Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
truyện
Chủ đề:
Chiến tranh vùng Vịnh
Tác giả:
BS Nguyễn Dương
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Ngày
8 tháng 11 năm 1990 N. đáp máy bay về lục địa Mỹ đi công tác cho
Sư đoàn 1 Thiết Giáp Hoa Kỳ. Sau khi làm thủ tục nhập khách sạn
N. lên phòng ngủ. Lúc đó là 9 giờ 45 tối rồi. Sau khi tắm xong,
N. vặn Ti–vi lên xem tin tức tí ti trước khi ngủ, đang ngái ngủ,
N. giật mình khi nghe tin Phát ngôn viên báo tin rằng Tổng Thống
Bush quyết định gửi thêm 200,000 quân sang Trung Đông, sau đó là
danh sách các sư đoàn sẽ di chuyển ra mặt trận. N. thấy sư đoàn
của N. có tên trong đó. N. nghĩ thầm vì nếu cần đánh nhau với
Thiết giáp Iraq, lẽ dĩ nhiên phải cần tới Sư đoàn của N. vì Sư
đoàn 1 Thiết giáp được trang bị với thiết giáp tối tân nhất của
Hoa Kỳ và là Sư đoàn “nặng” (heavy division) nhất trong Quân lực
Hoa Kỳ. N. tuy vậy cũng hoang mang không biết là chừng nào phải
di chuyển sang Saudi Arabia (S.A.) đây?
Hiện tại N. đang đi công tác, đúng ra
là không cần phải liên lạc với cấp trên, nhưng sáng hôm sau N.
thấy cần phải điện thoại cho Đại tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn để
nhận lệnh. Khi gọi, N. được tin là cứ hoàn tất công tác sự vụ
lệnh không phải về ngay. N. bèn yên chí tiếp tục công tác. Sau
đó, N. gọi cho gia đình biết là không phải về lại Đức ngay. N.
không lo gì lắm vì bận tâm với công tác, nhưng càng hoang mang vì
điện thoại vợ con, cùng gia đình anh chị em tới tấp gọi lo lắng
hộ cho N. Đúng ra thì N. cho chả có gì đáng ngại cả, nhưng ngày
đêm qua những cú điện thoại nên N. cũng bị ảnh hưởng lo lắng
không ít thì nhiều.
Sau một tuần công tác, N. như chương
trình đã định trước được nghỉ thêm một tuần nữa để thăm gia đình
con cái. Nghĩ rằng, lúc trước đã gọi về sở nhận lệnh cứ tiếp tục
công tác, N. bèn tiếp tục bay sang Gia Nã Đại thăm mộ ông cụ và
bạn bè ở Montréal. Đang hàn huyên với bạn cũ, thì con gái của N.
gọi từ Hoa Kỳ sang báo là Đại Tá Tham Mưu Trưởng muốn nói chuyện
với N., N. bèn gọi lại thì được biết là ông muốn N. về với đơn vị
càng sớm càng tốt.
Thế là N. bèn cắt ngắn phép nghỉ và bỏ
dở mục thăm viếng bạn bè và gia đình. Cũng may lúc đó tinh thần
ái quốc của dân Mỹ cũng khá cao nên khi đổi vé máy bay về Mỹ và
sang Đức, N. không gặp khó khăn gì cả. Đúng ra là vì đổi ngày giờ
quá ngắn hạn phải trả một số tiền phạt, nhưng sau khi N. trình
bày tình cảnh phải trở về đơn vị gấp, các hãng máy bay rất vui
lòng đổi vé mà không bị phạt gì cả.
Về đến đơn vị ngay trưa hôm đó, N. đi
vào sở trình diện ngay và được biết là có thể phải đi S.A. trong
vòng hai hay ba tuần. Thường thường thì Bộ Tham Mưu chỉ họp một
lần một tuần, nhưng nay vì tình hình khẩn trương, Bộ Tham Mưu họp
một ngày hai lần, sáng lúc 8 giờ và chiều lúc 5 giờ. Công việc
của N. là phải lo điều động quân số tăng gia, sửa soạn tài liệu y
khoa phòng ngừa ngoài sa mạc, tổ chức nhóm chích ngừa bệnh, sửa
soạn thuốc men cho sư đoàn và huấn luyện cấp tốc các quân nhân y
tế mới bổ túc tới. Lúc hòa bình N. chỉ có bảy bác sĩ quân y (kể
cả N.) cho cả sư đoàn, nay được tăng lên tới 20 bác sĩ một cách
đột ngột.
Ngay
chuyện tăng thêm bác sĩ cũng đã rắc rối rồi. Y sĩ trưởng Quân
đoàn cho danh sách và các đơn vị các tân bác sĩ, nhưng vì các vị
tân bác sĩ này ở rải rác khắp Âu châu, nên liên lạc rất khó khăn.
Có bác sĩ thì rất hăng hái nhận lệnh trình diện ngay, nhưng có
vài ba anh chị thì cứ lờ đi như là không nhận lệnh điện thoại và
kéo dài thời gian tới trình diện. Vì sau được biết, có một chị
bác sĩ cố trốn tránh và gây chuyện phản đối với cấp trên, nhưng
cuối cùng cũng không xong.
Sau đó là có màn chỉ định các vị tân
bác sĩ này đi xuống đơn vị. Lẽ dĩ nhiên là bác sĩ ở Trung đoàn là
khoẻ hơn và ít nhất an toàn hơn ở Tiểu đoàn, nên có một bác sĩ
lên phản đối tại sao N. bắt hắn ta phải đi làm ở Tiểu đoàn. N.
giữ lập trường và nhất định không thay đổi lại quyết định. Sau
khi hắn ta đưa ra một vài lý do không được vững cho lắm, hắn ta
bèn chịu thua rút lui trong hậm hực, không thuyết phục được những
thay đổi thuyên chuyển.
Sau khi tập họp đủ bác sĩ, N. bèn gửi
các bác sĩ này đi học khoá huấn luyện cấp tốc học cách chữa trị
và chống vũ khí hoá học (Biochemical Warfare).
Từ ngày trở về Đức trở lại, đời sống N.
quay cuồng với sư đoàn, họp lên, họp xuống, không còn ngày nghỉ
cuối tuần gì cả. Lúc đó là gần lễ Giáng Sinh, nhưng ai nấy chả
bận tâm ăn lễ gì hết.
Tuy vậy, khi gần tới ngày đáp máy bay
sang S.A., sư đoàn cũng cho tất cả nhân viên nghỉ hai ngày để vui
họp với gia đình. Lúc đầu, ai nấy cũng sẽ tưởng đi ngay trong
vòng hai–ba tuần, nhưng thực tế, di chuyển cả Sư đoàn Thiết Giáp
đâu có thể nhanh như vậy, nên phần đông sư đoàn được ở lại qua lễ
Giáng Sinh mới đi.
Ngày 27 tháng 12, N. thực sự đáp máy
bay, sau khi từ giã với vợ con. Chuyến đi ra phi trường Đức buồn
thiu, trời thì tối mưa phùn ảm đạm lành lạnh, vẫn còn nhạc Giáng
sinh phảng phất, đèn giáng sinh lẫn cây thông còn đó, ngoài cổng
trại lính vài người biểu tình giăng biểu ngữ “Nicht Blut Fur Oil”
(“Không đổ máu vì dầu xăng”).
Trên phi
cơ binh lính hay sĩ quan cùng ngồi chung, phần nhiều im lặng
không ai nói năng gì cả, chắc vì lo âu không biết tương lai sẽ ra
sao. N. có gợi chuyện với một hạ sĩ quan da trắng thì anh ta nói
là nước Mỹ đã đối xử với anh ta rất tốt nên khi nếu bị xui xẻo gì
đó anh ta không ân hận gì cả cho là Tổ quốc trên hết, tinh thần
ái quốc anh ta rất cao. N. cũng nói chuyện với luật sư trưởng của
Sư Đoàn là Trung tá J.A. ông ta không lấy gì mà lo âu cả, ông ta
đã từng phục vụ ở Việt nam rồi. (sau đó độ 5–6 năm sau ông ta
được thăng chức Thiếu tướng). Ngược lại nữ Đại úy Y sĩ L.S.
chuyên môn về thần kinh tâm lý dưới quyền của N. thì ngồi co rúm
ở một góc ghế không nói năng gì cả.
N. tới phi trường Dahran vào khoảng 9
giờ sáng. Lúc rời khỏi Đức quốc, khí hậu rất lạnh, nên khi gần
S.A., ai nấy đều cởi bỏ áo lạnh, và vén tay áo lên, vì nghĩ rằng
ở sa mạc rất nóng. Máy bay không đáp xuống phi trường ngay được,
vì có tin phi trường đang bị báo động vì hoả tiễn Scud, nên phải
bay vòng ngoài xa tới hơn một giờ đồng hồ sau mới đáp xuống. Ai
nấy chả bảo nhau gì cả nhưng gần như tất cả đều lấy áo jacket che
đạn (gọi là flakjack) mặc vào.
Xuống phi trường thì có vài hạ sĩ quan
tới đón tiếp, phát cho mỗi người một chai nước suối và chỉ dẫn đi
ra xe buýt để tới trại đóng quân tạm ISA (Intermediate Staging
Area). Trông thấy các hạ sĩ quan đó mặc đồ ấm lạnh và không mặc
áo flagjack, ai nấy đều ngạc nhiên, không hiểu tại sao. Chỉ một
lúc sau đó, sau khi đứng chờ đợi đoàn xe buýt khởi hành, ai nấy
đều lạnh run vì có một luồng gió lạnh thổi nhè nhẹ không ngừng.
Thế là tất cả lại bèn lục ba lô ra, lấy áo lạnh ra mặc. Hỏi tại
sao không mặc flakjack, thì họ trả lời đâu có đánh nhau gần đó gì
đâu từ lâu rồi. 12 giờ trưa, đang chờ đợi khởi hành thì tiếng
oang oang vọng từ loa phát thanh như là tiếng vọng cổ nhi nhô như
của Ấn Độ hồi trước, quay nhìn chung quanh, N. thấy các tài xế xe
buýt người Ả rập đang quỳ gối cúi rạp người hướng Mecca mà cúng
khấn.
Khoảng 1
giờ trưa thì đoàn xe di chuyển ra ISA. Trên đường xa lộ đi qua
thành phố Damman nhà cửa rất khang trang. Hầu như các nhà đều là
villa tường trắng, có bốn bức tường bao chung quanh kín mít. Đúng
là một xã hội kín mít và khe khắt như được kể là không bao giờ
đàn bà dù chưa hay có chồng không được phép ra ngoài phố một mình
mà không che mặt. Còn được nghe, nếu được mời vào một gia đình Ả
rập thì chỉ được tiếp xúc với đàn ông chủ nhà và các con nhỏ mà
thôi. Còn các phái nữ thì ở trong cung cấm. Trông thấy kiểu cách
kiến trúc nhà cửa kín mít tường bao chung quanh, N. thầm nghĩ đời
sống gia đình người Ả rập như vậy rất khó khăn, khe khắt, không
ai biết chuyện gì xảy ra trong gia đình họ được. Nói là sa mạc,
nhưng đường phố trong tỉnh có nhiều cây cỏ dọc theo bên đường. Có
tiền là có cây mọc N. nghĩ vậy. S.A. có vài hãng lọc nước biển ra
nước ngọt rất lớn, thành ra nước không khan hiếm lắm và có đủ
nước mà tưới cây cỏ.
Qua khỏi tỉnh, đường xa lộ rất tốt như
xa lộ ở bên Mỹ, cũng có bảng chỉ đường xanh trắng rất rõ rệt. Bên
vệ đường thỉnh thoảng thấy vài cây palm và có vài con lạc đà thản
nhiên ăn những bụi cây nhỏ ở sa mạc.
Độ hai tiếng đồng hồ sau, đoàn xe buýt
tới ISA cách biên giới Iraq độ 300 cây số. Ngoài cổng có bảng đề
“Desert Inn, Free Breakfast and Bed, Always Have Helping Place
for a Few More”. Đó là một trại lính bao bọc chung quanh bởi dây
kẽm gai.
Những
vị nào lúc trước có ghé qua ở Guam thì cũng giống như vậy. Hàng
hàng dãy lều vải (tent) ngay ngắn với hai dọc nhà tắm (shower
stands) gỗ và nhà vệ sinh. Bên kia sân cát –chỗ nào cũng toàn là
cát cả– là vài tent dùng làm cơ sở hành chánh, chỉ huy, tent họp
và field PX. Cũng có một chỗ rộng lớn có bàn ăn picnic ngoài trời
mà xe vận tải đem đồ ăn nóng tới. Nữ quân nhân thì ở một tent
riêng, độ 15–20 người một tent.
Mỗi ngày, ai nấy được phát ba chai nước
suối (độ một lít rưỡi mỗi chai) và hai gói MRE (Meal Ready to
Eat) để ăn sáng và ăn trưa. Tối thì xếp hàng ãn đồ nóng do nhà
thầu đem tới. Ai muốn ãn hamburger thì đứng xếp hàng ra một quầy
xe chờ mua hamburger và French fries đang nấu tại chỗ.
Ở ISA khoảng 10 ngày N. chẳng bao giờ
có thừa thời giờ đứng chờ cả một cho tới hai giờ để mua một miếng
hamburger. Chỗ nào cũng có hàng dài lính xếp hàng tới lượt vào PX
mua đồ hay ra chỗ gọi điện thoại dã chiến.
Ngày ngày ở ISA, N. phải đi họp buổi
chiều 5 giờ rồi sáng hôm sau đi tụ họp các bác sĩ ở Trung đoàn để
ra chỉ thị sửa soạn hành quân. Ba ngày sau thì xe jeep của N. tới
bến (gọi là xe CUCV), thế là N. có dịp đi cùng tài xế lái xe ra
tỉnh Jubai và Damman thăm viếng các nhà thương dã chiến. Nhà
thương 5th Fleet Hospital của Hải quân coi bộ là khá nhất. N.
thăm bệnh của Sư đoàn bị đau ốm đang điều trị ở đó, và được mời ở
lại ăn trưa khá tươm tất. N. cũng lo liên lạc với Quân y Quân
đoàn về tin tức chống vũ khí sinh hoá học như nerve agent,
mustard, anthrax và botulinism, sau đó N. lại phổ biến huấn luyện
cho Bộ Tham Mưu và các đơn vị của Sư đoàn.
Sống trong cùng tent với N. có nhóm
lính thuộc phòng vũ khí hoá học, nên N. cũng được chỉ dẫn thêm về
cách phòng ngừa như pha chế nước rửa và quần áo mặt nạ (MOPP
gear). Phần nhiều tinh thần của lính rất hăng hái, có rất ít phần
tử sợ sệt. Có một anh trung sĩ mà N. nhớ mãi tên là Badwin, da
trắng, lực sĩ cao lớn, trẻ trung, mặt mũi sáng sủa. Hắn ta lúc
nào cũng nói là sẵn sàng ra mặt trận. Hắn ta nói là cả họ Badwin
của hắn đã sống rất đầy đủ nhiều thế hệ rồi, nên nếu có mệnh hệ
gì cho hắn thì hắn thản nhiên chấp nhận hy sinh mặc dù hắn có vợ
trẻ, con nhỏ. Quả là tinh thần ái quốc cao. Lại có một anh chàng
da đen Mỹ nhưng theo đạo Muslim Hồi giáo, hắn ta lúc nào cũng
trầm ngâm. Khi hỏi, hắn ta kể lể là hắn theo đạo Hồi giáo thì
những người cùng đạo không được giết nhau, làm hắn ta rất phân
vân không biết phải làm gì mặc dầu bao nhiêu lần cãi lý với Trung
sĩ Badwin (chẳng hạn như: chẳng lẽ để Saddam Hussein cứ mỗi ngày
lại xâm chiếm, hiếp đáp các xứ nhỏ bên cạnh, tự do hoành hành như
vậy hay sao?).
Trong thời gian ở trại ISA, một anh
chàng đại úy quân y sĩ bị trật khớp xương đầu gối khi tập khiêng
băng ca. Hắn ta được chuyển qua Quân y viện về Đức, N. lại nhức
đầu phải đi kiếm bác sĩ, nhất là về sau biết được là hắn ta có
đau đầu gối lúc trước nhẹ, nhưng chạy chơi football bị trật khớp
xương chứ có tập khiêng băng ca gì đâu? Thế là anh ta thoát khỏi
phải ra mặt trận, bề ngoài mặt thì nói sorry sorry nhưng nét mặt
thì mừng rỡ vì thoát khỏi chỗ hiểm nguy.
Ngày 5 tháng Giêng, cả sư đoàn di
chuyển ra chỗ tập trung chiến thuật Tactical Assembly Area (TAA).
Chỗ này cách biên giới 170 cây số, ngoài tầm tác xạ của pháo binh
địch, nhưng cũng không tránh khỏi hoả tiễn Scud. Tuy vậy lệnh
trên bắt buộc tất cả phải đội nón sắt (Kevlar) chứ không còn đội
mũ vải như ở ISA nữa. Thành ra ai nấy có phần căng thẳng thêm
không ít thì nhiều.
Ở TAA, đời sống hằng ngày bắt đầu khó
khăn hơn, sáng 5 giờ 30 đã phải chỉnh tề quân phục tác chiến, rồi
phải chia nhau ra canh gác ngoài vòng đai. Y tá và bác sĩ được
miễn canh gác, còn tất cả từ đại úy trở xuống phải đứng gác tới 7
giờ sáng. Thiếu tá trở lên thì phải ra Bộ Tham Mưu dã chiến làm
việc. Bộ Tham Mưu dã chiến gồm có từ phòng 1 cho tới phòng 5 và
những phòng phụ thuộc như truyền tin, chiến tranh hoá học, liên
lạc không quân, quân binh, phòng không, tiếp liệu, v.v. những
phòng này làm việc trên những xe van (5–ton expands van) sửa đổi
thành phòng làm việc có máy nóng, lạnh và máy truyền tin. Quân y
sư đoàn cũng có một xe van gọi là Med Ops (Medical Operation).
N. vì là Y sĩ Trưởng Sư đoàn, có một Y
sĩ Trung tá trưởng Med Ops lo về tản thương và tiếp liệu quân y
cùng những việc lặt vặt khác. Hắn ta 5 giờ 30 sáng phải ra xe van
họp và làm việc. Còn N. và hai y tá ở lại tent trở thành một trại
cấp cứu khi cần.
Sau thời gian “stand to” thì quân lính
được trở về tent làm vệ sinh cá nhân hay ăn sáng. N. sau đó đi
họp với Bộ Chỉ Huy đóng cách xa từ 10 cây số tới 50 cây số (dĩ
nhiên khoảng cách thay đổi như vậy vì Bộ Chỉ Huy phải “nhảy”
(jump) đổi chỗ cắm trại cho địch không biết chỗ nào xác thực).
Tuy khoảng cách có vẻ gần, nhưng lái xe
ở sa mạc rất khó khăn. Ai nấy đều tưởng sa mạc toàn là cát, nhưng
thật ra là đất trộn với cát. Nếu mưa nhiều thì cây cỏ sẽ dễ mọc.
Nói về mưa thì trong thời gian N. ở TAA, N. bị năm trận mưa lớn,
hai lần lều vải của N. bị ngập lụt. Vũng nước lầy thường xảy ra
sau mỗi cơn mưa, thành ra đêm tối đi trong trại dễ dẵm phải bùn.
Không hiểu năm nay mùa mưa có khác thường hay không? Mà chỉ một
trận mưa đầu, mức nước mưa đã đủ mực cao nước mưa của vùng N.
đóng cả năm rồi. Đó là chưa kể những trận mưa nhỏ phất phơ, nhưng
được cái là chỉ ba–bốn ngày sau là đất lại khô nhưng lại khổ vì
cát bụi. Hai lần xe HUMVV của N. bị lầy phải nhờ Thiết vận xa tới
kéo lên.
Sẽ kể
sau... Lái xe trên sa mạc phải dùng địa bàn (compass), không
chính xác lắm, hay Loran. Máy Loran là một máy điện tử gắn trên
xe để định hướng. Khi vặn máy lên, bấm nút, máy sẽ chỉ tọa độ
hiện tại của xe đậu bằng cách phát làn sóng ra ba trạm antenne
gần đó. Tọa độ bằng độ Lat Long (Latitude, Longitude)
[vĩ tuyến,
kinh tuyến], sau đó bấm tọa độ chỗ mình muốn tới và máy tính cho
biết hướng nào sẽ đi và cách xa bao nhiêu dặm. Lúc mới tới TAA,
N. chưa được phát máy Loran, vì số máy Loran lúc ban đầu rất khan
hiếm, chỉ phát cho đơn vị cần thiết nhất như Bộ Chỉ Huy đơn vị
tác chiến, xe tăng, xe cứu thương, trực thăng, nên N. và ba thầy
trò gồm một tài xế và một thượng sĩ thường vụ phải dùng địa bàn.
Chỗ TAA rất rộng lớn chừng 100x150 cây
số và có hai con đường chính mà thôi, gọi là đường, chính ra chỉ
là một đường cát bụi do công binh cắt giữa sa mạc. Sau đó vì
nhiều xe cộ đi lại kể cả xe tăng nên làm hỏng có nhiều lỗ sụp lên
sụp xuống. Khi đi họp N. phải băng qua nhiều rãnh mà các xe tăng
đi qua. Các rãnh đó vì là đất bùn trộn với cát nên khá cứng, đi
ngang qua mà lái nhanh là sập bàn toạ là thường. Có vài lần đi
họp chiều tối, khi tan họp lúc 6 giờ chiều, trời đã xẩm tối mà
lệnh trên chỉ được dùng đèn mờ parking nên rất khó đi. Có hai
lần, ba thầy trò N. bị lạc loanh quanh có 20 cây số mà không kiếm
ra được trại N. ở. Lái một lúc là phải xuống xe ngắm lại địa bàn,
nhưng cũng không xong vì ở sa mạc đâu có điểm cao để nhận diện
đâu, như nhà, cây cối chẳng hạn.
Ban đêm ở sa mạc, bốn phía đều giống
nhau cả. Có lúc thấy một trại, nhưng khi dừng lại hỏi rất nguy
hiểm vì không được dùng đèn sáng, chỉ được dùng đèn pin có kính
lọc đỏ hay tím mà thôi. Lính gác nếu không cẩn thận hay hoảng hốt
bất ngờ có thể bắn lầm lắm. Cứ tưởng tượng đang đứng canh gác tự
nhiên có bóng đen từ từ đi tới giật mình thì có thể hoảng hốt bóp
cò súng dễ như chơi, hóa ra là không phải trại N. đóng, hỏi hướng
nào để đi, thì lính gác thường thường cấp kém nhất, đâu có biết
gì đâu. Hỏi trưởng trại thì hắn cũng không biết gì luôn vì thường
thường mỗi đại đội đóng một chỗ riêng và một sư đoàn thì có cả
trăm đại đội nên ai cũng lắc đầu. Hỏi có thể nhờ điện thoại được
không, thì hắn trả lời là tối đêm có lệnh cấm sử dụng truyền tin
(signal silence) tuyệt đối.
Thành ra xe N. lại loanh quanh một hồi
tới khi gặp được Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn, may quá ở đó N. có quen
với Tiểu đoàn trưởng, nên hắn biết hướng và tọa độ N. ở nên chỉ
một chút sau là N. về đến trại được. Khoảng cách có 15 cây số mà
đi mất bốn tiếng đồng hồ, thật là hú vía, vì nếu kiếm không ra,
phải đậu xe ở ngoài sa mạc chờ đến sáng hẳn
[mới]
đi. Chứ cứ lái
xe đi mãi có thể đi lạc sang đất địch, như chuyện hai anh lính Lê
Dương Pháp lái xe làm sao đi lạc sang đất Iraq bị bắt làm tù
binh, đã thế ngủ trên xe sẽ bị lạnh cóng. Khoảng lúc N. đóng ở
TAA là mùa đông bên Saudi Arabia. Ban ngày thì mát nhưng ban tối
thì rất lạnh, có lúc gần 0 độ Celsius, sáng ra ngoài đều thấy
sương đóng đá trên xe.
Ngoài những trận mưa thì còn có những
trận bão cát gọi là shamal. Các trận bão cát này thường xảy vào
tháng Giêng và tháng hai, lâu lâu mới có một trận kéo dài độ một
ngày thì hết. Nhưng từ tháng ba tới tháng bảy thì thường xảy ra
hơn cứ vài ba ngày lại có và có thể kéo dài cả tuần cho đến tháng
bảy. N. rất ghét những trận bão cát này, nếu đang lái xe thì cát
mù mịt, buổi trưa lái xe mà lại không trông thấy năm thước đằng
trước. Rồi bụi cát bay vào mắt làm cay, đau mắt, hít thở vào nguy
hiểm cho sức khoẻ và quần áo, ghế bố, đồ vật rất bẩn vì bụi đóng
cả đống. Lều vải không cách nào làm kín mít cho cát khỏi vào
được. Lại còn nếu không mắc đóng lều vững chắc thì lều vải bị sập
tiệm bay đi dễ như không. N. tội nghiệp nhất là đang bão cát như
vậy mà lính lại đang đứng gác mà không có khăn che mặt mũi thấy
mà thương hại. Có vài lần N. dừng xe lại và phát cho lính gác
khăn che mặt mà N. lấy từ trong túi cấp cứu (gọi là cravate dùng
để làm sling khi trật tay hay cùi chõ).
Nói về cát bụi bay vào mắt, năm ngày
hôm sau khi tới TAA, N. đi thăm các nhà thương dã chiến chung
quanh. Khi tới thăm bệnh viện tản thương số 12 (12th Evacuation
Hospital) thì được biết một đại úy Phòng 5 bị đau mắt, khi khám
ra hắn ta bị trứng con ruồi của cừu nở ra thành larvae trên mắt
hắn ta. Hắn kể là vài ngày hôm trước, hắn bị bụi cát vào mắt, sau
đó khó chịu nên đi khám. N. được nhân viên phòng thí nghiệm cho
xem con larvae đó ở kính hiển vi (sheep botfly). Cách chữa trị
bệnh đó thì chỉ là gắp các con đó ra thì khỏi (đếm được gần 30
con).
Ở TAA
thì đời sống không khá hơn ở ISA, vì ăn uống ở đây không còn có
thầu khoán nấu đồ ăn nóng cho buổi sáng và buổi tối. Tuy vậy,
thường thường (trừ những ngày không “jump” thì phải ăn đồ MRE)
thì có một bữa ăn nóng do đầu bếp dã chiến nấu, ăn cũng tạm được.
Bữa ăn nóng đó thì có thể là bữa ăn trưa hay tối (5–6 giờ chiều).
Tắm thì tắm nhà tắm gỗ xây ba cái gộp một và đi vệ sinh cá nhân
cũng vậy, chỉ có cái bất tiện là hơi xa chỗ ngủ (độ 300–500
thước), quần áo thì giặt lấy. Chủ nhật thì các Cha tuyên úy giảng
đạo tại mỗi trại.
Về tinh thần quân lính thì sau khi mừng
hụt là Saddam Hussein chịu cho Tổng trưởng Ngoại Giao Aziz họp
với Tổng trưởng Ngoại Giao Baker ở Geneve, ai nấy đều thất vọng
khi hay tin điều đình thất bại hoàn toàn. Tới ngày 15 tháng Giêng
thì được biết chiến tranh sẽ xảy ra. Tin đồn là nếu nghe được
trên đài phát thanh hay bất cứ đài vô tuyến nào có mật hiệu “Cow
boy” thì là chiến tranh bắt đầu. Đêm 17 rạng 18 tháng Giêng, ai
nấy đi ngủ, phập phồng chờ đợi. Nhưng sau đó tất cả đều ngủ đến
sáng thức dậy mới biết là khoảng 2 giờ sáng, không quân Đồng minh
đã thả bom rầm rộ khắp Iraq. Cả ngày hôm sau phần đông quân lính
chú ý lắng nghe tin tức từng giờ một. Ai nấy đều vui mừng vì cả
ngàn phi vụ mà không có máy bay đồng minh nào bị bắn rơi và kết
quả oanh tạc rất tốt.
Khi đi họp hằng
ngày vào buổi sáng thì được biết là tất cả phải đề cao cảnh giác
vì khủng bố địch. Có tin là tụi khủng bố dùng xe Toyota 4 Wheels
mầu vàng đi bắn vào các trại. Lính canh gác được lệnh bắn chỉ
thiên trước rồi nếu xe nào không dừng lại thì bắn ngay.
Trong khoảng thời gian đó thì sư đoàn
cho thầu được một trạm điện thoại ATT. Trạm này được dựng ngay
giữa sa mạc gồm có một disc radar lớn để nhận làn sóng điện thoại
và có từ 100 đến 150 cái điện thoại. Vì thư từ rất chậm, độ ba
bốn tuần một chuyến mới là thường, nên điện thoại rất đắt hàng.
Ban ngày mỗi người không được nói quá 15 phút, ban đêm thì tự do
muốn nói bao lâu cũng được, điện thoại đó nhấc lên thì có
operator hỏi gọi số nào và họ sẽ liên lạc với số đó và cho trả
bằng ATT credit card (giá độ chừng $16.50 cho mười phút đầu
tiên). Không thể gọi thẳng được hay người nhà không thể gọi tới
chỗ đóng quân được. Giá khá mắc, nhưng ai nấy đều không quản ngại
trả tiền vì khó mà có dịp gọi điện thoại vì tùy trại, có trại
phải bay trực thăng mới tới nói được mà vì phải chờ đợi tới lượt
gọi xếp hàng nhiều khi ba–bốn tiếng đồng hồ chờ đợi là thường.
Được biết là mỗi ngày có chừng 5000 cú điện thoại thành ra N.
thầm nghĩ ai mà có stock trong ATT lúc này là trúng số đỏ. Vì giá
khá mắc nên thời gian sau trên đài phát thanh quân đội họ cảnh
cáo lính đừng có lạm dụng điện thoại vì có người phải trả cả ngàn
đồng điện thoại hết sạch tiền lương.
Vì thư từ chậm trễ khó khăn, N. cũng
dùng điện thoại để cho gia đình biết tin cho đỡ lo âu. Về tin
tức, ngoài thư từ, điện thoại, binh lính được phát báo Stars and
Stripes để đọc. Báo này thường trễ, sớm nhất là cũ ba ngày nhưng
rất có giá trị vì có rất ít, phân phát không đều, nên ai nấy khi
có là ngấu nghiến đọc lấy đọc để. Như đã nói ở trên, thêm vào đó,
muốn biết tin tức phải chịu khó mở radio mà nghe. Phải mua
shortway radio thì mới bắt đài BBC được, máy thường chỉ nghe được
đài quân đội mà thôi. N. thì còn biết khá hơn vì phải đi họp với
Bộ Tham Mưu hàng ngày nên biết tình hình cập nhật do Phòng Nhì và
Phòng Ba báo cáo.
Khoảng lúc đó là vì có thể là thời tiết
thay đổi có dịch cảm cúm, ho, nghẹt mũi và khan tiếng. Có thể nói
một cách tổng quát là hơn nửa số quân lính ai nấy đều bị không
nhiều thì ít các triệu chứng trên. N. sau khi chữa trị cho Tướng
Chỉ huy trưởng một tuần sau cũng bị lây.
Nói về thư thì do Quốc Hội Mỹ chấp
thuận nên gửi thư về Mỹ hay Đức thì miễn phí. Ngược trở lại Mỹ
gửi sang S.A. chỉ trả giá bằng nội địa. Còn gửi đồ thì gửi về gia
đình bên Đức hay ngược lại thì miễn phí. Nếu gửi về Mỹ thì phải
trả giá như giá nội địa.
Sau khi hân hoan về các tin oanh tạc do
Không quân Đồng minh vào ngày đầu tiên thành công, thì có tin
Iraq nào là bắn hoả tiễn Scud, lẫn đột kích qua đất Saudi Arabia,
quân tình bắt đầu hơi nản chí vì ai nấy đều đếm ngày trở về với
gia đình, mà nay thấy chiến dịch thả bom có lẽ sẽ kéo dài rất lâu
mới thắng.
Ngoài những buổi họp hằng này với Bộ Chỉ Huy, N. phải lo điều
động tiếp liệu y khoa tranh giành với xe cộ chuyên chở vũ khí,
xăng nhớt và bom đạn, N. phải nhắc khéo cho Tướng chỉ huy chú ý
thì mới khả quan. Cũng may là chiến dịch thả bom kéo dài hơn cả
tháng nên tiếp liệu quân y gần như được đầy đủ khi tới ngày đánh
bộ (Ground Day) N. cũng phải đi tiếp xúc với Quân y Quân đoàn, lo
kế hoạch tản thương và liên lạc với các nhà thương MASH và CSH
(Combat Support Hospital). Sư đoàn của N. cấp số được hai MASH và
hai CSH hỗ trợ và một–hai Evacuation Hospital phụ thêm MASH có 60
giường bệnh và có thể di chuyển 100% với sư đoàn. CSH có 200
giường bệnh, to hơn nên khó di chuyển hơn. Còn Evacuation
Hospital thì quá lớn 400 giường nên gần như hoàn toàn không di
chuyển theo sư đoàn được.
MASH có hai phòng mổ và có độ 16 bác sĩ
chuyên môn giải phẫu từ tổng quát cho tới chuyên về lồng ngực hay
não khoa. MASH tuy di chuyển được, nhưng cũng phải mất ít nhất
một–hai ngày mới dọn đi được, nên với tình thế chiến tranh tạm
thời hiện nay của Mỹ (AirLand battle) MASH cũng khó mà đáp ứng
nhanh chóng được. (Sau ngày tấn công trên bộ, Sư đoàn chiến xa
của N. tràn qua Iraq như thế chẻ tre, đoàn xe MASH không kịp chạy
theo, dựng lên chữa trị, lại chạy theo tiếp được).
Vì có tin là lính Iraq có thể dùng chất
Thallium đầu độc vào nước do tin của phòng 2 Hành Quân Sư Đoàn
(Tình báo do Trung tá K.A. chỉ huy –về sau được thăng chức Đại
Tướng làm Giám Đốc Nha Quốc Gia An Ninh), N. cũng đi bắt liên lạc
và tổ chức các buổi học thêm về chữa trị và phòng ngừa các bịnh
sinh hoá như nerve agents, chất phóng xạ, anthrax, và bolulism.
Các nhà thương MASH và CSH (gọi nhanh
là CASH) và Evac Hospital phần đông là các đơn vị trừ bị và
National Guard. N. đi liên lạc thăm viếng các đơn vị đó và được
biết các bác sĩ trừ bị đó đa số đều có phòng mạch tư đang làm ăn
khá giả nay bị động viên bất ngờ. Có ông trung tá bác sĩ than thở
với N. là ông ta phải khai bankrupcy vì tiền sở phí overhead quá
tốn vì mới trang bị phòng mạch tối tân. Ông bác sĩ nào ông bác sĩ
nấy đều than như bọng, nhưng lỡ ký hợp đồng với nhà binh rồi đành
chịu vậy. Đâu có ông nào ngờ bị trưng tập phải sang đóng ở vùng
sa mạc này đâu. Phần đông các bác sĩ trưng tập đó đều có làm cho
nhà binh một số năm hiện dịch rồi xin ra khỏi nhà binh, nhưng vẫn
muốn giữ cấp bậc và mong làm đủ năm cho có hưu trí về sau. Mấy
ông lý lẽ là sau Việt Nam đâu còn đánh nhau to nữa, hoà bình cả
đến 15–16 năm rồi, mà nếu có đánh nhau to là đánh với Nga sô thì
ai nấy đều khủng hoảng hết mà các ông ấy có sẵn trong trừ bị thì
khi bị trưng tập sẽ nhảy lên lon cao ngồi trên, ngồi trốc ở mấy
chỗ đỡ bị nguy hiểm hơn những bác sĩ tò te mới bị động viên.
Trong lúc đó, tình hình chiến sự thay
đổi không ngừng. Đại tướng Schawarzkopf đã bí mật dàn trận đánh
làm Iraq trở tay không kịp. Trước khi chiến dịch oanh tạc, Tướng
S., bày mưu cho Iraq biết là ông ta tập trung cả bốn Quân đoàn:
Quân đoàn XVIII gồm có Sư đoàn Nhảy Dù Hoa kỳ và Sư đoàn Lê Dương
Pháp, Quân đoàn VII gồm có ba sư đoàn thiết giáp, trong đó có Sư
đoàn 1 và 3 Thiết Giáp Hoa Kỳ, và một sư đoàn thiết giáp Anh
quốc, Quân đoàn Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và Quân đoàn Ả rập gồm
có lính của Ai cập, Saudi Syria, Kuwait, v.v. Tướng S. bày trận
như là Quân đoàn XVIII và Quân đoàn Thuỷ quân lục chiến sẽ đánh
thẳng tràn từ Saudi sang Kuwait, Quân đoàn VII Thiết giáp và Quân
đoàn Ả rập sẽ đánh ngay ở ngã ba biên giới Saudi Arabia, Iraq và
Kuwait.
Tướng
S. cũng làm như sẽ dùng Thủy quân lục chiến đổ bộ xung phong lên
bờ biển trên tỉnh Kuwait city vào hậu cần địch. Ông ta quảng cáo
Thủy quân lục chiến tập trận đổ bộ thành ra Iraq tập trung quân
lính thật kiên cố ở ngã ba biên giới và biên giới giữa Kuwait và
Saudi Arabia và ở bờ biển phía Bắc Kuwait. Iraq xây nhiều hàng
rào kẽm gai chằng chịt với hố sâu cộng với mìn (nghe nói Iraq đã
rải 10 triệu mìn trên biên giới ba nước). Đã thế còn có những
rãnh sâu đổ đầy dầu để đốt lên ngăn cản chiến xa và có chiến xa
Iraq nằm sẵn để bắn vào quân đội đồng minh (killing field). Chỗ
đó Iraq cho là chỗ hướng tấn công của đồng minh khi đồng minh
tưởng chỗ đó là chỗ yếu–soft spot–không có mìn hay hố sâu.
Đó là chưa kể chuyện mà tất cả quân
đồng minh đều e sợ là vũ khí hoá học. Iraq lại có tụi Vệ binh
cộng hoà (Republican Guards) gồm các đơn vị tinh nhuệ nhất được
trang bị với chiến xa và các vũ khí tối tân nhất gồm chừng
150,000 quân. Saddam Hussein dùng tụi Vệ binh cộng hoà này làm
Tổng trừ bị đóng ở ngay biên giới Bắc Iraq và Kuwait để sẵn sàng
đánh thẳng xuống chỗ biên giới nào bị chọc thủng.
Trong lúc không quân đồng minh oanh tạc
ngày đêm không ngừng cắt đứt các trục lộ giao thông, tiếp tế cho
các sư đoàn Iraq vùng Kuwait và tàn phá các não truyền tin cộng
với sự “neutralize” không quân Iraq đó thì Tướng S. ra lệnh cho
Quân đoàn XVIII Nhảy dù và Lê Dương Pháp thay đổi chỗ đóng quân
đi về phía Tây rất xa khỏi biên giới ba nước. Quân đoàn VII Thiết
giáp cũng đổi chỗ ra phía Tây ngoài khoảng biên giới được phòng
vệ kiên cố. Quân đoàn Ả rập thay thế chỗ Quân đoàn Nhảy dù.
Trong khoảng thời gian từ ngày 17 tháng
Giêng cho đến ngày tràn đánh bộ 27 tháng Hai, đường quốc lộ Tap
Line song song với biên giới lúc nào cũng rầm rộ xe cộ di chuyển
cả ngàn xe tăng lẫn đại bác cộng với xe vận tải chở bom đạn và
xăng nước. Vì Iraq không có không quân và vệ tinh dọ thám nên
quân địch không biết chiến trận mới. Đã thế, dù biết Iraq cũng
trở tay không kịp, không thể nào đào hầm hố và gắn mìn thêm hai
biên giới hơn vì không quân đồng minh tàn phá bất cứ xe cộ nào di
chuyển cả ngày lẫn đêm.
Ngày ngày nghe thuyết trình tình hình
đồng minh và địch, N. thấy tội nghiệp cho lính Iraq. Các lính
biên giới phần đông ít học và bị miễn cưỡng phục vụ trong quân
đội. Ăn uống thì thiếu thốn và chỉ được phát một bữa ăn rất thanh
đạm, và ngày đêm lúc nào cũng mang máng sợ bom rớt ngay trên đầu.
Tuy vậy, số lính Iraq trốn đầu hàng sang Quân đoàn VII của N.
tương đối ít, vài trăm... Sở dĩ như vậy là vì chiến tranh tâm lý
của Iraq rất tàn bạo và có tin có toán công an đi tới các đơn vị
ngoài biên giới và xét trong túi ai có khăn trắng thì bị xử tử
ngay.
Thêm
nữa, cũng như hồi ở Việt Nam, không quân Mỹ dùng B52 thả bom
truyền đơn xuống vùng địch rải rác các tờ chiêu hồi viết bằng
tiếng Ả rập bảo là cầm các tờ chiêu hồi đó ra đầu hàng sẽ được
đón tiếp tử tế. Các toán công an đó cũng sẽ giết ngay những người
nào mà trong túi có những tờ chiêu hồi đó. Thêm vào đó khi B52
rải bom truyền đơn chiêu hồi, các sĩ quan Iraq cấm binh lính ra
khỏi hầm hố mà chia nhau ra nhặt và thủ tiêu tất cả các truyền
đơn đó. Rất đắc lực là địch quân nhồi sọ khá tốt vào các toán
quân Iraq ít học là nếu bị bắt hay đầu hàng với Hoa Kỳ thì sẽ bị
giết ngay (vì lính Hoa Kỳ không có đạo Hồi giáo). Thành ra, tin
tình báo cho biết, nhiều lính Iraq đào ngũ không xuống phía Nam
đầu hàng quân đội đồng minh mà trốn ngược lên phía Bắc về với gia
đình ẩn nấp.
Có một lần, quân đoàn VII bắt được một lính Iraq sang đầu quân.
Khi tra vấn thì được biết, hắn ta là một bác sĩ bị động viên bổ
xung đi lái chiến xa. Thảo nào khi đánh tràn đường bộ sang Iraq,
lính địch đầu hàng nhanh chóng và tan rã khá nhanh.
Ngày 21 Febuary 1991 (hay Ground day
minus 3), Sư đoàn 1 Thiếp giáp Hoa Kỳ 1st Armored Division (1AD),
đóng ở Forward Assembly Area (FAA) Garcia gần biên giới Iraq bắt
đầu bắn pháo binh sang đất địch hai ngày liền.
Ngày 23 Feb (G–1), Trung đoàn 4 Trực
thăng thuộc 1AD, sai một Đại đội trực thăng Apache AH–64 tấn công
thám thính sang Iraq trong vùng hành quân của 1AD.
Ngày hôm sau, 24 Feb. (G–Day), Tiểu
đoàn 19 Công binh của 1AD chọc thủng 250 chỗ rộng tám thước qua
mô đất phòng tuyến địch ở biên giới để sửa soạn cho 1AD tràn qua.
Lúc 12 giờ trưa, Quân đoàn VII báo động cho 1AD biết là sửa soạn
tấn công 18 giờ trước kế hoạch định trước. Đúng ra là ngày G–Day
chỉ có Sư đoàn 1 Bộ binh (1ID) và Sư đoàn Thiết giáp Anh quốc
(1AD–UK) tràn đánh sang mà thôi, để địch tin tưởng mà dồn quân
vào chỗ ngã ba biên giới Kuwait, Iraq và Saudi Arabia. Sau đó
ngày G+1, Sư đoàn 1AD và Sư đoàn 3 Thiết giáp Hoa Kỳ (3AD) mới
đánh bọc hông sang Iraq. Nhưng vì thấy địch tan rã nhanh chóng ở
mọi tuyến, nên Quân đoàn VII ra lệnh cho 1AD đánh sớm hơn 18
tiếng dự định, cũng vì vậy mà N. hỏng kế hoạch định trước nên bị
cắt đứt liên lạc với Tổng Hành Dinh Tướng Sư đoàn trưởng 1AD. 1AD
quá mạnh thế đánh như chẻ tre đi đến đâu thì địch (vì địch quân ở
biên giới là đơn vị yếu, phần đông là tân binh quân dịch) mới bắn
vài phút đã đầu hàng ngay.
Cơn hăng say chiến thắng làm quân Mỹ
lăn xả tấn công luôn vào đơn vị thiện chiến Republican Guard của
Iraq một cách hùng hổ, nên địch quân chỉ chống cự một chút lát
rồi cũng bỏ chạy luôn.
1AD tiến quá nhanh đến nỗi các xe tăng
và trực thăng sáng này G+3 thì hết nhiên liệu, phải cho tiếp tế
mới đánh tiếp được.
Lúc 5 giờ chiều ngày G+3, có tin là sẽ
ngưng chiến, Tướng Sư đoàn trưởng 1AD, Thiếu Tướng R. G. (về sau
thăng chức Đại Tướng Tham Mưu Phó Lục Quân) bèn ra lệnh tập trung
tất cả pháo binh, trực thăng Apache và chiến xa, dồn đánh mạnh mẽ
để tiêu diệt tàn quân của Iraq Republican Guard càng nhiều càng
tốt trước khi lệnh ngưng chiến được ban hành vào 8 giờ sáng ngày
28 Feb 1991. Đêm đó, suốt cả đêm, súng đạn, rockets bay ngợp trời
như pháo bông thi đua tàn phá.
Chiều hôm đó, N. bay đi thăm trạm cứu
thương của Tiểu đoàn 2–1 trực thăng tấn công Apache, khi đáp
xuống thì y tá báo tin ngay cho N. biết coi chừng đáp nhầm phải
các bom cluster chưa nổ mà Không quân Hoa Kỳ rải đầy rẫy vào chỗ
địch quân đóng lúc trước. N. cũng được tin là xe của Đại tá Tham
Mưu Trưởng cán phải bom bị nổ tung, nhưng hên là ông ta không bị
sao cả, chỉ bị một cơn hú vía mà thôi.
Khi bay trên đất địch, N. trông thấy
đằng xa ở giữa sa mạc lố nhố một đám đông lính đứng ngồi lổm xổm,
bay lại gần thì hoá ra đó là lính tù binh Iraq đầu hàng. Thật là
một cảnh tượng lạ, cả đến hơn trăm lính tù binh, người thì buộc
khăn trắng trên cánh tay hay trên đầu, người thì cầm khăn trắng,
mà chỉ có hai xe HMVV (jeep kiểu mới) với vài lính Quân cảnh Mỹ
đứng gác mà thôi, chả có hàng rào kẽm gai gì cả. Trông thấy họ có
vẻ sung sướng mà đầu hàng. Hỏi ra thì được biết, đám tù binh đó
mới đầu hàng, đang được tập họp ở sa mạc để được di chuyển đến
trại tập trung tù binh.
N. vào gặp Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn
Apache, Trung tá W. kể lại là 36 giờ đầu khi bắt đầu tấn công,
ông ta không được nghỉ gì cả, lúc thì bay tấn công, lúc thì ở bộ
chỉ huy lo điều động tấn công. Ông ta kể rằng có lúc ông ta bay
tới gần chỗ có địch quân trú đóng, mới có bắn một vài tràng chỉ
thiên thì bất thình lình cờ trắng bay phất phới tùm lum cả lên.
Ông ta bèn ra lệnh cho các trực thăng dưới quyền ngưng bắn (on
hold), ông ta chỉ sợ các trực thăng của các đơn vị khác hay pháo
binh yểm trợ phía sau không biết là địch quân đã đầu hàng rồi mà
vẫn bắn diệt thì đám quân đã đầu hàng rồi sẽ bị tàn sát một cách
quá đáng. Trong một lúc tâm tình chân thật, ông ta kể là từ trước
tới nay, ông ta rất hăng say chiến đấu bắn phá, nhưng lúc này,
ông ta thấy chán nản vì sự phá hoại, khổ sở, tàn khốc của chiến
tranh. Thêm vào đó, Trung đoàn 2 Thiết giáp Hoa kỳ có tiếng là
rất hăng say tận diệt quân Iraq sẽ tiến tới sau máy bay trực
thăng, ông ta không biết họ có nới tay cho đám tàn binh đã đầu
hàng rồi hay không?
N. được Trung tá W. sai lính dẫn đi xem
hầm trú ẩn của quân Iraq gần đó. Lúc đó, gió bão cát (shamal) đã
bắt đầu thổi tới, N. từ chối không tránh bão cát mà vội lấy khăn
che mặt mũi và đeo kính để đi xem nơi trú ẩn đóng quân của Iraq.
Ngoài các xe vận tải bị cháy đen thui chỉ còn sườn xe mà thôi, có
nhiều dụng cụ sửa xe kềm kẹp bỏ ngổn ngang, hỏi ra, hóa ra đó là
một trạm quân cụ của Iraq. Tới một hầm trú ẩn của Iraq, N. cảm
thấy tội nghiệp cho lính Iraq, phải sống quá thiếu thốn, bẩn thỉu
(kém hơn cả Việt Nam lúc trước), vài đồ đạc, quần áo dơ dáy,
nghèo nàn, vứt tung toé chung với một vài bãi phân. Chung quanh
hầm hố vẫn còn phảng phất mùi thuốc súng lẫn với khói của các xe
vận tải còn cháy. Thượng sĩ S. tỉnh bơ chui xuống một hố rãnh trú
ẩn dưới đất, mặc dầu N. can ngăn coi chừng mìn bẫy hay là bị
nhiễm bởi chất hoá học. N. chỉ đứng ngoài cửa hầm ngó vào và hét
coi chừng mà thôi. Chắc Thượng sĩ S. nghĩ rằng tụi Iraq vì quá
hoảng sợ đâu có tinh thần chiến đấu gì đâu, phải lo bỏ chạy trốn
hay đầu hàng, nên đâu có thời giờ gài bẫy mìn mà sợ. Chuyện đó
cũng đúng thật, vì sau đó chả có báo cáo nào về mìn bẫy cả. Nhưng
theo N. cẩn tắc vô áy náy vẫn hơn. Sự thật thì chỉ có tin là quân
đồng minh dẫm phải bom bi cluster của Mỹ hay đã tinh nghịch (hay
dại dột) nhặt cất dấu bom bi làm kỷ niệm, rồi vì một lý do nào đó
làm rớt ra nổ tung bị thương. Thượng sĩ S. có lấy được vài tách
uống trà bằng nhôm rẻ tiền, và nhặt được một khăn chùm đầu mà dân
Ả rập thường dùng, N. khuyên phải giặt kỹ vì coi chừng rận chấy
hay có thể bị dính chất hoá học.
Sau đó N. trở lại lều của Trung tá W.
và dùng cơm trưa ở đó (Meal Ready to Eat hay MRE). Vừa ăn, ai nấy
tuy mệt nhưng nhẹ nhõm vì chiến tranh gần như đã xong. Radio kể
là địch tan rã và đầu hàng cả chục ngàn người. Radio còn chế diễu
là Saddam Hussein đang học bài “Mother of all battles”. Radio còn
chế diễu là tự nhiên Không quân Iran lại được tăng cấp số quá
nhanh vì cả trăm máy bay tối tân của Iraq khi bay sang Iran để
lánh nạn, nay bị chính phủ Iran tịch thu.
Tới lúc này thì tinh thần chiến đấu của
1AD lên quá cao. Quân lính bàn tán là sẽ tới lúc Iraq được xem
“Mother of all parades” ở ngay tại Baghdad. Thêm vào đó là nếu
Iraq thua to như vậy, thì trong tương lai, đối như các nước bại
trận như Đức quốc xã hay Nhật bản, thì chỉ trong vòng độ 20 năm
sau, dân chúng Mỹ lại sẽ tranh nhau mua xe Iraq vừa rẻ lại vừa
tốt tràn ngập thị trường Mỹ.
Đài phát thanh Mỹ, lúc này bắt đầu hàng
ngày đề cao cảnh giác lính Mỹ đừng nhặt bom, lựu đạn chưa nổ để
làm kỷ niệm vì đã nhiều lính Mỹ bị tử thương vì cố ý nhặt, dấu
bom đạn chưa nổ đem về làm kỷ niệm. Có tin lúc đầu là có hai bác
sĩ bị tử thương, như vậy về sau kiểm điểm thì Bộ Tư Lệnh Mỹ xác
nhận chỉ có một bác sĩ chết như vậy mà thôi. (khi về lại Mỹ thăm
gia đình, sau đó M. em vợ của N. ở New York City kể lại là M. có
nhận được message long distance để lại trong recording machine,
đúng lúc sau khi M. hay tin trên radio là có một bác sĩ bị tử
thương, M. hoảng hốt vì sợ đó là tin gia đình báo cho biết có
tang). Nhưng may quá, M. gọi lại thì được biết chỉ là một cú điện
thoại liên lạc gia đình thường mà thôi. Sở dĩ như vậy là vì trên
ti–vi hay trong radio họ có báo tin người bị tử thương nhưng
không nói tên họ để cho họ báo tin cho gia đình biết trước.
Bây giờ là đầu tháng Ba, mùa Xuân ở sa
mạc, gió bắt đầu thổi mạnh hơn, shamal (bão cát) xảy ra thường
xuyên và kéo dài lâu hơn. Gần như là cứ hai, ba ngày lại có một
shamal, kéo dài từ một đến ba ngày. Khi bão cát xảy ra thì lều
vải dễ bị kéo sập như chơi nếu không đóng cọc cột chặt. Ban ngày
lái xe phải đóng cửa kín mít. Đã nóng, lại nóng thêm. Đã thế, cát
thổi lại cứ tung làm trời tối mịt mặc dù bữa trưa cũng không
trông thấy gì cả nếu quá độ năm thước. Có lần N. lái xe Jeep
Cherokee, đi từ trại này sang trại nọ chỉ cách có mấy cây số mà
đi loanh quanh, lạc tùm lum cả lên, đến nỗi phải chịu thua mà lần
mò lái xe trở về trại cũ! Sở dĩ như vậy là mặc dù lúc đó là giữa
trưa, nhưng bão cát làm tối mịt, gió thổi quá mạnh, đường đi
không thấy gì hết vì cát phủ bay che hết tất cả các dấu vết chỉ
đường (như rãnh đất hay một vật làm chỉ điểm–một xác chết của một
con cừu chẳng hạn). Mặc dầu trên xe có compass nhưng cũng không
ích lợi cho lắm vì không có điểm ngắm mà tính toạ độ. Hơn nữa N.
sợ cán lạc đà hay lái vào một hầm hố rãnh sâu thì còn khổ hơn. N.
bèn đậu xe lại định tâm thì may thay có một xe HMMV từ từ xuất
hiện tới, N. bèn lái theo sau thì buồn cười là xe này đi về Tổng
Hành Dinh của N. nên N. lại trở về chỗ cũ.
Ở trong trại cũng rất khổ vì bão cát,
dù có chăn bít bùng kỹ đến đâu, cát bụi vẫn lọt vào lều và phủ
đều lên bàn ghế, ghế bố. Lúc đầu N. còn cố phủi giữ bụi thường
xuyên hằng ngày, nhưng sau đó, N. chịu thua vì như công dã tràng,
mới phủi xong thì cát lại bay tới phủ lên như cũ. Thôi đành sống
với cát bụi vậy. Ban ngày thì đeo kính và che mặt, còn đêm thì
choàng khăn mỏng lên che khắp mặt mũi mà ngủ. Nếu nóng quá vì hơi
thở qua mũi làm nóng, thì N. phải nằm nghiêng cho khăn xoả xuống
như thế hơi thở có chỗ thoát ra. Chứ nếu ngủ mà không che mặt thì
phổi hít đầy cát dễ như chơi. Khi ăn uống cũng vậy làm sao che đồ
ăn được. Lúc đầu N. còn chê không ăn khi có bão cát, nhưng sau đó
cũng phải ăn tưới hạt sen, vì phải ăn để mà sống.
Lúc này quân lính bắt đầu bàn tán ngày
trở về với gia đình. Trước hết vì phần lớn sư đoàn đóng ở biên
giới Kuwait và Iraq, họ tiên đoán là ngày nào sẽ trở về Saudi.
Không ai biết rõ ngày nào rút quân về Saudi cả. Ai nấy đều bồn
chồn, hỏi cấp trên thì không có ai biết cả, người thì đồn đó là
tùy Đại Tướng S., người lại bảo đó là tùy Tổng thống Bush, còn
người thì nói đó là tùy Liên Hiệp Quốc, người thì kết án Saddam
Hussein không chịu nhượng bộ đầu hàng, v.v.
Tóm tắt ai nấy đều sống trong một khung
cảnh hoang mang, chán nản, vì đời sống càng ngày càng khổ cực, vì
càng ngày càng nóng hơn và bị bão cát nhiều hơn.
Có nhóm sĩ quan và lính thuộc Sư đoàn
Tiếp liệu thì tếu và thực tế hơn, họ chung tiền góp lại mỗi người
đóng một số tiền bằng nhau và mỗi người sẽ chọn tiên đoán ngày
nào sẽ trở về gia đình, người nào đoán trúng ngày trở về (hay
ngày gần nhất) sẽ được thưởng số tiền đó để tổ chức một bữa nhậu
nhẹt chung hay làm gì đó tùy người thắng cuộc.
Tình hình chiến tranh thì tương đối êm.
Mặc dầu vậy mỗi ngày mật lệnh vẫn được áp dụng. Khi đi đến gần
tới cổng, lính gác sẽ nói một câu trong đó có mật hiệu, người đi
vào trại phải trả lời chữ mật hiệu đáp lại. Cũng chỉ vì vẫn có
tin là Iraq và tụi Palestine đồng minh địch vẫn tìm cách khủng bố
phá hoại.
Đám
tàn quân Iraq ngày ngày khoảng từ 200 đến 300 người vẫn tới đầu
hàng đều đều. Phần nhiều họ đầu hàng vì do lời đồn là sẽ được cho
ăn uống tử tế. Lẽ dĩ nhiên là họ rất vui mừng được lĩnh MRE (Meal
Ready to Eat) và các chai nước suối cho khỏi đói khát. Nhưng sau
đó ăn mãi MRE (cả lính Mỹ cũng vậy) ai nấy đều chán phè nên lính
bèn đổi MRE ra MRI (Meal Rejected by Iraqis).
Số tù binh càng ngày càng lên cao, nên
N. phải lo thêm tiếp liệu thuốc men cho cấp số tăng gia. Thêm vào
đó, khi đến gần thành phố thì không những có quân Iraq ra đầu
hàng, mà lại còn có hàng trăm ngàn dân Iraq gồm cả ông già, bà cả
lẫn con cái cũng tới xin quân đội Mỹ cho ăn uống và che chở cho
khỏi bị tụi tàn quân Iraq phá nhiễu. Vì kho tiếp liệu thuốc men
đâu có dự trữ thuốc con nít, nên N. lại phải chạy lên chạy xuống
lo đi mua hay đặt lệnh phát thuốc đàn bà con nít như sữa, trụ
sinh, v.v.
Do
những dân trú nạn và lính Iraq đầu hàng, Tướng Sư đoàn trưởng
biết được rất nhiều chuyện dã man do lính của Saddam Hussein gây
ra chẳng hạn như xử bắn bừa bãi, treo cổ cả dân lẫn lính nào mà
có ý hay tư tưởng phản lại với hắn. Còn hiếp dâm hay đốt phá nhà
thì xảy ra thường xuyên, ai nấy đều căm thù Saddam.
Bây giờ là lúc củng cố thu nhặt tất cả
các thuốc kiểm soát (controlled substance) như Atropine, P,
Valium, Cipro (để phòng ngờ chiến tranh hoá học và vi trùng), mà
sư đoàn đã phát cho lính trước để dùng khi cần, N. cũng phải lo
phổ biến và căn dặn lính phải uống Chloroquine để ngừa sốt rét.
Các bác sĩ lúc này cũng nóng lòng chờ
lệnh về nhất là các bác sĩ reservist sẽ được về trước vì Quốc Hội
Mỹ muốn đỡ tốn tiền phải trả lương phụ trội cho reservist. Thế là
các bác sĩ đó nhao nhao lên chất vấn N. đòi biết ngày về. N. chả
có tin nào cụ thể cả, toàn là tin đồn, nên N. chỉ trả lời yêu cầu
của họ để đốc thúc Phòng 1 (Nhân viên) mà thôi.
Thêm vào đó N. lại phải xúc tiến và phổ
biến chương trình phòng ngừa bệnh tâm thần để quân lính Mỹ khi
trở về gia đình tránh bỡ ngỡ có thể gây phiền nhiễu trong đời
sống gia đình hằng ngày. Sở dĩ như vậy là khi lính vắng mặt xa
gia đình một thời gian khá lâu, thường thường lính là phái nam
hay làm chủ gia đình, người vợ đương nhiên phải quyết định lấy
một mình trong cuộc sống hằng ngày. Nay tự nhiên lại có người trở
về đòi tước lại quyền chủ gia đình, thay đổi cách sắp đặt, hay
nói cách nuôi con cái nên khó tránh phải xích mích trong gia
đình. N. bèn lại phải bàn với Y sĩ Đại úy L.S. chuyên môn về thần
kinh tâm trí làm một chương trình giảng dậy, khuyên bảo phòng
ngừa cho binh lính. (Nữ Bác sĩ này hơn mười năm sau đó được thăng
chức Chuẩn tướng).
Ngày 6 March 1991, sư đoàn N. được đề
cử một số lính được trở về nhà trước, lẽ dĩ nhiên, đám lính này
được chọn trong các đơn vị tới Saudi Arabia sớm nhất. Những lính
may mắn này thật sự không may mắn lắm vì được lệnh trở về đã lại
phải gấp rút mà lại còn phải sửa soạn quần áo chỉnh tề để diễn
binh chiến thắng ngay ngày hôm sau tại phi trường Dharan mờ
người.
Rồi sau
đó, có lệnh sắp xếp các đơn vị để rút quân từ tiểu đoàn hay từ
loại bệnh viện (Evacuation Hosp., Combat Support Hospital CSH hay
MASH). Ai nấy đều vui mừng vì như vậy là chắc được về chứ không
phải bị ở lại để yểm trợ cho Kuwait.
Tướng Sư đoàn trưởng ra lệnh cho hậu cứ
sư đoàn hoàn tất cấp tốc một chỗ tạm trú tập trung quân trước khi
trở về Đức quốc. Thế là cả hậu cứ điên đầu cả lên, dựng lều, lát
sàn giữa sa mạc, lập PX, che dù làm một khu giải trí gồm có chỗ
cho ban nhạc chơi, chỗ ăn hamburger miễn phí, chỗ xem ciné video
và một lều lớn để điện thoại. Tội nghiệp cho Tiểu đoàn Công binh,
lúc đánh nhau phải hốc hác đi đầu để phá các mô đất, chiến lũy,
lấp rãnh tuyến sâu, phá mìn nay phải phá các kho đạn của Iraq và
cộng thêm phải xây khu giải trí kể trên.
Nhưng rồi cũng xong trong vòng bốn
tuần, một khu giải trí khang trang được hoàn thành. Lính khi tới
đó được tự do ăn hamburger, hot dog và uống Coca, Sprite thả dàn,
đó là một cái sướng ở sa mạc vì ở ngoài mặt trận nào có McDonald
đâu mà ăn. Sau đó có ban nhạc của USO và của Sư đoàn 1AD chơi
nhạc mỗi đêm. Ngoài ra có bốn “rạp xi–nê” với video với free
popcorn mà thưởng thức. Chỉ tiếc là lính khi về tới đó đâu có
thời giờ thưởng thức đâu. Ngoài vụ dựng lều hay dẹp lều lại đi
rửa xe gấp rút cho hết cát bụi trong vòng có vài ba ngày để cho
đúng kịp ngày chuyển vận lên tàu.
Trong lúc nôn nao sửa soạn ngày về thì
bỗng nhiên thường dân Iraq lánh nạn lại lên cao quá nhiều vì tàn
quân phản công trở lại đánh tụi Iraq Shiites nổi loạn gần thành
phố Basra. Cả trăm ngàn thường dân bị thương tới tràn ngập các
trại cứu thương của Mỹ. Thượng cấp bèn ra lệnh vài Evacuation
Hospital, MASH trở lại vùng giao binh để giúp chữa trị. Có một
Evacuation Hospital đã dọn về gần phi trường Dharan để chờ ngày
trở về Mỹ, quân lính đang thu xếp quân nhu thì được lệnh phải trở
lại Iraq. Đương nhiên thì tất cả sĩ quan và binh lính buồn ra
mặt. Vài tên lính quá khích đã rạch lốp xe và phá máy xe vì như
vậy sẽ khỏi phải lái xe trở lại Iraq. Lẽ dĩ nhiên các tên lính đó
đã bị bắt và cho ra Toà án Quân sự Mặt trận xử án. Thật là tối
dạ! Đã sống qua những lúc khó khăn, khổ nhất trong khi chiến đấu
mà nay lại bị khổ vì một lúc bốc đồng.
Lúc này N. vẫn phải hằng ngày đi họp
với Bộ chỉ huy và lo các công việc hành chánh như viết giấy ban
khen, giấy phê bình điểm, giấy chứng minh xin ban huy chương cho
các nhân viên dưới quyền. Cái khó là ở ngoài sa mạc N. đâu có thư
ký đánh máy photocopy gì đâu. Thành ra N. lại có màn phải đi đề
mẹc xin xỏ các trưởng phòng khác vì họ có xe expand–van đủ nhân
viên, dụng cụ phòng làm việc. Tất cả các giấy tờ kể trên đều phải
hoàn tất cho các binh lính trước khi họ bước lên máy bay trở về
đơn vị cũ của họ.
Ngày 20 tháng Tư năm 1991, N. được tin
nhóm quân y của Sư đoàn 1AD của N. sẽ được trở về Đức quốc trong
vòng 10 ngày sắp tới. Tài xế của N. vui mừng ra mặt và ngày ngày
gạch xoá những ngày còn lại trên tờ lịch hàng tháng.
Lúc này thời tiết càng ngày càng quá
nóng. Buổi trưa nhiệt độ lên tới 110 độ là thường có khi lên tới
130 độ! Nóng nắng dã man, buổi trưa là lúc nóng nhất, N. ra chỉ
thị của Tướng Sư Đoàn là từ 10 giờ sáng tới 4 giờ chiều không ai
được tập thể dục hay chơi bóng chuyền ngoài nắng gì cả. Sở dĩ như
vậy là vì có một lính ở Quân đoàn VII chơi bóng chuyền giữa trưa
bị xỉu rồi chết luôn. Hơn nữa N. đề nghị với Sư đoàn trưởng cho
phép tất cả các binh lính làm việc trong khoảng thời gian đó được
cởi áo ngoài, chỉ cần mặc áo thung mà thôi.
Nắng quá nóng đến nỗi N. phải quẹt qua
mặt với khăn ướt nước để cho bốc hơi mát mỗi 15 phút phải làm
lại. Như vậy gần như là lúc giữa trưa chả có ai làm việc được đắc
lực gì cả. Lẽ nhiên ai nấy đều phải uống nước thường xuyên, mỗi
ngày tám lít nước. Thượng sĩ Thường vụ của N. khuyên cho các chai
nước suối vào bít tất dài thấm nước tránh để cho nước bốc đi, thì
quả thật chai nước giữ như vậy thì uống mát hơn là không bọc
chai. Đại đội Tổng hành dinh của N. được một tí xa hoa hơn là vì
khi chiếm đóng một Câu lạc bộ sĩ quan của Iraq có xung công được
một kho chứa đầy nước hộp và chai Perrier có nước chanh do đó
uống nước dễ chịu hơn.
Ngày 24 tháng tư khoảng 9 giờ tối một
trận bão cát khá mạnh thổi tới, vài lều bị thổi tung cả lên, cây
chống lều đập vào đầu của vài người, máy bay trực thăng bị lật
đổ.
May là lều
N. được đóng rất vững chắc chỉ bị gió cát bay vào thôi, nhưng đêm
đó vô cùng khổ cực, đã rất nóng (tuy là đêm nhưng vẫn nóng vì là
gió nóng) lại bị cát bụi mù làm rất khó thở. Hôm sau N. phải đi
vào các bệnh viện dã chiến thăm các thương binh, may là không có
ai bị tử thương cả. Cũng may là nhờ có neurosurgeon sẵn tức trực
mổ.
Ba ngày
hôm sau thì có lệnh rút trại đi vào KKMC Hotel Kelly để làm thủ
tục lên máy bay về Đức. Gọi là Hotel Kelly nhưng chính thực ra
thật là một hangar lều lớn chứa tới 200 đến 300 người. Mỗi người
chỉ có đủ chỗ cho một ghế bố nên rất ồn ào nóng bực khó chịu. Ai
nấy đều nôn nao chờ về nên chả ai ngủ được mấy. Hôm sau cả ngày
chỉ ngồi chờ lúc thì cho quan thuế tới khám xét rất khắt khe. Sở
dĩ có sự khám xét kỹ càng là vì thượng cấp lo là có vài tên lính
tối dạ đem theo đạn dược mìn chưa nổ làm chiến lợi phẩm để rồi vô
ý làm nổ như vị bác sĩ quân y tử thương lúc trước. Thành ra tất
cả quân trang đồ đạc ở trong Duffel bag phải đổ ra bày trên ghế
bố để được khám xét. Lệnh ban ra là nếu ai bị bắt tàng trữ đồ cấm
đó thì cả đại đội đều bị ở lại. Thành ra không những quan thuế
tới khám xét trước đó, Thượng sĩ Thường vụ Đại đội đã khám rồi. Ở
ngoài lều có để vài thùng phuy xăng lớn trống để ai có tàng trữ
đồ cấm đem đổ vào đó trước khi khám xét thì không có tội gì cả.
Ăn thì được tụi Ấn độ đấu thầu cho ăn
gà quay, hamburger và trái cây tươi thành ra cũng tạm được. Binh
lính đồn tếu là được ăn thả cửa như vậy cho béo để khi về nhà vợ
con gia đình nhận ra được.
Ngày hôm sau thì được dời vào nhà tạm
trú tại ngay phi trường ngủ qua đêm để trưa hôm sau tất cả bước
lên máy bay phản lực Boeing 747 của hãng Towers Airlines do quân
đội Mỹ thuê. Lính và sĩ quan cấp úy thì ngồi ở coach class, còn
các tướng tá thì được ngồi ở first và business class. Khi máy bay
thực sự cất cánh, tất cả đều mừng rỡ và vỗ tay. Ngó qua cửa sổ N.
trông thấy các dãy lều vải trên sa mạc mà thấy bùi ngùi nhưng
không có một tí luyến tiếc gì cả.
Bay độ năm giờ sau thì máy bay đáp
xuống phi trường Nuremberg. Khi bước xuống cầu thang thì đã có
thảm đỏ trải sẵn và có lính dàn cờ cùng Tướng Tư lệnh Phó sư đoàn
hậu cứ đứng đón bắt tay từng người. Chả bù lúc đi xuất quân chả
có ai đi tiễn cả. Đến nỗi thời tiết lúc đó rất đẹp mát như ở Đà
Lạt lúc trước không như lúc đi trời mưa tầm tã như là Trời cũng
buồn cho lính phải đi chinh chiến. Thật là khác với nhiệt độ 130
độ ở sa mạc Saudi Arabia. Khi đi toilet được dùng toilet bowl với
flush thì thấy sướng, thế mới thấy cái gì bị cấm hay không được
dùng mặc dầu tầm thường cũng thấy sướng, cũng như ăn mặn mãi mà
được ăn một bữa chay mà thấy thoải mái (hay là ăn cơm/ăn phở?).
Sau đó tất cả lên xe buýt về trại ở Ansbach. Gần tới trại, N. ngó
lên các building bên đường mà thấy bồi hồi, vài bà Đức mập ú vẫy
tay chào mừng vui cười. Cũng chỉ vì một phần buôn bán ở tỉnh nhỏ
Ansbach bị ế ẩm vì phần lớn binh lính đi xa nay họ được tin là
lính trở về lại nên họ vui tươi chung.
Tới doanh trại thì đã có ban nhạc sư
đoàn đã tề tựu chỉnh tề đánh nhạc hân hoan chào đón. Cờ xí và vải
giăng Welcome Home thêu với yellow ribbon được gắn tùm lum ở cửa
trại và ở các dãy nhà trong trại. Hơn nữa hàng trăm thân nhân với
quần áo loè loẹt rực rỡ mặt mày hân hoan chờ đón thân nhân trên
xe bước xuống. Vì quá đông người, nên N. không thấy bà xã đâu.
Kiếm một lúc cũng không thấy, đang hơi buồn thì có một người vợ
một người bạn nói là có trông thấy vợ N. cũng đang lùng kiếm. Lúc
đó N. mới thấy nhẹ nhàng trong lòng.
Ngày hôm sau có tin trên báo là tỉnh
Ansbach là tỉnh đêm qua có trận động đất nhỏ. (Vùng Ansbach cả
tới mấy trăm năm nay, không có động đất gì cả). Ai nấy đều ngạc
nhiên, về sau vỡ lẽ là nhịp lên xuống ân ái trong phòng the đêm
qua của cả trăm ngàn binh lính đã synchronized đến nỗi làm rung
chuyển động đất. Đó là chuyện tếu để chấm dứt bài thư ngoài mặt
trận: Desert Shield/Desert Storm.
Nguyễn Dương
Y sĩ Đại úy QLVNCH
Cựu Y sĩ Đại Tá QL
Hoa Kỳ
Cựu Y sĩ Trưởng Sư Đoàn 1 Thiết
Giáp Hoa Kỳ
(bài này được cập nhật
January 2021)
Phụ lục Hình ảnh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: phong cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
January 19, 2021
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang