Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
Ngắn
Chủ đề:
tình yêu trong chiến tranh
Tác giả:
LĐ. Trần Văn Bê
(Cửa Việt)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Cửa Việt. Trận chiến Hạ Lào, Mùa Hè đỏ lửa 1972...
Buổi
chiều trên dòng sông Thạch Hãn, những tia nắng cuối ngày còn rơi
rớt lại trên ponton, nơi cặp và rời bến của những chiến đĩnh đến
và đi sau một chuyến công tác trục vớt, phá hủy, tháo gỡ từng
trái mìn nội hóa mà địch quân hằng ngày gài, đặt, và thả trên
dòng sông uốn khúc quanh co từ cửa biển Cửa Việt đến tận Đông
Hà.
Đó là con
sông huyết lộ chính mà Giang Đoàn 92 Trục Lôi phối hợp cùng các
toán Người Nhái để hộ tống những chiếc vận tải LCU của HQ Mỹ
chuyên chở thiết giáp, đại bác, lương thực... Chủ yếu để yểm trợ
cho trận chiến... Hạ Lào 1972.
Trung úy Bảo, trưởng toán, từ ponton
bước xuống chiến đĩnh chỉ huy LCPL ra lệnh cho thuyền trưởng nổi
lên những hồi còi, thông báo cho những MSM chuẩn bị rời bến và
bắt đầu thả những lưới vớt mìn trên đường về căn cứ. Cái nóng Nam
Lào theo từng ngọn gió vẫn hừng hực trên vai trần của những người
thủy thủ theo tháng ngày vật lộn với những quả mìn nằm lưng chừng
mặt nước, mà mắt trần không bao giờ thấy được. Chỉ cần sức ép của
tàu đè lên là kim hỏa kích nổ, và khối lượng chất nổ từ 50 tới
100kg chất nổ TNT sẽ làm con tàu nổ tung, hất văng những thủy thủ
ra khỏi thân tàu, rơi xuống lòng sông và những hương hồn chết bất
đắc kỳ tử đó ngàn năm sẽ vương vấn theo dòng sông định mệnh.
Trận chiến ở Hạ Lào càng ngày càng khốc
liệt, Giang Đoàn 92 Trục Lôi, Duyên Đoàn 11, Căn cứ HQ Cửa Việt
cũng vất vả tăng cường hành quân và trục vớt mìn, phải sống chết
để bảo vệ huyết lộ chính ấy, đó là con đường tiếp tế an toàn hơn
đường bộ, vì thế cộng quân đã gia tăng số lượng mìn thả trên
khúc sông từ Cửa Việt đến Cảng Đông Hà.
Chiếc MSM cuối cùng vừa rời bến, một
người SQ trẻ vội vã phóng lên boong tàu, quân phục rằn ri, mang
lon thiếu úy, tay xách chiếc ba lô nặng trĩu. Trên túi áo là huy
hiệu L.L.L.Đ.N.N. EOD [Lực Lượng Liên Đoàn Người Nhái
Explosive Ordnance Disposal]. Anh tiến đến phòng lái gặp thuyền
trưởng và xin quá giang về Giang Đoàn 92 Trục Lôi. Chừng như họ
gặp và quen nhau từ lâu lắm. Sau cái chào kính theo quân kỷ,
Trung sĩ Tiến reo lên: Chúc mừng ông thầy. 92 Trục Lôi là đây,
đơn vị sẽ thêm một người hùng đầy sương gió, sẽ sánh vai cùng anh
em nơi địa đầu giới tuyến.
– Tango Bravo, Tango Bravo, nghe rõ trả
lời?
– Tango
Bravo 5/5.
–
Mình vừa có thêm một Seria Quebec của EOD mới đến, Tango Bravo
quay lại đón ông ấy về trước với ông đi.
– Tango Bravo 5/5.
Tôi ra lệnh cho thuyền truởng quay lại
đón Tuấn và chúng tôi đã quen nhau từ chiều hôm đó. Theo chương
trình. Sự hợp tác cuả 92 Trục Lôi với Người Nhái chia làm 3 giai
đoạn.
– Giai
đoạn 1: Trước lúc mở đường, một chiếc skimmer 40 mã lực, gồm 2
thủy thủ, một lái và một ngồi đằng sau rút chốt từng trái lựu đạn
MK3 (tấn công) thả xuống lòng sông phía sau để phá hủy mìn.
– Giai đoạn 2: Giang Đỉnh MSM thả lưới
để vớt những trái mìn chưa nổ, và những trái nằm sâu dưới lòng
sông.
– Giai
đoạn 3: Sau khi vớt mìn lên, Người Nhái quyết định phá hủy hay
tháo gỡ.
Thường xuyên trong mỗi chuyến công tác sẽ có một hay hai HSQ hoặc
SQ Người Nhái cùng đi với đoàn tàu công tác. Mỗi lần như vậy
Tuấn thường đi chung với tôi theo sự phân chia của SQ Hành Quân,
vì thế chúng tôi thân nhau, và trao nhau những quan điểm, giúp
nhau trong cuộc sống. Tuấn ít nói, hiền, nước da ngăm đen, thân
hình vạm vỡ, uống rượu thì chẳng chê vào đâu, ai tới đâu, Tuấn
theo tới đó, chưa một lần ngã ngựa trên chiến trường ẩm tửu.
Sau mỗi lần công tác gỡ mìn hay phá
huỷ, tôi đợi Tuấn ở boong tàu của chiến đĩnh chỉ huy, để trao đổi
vài công việc, rồi hai thằng lang thang khắp đường phố Đông Hà,
cuối cùng hai thằng chẳng còn nơi nào để đi, lại tạt vào quán Cà
Phê “Hương Xưa”.
Ngồi sau quầy tính tiền là cô bé có
đôi mắt nâu đa tình, thật quyến rũ, có vầng trán thông minh, có
mái tóc đen huyền xoã xuống bờ vai mềm mại như bờ cát ngủ vùi
trong nắng sớm.
Người con gái tự động đem hai ly cà phê
đen đá như thường lệ. Khi chúng tôi chọn một chỗ ngồi thật khuất
bên khung cửa, thả mắt theo đoàn tàu nằm im ngoài bến vắng, tất
cả đều đi bờ, chỉ có vài thuỷ thủ trông coi tàu. Cô bé giúp mẹ
trông coi tiệm sau giờ tan học. Tuấn và cô bé Mỹ Lệ từng quen
nhau lâu lắm. Họ nhìn nhau mỉm cười và trong từng đôi mắt ấy như
ngầm hiểu ý chuyện gì. Bài hát “Như cánh hạc bay” cuả TCS như
cuốn hút chúng tôi. Khi hai thằng thi nhau thả những đợt khói
sau ngụm cà phê đen mát lạnh.
Nắng có hồng bằng đôi môi em.
Mưa có buồn bằng đôi mắt em.
Tóc em từng
sợi nhỏ.
Rớt xuống hồ, làn sóng lênh
đênh.
Tôi hỏi
nhỏ Tuấn:
–
Mày quen Mỹ Lệ hồi nào mà tao không biết?
Tuấn cười rồi trả lời:
– Vì mày là trung úy, còn tao là thiếu
úy.
Tôi làm
bộ nghiêm mặt.
– Mày thấy không? Tao cũng cao ráo như
mày, nhìn không tệ, tại sao tao vẫn còn cô đơn? Cứ mãi đi tìm mà
không gặp!
Tuấn im lặng hít một hơi thuốc thật sâu, nhả ra từng vòng tròn,
từng vòng tròn quyện vào nhau, rồi khẽ nói:
– Mày đừng giở cái giọng cải lương của
mày ra, chị của Mỹ Lệ là Trà Mi đã bị mày “cỗm” lúc nào. Hai
người đã từng lang thang ở Quảng Trị, Đông Hà, Huế vào những ngày
cuối tuần ai mà không biết. Không lẽ mày muốn thêm Mỹ Lệ của tao
sao? Hai thằng cười vang rồi vội tranh nhau trả tiền, rời quán cà
phê vì hồi còi vang lên báo hiệu giờ tách bến. Có một lần trên
cầu tàu tôi buột miệng hỏi Tuấn:
– Mày quen Mỹ Lệ lâu chưa? Có tính
chuyện lâu dài hay không?
Tuấn cười buồn trả lời:
– Chuyện cũng tếu và liều mạng vô cùng.
Tuấn mơ màng kể tiếp:
– Số là trên đoạn đường từ Quảng Trị về
Đông Hà, chuyến xe Lambretta 3 bánh cuối cùng chật ních người,
một người con gái tiến nhanh đến bên xe, cũng muốn về Đông Hà,
nhưng chẳng còn chỗ trống, buông ánh mắt đầy tuyệt vọng. Thế là
tao làm một nghĩa khí anh hào, nhường chỗ cho nàng.
– Cám ơn anh. Với giọng ngọt ngào nàng
đáp.
– Không
có chi! Tôi có thể đứng trên thang sắt phía sau xe được rồi.
Chừng một tiếng đồng hồ chứ không lâu đâu.
Khi xe đến bến Đông Hà tao móc ví trả
tiền, nhưng lục tìm khắp các túi mà chỉ còn đủ 12 đồng, thay vì
phải trả 15 đồng. Thế là cô gái được nhường chỗ cho tao mượn đỡ 3
đồng để trả. Sau đó cô gái nhìn bảng tên trên áo của tao rồi nói:
– Chúng mình huề nhau nghe anh Tuấn. Nợ
tiền tôi anh không cần trả lại. Giọng nói vui vui gần như trêu
cợt.
Trên
đường đưa nàng về nhà, là quán cà phê Hương xưa, nơi mình thường
ghé và chúng tao quen nhau từ đó, gần cả năm trời rồi. Chuyện
tương lai làm sao tính được khi cuộc đời vẫn mãi rày đây mai đó
trong cuộc sống hải hồ đầy bất trắc trên các vùng sông rạch.
Riêng phần nàng thì nhất quyết theo tao cho đến cuối cuộc đời.
Chắc có lẽ chờ cô bé thi xong Tú tài 2, vào Sư Phạm hoặc đi làm
rồi sau đó sẽ tính chuyện xin hỏi cưới. Sau trận chiến Hạ Lào
chấm dứt, tao dự định sẽ về mang Bà già ra thăm nhà nàng theo như
lời mời của gia đình Mỹ Lệ.
Lâu lắm rồi, từ một ngày cuối Hạ của
trận chiến Hạ Lào. Hôm ấy là chuyến công tác như thường lệ. Tôi
và Tuấn đi một vòng từ những chiến đĩnh MSM để kiểm soát và báo
cáo phòng hành quân là bao nhiêu mìn đã phá hủy, bao nhiêu mìn đã
trục vớt, và Người Nhái đã tháo gỡ được bao nhiêu... Xong việc là
chúng tôi cùng nhau đi Đông Hà. Nhưng lần này Tuấn bảo tôi còn 2
trái mìn nội hóa do lưới mìn MSM vớt được. Mìn chỉ làm bằng thủ
công thôi nhưng mang một chất nổ rất lớn, khoảng chừng 500kg TNT.
Bản tính tò mò của chuyên viên chất nổ
là sự tìm tòi, khám phá. Cả hai thầy trò, Tuấn và người trung sĩ
trẻ cũng là Người Nhái bắt đầu lao vào cuộc tháo gỡ. Tuấn quay
lại bảo tôi:
–
Mày lên quán Cà Phê trước đi, đừng tham dự ở đây, nhớ nói với Mỹ
Lệ là tau sẽ làm quà cho nàng một kíp nổ của quả mìn loại mới,
trước ngày lên đường đi phép và sau đó sẽ cùng bà già từ Sài Gòn
ra Đông Hà thăm em cùng gia đình Mỹ Lệ. Tôi vẫn không quên nói
với Tuấn là nếu thấy quá khó khăn thì phá hủy đừng cố gắng tháo
gỡ rất là nguy hiểm.
– Ngày mai, mày đi phép, phải đi thật
sớm để kịp chuyến xe đầu tiên từ Đông Hà về Huế.
Tuấn cười và bảo:
– Tao sẽ làm theo ý mày, đừng lo cho
tau nhiều quá.
Tuy nói vậy, nhưng lần này tôi thấy
nao nao trong lòng, linh cảm cái gì đó không ổn sẽ xảy ra. Tôi
thương Mỹ Lệ và Tuấn, và coi như em. Chỉ mong cho họ sau này sẽ
thành đôi và mãi mãi yêu nhau. Gia đình Tuấn chỉ còn lại một mẹ
già và cô em gái đang học Văn Khoa năm thứ nhất. Bà mẹ có một sạp
vải ở Chợ Trương Minh Giảng. Hai mẹ con cũng đủ sống qua ngày.
Còn ba Tuấn là một Thiếu tá Dù đã tử trận Đồng Xoài. Tuấn thường
nói với tôi: Nếu có dịp mày về phép với tao một chuyến, biết đâu
mày sẽ là em rể tao. Bảo đảm khi gặp em tao mày sẽ thích ngay,
tôi cũng hứa, thì cũng để coi, không chừng em mày trông thấy bản
tướng cô hồn của tau là em mày sẽ chạy mặt ngay. Đang miên man
trong dòng suy nghĩ, khi Tuấn hoàn thành công tác và Mỹ Lệ sẽ
vui khi nhận chùm kíp nổ của loại mìn mới, như bó hoa Dạ Thảo nở
đầu mùa trong đêm, hái cho em để mừng ngày mẹ anh gặp em. Anh và
em, chúng mình sẽ đi đến cuối cuộc đời.
Một tiếng nổ khủng khiếp vang lên từ
hướng Ponton. Tôi bỗng lịm người đi, hoảng hốt kêu lên: Trời ơi!
Tôi chưa kịp trả tiền cà phê, vội phóng mình qua khung cửa, băng
mau xuống cầu tàu. Một cảnh tượng hãi hùng hiện ra trước mắt tôi,
thịt và máu văng tung toé khắp ponton, cùng tiếng rên siếc của
những người bị thương. Tôi gọi:
– Tuấn ơi! Tuấn ơi!
– Mày ở đâu?
Tiếng gào của tôi vang trong gió, tiếng
gọi của tôi loang theo từng vết máu của người đồng đội, đã từng
vui buồn sống chết với tôi trên những dòng sông hay những lần đi
kích đêm. Sau những giây phút bàng hoàng, tôi ra lịnh kiểm điểm
tổn thất nhân mạng và báo cáo sự thiệt hại.
– Thiếu úy Tuấn và Trung sĩ Sơn của
Người Nhái thiệt mạng ngay tại chỗ vì những mảnh sắt nổ tung găm
khắp thân hình, xuyên qua mặt, ngực, và tim.
– Năm thủy thủ tò mò đứng quanh bị
thương nặng, đã chuyển đến nhà thương Quảng Trị.
Nhiều người dân phố Đông Hà chạy xuống
bến tàu hỏi dồn dập: chuyện gì đã xảy ra trên ponton? Xen lẫn
trong đám đông ấy có người con gái, xô giạt hết tất cả mọi người
và gọi thất thanh:
– Anh Tuấn ơi! Anh Tuấn ơi!
– Anh Bảo ơi? Anh Tuấn của em đâu rồi?
– Anh Tuấn có sao không hả anh?
Tôi ôm em trong tiếng nấc nghẹn ngào:
– Tuấn chết rồi em ơi!
Em buông tôi ra và chạy tới ôm xác Tuấn
đầy máu me và gào khóc thảm thiết:
– Tuấn ơi! Tuấn bỏ em đi đâu? Chờ em đi
theo với!
Đôi
mắt nhòa trong giọt lệ, vầng tóc phủ xuống thân xác người yêu,
một màu tang tóc giăng khắp vùng trời Đông Hà. Em ngất lịm người
đi và nước sông Thạch Hãn vẫn lặng lẽ xuôi dòng.
Mẹ và Trà Mi đến đưa em về, và tôi lầm
lũi đi vào khoang tàu LCPL cúng vái linh hồn Tuấn và Sơn. Tiếng
còi tàu rời bến vang lên, tiếng còi của hoàng hôn vừa tắt nắng,
tiếng còi giận dữ, đau thương, rồi chìm hẳn. Đoàn tàu lặng lẽ trở
về căn cứ vào trong bóng đêm mờ dần.
Hai ngày sau, trời Đông Hà mưa tầm tã
giữa mùa nắng hạ, có người mẹ già và người thiếu nữ theo tàu
xuống căn cứ Cửa Việt để nhận quan tài và những kỷ vật của Tuấn
còn để lại. Hình hài của Tuấn sẽ theo mẹ và em về yên nghỉ trong
mảnh đất quê hương.
Còn linh hồn của Tuấn. Ôi! Những linh
hồn chết bất đắc kỳ tử sẽ theo mẹ hay lảng vảng đâu đây trên
dòng sông oan nghiệt, để mãi mãi bên người tình bé nhỏ vừa mới
biết yêu, đã từng ước mơ bao nhiêu mộng đẹp cho cuộc đời đôi lứa
sau này.
Ở lại
đơn vị chúng tôi qua đêm, sáng hôm sau trên chiếc xe Jeep của đơn
vị trưởng cho mượn, để đưa thân nhân và theo sau là chiếc GMC chở
hai quan tài rời Cửa Việt về Huế bằng đường bộ, để kịp chuyến bay
quân sự từ Phú Bài về Sài Gòn. Trong lần đưa tiễn cuối cùng, mẹ
và em của Tuấn ôm tôi khóc ngất và hẹn gặp lại chúng tôi khi quý
vị có dịp ghé đến Sài Gòn. Chờ cho chuyến bay cất cánh, tôi dìu
Mỹ Lệ lên xe trở về Đông Hà. Em chẳng nói với tôi một lời, đôi
mắt thẫn thờ nhìn về một hướng xa xôi nào đó trong ngút ngàn nỗi
nhớ thương.
Tôi khuyên em hãy can đảm lên, vì mùa thi đã gần kề, Tuấn sẽ vĩnh
viễn ở lại với em trên khắp cùng nơi chốn mà hai đứa đã đi qua,
đã có cùng lời ước nguyện trăm năm. Con tàu, gió, và biển mặn sẽ
mang tình yêu thơ mộng ấy trên khắp cùng trên chốn trần gian. Tôi
nói em có nghe không! Tôi lịm người vào thành ghế, em lả người
trên vai tôi ngủ say lúc nào không biết. Khi về đến quán Cà Phê
Hương Xưa người tài xế khẽ gọi:
– Trung úy Bảo! Đến nhà rồi. Lúc đó
tôi mới tỉnh giấc và lay vai Mỹ Lệ tỉnh dậy. Tôi dìu em vào nhà,
nhưng người em mềm nhũn ra, chừng như đi không nổi. Trà Mi đón em
và mời tôi vào nhà, nhưng tôi từ chối vì phải về Cửa Việt trước
khi trời tối vì đường rất là nguy hiểm.
Thời gian trôi đi, trận chiến Hạ Lào
đã chấm dứt, nhưng những con tàu và những người thuỷ thủ vẫn vật
lộn với những trái mìn nằm giữa dòng sông, và từng buổi chiều,
khi những tiếng còi tàu vang lên báo hiệu giờ trở về căn cứ, thì
bên kia, bên khung cửa sổ của quán Cà Phê Hương Xưa, người con
gái có đôi mắt u buồn đứng im bất động nhìn xuống dòng sông
Thạch Hãn và lời hát vang lên như từng đêm với cây đàn Guitar
Tuấn đã hát cho tôi nghe:
...
Nắng có hồng bằng đôi môi em.
Mưa có buồn bằng đôi mắt em.
Tóc em từng
sợi nhỏ.
Rớt xuống hồ làn sóng lênh
đênh...
LD Trần văn Bê (Houston)
nguồn:
hội quán phi dũng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nvt chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, December 15,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang