Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Hồi
ký
Chủ đề:
Lính
Tác giả:
Lê Đình Thọ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trung
tướng Ngô Quang Trưởng mất ở tuổi 75. Theo tôi nghĩ, với sức khỏe
của ông, ông sống được như vậy là đã quá lâu rồi. Ông sống chỉ với
một lá phổi. Lúc còn ở đơn vị nhảy dù ông đã bị thương ngoài mặt
trận, một viên đạn vào phổi và sau đó đã phải chịu cắt bỏ một lá khi
vào bệnh viện.
Đã
từng làm việc dưới quyền của ông từ năm 66 đến năm 70, tôi ghi lại
sau đây một vài điều mà cho đến hôm nay tôi vẫn còn nhớ.
Mùa hè năm 1966, sau biến cố bạo loạn miền
Trung, Chuẩn tướng PXN Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh bị mất chức Tư Lệnh
và Bộ Tổng Tham Mưu đã cử Đại tá Ngô Quang Trưởng, lúc đó đang là
Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù ra làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh
thay thế cho Tướng PXN.
Người Nam (Kiến Hòa), với gương mặt khắc
khổ, hiếm hoi có nụ cười; và nếu họa hoằn lắm mới cười, thì cười
cũng không vui hơn khóc là bao nhiêu, và lúc đó hai má của ông sẽ
cóp thêm một chút nữa. Ông ít nói và đã nói thì mạch lạc, ngắn gọn,
không dư và cũng không thiếu một chữ.
Suốt ngày ông bay trên trực thăng và đáp
xuống các tiền đồn bất cứ lúc nào cho nên các tiền đồn lúc nào cũng
phải canh phòng nghiêm chỉnh, không phải vì ở xa mà chểnh mảng công
việc phòng thủ được. Mỗi lần Sư Đoàn có đơn vị đang hành quân dưới
đất thì lúc đó sẽ có ông bay ở trên trời. Ông nắm vững tình hình
ngoài mặt trận còn hơn cả Phòng 3 của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Tôi nhớ có
một hôm vào một buổi sáng Thứ Bảy, trong buổi họp hàng tuần của các
Phòng, Ban của Bộ Tư Lệnh và các Đơn vị Trưởng các đơn vị biệt lập,
Trung tá H Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn đã báo cáo là vừa rồi Trung Đoàn 3
sau khi chạm địch đã tịch thu được một số vũ khí cá nhân và một súng
cối 82ly. Đã bị ông chỉnh lại: “Trung tá H xem lại, chỉ có cái đế
súng thôi, không có nòng súng đó!” Làm Trung tá H ngượng nghịu, anh
em chúng tôi nháy mắt cười với nhau.
Có mấy lần trực thăng suýt rớt và có một
lần rớt thật nhưng may mắn thoát nạn vì phi công đã kịp tách chong
chóng ra khỏi động cơ khi động cơ tắt máy thình lình, do đó với đà
có sẵn của chong chóng máy bay đã xuống được, nhưng chạm đất một cái
rầm. Anh bạn của tôi là Đại úy TTK tùy viên đi theo, một tuần sau
ban đêm nằm ngủ vẫn còn nằm mơ thấy bị rớt máy bay. Và vì ngày nào
cũng bay như vậy nên phải có hai Tùy viên thay phiên nhau đi với
ông, một người không sao chịu nổi.
Ban ngày bay thị sát mặt trận, tối lại về
tư dinh thì mười tối như một, ông ngồi nhìn bản đồ trên vách với ly
rượu whisky trên tay. Mọi người đều hỏi nhau: không biết ông nói
chuyện với vợ lúc nào nữa.
Bà Trưởng là con gái của nhà văn Thạch Lam
(tác giả Gió Đầu Mùa), Thạch Lam là em ruột của Nhất Linh và là anh
của Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), những nhà văn của Tự Lực Văn
Đoàn.
Tư dinh Tư
Lệnh ở trong thành Mang Cá Lớn, hàng ngày các bà vợ của các sĩ quan
Trưởng phòng ở BTL vẫn thường hay vô ra chơi với bà Tướng, nhưng mỗi
khi nghe ông Thượng sĩ quản gia báo cho biết máy bay của thiếu tướng
sắp về tới thì mấy bà lật đật ra xe chạy hết. Ông không bao giờ chịu
nhận quà của thuộc cấp, dù là một món quà nhỏ. Biết tính chồng, bà
Trưởng luôn luôn từ chối các món quà mà những bà trong Hội Bảo vệ
Gia đình Binh sĩ đem đến, dù chỉ là quà ngày Tết. Tôi có một anh
bạn, cũng là Đại đội trưởng một đại đội yểm trợ, ngày Tết mua được
một chậu hoa Mai đẹp, chờ lúc không có ông Tướng ở tư dinh, cùng tài
xế đem đến. Đến nơi dặn ông thượng sĩ quản gia rằng nếu thiếu tướng
hỏi của ai thì nói họ đến rồi đi ngay nên không nhớ. Vừa nói được
ngang đó thì nghe tiếng trực thăng sắp đáp, hai thầy trò bèn bỏ lại
chậu hoa rồi chuồn lẹ.
Dáng người cao, gầy, ông luôn luôn nghiêm
chỉnh trong bộ quân phục nhưng tôi có cảm tưởng hình như lúc nào bộ
áo quần cũng có vẻ hơi rộng đối với con người của ông. Trong đại đội
Quân Nhu hồi đó chúng tôi có rất nhiều thợ may ở Trung đội bảo trì,
nhưng ông Tướng chỉ chịu một người thợ mà thôi. Một hôm vào buổi
chiều tôi nhận được điện thoại của Chánh văn phòng Tư Lệnh nói cho
gấp một thợ may lên trình diện thiếu tướng. Tôi biết ý, cho đúng Hạ
sĩ B là người thợ mà ông vừa ý lên. Khi về anh hạ sĩ này đã báo cáo
lại với tôi là có một ông Đề đốc Hải quân Mỹ đến thăm, ông thấy cái
áo Jacket của ông đề đốc đang mặc ông rất thích nên muốn thợ may
Quân Nhu may cho ông một cái giống như vậy nhưng bằng vải áo trận
màu xanh olive của bộ binh. Tôi đã chỉ thị kho xuất vải nylon nguyên
cây để may cho ông và bảo lấy tấm Pano màu cam (biểu tín hiệu dùng
để đánh dấu bãi đáp cho máy bay trực thăng, có hai màu, màu cam và
đỏ hường) để làm miếng lót bên trong cho đúng với màu vải lót cái
Jacket của ông đề đốc. Và tôi cũng không quên dặn anh thợ may là
phải may hai cái. Anh Hạ sĩ B thắc mắc: Thưa Đại úy, thiếu tướng chỉ
nói may một cái thôi mà! Tôi cười và đưa tay chỉ vào mình. Đến bây
giờ thì anh hạ sĩ đã hiểu và anh cũng cười theo. Khi chào tôi để đi
xuống kho nhận vật liệu tôi thấy anh ta vừa đi vừa tủm tỉm cười. Cái
áo Jacket của sĩ quan phi hành Hải quân còn đẹp hơn cái Jacket của
Không quân nữa vì áo Jacket Không quân không có cổ, cái này có cổ và
phía sau lưng được may phồng lên bằng hai đường xếp ở gần hai bên
nách. Có thể Tướng Trưởng thích cái áo này là vì khi mặc vào trông
ông có vẻ mập ra. Sau đó mỗi lần dự họp hàng tuần ở Bộ Tư Lênh, chỉ
có hai người mặc cái Jacket Hải quân là Tướng Trưởng và tôi! Có điều
vui là nhiều người rất thích cái áo này nhưng không có ai dám nhờ
tôi may cả, kể cả ông Đại tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn là ông Đại tá
C, vì không ai dám bắt chước ông Tướng!
Từ lực lượng nhảy dù về nhưng khi đến Sư
Đoàn Bộ Binh thì Tướng Trưởng không mặc đồ dù nữa mà mặc quân phục
theo màu của bộ binh, chỉ có ở trên túi áo là còn thêu cánh dù mà
thôi. Tôi nhớ có hôm ông Bác sĩ C từ Sư đoàn Dù được đổi về làm Chỉ
Huy Trưởng Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương ở trong thành Mang Cá Lớn.
Vì mới thuyên chuyển đến nên Bác sĩ C chưa có đồng phục ka-ki màu
xanh olive mà vẫn còn mặc quân phục nhảy dù để đi họp. Sau buổi họp
Tướng Trưởng đã nói với Bác sĩ C: Tôi muốn lần tới Bác sĩ C bận quân
phục cho giống như các anh em ở đây. Chỉ hai ngày sau thôi, tôi thấy
Bác sĩ C đã không còn bận đồ dù nữa.
Năm 69 khi Việt Cộng vây căn cứ
Birmingham, áp lực địch rất nặng, một Tiểu đoàn Biệt Động Quân phải
tăng cường phòng thủ vòng đai bên ngoài để căn cứ khỏi bị tràn ngập.
Trong lúc đó mấy khẩu đại bác 105 và 175 của pháo đội ở trong căn cứ
lại bị trở ngại tác xạ vì thiếu đầu di động để thay thế. Buổi họp ở
BTL Sư Đoàn, Đại úy B Đại Đội Trưởng Đại Đội Bảo Toàn báo cáo là đã
xin tiếp liệu khẩn rồi nhưng đến nay vẫn chưa được cấp phát để thay
thế. Thiếu tướng Trưởng liền chỉ thị: “Sau buổi họp, phòng 3 Sư Đoàn
lấy máy bay trực thăng của tôi chở Đại úy B lên căn cứ Birmingham.
Đến khi nào các khẩu đại bác ở trên đó bắn được rồi thì Đại úy B mới
về!”. Chỉ một đêm thôi, VC pháo kích không ngủ được, lại lo không
biết sống chết lúc nào, sáng lại Đại úy B gọi điện thoại về cho Đại
úy Q Đại Đội phó, hối thúc cho sĩ quan tiếp liệu vào gấp Tiểu đoàn
210 Trung Hạng Yểm Trợ Quân Cụ ở Đà Nẵng, bằng mọi giá, bằng mọi
cách xã giao, làm sao xin ứng trước gấp một số đầu di động cho đại
bác, để giải thoát cho Đại đội trưởng đang bị nhốt làm con tin ở
trên căn cứ (chứ không phải để giải phóng cho mấy khẩu súng đang bị
tắt nòng vì thiếu cơ phận!). Đó, làm việc với Tướng Trưởng là như
vậy đó.
Sư Đoàn 1
Bộ Binh trong thời gian Tướng Trưởng làm Tư Lệnh Sư Đoàn được các cố
vấn Hoa Kỳ đánh giá là Sư Đoàn thiện chiến nhất của quân lực. Đây
lại là Sư Đoàn cộng, nghĩa là có đến 4 Trung đoàn. Quân số 18 ngàn
người. Do đó bảng cấp số của các đơn vị yểm trợ cũng đông hơn ở các
sư đoàn khác. Thời gian tôi làm Đại đội trưởng Đại đội Tiếp liệu,
quân số của đại đội có lúc lên đến 340 người, trong đó gồm 15 Sĩ
quan và 60 Hạ sĩ quan.
Thời gian này các cố vấn Hoa Kỳ đã đi đến
cấp Tiểu đoàn ở những đơn vị bộ binh và tới cấp Đại đội ở những đơn
vị yểm trợ. Tâm lý các sĩ quan Việt Nam thường hay coi thường kinh
nghiệm của các cố vấn Mỹ, họ nghĩ rằng những cố vấn Hoa Kỳ chưa có
kinh nghiệm chiến trường bằng họ. Họ chỉ thấy một lợi ích duy nhất
là có cố vấn Mỹ đi theo thì mỗi khi cần gọi phi cơ hay pháo binh yểm
trợ thì được nhanh hơn, và nhất là khi cần máy bay để tải thương.
Biết tâm lý như vậy nên có hôm Tướng Trưởng đã nói với các Sĩ quan
Tiểu đoàn Trưởng rằng: Các anh em không nên coi thường các Sĩ quan
cố vấn. Họ tuy chưa ra mặt trận nhiều nhưng họ đã được đào tạo rất
kỹ lưỡng. Bao nhiêu kinh nghiệm của những cuộc chiến tranh ở khắp
nơi trên thế giới đã được người Mỹ viết thành sách và họ đã đào tạo
cho sĩ quan của họ một cách chính quy ở tại các trường võ bị danh
tiếng mà cả thế giới đều biết đến.
(Năm 1991 khi Hoa Kỳ và đồng minh mở chiến
dịch Bão Sa Mạc để giải phóng Kuwait khỏi sự xâm lăng của Iraq, ông
Tướng Mỹ Tư Lệnh Chiến Trường là Đại tướng H. Norman Schwarzkopf đã
nói với báo chí rằng: Thành công hôm nay chính là nhờ ông đã học
được những kinh nghiệm chiến trường với Trung tướng Ngô Quang
Trưởng! Và ông nói thêm: “He is the most brilliant tactical
commander I’d ever know”).
Trong thời gian làm Đại đội trưởng Đại đội
Tiếp liệu tôi bị Tướng Trưởng lưu ý một lần về những giây leo ngoài
bờ thành của đơn vị, phía sau kho xăng. Thành Mang Cá Lớn là một
trại binh của triều Nguyễn, bờ thành bao bọc chung quanh rất cao,
nhưng từ trên trực thăng ông đã thấy có những giây leo ở ngoài, VC
có thể dùng những giây đó để leo vào trong đơn vị được. Vậy Là Chủ
Nhật đó thầy trò tôi phải đi bọc ra ngoài khai quang cho hết đám
giây leo (mặc dầu ông chỉ mới chỉ thị vào ngày Thứ Bảy, với ông, nói
là phải làm ngay). Ông đã để ý đến cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất.
Tướng Trưởng không thích Chương trình Nông
Mục quân đội, mặc dầu ông không chính thức nói ra. Tôi nhớ có lần
ông đến thăm Trại Nông Mục Sư Đoàn ở thành Mang Cá Nhỏ (trại Hải
quân triều Nguyễn), ông hỏi tôi quân số của trại (quân số loại 2),
sau khi tôi báo cáo quân số, ông chỉ nói: Số thu nhập chắc không đủ
để trả lương cho số lính ở đây!
Và kỷ niệm đậm nét nhất với ông là về đợt
tấn công của Việt Cộng vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 và vào Thành phố Huế
vào Tết Mậu Thân.
Chiều 30 Tết năm 1967, tôi đi với đoàn xe
tiếp tế thực phẩm cho điểm tiếp liệu loại 1 của đơn vị ở trong thành
Quảng Trị về, khi đi ngang qua cầu An Hòa, thấy Đại Đội Công binh
của Mỹ thường ngày đóng ở đây để làm đường và làm cầu bỗng dưng rút
đi đâu mất, trong lúc mới sáng hôm đó khi đi qua đây chúng tôi vẫn
còn thấy họ. Sau này khi kiểm chứng lại tôi mới biết, không những
chỉ toán này mà tất cả những toán khác ở nhiều nơi khác nữa, cũng
đều được lệnh rút về Phú Bài như vậy. Hình như về phía Mỹ họ biết
trước cuộc Tổng tấn công đêm nay của Việt Cộng. Còn phía quân đội
VNCH chúng ta thì chỉ có lệnh cấm trại 100% như thường lệ mà thôi.
Thành thử không ai quá quan tâm, vì hầu như trước mọi ngày lễ lớn,
kể cả những ngày lễ của ngoài Bắc, chúng tôi vẫn đều phải cắm trại,
để đề phòng VC tấn công để mừng lễ lớn của họ.
Đúng thời điểm Giao Thừa thì tiếng súng
bắt đầu nổ, tiếng súng lẫn với tiếng pháo mừng Xuân của bà con.
Khoảng nửa giờ sau thì nghe những tiếng nổ lớn hơn của trọng pháo,
cũng không phân biệt được đâu là pháo của địch, đâu là phản pháo của
ta. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh nằm trong thành Mang Cá Lớn cùng
với một số đơn vị kỹ thuật gồm Tiểu đoàn 1 Truyền tin, Tiểu đoàn 1
Quân y, Đại đội 1 Quân nhu, Đại đội Tổng Hành Dinh và Quân Y Viện
Nguyễn Tri Phương. Vòng thành chuông vuông mỗi bề vào khoảng gần một
cây số. Bờ thành xây cao và có hồ nước bao bọc hai phía, do đó VC
chỉ tấn công hai mặt không có hồ nước là Tiểu đoàn 1 Quân y và Đại
đội 1 Quân nhu mà thôi. Phía Đại đội Quân nhu bị nhẹ hơn vì ở bên
ngoài tiếp giáp với nhà dân, VC khó triển khai đội hình tấn công
hơn. Chúng tôi đã đẩy lui được VC nhờ khẩu đại liên ở trên lô cốt ở
góc thành, còn lính Quân nhu thì có người hình như chưa hề biết ném
lựu đạn, mấy hôm sau khi cho một trung đội ra đóng chốt ở ngoài,
chúng tôi phát hiện có một số lựu đạn anh em ném ra đêm hôm đó chưa
được rút chốt!
Mỗi buổi tối đến giờ giới nghiêm các cửa đi vào Thành nội đều được
đóng lại bằng những con ngựa sắt và kéo kẽm gai Concertina. Và ở mỗi
cửa thành đều có một tiểu đội canh gác. Đại đội 1 Quân nhu được phân
công gác cửa An Hòa. Tối đó Việt Cộng đã dùng giây thừng leo thành
vào và tấn công toán lính gác bằng lựu đạn. Còn ở cửa Hữu thì họ
dùng một người đàn bà ngồi trên xích-lô, độn bụng cho to lên và rên
la như sắp sinh, xin được mở cửa để vào nhà hộ sinh Thành Nội, có
mấy người nhà là đàn ông cầm đuốc đi theo. Động lòng, lính gác kéo
cổng cho vào thì họ tung lựu đạn. Bị tấn công bất ngờ toán lính bị
thương và bỏ chạy, lực lượng của họ tràn vào Thành Mang Cá phía Tiểu
đoàn 1 Quân Y là bị tấn công mạnh nhất, ở đây lại ngay phía trước
mặt của Bộ Tư Lệnh. Việt Cộng đã chọc thủng vách tường và tràn vào
một góc của Tiểu Đoàn Quân y. Thấy lính Quân Y khó có thể đẩy lui
được VC, Tướng Trưởng mới gọi Đại đội 1 Hắc Báo ở phi trường Thành
Nội qua tiếp ứng. Đại úy PVD đã chỉ huy Đại đội với đội hình hàng
dọc, vừa chạy vừa đánh, đã vào được thành Mang cá Lớn, tiếp tay với
Tiểu đoàn 1 Quân y đẩy lùi VC ra khỏi vòng đai BTL.
Những ngày sau đó Tướng Trưởng đã chỉ huy
các đơn vị tác chiến của Sư Đoàn 1 Bộ Binh, phối hợp với các đơn vị
Tổng trừ bị như Dù và Thủy Quân Lục Chiến, cùng với các đơn vị Đồng
minh, đẩy lui hoàn toàn các đơn vị địch ra khỏi thành phố Huế, làm
cho địch quân tổn thất rất nặng nề. Thời gian này cũng có được sự
yểm trợ của Hải pháo của Hoa Kỳ từ các chiến hạm ở ngoài khơi bắn
vào nhưng về yểm trợ của máy bay thì rất ít vì bầu trời lúc nào cũng
đầy mây. Việt Cộng đã nghiên cứu kỹ về thời tiết, từ Lập Xuân đến Vũ
Thủy bầu trời chỉ mây, mưa và không có nắng! Thành phố Huế bị tấn
công và chiếm đóng một phần trong thời gian 28 ngày đó.
Rời chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh vào
đầu năm 70 để vào nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn 4 kiêm Tư Lệnh Vùng 4
Chiến thuật, Tướng Ngô Quang Trưởng đã ra lại Đà Nẵng vào đầu năm 72
để kịp thời tổ chức cuộc Tổng phản công tái chiếm cổ thành Quảng Trị
vào Mùa hè Đỏ Lửa.
Nhìn bề ngoài với gương mặt lạnh lùng khắc
khổ, ai cũng tưởng Tướng Ngô Quang Trưởng là một người khô khan.
Nhưng bên trong ông lại là một con người tình cảm. Trong buổi lễ
chia tay trước hàng quân ở sân cờ Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn để vào Nam nhận
nhiệm vụ mới, sau khi ngắn gọn ngỏ vài lời cảm ơn và từ giã với toàn
thể Sĩ quan, Hạ sĩ quan và Binh sĩ thuộc quyền, ông đã khóc, khiến
cho các cố vấn Mỹ đứng bên lúc đó bối rối và kinh ngạc.
Mấy dòng hồi ký để tưởng niệm một vị Tướng
Lãnh tài ba, tận tụy với nhiệm vụ, thanh sạch trong đời sống, xứng
đáng để làm gương cho nhiều người.
Lê Đình Thọ
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
Dù T–10
SĐND–QLVNCH
dùng trong thời chiến
|
Hình nền: Lũy Tre Làng. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by MĐ Huỳnh Lương Thọ chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
September 17, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang