Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
ký
Chủ đề:
Huế
Tác giả:
Lý Hoàng Phong
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời giới thiệu: Mời quý vị đọc lại một đoản văn
về thành phố này của tác giả Lý Hoàng Phong. Ông tên thật là Đoàn
Tường, sinh năm 1942 tại Huế, vào Nam làm báo, khởi nghiệp với
truyện Sau Cơn Mưa đăng trên nhật báo Dân Chủ. Ông là anh ruột
của nhà thơ Quách Thoại, cả hai đều cộng tác với tạp chí Sáng
Tạo. Lý Hoàng Phong là chủ nhiệm tạp chí Văn Nghệ, biên tập viên
Đài phát thanh Sài Gòn, chủ nhiệm nguyệt san Quê Hương, tuần báo
Thế Kỷ 20, Hiện Đại... Bài viết về Huế này đăng trên tạp chí Vấn
Đề (số 4, ra Tháng bảy 1967 trước biến cố Tết Mậu Thân 1968) như
một cái nhìn vào thành phố bí ẩn, khó hiểu và nhiều oan khiên
này...
Khuyết Danh
Mỗi lần về thăm rồi từ
giã Huế, tôi vẫn từ giã thành phố ấy như một kẻ trốn chạy, Huế,
nơi tôi đã sinh ra và lớn lên. Thật ra, tôi không bao giờ quên
được thành phố đó, thành phố của một quê hương như đã mất nhưng
bao giờ cũng có mặt. Nhưng nhớ đến nó, tôi vẫn nhớ như người ta
nhớ đến một ngôi chùa, một dòng sông hay một đêm trăng. Hình ảnh
Huế gợi lên trong trí tưởng vẫn cho tôi cảm giác đứng trước một
cái gì vĩnh viễn không đổi thay, vĩnh viễn im lặng, nhưng vẫn
luôn khuấy động đời sống con người như một bí ẩn. Tôi nghĩ: Huế
là thành phố của hư vô. Nó xô đẩy và cuốn hút con người như hư
vô.
Đà Lạt
cũng cho người ta cảm giác đó. Với bầu trời mênh mông trên đầu,
những núi đồi trùng điệp, những con đường vắng chuồi đi mất hút,
những mặt hồ im lìm, những đêm sương sa mù mịt ánh đèn nhòe ra
lung linh ở xa như những ánh sáng của một thế giới nào khác.
Nhưng Đà Lạt chưa phải là một thành phố. Nó còn quá trẻ. Nó chưa
có đủ một lịch sử, một cuộc đời để cho những cảm giác siêu hình
đè nặng trên chúng ta. Huế có đủ dĩ vãng để cho hư vô vây quanh
con người.
Bước xuống phi trường Phú Bài, anh đã gặp phải một cảm giác ngây
ngây lạc loài. Con tàu chở anh vừa bay men theo một miền biển
xanh lấp lánh ánh nắng, nó vừa vượt qua một ngọn núi thấp, lướt
trên một vùng cát trắng với những bãi đất nhấp nhô, lởm chởm
những bụi cỏ khô cháy, nó hạ thấp xuống trên một khóm tre trước
khi đáp xuống phi đạo. Đứng trên sân bay mất chìm giữa vùng sa
mạc đó, anh thở một thứ không khí nóng hổi, một thứ gió nồng nàn
táp vào người làm anh say say. Những hành khách mang giỏ, mang va
ly chậm chạp rời sân bay. Một người con gái mặc áo trắng chạy ra
đón người thân. Một thân hình và một khuôn mặt đều đặn, một mái
tóc đen chải sát trên đầu với một đường rẽ giữa và thả xuống
ngang vai. Người con gái có thấy anh, có nhìn anh, anh không
biết, nhưng anh cứ tưởng đôi mắt đen lẩn khuất chung quanh, như
một ảo ảnh.
Chiếc xe lam chở anh rời phi trường ra đến quốc lộ và chạy về
thành phố. Qua những đám ruộng, những khóm tre, những mái nhà
tranh, chiếc xe chạy bên cạnh một con đường sắt, anh nhìn thấy
những dãy núi xám ở gần trước mặt và gần hơn, những ngọn đồi trần
trụi. Bây giờ đã thấy hiện ra những xóm nhà chen chúc, những mái
ngói, những khu vườn, chiếc xe bẻ quanh, chạy thẳng qua một chiếc
cầu ngắn, một mái chợ và một khu phố nhỏ rồi đổ xuống trên một
mảnh sân, nơi một ngã tư. Anh đã đến Huế giữa một trưa hè. Anh
thả mình trên một chiếc xích lô, hai chiếc bánh thong thả lăn
trên một con đường vắng lấp loáng bóng cây, anh nghe một im lặng
mênh mông dâng lên từ cảnh vật và ở chính trong anh. Anh đang đi
vào thành phố hư vô.
Anh về đến gia đình và biết rằng sắp có
một ngày giỗ lớn và ngày mai, trước ngày giỗ, anh đi tảo mộ với
người cha. Anh trở lại nơi những ngọn đồi trần trụi và những con
đường cát trắng với một ngọn suối nhỏ. Anh leo lên những ngọn
đồi, đi từ ngôi mộ này đến ngôi mộ khác, anh thắp những cây hương
cắm trước những tấm bia, anh vái lạy những người đã chết, ông cố,
bà cố, ông nội, bà nội, những anh em đã mất. Đứng nơi ngôi mộ
người cố nằm khoanh giữa một nấm đồi dưới chân một ngọn núi thấp,
nhìn xuống ngôi nhà thờ nhỏ sơn trắng nằm giữa bãi thung lũng bên
cạnh một khóm thông già, anh sống lại với dĩ vãng anh đắm chìm
trong thế giới vô hình giữa cảnh vắng lặng của núi đồi. Và ngày
giỗ đến với mùi hương trầm lan tỏa trong nhà, bàn thờ sáng choang
đèn nến và những hình ảnh người chết hiển hiện lại với mọi người,
những anh em, bà con, chú bác, cô dì tụ họp, những người chết
luôn có mặt trong đời sống của thành phố.
Những ngày hôm sau, anh đi thăm bà con,
những bạn bè quen thuộc cũ. Anh đi vào Thành Nội với điện đài cổ
kính, với những căn nhà vuông vắn giữa một mảnh vườn nhỏ có hàng
dậu xanh, trước sân có cây kiểng, có bồn hoa, có cây ăn trái mỗi
khu nhà là mỗi vũ trụ riêng biệt. Anh đi qua Ao–Hồ, nơi những khu
vườn rộng, những kiểu nhà quan cách, có bình phong đằng trước,
căn nhà kiểu cổ ẩn dấu bên trong. Anh đi qua Vĩ Dạ, về An Cựu,
lên Bến Ngự, Phú Cam rồi đến Nam Giao. Ở đâu, trong mỗi nơi anh
đi qua, trong mỗi gia đình anh ghé thăm cũng có một phần hư vô
bao bọc, nơi những bàn thờ khuất phía sau những tấm màn, nơi
những khoảng trống lặng lẽ giữa đồ vật, nơi khu vườn đầy cây lá,
nơi màu trắng những tà áo con gái, nơi con mắt một người gặp trên
đường, trên dòng sông, trong ánh trăng.
Huế có lẽ là thành phố độc nhất trên
thế giới mà những nữ sinh gặp nhau buổi sáng ở nhà trường với câu
nói đầu tiên “đêm qua trăng đẹp quá”. Về với Huế là về với những
đêm trăng, một thứ trăng của Hàn Mặc Tử, trăng của tôn giáo, của
Đông phương, của một thiên nhiên đầy tình cảm. Đêm, nằm trước sân
nhà hay nằm trên gác, trăng chơi với trước mắt anh. Đêm, anh đi
trên những con đường đầy trăng ra đến ngoài bờ sông và anh nhìn
trăng tràn ngập trên dòng nước anh nhớ đến bao nhiêu đêm trăng
của tuổi thơ và của những ngày niên thiếu đầy ảo mộng. Về với Huế
là về với con sông anh không bao giờ quên, con sông đã trở thành
một với thành phố, gắn liền với đời sống con người chung quanh,
con sông mù sương buổi sáng, con sông rực rỡ buổi trưa, con sông
êm đềm buổi chiều, con sông man mác buổi đêm.
Một buổi chiều anh xuống bến đò Thừa
phủ và anh thấy cả một dòng nước màu xanh lá cây óng ả, một hoàng
hôn, anh qua bến đò Vĩ Dạ và mặt sông là cả một màu huyết dụ lấp
lánh mênh mang; cũng một buổi chiều, anh lên đồi Vọng Cảnh, trên
đường đi, anh thấy con sông lấp loáng dưới xa như một giải lụa
huyền, không như chảy về mà như xuôi lên một miền Thiên Thai xa
vời, một đêm nào, đứng trên cầu Tràng Tiền, anh nhìn xuống mặt
nước đen in bóng những bông mây trắng nõn, một mảnh trăng và
những vì sao, và ngày lại ngày, con sông im lìm chảy mãi như dòng
thời gian đi vào bất tận. Và tất cả, ánh trăng và dòng sông, tất
cả mang lời mời gọi của một hư vô đầy huyền nhiệm, tràn ngập, xâm
chiếm lấy anh.
Huế có phải là thế, là thành phố của im
lặng, của ánh trăng và của dòng sông. Nếu vậy làm sao giải nghĩa
được sự vùng dậy của thành phố đó những năm qua. Hay là sự vùng
dậy cũng chỉ là một tác động của hư vô. Và đó là điều bí ẩn của
một thành phố trong lịch sử. Một buổi sáng, anh đến nhà thờ Phú
Cam, anh bước lên những hàng tầng cấp cao và những mặt sân rộng,
nơi đây những toán học sinh nhỏ đang chơi đùa, múa hát, anh lên
đến hành lang của nhà thờ, vào bên trong những ông già bà già quì
đọc kinh giữa những cây cột lớn và trong một thứ ánh sáng nửa
chừng, với một giọng ngân nga anh chưa từng nghe, nhắc anh nhớ
đến những điệu đàn độc thoại Tây–ban–nha.
Anh đi qua chùa Từ Đàm cách đấy không
xa, cũng bước lên những tầng cấp cao và đi vào trong kiến trúc
của một thứ chùa Trung Hoa, khép kín, cao lớn và uy nghi, khác
hẳn với vẻ trang nhã đơn sơ của một chùa Bảo Quốc. Anh nhớ rằng
vùng Phú Cam là nơi nuôi dưỡng tinh thần một gia đình đã làm cuộc
cách mạng nhân vị và chùa Từ Đàm là nơi phát xuất một cuộc cách
mạng khác mà chung cục đang còn là một dấu hỏi. Anh tiếp tục cuộc
hành trình về phía Nam Giao, rẽ vào một cảnh đồi thông, bước đi
trên con đường lặng lẽ. Anh lên đến đỉnh đồi và thành phố hiện ra
trước mắt anh, dưới xa; con sông lẩn khuất, ẩn hiện giữa những
vùng xanh cây lá, và hai bên bờ, cột cờ Thành Nội, góc chợ Đông
Ba, mái trường Đại học, tòa nhà Hành Chánh... Anh đang ở thành
phố trên cao nhìn xuống thành phố dưới thấp.
Một thành phố cũng như một con người.
Nó có một đời sống của thể xác, một đời
sống của trí thức và một
đời sống của tâm linh. Đặc biệt của Huế là ba khu vực đó của đời
sống được phân ra trong ba khu vực của thành phố, với những giới
hạn, những tầng cao thấp rõ rệt. Khu tả ngạn là khu vực đời sống
kinh tế với phố xá buôn bán dọc theo con đường ven sông từ Ba
Vinh đến chợ Đông Ba. Khu hữu ngạn là khu vực của đời sống chính
trị và văn hóa với công sở hành chánh, các trường đại học và
trung học. Và khu vực thứ ba là của đời sống tâm linh ở một tầng
cao hơn là Bến Ngự, là Phú Cam, là Nam Giao, với những con dốc
đưa lên những vùng đồi núi cao lên mãi là núi Ngự, là Thiên Thai,
nơi đây là miền ngự trị của tôn giáo, với nhà thờ Phú Cam và
những ngôi chùa đầy dẫy khắp nơi.
Trước khi có mặt người Tây phương thì
ba khu vực này của đời sống đều ở về phía tả ngạn: khu vực Đông
ba, khu vực Thành nội và khu vực chùa Thiên mụ. Nhưng người Tây
phương đã đến, tạo ra một thành phố hữu ngạn của văn minh phương
Tây đối chiếu với thành phố cũ của phương Đông.
Trong những trang cuối của tác phẩm Le
Zero et l’infini, hình như Koestler đã tưởng tượng đến một cuộc
cách mạng của những tu sĩ, tiếp theo cuộc cách mạng của những ủy
viên chính trị. Nếu Huế, nơi mà hư vô đang còn bao trùm đời sống,
nơi mà những lực lượng kinh tế chưa đè bẹp con người như Sài Gòn
và Hà nội, đã là nơi phát sinh cuộc cách mạng như Koesler đã từng
tưởng tượng, thì đấy không là một sự kiện khó hiểu.
Đã có một thời kỳ con người đắm chìm
trong hư vô và đã có một thời kỳ con người muốn hoàn toàn chối bỏ
hư vô coi nó như một sức mạnh ma chiết con người. Mark đã nói đến
tình trạng vong thân trong đời sống tôn giáo, trong chế độ tư
bản, đến nay người ta đang nói đến một tình trạng vong thân khác
trong đời sống kinh tế, trong chế độ cộng sản. Nhưng hư vô là sự
sống, là sức mạnh kết hợp và giải phóng hay trái lại. Đó là câu
hỏi một thành phố có thể trả lời trong lúc dân tộc đang trên
đường đi tìm sự hợp nhất để trở thành một thực thể toàn diện.
Nghĩ về Huế với bao nhiêu ký ức và ý
tưởng, có lẽ tôi đã hiểu được một phần nào tại sao Huế vẫn đem
đến cho tôi những cảm giác đầy mâu thuẫn. Tôi mơ ước một ngày trở
về thành phố đó mà không còn thấy bị xô đẩy và phải trốn chạy. Đó
là ngày tôi không còn thấy choáng ngợp trước sự im lặng, không
còn thấy sa lầy trên những con đường không bóng người, không còn
thấy chết đuối giữa đêm sâu trong một tiếng chuông chùa bỗng
nhiên vang động. Ngày đó tôi cũng sẽ hiểu được điều bí ẩn của một
thủ đô đã xuất hiện do lời phán từ khoảng không.
“Huế là nơi đi xa để mà nhớ, không
phải là nơi sống để mà thương” – Nữ văn sĩ Túy Hồng viết
trong một truyện ngắn của bà.
LÝ HOÀNG PHONG
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Danh sách những bài viết trong trang nhà GĐMĐVM/DMV
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Patrick WILLAY chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 20,
2022
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang