Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
Truyện
Chủ đề:
chuyện tình đẹp
Tác giả:
Tôn Thất Cường
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Ở đời
không gì đẹp bằng tình yêu. Một nhà văn ngoại quốc từng nói:
“Cuộc đời thiếu ái tình chẳng khác nào một mảnh vườn thiếu hoa,
một đêm thiếu trăng và một ngày thiếu ánh sáng mặt trời.”
Tình yêu nhất định phải cao thượng
chung thủy vì nếu thiếu tình yêu thì con người sẽ không còn lạc
thú nữa. Tình yêu đối với tôi vẫn là một vật đẹp muôn màu.
Nhưng có mấy ai được tận hưởng hết
những mật ngọt yêu thương trong vườn hoa tình ái của cái thuở ban
đầu lưu luyến ấy, hay lặng yên nhìn tim mình rỉ máu với nỗi đau
hằn sâu trong ký ức?
Mối tình đầu của tôi bắt đầu từ khi còn
ở trại Bạch Đằng II đến sau mùa Noel 1971, khi chiến hạm HQ231 về
bến sau chuyến công tác 3 tháng 10 ngày và tôi được biết người
yêu của tôi đã đi lấy chồng.
Mối tình không thật sự chấm dứt ở đây
nhưng vẫn còn tiếp diễn mãi. Cho dù không gian có chia phôi nhưng
thời gian đã không thể xóa nhòa được trong tâm trí của tôi những
kỷ niệm của một thời đã yêu và đã chết.
Theo thời gian cuộc tình lắng dần trong
tận cùng sâu thẳm, nhưng nó vẫn cứ như những đợt sóng ngầm chỉ
chợt chờ giây phút nào đó rồi dâng trào như thác đổ.
Thời gian trôi qua với bao nhiêu biến
đổi, thấm thoát mà đã 35 năm. Ngày hôm nay mắt đã mờ, trí đã mòn
và tóc đã bạc, nhưng những kỷ niệm xưa như vẫn còn vương vấn mãi
trong tôi.
Chuyện tình như gió qua truông
Tuởng
rằng đã lỡ... vẫn luôn mặn nồng.
Bỗng
nhiên rực rỡ nắng hồng
Bỗng nhiên rạo
rực tình trong bất ngờ
Bây giờ tàu lại bến xưa
Bao nhiêu âu yếm cho vừa nhớ thương
Hoa
xưa một bóng đêm trường
Tình xưa vẫn
ngát trầm hương thuở nào.
–(Thơ Hoa Trùng Dương)
Tôi trở về Việt Nam vào dịp Noel năm
2005 sau hơn 30 năm xa cách để thăm lại người cậu ruột ở Huế và
người O ở Sài Gòn. Tôi chỉ ở Sài Gòn có 3 ngày để thăm người O và
chờ đợi đưa O đi bệnh viện cứu cấp; người O đã mất một ngày sau
khi tôi trở về Hoa Kỳ. Thời gian rất eo hẹp vì tôi chỉ có hơn một
tuần để thăm Việt Nam, thật là quá ngắn ngủi đối với tôi hầu như
trong mọi vấn đề.
Tuy vậy, tôi đã có dịp trở lại căn nhà
xưa cũ của người yêu ở bên kia cầu chữ Y, nhưng không có tin tức
gì mới của cố nhân. Chủ nhà mới cho biết đã mua căn nhà này từ
nhà nước và cùng một câu trả lời với người chị dâu của tôi cách
nay trên 10 năm: “Gia đình chủ cũ của căn nhà này đã vượt biên
mất tích.”
Vào
ngày cuối ở Sài Gòn, tôi theo xe Honda người cháu đi mua băng keo
dán thùng hành lý và tình cờ thấy lại con đường Bùi hữu Nghĩa
quen thuộc năm xưa đã dẫn dắt tôi tìm đến địa chỉ nhà Tuyết Hà,
bạn của Thùy Linh.
Căn nhà đã được đổi chủ sau năm 1975;
nhờ dò hỏi hàng xóm, tôi gặp được anh Hai của Hà. Anh Hai cho
biết: “Thùy Linh đã đi kinh tế mới” và chỉ dẫn cho tôi tìm gặp
được cô Hà ở Chợ Lớn Mới. Tôi thật vui mừng khi Hà cho biết Thùy
Linh đã có ba cháu ngoại và hiện sống chung với gia đình con gái
lớn ở Mỹ. Cầm trên tay tấm check ghi tên người xưa, tôi như khộng
tin vào mắt mình và nghe tim mình xao động như sống lại với những
kỷ niệm của một thời hai đứa bên nhau. Mọi chuyện trở về thật
nhanh trong tôi.
Cách đây gần 35 năm, một buổi chiều sau
dịp Noel năm 1971, trợ chiến hạm Nguyễn Ðức Bổng, HQ231 (LSSL
231, Landing ship support large) của tôi trở về bến hạm đội sau
chuyến công tác 100 ngày, tôi đã ghé nhà thăm gia đình Thùy Linh.
Vừa bước chân vào nhà, tôi chợt đứng
lặng người, mọi vật như quay cuồng trước mặt. Tôi không nghĩ đây
là sự thật, nhưng đó đã là sự thật trong căn phòng còn vương dấu
vết trang hoàng của ngày cưới – Thùy Linh đã lấy chồng. Tai tôi
như nghe tiếng văng vẳng đâu đây tiếng nói của Thùy Linh: “Thùy
Linh rất thương anh và mình yêu nhau, nhưng vì tự ái và danh dự
của gia đình, Thùy Linh không bao giờ về làm dâu gia đình anh
hết”.
Tai tôi
lại nghe như có tiếng nói của ông hàng xóm: “Cường, tao nói cho
mầy biết, trước sau gì mầy cũng về căn nhà này, mầy liệu hồn tao
nghen Cường!”
Từ nhà sau
ở chiếc bàn, Ba má và các em của Thùy Linh đều ngừng ăn và nhìn
tôi. Ông bà tiến ra phòng khách và chúng tôi cùng ngồi xuống
trong bầu không khi thật im lặng.
Tôi được nghe má của Linh nhắc lại
những câu nói yêu thương: “Kỳ này tàu anh Cường sao lâu về hả
má?” Bà cho biết một ngày trước khi lấy chồng, Thùy Linh đã lấy
thư của tôi ra đốt và khóc.
Tôi hỏi Ba của Thùy Linh:
– “Thưa bác, chồng Thùy Linh là ai
vậy?”
– “Con
trai bạn thân của bác”.
Tôi hỏi tiếp:
– “Thùy Linh có vui không?”
Qua giọng ngập ngừng, ông nói:
– “Thấy nó cũng vui vậy”.
Tôi trả lời theo trực giác:
– “Nếu đời Thùy Linh có gì, hai bác
trách nhiệm; dù sao cháu cũng cầu cho Thùy Linh hạnh phúc”.
Ba Thùy Linh ôm vai tôi và nói:
– “Yêu như vậy mới là yêu chứ; cháu có
học, bác tiếc quá”.
Ông nói tiếp:
– “Vợ chồng là duyên số; con có biết
ông tơ bà nguyệt, họ se duyên?” Cũng như Thùy Linh đã từng nói:
“Định mệnh cho mình duyên gặp gỡ, nhưng nợ vợ chồng chắc không
có”.
Điều này
thật đúng với sự hiểu biết của tôi hôm nay.
Ðời sống con người đều bị chi phối bởi
luật nhân quả. Kinh Thánh đã nói rõ điều này: “The law of
universe manifest in him.” – trong câu chuyện người mù. Luật của
vũ trụ tức là luật của tình thương và luật của nhân quả. Ở thế
giới này, chúng ta phải tuân theo luật nhân quả, đó là ý nghĩa
của câu “As you sow shall you reap/Gieo gì gặt đó”. Vợ chồng là
duyên số và số mệnh hay định mệnh không thể thay đổi được. Song
lúc đó tôi cũng móc bác một câu: “Thưa bác, người ta hay lạm dụng
hai chữ duyên nợ để che lấp lỗi lầm của mình trong quá khứ”. Hai
bác đã đưa tiễn tôi ra cửa và nhìn theo cho đến lúc chiếc xe lam
đón tôi xa khuất.
Bản nhạc “Thúy đã đi rồi” mà tôi thường
hay hát thời còn học thi trong Đại nội Huế chợt vang vang trong
tôi:
“Thúy đã
đi rồi biết làm sao cho nhớ thương nguôi...
Thúy quá vô tình, ví dù em có hay dỗi hờn,
cũng vẫn hơn là bến tình anh lê gót cô đơn.”
Xe đến bến Phạm ngũ Lão lúc nào tôi
không hay khi có người lên tiếng nhắc tôi bước xuống. Tôi đi vòng
qua chợ Bến Thành và bước vào một tiệm mì ở đường Lê Thánh Tôn,
gọi hai chai Bireleys – loại nước Thùy Linh thường thích; tôi vẫn
làm thế cho dù Thùy Linh không có mặt. Tôi không nuốt được sợi mì
và lần đầu tiên tôi cảm thấy đau nhói ở tim.
Đốt điếu thuốc trên môi, tôi thả bộ
trên đường phố hướng về đường Tự do để ra công trường Mê Linh.
Ðến đường Tự do, tôi chợt nhớ về mùa Noel năm trước, cũng con
đường này tôi đã đưa Thùy Linh đến nhà thờ Ðức Bà để cầu xin Ðức
Mẹ cho chúng tôi suốt đời có nhau. Một kỷ niệm thật đẹp đã được
Thùy Linh nhắc nhở, nhưng tôi chỉ đưa Thùy Linh vào giáo đường có
một lần và chỉ một lần rồi vĩnh viễn chia tay.
Ðang hoài kỷ niệm, bất chợt một chiếc
xe Honda trờ tới.
– “Thiếu úy về đâu?”, một hạ sĩ hải
quân lên tiếng.
– “Anh cho tôi về cầu
H”.
Tối đó tôi
ngủ tại tàu.
Hôm sau tôi gặp Tuyết Hà; Hà đã cho tôi xem tấm hình Thùy Linh
đang chắp tay trước bàn thờ với nét mặt và ánh mắt u buồn bên
cạnh chồng trong ngày cưới. Hà nói: “Đám cưới thật lớn, song nếu
tàu anh về kịp thì ngày cưới chắc sẽ không diễn ra”.
Tấm hình làm tôi xúc động và Hà đã tặng
tôi tấm hình này. Tôi lưu giữ nó như một kỷ vật nói lên nỗi đau
chung – (Tấm hình này cùng chiếc áo dài của Thùy Linh tặng cho
tôi nằm trong sac marine bị bỏ lại Việt Nam ngày tôi phải di tản
vào năm 1975).
Tôi đã nhờ Hà trao lại cho Thùy Linh
một chiếc thuyền bằng mây đã mua từ Nam Vang và bức hoạ chân dung
của Thùy Linh do tôi vẽ trong chuyến công tác vừa qua tại Năm
Căn.
Tôi không
muốn tin vào mệnh số nhưng trước những diễn biến đổi thay, gặp
rồi yêu, tan vỡ rồi lại sum họp của cuộc tình mình; mọi chuyện
xảy ra như một đoạn phim buồn mà chúng tôi là những nhân vật
chính phải đóng cho xong vai trò của mình.
Tôi cũng muốn không tin vào nghiệp lực
vô hình; nhưng nhớ nhung nuối tiếc mãi không nguôi; vòng dây yêu
thương đó như rút ngắn lại, trả chúng tôi về với nhau.
Ngày Ba của tôi đến gặp Ba của Thùy
Linh đã tạo nên một niềm tin vui trong gia đình. Họ hàng của Thùy
Linh chờ đợi ngày vui của chúng tôi, nhưng ngày ấy không bao giờ
đến, vì Ba của tôi đổi ý sau đó, không tán thành cuộc hôn nhân
của chúng tôi. Ba tôi muốn tôi về Huế làm việc và lấy vợ để gần
gia đình.
Có người xin hỏi cưới Thùy Linh cho nên
Ba của Thùy Linh không muốn tôi đến nhà nữa. Thùy Linh là con gái
đầu; ông muốn Thùy Linh đi lấy chồng.
“Con gái không để quá tuổi 25”, Ông nói
thế.
Một ngày
trước khi tàu đi công tác, tôi hẹn gặp Thùy Linh để hỏi thăm về ý
định của Ba Thùy Linh như thế nào? Bận việc nhà, Thùy Linh đến
trễ và cho biết Ba không bằng lòng chờ đợi. Vì là sĩ quan trực
của HQ231, tôi đã từ chối không nhận lời đi chơi với Thùy Linh
lúc đó – Sau này tôi mới biết Thùy Linh muốn đi với tôi để tìm
cách giải quyết... hay một niềm tin của tôi cho nàng, nhưng tôi
đã bỏ lỡ một cơ hội – một cơ hội cuối cùng của hai đứa.
Đã quá giờ điểm danh tôi phải vội vã
trở về tàu. Một chiếc xe jeep đi kiểm soát chiến hạm của Bộ tư
lệnh hạm đội vừa chạy ngang trước mặt tôi, lúc tôi đang tiến gần
HQ231. Sáng hôm sau, tôi trình diện HQ Trung tá Bùi kim Nguyệt,
Tư lệnh phó kiêm Tham mưu trưởng hạm đội.
Lúc trình diện, ông ta hỏi tôi một câu:
– “Sĩ quan trực có quyền rời tàu
không?”
– “Không”, tôi đáp.
– “8 ngày trọng cấm!”
Một trung sĩ quân cảnh 201 nói: “Mấy
bữa nay Tổng tham mưu không nhận sĩ quan nữa, thiếu úy về đi.”
Tối hôm đó, trước khi theo tàu đi công tác, tôi ghé thăm Thùy
Linh và hứa xong công tác sẽ đi Huế thuyết phục gia đình xin
cưới.
Lúc từ
giã, tôi nghe tiếng Thùy Linh gọi giật ngược lại; vừa xoay người
thì nhận được một nụ hôn phớt nhẹ trên má. Cái nụ hôn này đã cho
tôi nhớ khắc khoải suốt cả cuộc đời còn lại về sau. Cũng ngay lúc
đó Thùy Linh bỏ trong tay tôi một sợi dây chuyền duy nhất trên
cổ, có hình trái tim và chiếc chìa khoá như gởi trao những yêu
thương còn lại cho tôi trước khi Thùy Linh âm thầm quyết định ra
đi. Tôi là người sau cùng kịp bước lên tàu đúng lúc tàu đang từ
từ tách bến.
Trong thời gian tàu đi công tác, tôi có dịp ghé bưu điện ở Tân
Châu gởi cho Thùy Linh hai lá thư, một trong hai lá thư tôi cho
biết sẽ có mặt ở Sài Gòn vào dịp Noel nhưng những lá thư này đã
không đến tay Thùy Linh.
Tàu dời vùng hoạt dộng về Năm Căn và
trong thời gian này tôi không hề nhận được thư nào của Thùy Linh.
Buồn chán, tôi dành thì giờ vào phòng hành quân vẽ chân dung Thùy
Linh cho đến lúc tàu về bến.
Ðây là chuyến đi rất thanh bình không
hề đụng trận nhưng lại là một chuyến đi lâu nhất trong thời gian
tôi phục vụ trên HQ231, kéo dài 3 tháng 10 ngày. Lúc tàu sắp mãn
công tác, tôi nhận được lệnh thuyên chuyển đến đơn vị mới: Ðài
kiểm báo 101 tại cù lao Ré thuộc Vùng I; phải chăng định mệnh đã
an bài?
Sau chuyến công tác này, tôi muốn sớm
rời khỏi thành phố Sài Gòn, nơi mà lúc mới ra trường tôi đã chọn
HQ231 để có thể gặp lại Thùy Linh và gia đình sau mỗi chuyến công
tác.
Ngày đầu
tiên bước xuống chiến hạm HQ231, tôi đã chứng kiến cảnh tang tóc.
Tàu trở về bến không có hạm trưởng sau khi bị phục kích ở
Neakluong, Kampuchia, trên sông Mekong. Một thủy thủ đang rửa
những vết máu còn dính lại trên sàn tàu. HQ Đại úy Trần ngọc
Thạch Khóa 12 – Hạm trưởng – bị thương nặng và được giải ngũ sau
đó. HQ Thiếu úy Nguyễn văn Xuân Khóa 18 cũng bị thương. Thủy thủ
Lâm trọng pháo bị trúng đạn rơi xuống sông mất tích; Trung sĩ
Tiêu trọng pháo bị thương nặng. Vách tả hạm trên sân thượng bị
thủng một lỗ lớn và khẩu đại bác 41 (40ly đôi) bị đạn nên bất
khiển dụng. Hạm phó HQ Trung úy Bùi văn Trung Khóa 16, Thiên xứng
II Dương Mạnh Quân Khóa 19 và Thiếu úy Ngô Minh Xí đã đưa tàu về
bến.
Một năm
sau, tình hình chiến sự trở nên sôi động; địch gia tăng áp lực và
thường xuyên phục kích tấn công các đoàn tàu tiếp tế Kampuchia.
Tin chiến sự từ nhật báo Sóng Thần: “... Ðoàn convoy đi Nam Vang
bị bắn, HQ231 bị phục kích tại Neakluong...”
Thật vậy, HQ231 đang trên đường từ Nam
Vang đã bị địch phục kích vào 2 giờ sáng. Ðịch dùng hai mũi giáp
công cốt để đánh đắm tàu từ thành phố Neakluong và trải dài cho
đến nhà máy giấy gần biên giới Miên–Việt. Ngoại trừ khẩu 76.2ly,
tất cả hỏa lực sẵn có trên tàu đều phản pháo ngay lập tức dọc hai
bờ sông nơi có tiếng súng địch: hai khẩu bích kích pháo 80ly, bốn
khẩu đại bác 20ly, bốn khẩu đại liên 12.7ly, hai khẩu đại bác
40ly đôi. Sau khi nhiệm sở tác chiến chấm dứt, tôi bước vào phòng
lái; trong ánh đèn mờ nhạt, Trung sĩ Thanh vận chuyển la lên:
“Máu! Thiếu úy Cường bị thương Hạm phó ơi!” Tiếng Hạm phó từ đài
chỉ huy vọng xuống: “Gọi y tá!” Hạ sĩ y tá Minh chạy đến. Tôi chỉ
bị thương nhẹ ở tay. Khẩu 20ly bị trúng đạn cho nên bất khiển
dụng. Thủy thủ Tài gục ngã, được trực thăng tải về bệnh xá ở Long
Xuyên cấp cứu. Đạn địch bắn ngay trên thùng đạn nồi của khẩu 20ly
nơi tôi đã đứng trước đó không quá 30 giây. Sau đó tàu về neo ở
Tân Châu, tôi nhận được thư của Thùy Linh với lời cầu chúc: “Dạo
này tàu đi Kampuchia nhiều nguy hiểm, cầu mong ơn trên ban nhiều
ơn lành đến với anh”.
Phố thị Sài Gòn không còn là khung trời
hoa mộng của tôi nữa; nó chỉ còn lại đổ vỡ và mất mát. Nhờ Trung
tá không quân Lê Hoàng – chồng của người chị họ – giúp đỡ, tôi
được máy bay chở ra Đà Nẵng ngày hôm sau.
Tại Căn Cứ Yểm Trợ Tiếp Vận Ðà nẵng,
tôi gặp lại HC2 Nguyễn ngọc Châu CK. Châu và HC2 Nguyễn văn Độ là
hai người bạn đã cùng đi với tôi đến thăm Thùy Linh tại sở làm
trong thời gian tạm trú tại Bạch Ðằng II. Lúc đó, Thùy Linh đi
Velo Solex đến, nhoẻn miệng cười khi thấy tôi ngạo nghễ đứng
chống hai tay và tréo hai chân, còn Châu thì cười khúc khích và
vỗ nhẹ vào đầu tôi.
Ngày nay, 37 năm sau, tôi cho Châu biết
đó là thế đứng của chàng Thiếu úy Allen Kennedy, nhân vật chính
trong cuốn truyện “La fleur cachée/Đóa hoa thầm kín” của văn sĩ
Pearl Buck – cuốn sách này do cố Thiên Xứng II Nguyễn văn Định,
bạn học cùng trường cho tôi mượn đọc. Allen theo đoàn quân chiếm
đóng tiến vào nước Nhật, trông thấy Josui Sakai lẫn trong đám
người Nhật đứng nhìn từ bên vệ đường. Sau đó, Allen trở lại chốn
cũ này, đứng trong tư thế tréo chân, chống tay khi thấy Josui
đang đi ngang. Kết cuộc, Allen cưới được Josui sau khi đã vượt
qua bao nhiêu chống đối của lễ giáo và phong tục khắt khe của
người Nhật.
Cũng tại CCYTTV Đà Nẵng, tôi gặp lại Thủy thủ On, trước đây cũng
từng phục vụ cùng đơn vị HQ231. Gặp lại tôi, On hỏi ngay:
– “Chị Thùy Linh đâu?”
– “Lấy chồng rồi”.
On sững sờ trố mắt nhìn tôi:
– “Ủa, sao vậy?”
– “Chuyện này dài lắm, thôi mầy tao kiếm cái gì uống trước đã”.
On là người đã từng đến nhà thay vỏ xe
Velo solex cho Thùy Linh năm xưa và được Thùy Linh xem như em
ruột.
Sau khi
trình diện Phó Ðề Ðốc Hồ văn Kỳ Thoại, Tư Lệnh Hải Quân Vùng I
Duyên Hải, tôi ghé Trung tâm Kiểm soát Duyên Hải xin phương tiện
ra đơn vị, gặp Thiên Xứng II Hồ Ngọc Hoa. Niên trưởng Hoa nói với
tôi: “Đài kiểm báo 101 ở cù lao Ré đầy sương mù và buồn lắm; mầy
ra đó uống rượu rồi ngồi trên đỉnh núi mà kêu ré ré....” Với tôi,
nơi đồn trú ở đấy có lẽ là nơi làm việc thích hợp để tôi an dưỡng
một cuộc tình chưa nguôi.
“Ly Sơn gió lạnh không tình sưởi,
Rượu uống mềm môi chẳng vơi sầu”
–(Hoa trùng Dương)
Từ Bộ Tư lệnh trở về, đang cùng Thủy
thủ On và chị ruột đi dạo phố, tôi bị một tên tài xế say rượu lái
xe húc văng, bất tỉnh trên đường Hoàng Diệu. Tôi được đưa vào
Tổng y viện Duy Tân, phòng ngoại thương 1A. Lúc mở mắt, tôi thấy
một cô y tá trong áo blouse trắng đang chụp quang tuyến vết
thương trên đầu tôi. Sau đó tôi lại thiếp đi; trong giấc mơ tôi
thấy Thùy Linh đến với tôi thật gần... Khoảng 3 giờ sáng tôi sực
thức dậy, thì vỡ lẽ ra: đấy chỉ là một giấc mơ.
Sáng hôm sau tôi bị đánh thức bởi một
lời chào có vẻ thân mật của một quân nhân cụt hai giò di chuyển
trên xe lăn: “Ê! Thiếu úy hải quân. Mới vào hả? Cho xin điếu
thuốc”. Xung quanh tôi toàn là những thương bệnh binh từ vùng
chiến trận, chỉ ngoại trừ tôi. Y sĩ Trung úy Nguyễn văn Đức cho
biết tôi không bị nứt sọ, nhưng chấn thương này bấy giờ đã làm
tôi bị mất khả năng nghe và sự tập trung.
Thời gian ở bệnh viện này tôi có nhận
được thư hỏi thăm của cô Hà nhưng tôi hiểu lời trong thư là ý của
Thùy Linh: “Kẻ ở lại buồn đã đành, nhưng chưa chắc người ra đi đã
vui trọn vẹn, kể như trong kiếp này không có Thùy Linh”. Tôi đã
hồi âm thư cho Tuyết Hà với lời thư như sau: “Tự ái của người lớn
– Ba của Thùy Linh – đã giết chết tình yêu chúng tôi.”
Sợ bị tổng công kích đợt hai và để
chuẩn bị cho bệnh nhân mới có đủ giường nằm, tôi được sớm xuất
viện vào chiều 29 Tết. Sau khi xuất viện, buồn vì tình duyên và
chán ghét gia đình, tôi đã không về dưỡng bệnh và ăn Tết gia đình
ở Huế. Mặc dầu, đầu còn quấn băng trắng mà tôi gọi là khăn tang
cho tình yêu, và tuy vết thương chưa lành tôi vẫn qua Trung tâm
Kiểm soát Duyên hải thuộc Bộ Tư lệnh HQ Vùng I Duyên Hải để xin
phương tiện ra đơn vị. Chiều 30 Tết, tôi ngồi một mình trên cầu
tàu BTL/HQ/V1ZH với sac marine. Trong tôi lúc bấy giờ là cả một
nỗi thảm sầu; lòng tôi cảm thấy hoang vắng:
“Un seul être vous manque tout est
dépeuplé”
“Chỉ thiếu một người cảnh trở
thành hoang vắng”
–(“Le Lac”, Lamartine)
Màn đêm dần dần buông xuống, chiếc
HQ703 của Đại úy Tâm khóa 16 lù lù rẽ sóng đến đón, đưa tôi qua
đến cù lao Ré. Đêm giao thừa tàu neo tại cù lao Chàm, sóng nước
đen ngòm, đúng là đêm trừ tịch 30. Chúng tôi, tất cả mọi người
trên chiến hạm đơn giản đón Xuân với hạt dưa và nước trà. Trong
dịp này Đại úy Tâm có kể cho tôi nghe về một mối tình dang dở của
chính mình, nhờ vậy tôi cảm thấy bớt cô đơn. Sáng mồng một tôi
dậy sớm; ngoại trừ lính gác tất cả đều đang say ngủ. Dựa thân
tàu, nhìn cù lao Chàm trước mặt với sóng nước đưa những bọt biển
trôi dạt vào bờ theo từng cơn sóng vỗ rồi tan biến đi. Tôi chợt
nhớ lại ngày Thùy Linh trong chiếc áo dài màu xanh nước biển đến
thăm HQ231 đang ứng chiến tại cầu A, trước Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Hôm đó tôi là sĩ quan trực chiến hạm đã đích thân hướng dẫn Thùy
Linh đi thăm tàu. Tại đài chỉ huy, tình cờ Thùy Linh ngồi lên
chiếc ghế Hạm trưởng. Tôi nhìn nàng và nói: “Ghế Hạm trưởng đó”.
Xoay nghiêng người với nụ cười tươi, Thùy Linh nói: “Có sao đâu,
mai kia Thùy Linh cũng là Hạm trưởng phu nhân kia mà”. Viễn ảnh
một màu hồng hạnh phúc hiện ra trước mắt tôi sau câu nói đó. Dư
âm xưa như còn văng vẳng đâu đây, nhưng Thùy Linh ơi, mình mất
nhau từ bao giờ.
Sau này – vào năm 1975 – một đại úy hải
quân cùng đi với cố Thiên Xứng II Nguyễn văn Định gặp tôi tại
CCYTTV Đà Nẵng đã nhắc đến một kỷ niệm về Thùy Linh như là một
giai nhân ngày nào trong chiếc áo dài màu xanh nước biển đến thăm
HQ231. Hôm đó, chiếc PGM của anh ta cặp cạnh tàu của tôi tại cầu
A, trước Bộ Tư Lệnh Hải Quân. (Xin liên lạc tôi qua địa chỉ
e–mail của Đệ Nhị Hổ Cáp để chia sẻ niềm vui).
Trưa ngày mồng một Tết tôi đặt chân
trên Ly Sơn – cù lao Ré, người Pháp đặt tên là “Poulo Canton” –
nơi đây đang có cuộc đua ghe hào hứng vào ngày đầu năm.
Cù lao Ré còn có tên là Ly Sơn, nhưng
người ta đọc trại ra Lý Sơn, nằm phía đông bắc tỉnh Quảng Ngãi.
Ngũ Hành Sơn trên đảo gồm có hòn Tiền, hòn Tai, hòn Vung – vì
dáng giống cái nắp nồi, hòn Sỏi và hòn cao nhất là hòn Thái Lới.
Hải quân Đài kiểm báo 101 đã đồn trú
tại hòn Thái Lới – có vết tích miệng núi lửa – kể từ năm 1967 và
đã thiết lập một đài radar TPS62. Đây là một đơn vị hành quân cố
định, kiểm soát bằng radar các đối vật trên mặt biển để hỗ trợ
cho các tàu tuần duyên Hải quân trong hải vực trách nhiệm nhằm
mục đích chống sự xâm nhập của địch quân bằng đường biển. Nơi đây
không hề có tiếng súng đì đùng, tiếng còi tịch tịch của nhiệm sở
tác chiến, tiếng nổ lựu đạn MK3 chống mìn trôi, hay đặc công
người nhái như lúc tôi phục vụ trên HQ231. Thật là một hải đảo
thanh bình và cũng là nơi thường làm sống dậy trong tôi những kỷ
niệm xưa của cuộc tình đã mất.
Khoảng hai tuần sau ngày tôi đáo nhậm
đơn vị mới, HC2 Trương đình Quí – nhà thơ Hoa Trùng Dương – đến
thăm tôi nhân dịp theo tàu từ Sài Gòn ra công tác ở Vùng I Duyên
hải. Thấy Quí nhìn bức hình người yêu tôi chụp chung với chồng
nàng trong ngày cưới, tôi đã tâm sự và kể cho Quí nghe về chuyện
tình, chuyến tàu chiều 30 Tết và nếp sống ngày đầu năm tại cù lao
Chàm. Hoa Trùng Dương liền cảm hứng viết xuống bài thơ tặng tôi:
Mùa Xuân Riêng Em
Sáng nay bỗng lạnh thân tàu,
Ô hay! Xuân đã nhuốm màu biển xanh.
Vọng
vang sóng vỗ đầu ghềnh,
Nghe như em hỏi
Tết anh có về.
Ngàn trùng sóng gió nhiêu khê,
Càng xa hải lý càng lê thê sầu.
Mai vàng
nhớ cánh hải âu,
Có hoa nào nhớ con tàu
anh không?
Bốn
mùa vẫn biển mênh mông,
Bốn mùa vẫn thấy
ngập lòng nhớ thương.
Xuân em xác pháo
ngập đường,
Xuân anh chỉ có trùng dương
mịt mù.
Tôi
trở lại Sài Gòn vài tháng sau ngày Thùy Linh lấy chồng và theo
dõi bước chân Thùy Linh. Qua lời tâm sự của các bạn nàng, điều
đáng buồn là tôi được biết sự thật: Nàng đã miễn cưỡng lấy một
người không thương yêu nên cuộc sống không có hạnh phúc.
Tôi đã tìm gặp Thùy Linh tại một sở mới
của nàng. Lúc đó Thùy Linh đang có thai; nàng đã chảy nước mắt
khi thấy hình của tôi và nàng vẫn còn giữ nguyên trong ví của
tôi. Nơi đây không thuận tiện cho cuộc gặp gỡ cho nên Thùy Linh
hẹn gặp tôi tại nhà Tuyết ở Khánh Hội vào buổi chiều ngày hôm
sau, nhưng rồi Thùy Linh đã không đến. Sau này Thùy Linh cho biết
sở dĩ như vậy là nhằm mục đích giúp tôi quên nàng vì nàng đã
không còn gì cho tôi.
Một ngày trước khi trở về Đà Nẵng, tôi
ghé chào mẹ Tuyết; tình cờ tôi gặp lại Thùy Linh tại đấy. Sau một
khoảnh khắc bốn mắt nhìn nhau trong im lặng, tôi hỏi: “Sao Thùy
Linh chẳng nói gì với anh hết vậy?”. Ðưa tay lấy chiếc áo mưa –
chiếc áo mưa mà một thời hai đứa đã cùng che chung dưới mưa –
Thùy Linh vừa nói: “Giữa anh và Thùy Linh không còn gì để nói
nữa; anh Cường ở lại, Thùy Linh về nhé”. Lúc đó tôi không biết rõ
đấy là lời oán trách hay là một câu nói tuyệt tình?
Thùy Linh vừa bước lên xe lam, tôi chào
vội má Tuyết rồi phóng ngay lên chiếc xe lam kế tiếp. Khi xe đến
bến Phạm Ngũ Lão, tôi đứng dang hai tay ngơ ngác, trố mắt nhìn
khắp nơi nhưng chẳng thấy bóng dáng người thương! Trời lại đổ cơn
mưa nhẹ, chân tôi muốn bước đi nhưng lòng lại nặng trĩu những ưu
phiền; tôi có cảm tưởng như Thùy Linh vẫn còn quanh quẩn đâu đây.
Trong khi đó ở một góc phố, Thùy Linh đã nhìn thấy tôi, nhưng
nàng đành lặng câm.
Phố xá đã lên đèn, nón và quân phục của
tôi ướt đẫm. Tôi uống từng giọt nước mưa trên môi mà nghe đắng
cay. Phải ở trong cuộc tình mới thấu hiểu và cảm thông được nỗi
đớn đau này.
“Em trong vòng tay lạ.
Em thành đàn bà
cho anh xót xa...”
–(Dù tình yêu đã mất, Song Ngọc)
Một lúc sau, tôi đành thả bộ ra về dưới
trời mưa. Tối hôm đó tôi bị sốt vì quân phục bị ướt. Sau khi nằm
suy nghĩ, tôi đâm ra mang mặc cảm phạm tội vì vô tình cản bước
Thùy Linh trở về nhà trong lúc nàng đang có thai.
Vì tôn trọng đời sống riêng tư và không
muốn làm phiền Thùy Linh nữa; kể từ đó tôi không hề tìm gặp nàng
dù sau này tôi có rất nhiều dịp trở lại Sài Gòn. Tôi bắt đầu khép
kín một tuyệt tình nhưng không có nghĩa là tôi quên...
HUẾ “Tàn Nhẫn”
Thời gian hai đứa quen nhau, Thùy Linh
thường thích nghe tôi đọc những bài thơ nói về Huế:
Đây xứ Huế
Đây xứ Huế đây bao cảnh đẹp thơ,
Nhiều lăng tẩm cổ lắm đền thờ.
Ai xa xứ
Huế hằng mong nhớ,
Cảnh cũ người xưa vẫn
đợi chờ.
Núi Ngự thông reo theo cát gió,
Sông Hương nước chảy lặng như tờ.
–(Tôn thất Sang)
Nữ sinh Đồng Khánh
Muôn tà áo trắng bay như bướm,
Vạn bước chân thon bước nhịp nhàng.
Hoa
nắng cười reo trong gió sớm,
Nhạc về ướp
mộng nhớ mênh mang.
–(Tôn thất Sang)
“Trường Tiền sáu nhịp uốn cong cong,
Nước uốn lòn lưng thẳng một giòng.
Đêm
đợi khách tình trên ngấn nước,
Ngày đưa
kiều nữ lướt sang sông.”
–(Không rõ tác giả)
“... Trai xứ Huế trang nghiêm và thầm
lặng,
Thường hay buồn giữa lúc thế nhân
vui.
Tâm sự nhiều nhưng chẳng hé trên
môi,
Yêu tất cả thả hồn trên vạn nẻo...
Gái xứ Huế nghìn năm câm miệng hến,
Yêu
không nồng mà ghét cũng chẳng cay...”
Ngày hôm nay, tôi được nghe Thùy Linh
viết về Huế như sau:
“Những lời thơ nói về Huế, trai Huế,
gái Huế, v.v. Ừ! Tất cả đều đẹp và dễ thương... nhưng thực chất
của Huế có đúng như vậy không? Sao riêng đối với mình, điều đó
không đơn giản? Đối với Thùy Linh, Huế chỉ được diễn tả bằng hai
chữ ‘Tàn nhẫn’”.
Suốt 30 năm dài trong vũng lầy nước
mắt, Thùy Linh không muốn trách ai hết, nhưng sao vẫn nghe oán
hận ngập lòng? Vẫn câu nói xưa: “Về Huế cưới vợ đi Cường. Thùy
Linh không có nợ gì với anh sao cứ kiếm Thùy Linh để đòi?”
Hôm nay là ngày lễ của tình yêu, cám ơn
anh đã gởi đến Thùy Linh những lời nói yêu thương ngọt ngào, mật
ngọt của tình yêu hay là vị đắng của khổ đau? Sợ quá đi thôi khi
nói đến Huế, dù biết rằng mình đang ở Mỹ. Anh nhắn dùm Thùy Linh,
nói với Tôn Thất Cường về Huế cưới vợ đi. Ta về ta tắm ao ta vẫn
hơn. Hết thương rồi từ dạo ấy. Giữa anh và Thùy Linh không còn gì
để nói nữa hết. Đời buồn tênh như lỡ một cung đàn. Không còn gì
nữa hết. Chúc anh một giấc ngủ say trong vòng tay người tình...
Gương bể lại lành
Một lá thư đầu tiên – sau bao nhiêu năm
xa cách, tôi viết thật vội với những yêu thương còn đọng lại gởi
đến Thùy Linh khi vừa đặt chân trở về đất Mỹ.
“Anh hiện sống với đứa con gái 16 tuổi
từ thuở con anh lên năm; đứa con trai 20 tuổi hiện đang sống xa
nhà để theo học năm thứ hai đại học. Tất cả cha con đều trường
chay. Nếu không có gì thay đổi ở Thùy Linh, anh vẫn mong chúng ta
sẽ nối tiếp lại cuộc tình sau 35 năm bị chia ly. Đó là một điều
thật thú vị và đẹp nhất trong cuộc đời còn lại của chúng ta.”
Tôi mong đợi và mơ ước một tia hy vọng.
Khi thấy nắng đẹp thì trời đã về chiều.
Thế rồi ngày vui đã đến – một tiếng
điện thoại reo vang.
– “Xin lỗi ai ở đầu dây?”
– “Tôi, Cường đây”.
Chỉ còn tiếng im lặng ở phía bên kia.
– “Hello, hello...”
Tim tôi như muốn ngưng đập; tôi vội hỏi
lớn:
– “Thùy
Linh, Thùy Linh phải không?”
– “Phải,
Thùy Linh đây!”
Tôi đưa tay lên ngực; không phải cái
nhói tim như 35 năm về trước, nhưng một cảm giác nhẹ nhàng đang
xâm chiếm trong tâm hồn. Hít một hơi dài và thở ra thật mạnh, mắt
tôi sáng lên và thầm cám ơn Thượng Ðế đã cho tôi có ngày hôm nay.
Thật quá bất ngờ và không tưởng tượng được. Rõ ràng trước mắt còn
ngờ chiêm bao!
Sau cơn mưa nước mắt, trời đã tạnh đưa
chúng tôi trở về với nhau. Bình minh ló dạng, bóng dáng hạnh phúc
sáng rạng một góc trời. Ngày hôm sau tôi nhận được trên e–mail:
Chuyện huyền thoại một con tàu
Chuyện xa xưa có một con tàu tính vừa
mới khởi hành, chưa ra khơi đã gặp sóng gió, phong ba của biển
đời, của thác ghềnh Nam–Trung ngăn đường cản lối. Thời gian trôi,
trôi dài với bao nhiêu biến động. Thời gian cũng như sóng nước đã
bào mòn đi ghềnh thác nhưng không bào mòn nỗi khát khao của con
tàu muốn tìm về bến đỗ và rồi một ngày, một ngày nhân định thắng
thiên. Con tàu đã tìm được bến xưa. “Tàu anh dầu có trăm bến ghé,
nhưng chẳng bao giờ quên ghé bến em đâu”.
Không có pháo cưới nổ giòn, nhưng những
nhịp đập của con tim đã tạo nên “Bản tình ca muôn thuở” và những
giọt nước mắt xưa kia giờ được đọng lại như những hạt kim cương
lóng lánh bắt xây lại nhịp cầu, tuy muộn màng, nhưng mặn nồng.
Cường ơi, bây chừ sao nghe thương anh chi lạ!
Bao nhiêu năm cách biệt ngày gặp lại
nhau tôi chỉ mong được giải đáp? – 35 năm giữ mãi nỗi đau trong
lòng, tôi vẫn không tìm ra dược câu trả lời, vì sao? Thùy Linh đã
ra đi khi tôi còn đó và tình vẫn nồng?
Thật xót xa khi nghe câu trả lời: “Thùy
Linh chỉ được một lần xin Ba cho về với anh, không có lần thứ hai
khi Ba anh ngoảnh mặt làm ngơ. Riêng anh cúi mặt lặng yên. Thùy
Linh làm sao chống nổi với hai đầu sóng gió? Càng không thể vì
yêu mà đạp bừa lên lễ giáo, gia phong của nhà. Ngoảnh mặt xoay
lưng, vội vã bước đi để trốn chạy một chuyện tình không đoạn kết.
Níu kéo làm gì khi cả hai bên cha mẹ đều ngăn đường rẽ lối?”
Bây giờ đang đứng ở cuối con đường đời,
Thùy Linh mãn nguyện được gặp lại anh để trao một kỷ vật – bức
họa chân dung – một chân tình mà Thùy Linh đã gìn giữ suốt 30 năm
trong cuộc đời làm vợ người.
Với chồng, Thùy Linh chỉ tròn chữ
“nghĩa”.
Với anh, Thùy Linh giữ trọn
“Cuộc tình”.
Riêng với gia đình, Thùy
Linh xong chữ “Hiếu”
– một “đám cưới rộn ràng”.
Tôi cũng gởi lại Thùy Linh hai tấm hình
Polaroids mà tôi đã cất giữ suốt 37 năm, kể từ năm 1969. Tôi cũng
không biết phải nói gì với câu trả lời sau 35 năm của Thùy Linh.
Ngày xa xưa đó, tôi được Thùy Linh chọn
lựa để yêu thương nhưng tôi bất lực và buông xuôi trước cái bảo
thủ, phong kiến của Huế; vì thế tôi đã không bảo vệ được tình
yêu. Tôi tự làm khổ chính mình và cả Thùy Linh nữa; vô tình tôi
trở thành một tên tội phạm của cuộc tình và đẩy đưa Thùy Linh vào
một con đường không lối thoát.
Biết nói sao? Lỡ sinh vào thời ly loạn,
tôi không biết có bao nhiêu chuyện tình đã thăng trầm vì cuộc
chiến, bao nhiều lần nổi trôi theo dòng đời, lang thang như đám
lục bình trôi theo con nước lớn ròng rồi phải băng qua bao nhiêu
khúc sông buồn mới được thênh thang ra biển cả, mới được ghép tên
chung trên thiệp hồng?
Riêng tôi, tôi đã từng nếm đủ mặn ngọt
cùng những vị chua chát đắng cay và hạnh phúc của tình yêu trong
những đau khổ của nó đem lại. Dù mất nhau khi yêu thương còn đó,
tôi vẫn không quên được những lời trong thư tình ngày nào, Thùy
Linh viết cho tôi:
“... Còn gì đến với mình trong tương
lai không? Tại sao ngày nào mình cũng gặp 5 phút cho Thùy Linh
hả? Tụi bạn nó phá Thùy Linh hoài, bắt đền cho coi, hổng thôi
Thùy Linh sẽ khóc; nước biển sẽ mặn hơn, sóng sẽ to hơn khi nước
mắt của Thùy Linh pha vào thì tàu anh còn lâu mới đi được...”.
“Anh de moi” (lối viết đùa dễ thương,
có nghĩa “mon frère”, anh của tôi)
“Với tuyết đông lành lạnh là môi trường
trong suốt cho tình yêu nguyên thủy. Mượn tình yêu thánh thiện
của Chúa Hài đồng nơi hang đá Bethlem gởi đến anh một lời cầu
chúc... một đêm Noel hạnh phúc bên người tình.”
“Trời Sài Gòn dạo này lạnh ghê đi hở
anh, mới có giao mùa mà trời lạnh thế. Đêm Noel, tuy là người
ngoại đạo, nhưng Thùy Linh thích nghe chuông giáo đường, thích
ngắm Đức Mẹ đêm Giáng sinh. Noel năm nay Thùy Linh sẽ cầu xin
Chúa ban cho mọi hiểu lầm giữa anh và Thùy Linh không còn nữa.
Vài dòng thăm anh, chúc anh sống trọn cuộc sống Tổ Quốc Đại
Dương”.
Tôi
yêu Thùy Linh với những mơ ước đơn giản dễ thương của nàng: “Yêu
tức kính, không kính tức không yêu. Tài thắng đức vi tiểu nhân,
đức thắng tài vi quân tử. Mớ học thức nghèo nàn của Thùy Linh tuy
không đủ sức lừa lọc mánh khoé của người đời, nhưng đủ cho Thùy
Linh nhận chân giá trị của những người thân. Gom tư tưởng gói
trọn vào vòng rào quân trường, anh chỉ nhìn thấy có Thùy Linh,
một ngày mai ra trường với chức thiếu úy đẹp trai, bao nhiêu rực
rỡ vinh quang sẽ đến với anh, anh sẽ cảm thấy Thùy Linh như hạt
cát trong sa mạc”.
Tất cả đã bị vùi chôn và tan nát như
pháo cưới một ngày.
Ngày mới lớn, tập làm thơ, một bài thơ
đầu đời được viết lên trong thời gian học lớp đệ nhị B, Trường tư
thục Bình Linh, Huế (École Pellerin) niên khóa 1961–1962. Cùng
trường với tôi có Ðệ nhị Hải Sư Trần Trọng An Sơn khóa 17 học
trên tôi một lớp; Cố Thiên xứng Nguyễn văn Ðịnh, bạn thân, sau
tôi một lớp. Bạn thân cùng lớp có sư huynh (frère) Trần Trọng An
Phong, em ruột Trần Trọng An Sơn. Thời gian HQ231 ở bến hạm đội,
tôi có dịp ghé thăm sư huynh tại trường Taberd. Ngày di tản gặp
nhau trên chiếc thương thuyền “Greenville Victory”, đến nay chưa
gặp lại. Thời gian này mặc dù còn trẻ, tôi đã viết nên một bài
thơ lãng mạn như sau:
Không đề
T âm tình ướt lệ chiều nay
Ô hay người đẹp còn say mộng đời
N gày
mai tàu mới ra khơi
T hơ thẩn buồn đi
nhưng nhớ thương
H oa xưa đơn chiếc lạnh
đêm trường
Ấ m cúng đôi lứa tình dang dở
T ha thiết ngày qua hoa ngát hương
C
hinh nhân ơi lòng ta giờ rạo rực
Ư ơm
duyên lành ta dệt bản tình ca
Ơ n tình
đã năm tháng phôi pha
N gày mai gặp lại
đầy vơi mộng đời
G ặp nhau hoa nắng rơi
rơi...
Bài thơ báo trước cuộc đời hải nghiệp
cũng như chuyện tình tan vỡ rồi sum họp. Nó khởi sự từ khi HC2
Nguyễn văn Ðộ vẽ hình trái tim rỉ máu có mũi tên xuyên qua trên
sac marine của tôi. Lúc tôi bắt gặp, Ðộ nhếch miệng cười và nói:
“Cho mày nếm mùi”.
Một ngày sau đó, HC2 Nguyễn minh Cang
(bây chừ là Thiền sư tại Như Lai Thiền tự ở Houston) là sinh viên
trực đại đội đã lên giảng đường gặp HQ Ðại úy Trương văn Ðăng
đang dạy môn điện tử và xin gặp tôi.
Cang nói:
– “Cường, đại úy kiếm mày”.
– “Có chuyện gì không?”
– “Tao không
biết”.
Trở về
phòng, tôi thấy hình vẽ của Ðộ trên sac marine bị xoay ra ngoài,
tôi đã hiểu. Gặp tôi, HQ Đại úy Võ thành Tâm, ÐÐT/ÐÐII/SVSQ gằn
giọng nói:
–
“Anh làm như cái quân trường này là ghê gớm lắm? Anh vẽ hình,
hình quả tim rướm máu. Anh vác sac marine chạy cho tôi 2 vòng
thao diễn trường và đưa lên cho mọi người thấy”.
Lúc đó khóa 19 đang tập chào nón để
chuẩn bị lễ ra trường, hầu hết đều nhìn hình quả tim rướm máu
trên sac marine của tôi trong sự ngạc nhiên. Ðiều này như đã báo
trước sự đổ vỡ của một cuộc tình.
Ðịnh mệnh đã báo trước một sự tan vỡ,
nhưng cũng đưa chúng tôi tìm về với nhau. Ðầu năm 2005 khi về đến
Việt Nam, Thùy Linh tìm thăm lại Tuyết Hà (đã nhiều năm không
gặp) và cho cô ta địa chỉ. Cuối năm 2005, vì lời nhắn nhủ của
người cậu ruột và người O bệnh nặng tôi hối hả về thăm và tình cờ
tìm gặp Tuyết Hà nên mới biết tin tức, địa chỉ của Thùy Linh.
“Ruộng ai thì nấy đắp bờ,
Duyên ai nấy gặp đừng chờ uổng công”.
Chữ “Duyên” ở đây, tôi phải chờ đến 35
năm mới được kết thành và đây mới là “Thiện duyên”.
Thanh Trúc, con gái đầu của Thùy Linh
đã từng nghe mẹ kể một chuyện tình xưa, nên một buổi sáng khi
thấy mẹ ngồi lặng yên suy tư với lá thư trong tay do tôi gởi đến,
liền hỏi mẹ: “Chuyện gì vậy hả mẹ?” Khi nhìn thấy tên người gởi,
Trúc giật mình nói: “Ủa đúng ông này hả mẹ?” Và hối thúc mẹ gọi
điện thoại ngay cho tôi.
Nỗi vui mừng tràn ngập trong lòng, sau
khi nhìn thấy mẹ tìm được lại được những yêu thương xưa. Trúc hỏi
mẹ: “Chuyện tình của mẹ sao giống như tiểu thuyết vậy? Một tiểu
thuyết có thật. Sau đó, Trúc đã kể lại chuyện tình này cho bạn bè
trên điện thoại để rồi kết thúc nhân vật trong câu chuyện chính
là mẹ của mình.”
Tái Ngộ
Xuân em nước mắt lưng tròng,
Xuân anh vẫn mãi trùng dương mịt mù.
Chừ
giờ cách biệt đôi đường,
Ngàn năm thương
nhớ vẫn hoài nhớ thương.
“Chuyện ngày xưa đã là kỷ niệm. Ngày
mai Thùy Linh đón anh ở phi trường và đưa anh trở về vùng trời
xanh kỷ niệm, ở nơi đó chỉ có môi hôn và sự rung động của yêu
thương. Thôi ngủ đi nghen Cường. Bây giờ thì giấc mơ của anh đã
thành sự thật. Vui nha...”
Thùy Linh và vợ chồng Thanh Trúc đã đón
tôi ở phi trường và đưa về nhà. Tại đây, tôi cũng đã gặp em trai
và vợ chồng em gái của Thanh Trúc, các cháu ngoại của Thùy Linh.
Căn nhà đã được sửa soạn và đón tiếp tôi trong cái không khí thân
mật và đầm ấm như một người thân đi xa từ lâu năm mới trở về. Hoa
tươi được đặt trên bàn và nhiều nơi trong nhà. Tất cả mọi người
trong nhà đều cùng thưởng thức những món ăn chay ngon và bổ do
Thanh Trúc nấu, trong hai ngày tôi lưu trú tại đây.
Ðể chia sẻ niềm vui cuối đời với các
bạn Hổ Cáp II, tôi và Thùy Linh đã ra mắt và làm lễ tái ngộ trong
đêm dạ tiệc July 22, 2006 tại Washington, D.C. Ngay trong đêm
này, tôi thực hiện đúng lời hứa của 35 năm về trước đã không làm
được đó là: trao nhẫn cưới cho người tôi yêu.
Cám ơn Thượng Ðế, cám ơn Thùy Linh, cám
ơn cái chân tình bao nhiêu năm vẫn còn nguyên vẹn.
Cám ơn Trưởng ban tổ chức HC2 Huỳnh văn
Bảnh, Trưởng ban nghi lễ HC2 Nguyễn văn Huấn cùng các bạn trong
ban tổ chức, ban nghi lễ đã dành, giúp cho chúng tôi những giây
phút cùng với quan khách và gia đình Ðệ Nhị Hổ Cáp quay về dĩ
vãng một đám cưới nhà binh long trọng.
Thuyền tình đã trở về bến mộng sau 35
năm. Tôi xin đặt tên bài thơ không đề, một sáng tác mới của Hoa
Trùng Dương qua cảm hứng bài thơ “Không đề” của tôi là: “Thuyền
lại bến xưa”.
Thuyền lại bến xưa
Tâm tình bến cũ chiều nay,
Mới hay
em vẫn còn say mộng đời!
Ngày mai tàu
mới ra khơi,
Mà sao triền sóng đã vời
vợi trông?
Anh
đi nhớ má ai hồng,
Nhớ môi ai đỏ, phòng
không lạnh lùng.
Em rồi xa cách nghìn
trùng,
Thiết tha bãi vắng mênh mông sợi
buồn.
Chuyện
tình như gió qua truông,
Tưởng rằng đã
lỡ vẫn luôn mặn nồng.
Bỗng nhiên rực rỡ
nắng hồng,
Bỗng nhiên rạo rực tình trong
bất ngờ.
Bây
giờ tàu lại bến xưa,
Bao nhiêu âu yếm
cho vừa nhớ thương?
Hoa xưa một bóng đêm
trường,
Tình xưa vẫn ngát trầm hương
thuở nào.
Tôi xin trân trọng gởi đến tất cả Hổ
Cáp II một chuyện tình có đoạn kết của đời tôi, đã được ghi vội
xuống như những trang nhật ký để mở đầu loạt bài: “Những mối tình
dang dở của Hổ Cáp II” cho đặc san online của Ðệ Nhị Hổ Cáp.
Yêu ai yêu cả một đời.
Thân ái chào các bạn
HC2/TLBX/Tôn Thất Cường
07–2006
GÓP Ý:
Về bến Bồng Lai
Thế rồi Cường đã gặp Quyên
Hai người rốt cuộc kết duyên
toại lòng
Trải bao trắc trở long đong
Trải bao nhung nhớ
ngóng trông kiếm tìm
Thuyền tình cặp bến mộng mơ
Cường
Quyên đẹp lứa nên thơ tuyệt vời
Chúc cho đôi bạn thảnh thơi
Quyên hưởng quả phước Cường gieo giống lành.
Ngọc Giang
21/07/2006
Đượm Tình
Tình tưởng như đã mất
Theo gió cuốn qua đi
Nhưng vẫn
sâu đáy lòng
Bỗng Hoa Tình lại nở
Đượm Hạnh Phúc nắng hồng.
Blossomed Love
Love seems to be missing
It’s gone with the wind
But’s
still in Deeping Hearts
Blossomed love suddenly returned
Happiness in Rosy Sun, burnt.
Võ Kim Mai
17/7/06
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 25,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang