
còn chần chờ không quyết định nhanh, chúng tôi, LLĐN52 sẽ bị tiêu
diệt hoàn toàn. Địch quân đã bịt kín tất cả mọi nẻo đường.
Tôi liền nghĩ ngay phải mở đường máu
xuyên qua vòng vây. Nhìn qua Đại tá Dũng, tôi đọc được trong ánh
mắt của ông. Chúng tôi gần như cùng nói một lúc: “Mở đường máu!”.
Tôi vội vã cho lệnh Bộ binh lên xe, gần xe nào lên xe ấy...
Chúng tôi quyết định mở đường máu về
phiá Tây vườn cao su hướng về ấp Bàu Hàm (một ấp nhỏ của người
Nùng chuyên sống về nghề rẫy hoa màu phụ cách Ngã Ba Dầu Giây 7km
về hướng Tây–Bắc).
Dựa vào hỏa lực mạnh, di chuyển nhanh
của Thiết giáp, và yếu tố bất ngờ, chúng tôi xuyên phá vòng vây.
Ba chiến xa M41 dẫn đầu, các xe M113 bố trí trái, phải rồi cùng
tiến về phiá trước với đội hình quả trám. Cũng may vườn cao su
non nên chiến xa dễ dàng cán rạp, đè bẹp hầm hố địch. Tất cả các
súng liên tiếp nhả đạn. Đại bác 76ly của chiến xa M41 hạ thấp
nòng bắn trước đầu xe bằng đạn nổ, xới tung từng hầm hố. Hàng
chục khẩu đại liên 50 và đại liên 30, hàng trăm cây M79 và M16
thi nhau bắn xối xả trước, bên hông xe để địch không ngóc đầu lên
bắn B40 và đại bác 75ly. Địch quân chống trả mãnh liệt nhưng
Thiết giáp càn qua đầu mà tiến, chúng bung ra khỏi chốt chạy tán
loạn và bị bắn hạ.
May mắn thay, Chi đoàn có 2 hạ sĩ quan
trưởng xa và 2 anh tài xế là người địa phương trước làm rẫy ở ấp
Bàu Hàm. Họ đóng góp quan trọng vào việc dẫn đoàn quân thoát
nhanh và chính xác ra khỏi vòng vây địch quân. Vừa di chuyển vừa
bắn. Không biết bao nhiêu trở ngại gặp phải: suối sâu, đá to, gốc
cao su lớn vừa cưa chưa mục, lởm chởm dễ dàng làm trật xích chiến
xa. Mà bị trật xích trong tình huống hiểm nghèo này thì kể như
chạm mặt với Tử thần. Hỏa lực địch chống trả nặng nề nhất trong
bề dày 500 mét đầu, tới gần bờ suối Bàu Hàm, áp lực nhẹ dần.
Hơn một giờ hành quân vượt thoát, lực
lượng chúng tôi bắt tay được với Chi Đoàn 1/18 Thiết Kỵ do Đại úy
Hà Trung Hiếu bạn cùng khóa với tôi làm Chi Đoàn Trưởng thuộc Lữ
Đoàn 3 Kỵ Binh. Đến gần ấp Bàu Hàm, chúng tôi bố trí phòng thủ
trong một khu rừng chồi thưa thớt. Xa xa, về hướng ấp Nguyễn Thái
Học lửa còn cháy đỏ cả vòm trời. Lúc đó là 8:00g tối ngày 15
tháng 4/1975, một ngày dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của
tôi. Trên bầu trời hàng chục ánh hỏa châu treo lơ lửng cộng với
khói, và những áng mây trôi bàng bạc, tất cả quyện vào nhau tạo
thành một thứ ánh sáng vàng vọt buồn phiền. Nơi đóng quân cây
cối, xe cộ, bóng người lúc ẩn lúc hiện chập chờn ma quái.
Tôi mời Đại tá Dũng ở lại xe, ăn cơm và
nghỉ ngơi qua đêm. Ăn cơm gạo sấy nóng và cá Tuna. Thiết giáp lúc
nào cũng được ăn cơm nóng, chỉ cần đổ nước vào bịch gạo sấy, treo
ở nắp bô xe là có cơm nóng ăn khi tới chỗ dừng quân.
Người lính của tôi bưng ra một nón sắt
đầy nước mời Đại tá Dũng và tôi rửa mặt. Hai người vội vàng bốc
nước vào mặt để xóa bớt những bụi, khói mồ hôi bám dầy từ sáng
đến giờ rồi ra tuyến phòng thủ. Ông và tôi đến từng chi đội để
kiểm tra đôn đốc và quan trọng là khen ngợi để củng cố tinh thần
anh em binh sĩ; ở đó tất cả các y tá làm việc hết sức mình. Cả
hai dừng lại từng xa đội để thăm hỏi. Những cảnh tượng quá đau
thương. Tim tôi nhói lên mỗi khi nghe những người lính Bộ binh,
Thiết giáp, Pháo binh rên rỉ, tuy rằng họ đã cố gắng chịu đựng
những cơn đau nhức. Vết thương đã được băng bó tạm thời nhưng
cũng làm cho họ vô cùng đau đớn. Lòng tôi quặn thắt trước những
chiến hữu đã hy sinh vì tổ quốc nằm gọn trong chiếc poncho buồn
thảm. Trong các xe M113 còn rất nhiều thương binh, nhưng đã tối
và tình hình còn nguy hiểm nên không thể tản thương được. Tôi
ngậm ngùi trở về xe chỉ huy với Đại tá Dũng.
Hai người, Đại tá Dũng và tôi nhìn nhau
rồi cúi mặt, cơm nuốt không vô mặc dù từ sáng sớm đến giờ không
có gì trong bụng ngoài một ly cà phê nóng. Trong lòng dâng tràn
nỗi nghẹn ngào. LLĐN52 đã gánh vác một công việc quá lớn, quá tầm
tay. Không được yểm trợ phi pháo, không được các đơn vị bạn tiếp
cứu. Cơ sự đã thế này biết tỏ cùng ai? Tổng kết tình hình nhân
lực vô cùng đau đớn, 3 phần 4 quân số bị thương hoặc hy sinh của
Trung Đoàn 52 Bộ binh. Về Thiết giáp, 9 chiếc M113 và M41 bị tiêu
hủy, hơn 1/4 quân số bị loại ra khỏi vòng chiến chỉ trong 12 ngày
đêm. Canh bạc thua gần trắng tay. Ôi! Phải chăng đây là đỉnh tột
cùng của đau thương và nghiệt ngã đời lính? Chúng tôi không thể
hình dung nổi ngày mai của cuộc chiến sẽ như thế nào, cho tôi và
đồng đội thân yêu của tôi.
Ngày 16/4/1975: Sáng sớm toàn bộ Chiến
đoàn 52 còn lại di chuyển ra hương lộ đất đỏ nối liền QL–1 và ấp
Bàu Hàm. Chúng tôi vừa đến cùng một lúc với đoàn xe GMC và Hồng
thập tự để tản thương và đưa Trung đoàn 52 Bộ binh về Long Bình.
Tôi tiễn Đại tá Dũng đến tận xe jeep
của ông, chào tạm biệt và bắt tay từ giã, ông bắt tay tôi thật
chắc, thật lâu và nói hy vọng chúng ta còn gặp nhau trên cùng một
chiến trường và cảm ơn với giọng trầm buồn. Nhưng vận nước nổi
trôi, từ đó đến giờ tôi và ông chưa một lần gặp mặt. Tôi trở lại
và đứng nghiêm trên xe, và hầu hết Kỵ binh của Chi đoàn đều đứng
nghiêm đưa tay chào khi đoàn xe bắt đầu chuyển bánh.
Chào vĩnh biệt các anh đã anh dũng hy
sinh vì nước non, bây giờ các anh đang được vui sống muôn đời;
“Chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời”
(Kinh Hòa Bình).
Chào tạm biệt các anh đã hiên ngang chiến đấu, can trường xả thân
vì dân tộc trong suốt thời gian 12 ngày đêm vừa qua cùng với Chi
đoàn 2/5 Thiết Kỵ. Nguyện cầu cho các anh gặp nhiều may mắn trong
thời gian tới.
Tất cả đều đứng nghiêm chào cho đến khi
đoàn xe khuất hẳn sau đám bụi đỏ mịt mù./.
Kỵ Binh Vũ Đình Lưu
Chi đoàn Trưởng Chi đoàn 2/5 Thiết Ky
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, March 10,
2024
Cập nhật ngày Thứ Bảy,
December 7, 2024 – Thêm “lời tác giả”
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang