Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Ngược
dòng Thời gian
Chủ đề:
Chiến tranh
Tác giả:
Phạm Phong Dinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Lời
giới thiệu: Tưởng niệm lần thứ 54 ngày mất nữ anh hùng đất
Gò Công với quả lựu đạn 16 (2/10/1965–2/10/2019).
(Trước năm
75 tại ngã tư Hồng Thập Tự & Lê Văn Duyệt, Sài Gòn có tấm bảng dựng
hình ảnh nữ liệt sĩ Phạm Thị Thàng tại góc ngã tư này) Bảy Hiền.
Chị Thàng đã chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa
con vào lòng, chị Thàng bình tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào
vào, chị rút chốt.
Phạm
Phong Dinh
Trong cuộc chiến tranh
bảo quốc chống ngăn cơn sóng đỏ của cộng sản quốc tế với đạo quân
tay sai tiền kích của chúng là binh đội cộng sản Bắc Việt và Việt
cộng miền Nam, khuôn mặt của những người vợ lính dường như đã rất
mờ nhạt đằng sau chất muối trắng đẫm đầy trên lưng áo của những
người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng chiến tranh càng
nặng độ thì hình ảnh những người chị vô danh ấy đã dần hiện rõ
trong một ánh sáng diệu kỳ, mà chúng ta chỉ có thể cúi người thật
sâu xuống để tôn vinh và ngợi ca. Ðó là những người lính không có
vũ khí, không số quân, không tiền lương, không cả lương thực hành
quân, nhưng là những người lính tỏa hào quang chói sáng nhất
trong những hoàn cảnh nghiệt ngã thắt ngặt nhất, mà đã góp phần
đem chiến thắng quyết định trên chiến trường.
Ðó là NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH, những người
chị cao cả mà đã cùng chồng dấn mình trong cơn bão lửa của chiến
tranh, cùng chia sẻ cái chết, có khi các chị hy sinh trước cả các
anh. Những cái chết anh dũng trong âm thầm đó nào ai biết được.
Không có Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ phủ trên chiếc quan tài được
ghép thành từ những mảnh ván đơn sơ, không có chiếc huy chương
Anh Dũng Bội Tinh Với Nhành Dương Liễu, không cả tiếng kèn truy
điệu ai oán.
Những người lính đóng đồn cùng vợ con của các anh cùng sống chui
rúc trong những cái hầm tối tăm ngột ngạt, dưới những cái hố nhỏ
ngập đầy nước. Những người lính nghèo nàn, rách rưới và tội
nghiệp co ro ôm súng gác giặc và đánh giặc trong cái lạnh xé thịt
của đêm. Ăn uống thì đạm bạc đến không có gì đạm bạc hơn được
nữa. Một cái nồi cơm méo mó, với vài con cá nhỏ kho trong chất
nước mắm hạng bét mặn chát những muối, một dĩa rau muống ruộng
hay rau đắng xơ xác, mà có thể tìm thấy mọc đầy khắp những vũng
nước đọng trên những cánh đồng lầy.
Cả gia đình người lính Ðịa Phương Quân
hay Nghĩa Quân quây quần chung quanh mâm cơm đơn sơ đó chấp nhận
sự thua thiệt của mình. Không than thở, không ta thán và vui lòng
với niềm hạnh phúc mong manh của mình. Một năm 365 ngày, mười
năm, hai mươi năm, cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến, hơn bảy
ngàn đêm những người chị ấy chưa từng bao giờ biết ngủ yên giấc
là gì. Chị thao thức đến nửa khuya, lắng nghe tiếng đại bác vọng
ì ầm về thành phố từ phía mặt trận có anh ở đó, chị thổn thức
nguyện cầu cho anh được bình yên, để anh có một ngày được về với
chị và con, dù chỉ là những khoảnh khắc về phép thật quá hiếm
hoi. Hay nếu chị cùng chồng trấn thủ lưu đồn, anh chiến đấu cơ
cực như thế nào, anh ăn ngủ chập chờn ra sao, thì chị cũng cơ cực
và chập chờn ngần ấy.
CHỊ PHẠM THỊ THÀNG, NỮ ANH THƯ ÐẤT GÒ
CÔNG
Người vợ
lính ở tiền đồn cáng đáng cùng một lúc hai công việc, mà công
việc nào cũng biểu hiện hình ảnh và đức tính cao quý của người
phụ nữ Việt Nam. Thứ nhất, đức tính đảm đang tận tụy của người
vợ, người đàn bà Việt Nam quán xuyến chuyện gia đình, trông nom
dạy dỗ con cái và nấu nướng những bữa ăn.
Thứ hai, khi quân giặc đã thấy dẫy đầy
ngoài những vòng rào kẽm gai, thì những người nữ chiến sĩ chưa
từng một ngày được huấn luyện ở quân trường ấy đã chiến đấu như
bất cứ người lính chuyên nghiệp nào. Chị cũng biết dùng máy
truyền tin gọi Pháo Binh, chị biết sử dụng thành thạo mọi loại
súng trong đồn có, chị ném lựu đạn ác liệt và chính xác, tấm thân
nhỏ bé của chị oằn nặng dưới những thùng đạn tiếp tế. Và chị cũng
sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc poncho, để tên chị
vĩnh viễn đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người chị như vậy
lắm. Ở ngay tại đồng Giồng Ðình này thì ít nhất cũng có những chị
Phạm Thị Thàng và Trần Thị Tâm.
Ðêm 2/10/1965, với âm mưu làm xáo trộn
hệ thống tiếp viện của những đơn vị diện địa trong khu vực Tiền
Giang để dễ dàng thanh toán mục tiêu chính nào đó, chỉ trong một
đêm Việt cộng đã tổ chức tấn công 11 vị trí của quân ta với quân
số thật lớn. Ðồn Giồng Ðình thuộc tỉnh Gò Công cũng bị áp lực rất
nặng của quân địch khi hứng chịu cuộc cường kích của 300 lính
cộng.
Ðây là
một lực lượng chính quy Việt cộng với hỏa lực rất mạnh, chúng
quyết tâm hủy diệt đồn Giồng Ðình nhỏ bé, mà chỉ có vỏn vẹn một
Trung Ðội Nghĩa Quân 24 tay súng trấn giữ. Là những con ác quỷ
hung tợn và thâm độc, lực lượng cộng quân đã bố trí ở hướng có
nhiều nhà dân chúng, vừa làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác
miệng tuyên truyền gây căm thù nếu quân ta bắn trả. Người dân,
nhất là những ông bà lão già, đàn bà và trẻ con luôn luôn là
những cái bia sống đỡ đạn cho bọn giặc hèn nhát gọi là những
“người giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí hùng hậu ấy mà chúng
cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
đến nỗi phải cậy nhờ đến máu thịt của đồng bào để có cơ may thủ
thắng, thì còn từ ngữ nào, hình dung từ tồi tệ nhất nào để diễn
tả bộ mặt cùng hung cực ác rất đốn mạt của cộng sản nữa không.
Ðúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền
chỉ huy trực tiếp của Thượng úy Sáu Bích, đã mở cuộc tấn công từ
hai mặt đánh vào Giồng Ðình, với sự tin tưởng điên rồ, rằng chúng
sẽ thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này trong một thời gian ngắn.
Chiến thắng dường như là chắc chắn, vì với quân số mười lần hơn,
mười đè một, dẫu chúng có thí chín tên thì cũng có thể hạ gục
được một chiến sĩ Nghĩa Quân Giồng Ðình.
Trên lý thuyết, thì giả thiết đó dường
như đúng. Nhưng trên trận địa, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa luôn luôn thể hiện những chuyện phi thường, mà rất hằng hiện
hữu trên bất kỳ chiến trường nào, quả thật cộng quân đã chọn lầm
mục tiêu. Sau ba đợt tấn công hung bạo, tưởng gạch đá cũng phải
nát thành tro, đã chiếm được 2 trong số 3 lô cốt trong đồn, cộng
quân vẫn phải rút trở ra. Cuộc tấn công lần thứ tư được hối hả tổ
chức và thực hiện, với quyết tâm san bằng Giồng Ðình. Nhưng liệu
24 chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều đó không. Câu trả lời là
không, không chỉ đến từ ý chí hừng hực tử thủ của các anh, mà còn
là từ đôi bàn tay yếu mềm của những người vợ lính đang sống cùng
với chồng con của các chị trong đồn. Phải, cuộc chiến thắng cuối
cùng của Nghĩa Quân đồn Giồng Ðình sẽ không thể thực hiện được,
nếu không có sự góp sức chiến đấu của những người chị này. Giặc
đến nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ những người chị dũng cảm
ấy không thôi, mà cả trẻ con cũng đánh.
Ðồn Giồng Ðình nằm ở một vùng thôn ấp
hẻo lánh trong tỉnh Gò Công, do một Trung Ðội Nghĩa Quân trấn
giữ, với thành phần chỉ huy gồm có anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn
Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Ðồn Phó và anh Lê Văn Mẫn, âm thoại
viên. Trấn thủ một vị trí hung hiểm như vậy, không chỉ có 24 tay
súng mà đã đủ, nên tất cả những người vợ lính trong đồn đều đã
được chồng huấn luyện sử dụng thành thạo những loại máy móc
truyền tin và vũ khí. Như vậy số tay súng đã được nhân lên gấp
đôi.
Trong
nhiều trường hợp, đến những giây phút tử sinh tuyệt vọng nhất,
những em bé cũng tham chiến, khi các em gan dạ bò dưới lưới đạn
của giặc để đem tiếp tế đến cho cha và mẹ. Không ai buộc những
người vợ lính, con lính cầm súng đánh địch. Nhưng chính những
người vợ lính, con lính ấy làm sao có thể ẩn náu tìm cái sống
trong khi chồng và cha của họ sắp ngã gục ngoài chiến hào.
Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch
tạm rút để tái tổ chức tấn công, thì tình trạng bên trong đồn
Giồng Ðình đã khá là bi đát. Ðã có đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị
thương, chỉ còn 8 Nghĩa Quân còn chiến đấu được. Âm thoại viên Lê
Văn Mẫn bị thương ở đầu trong lúc anh đang cố gắng gọi máy về
Tiểu Khu.
Anh
Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh
Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc
được tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên,
và là cứu tinh của đồn Giồng Ðình. Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng
và chị Phạm Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối
đầu với một lực lượng quá đông của địch.
Nhìn ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đã
tràn vào đen ngòm như những con quái vật hung hãn. Anh Hùng chỉ
còn trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị
Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức
ép của bộc phá và súng SKZ của Việt cộng bắn vào quá gần, các em
không còn khóc được nữa mà đã nằm bất động dưới chân hai vợ chồng
anh Hùng. Chị Thàng thì thào:
– Chúng đang phá lô cốt chánh, để em
bắn yểm trợ anh bò về giữ. Lô cốt mất là đồn mình mất, em nằm tại
đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn vào thì... thì... em ném lựu
đạn ra, có thể cầm cự đến sáng được.
Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nhìn
vợ con, rồi nhìn về phía lô cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng
đã yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân cố thủ ở đó đã kiệt quệ quá
rồi. Số phận của anh Thi Ðồn Trưởng thế nào. Anh Hùng lắc đầu
không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất đã xảy ra cho đồng đội. Nhưng
nếu Việt cộng chiếm được lô cốt ấy, thì coi như đánh dấu chấm hết
cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù quyết định đó quá đau
xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc đã hò hét ngay sát
bên rồi:
– Anh
chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh.
Anh Hùng nhìn chị Thàng và hai đứa nhỏ
lần cuối cùng. Trong lòng anh quặn lên một nỗi bi thương. Trời
ơi, vợ con mình. Hai đứa nhỏ chẳng biết còn sống hay đã chết. Anh
phóng mình xuống hào chạy băng băng về hướng lô cốt. Cây Carbine
trên tay chị Thàng run lên, những tràng đạn rải vào những cái
bóng đen đã quá gần. Anh Hùng đã bò vào được lô cốt, giữa những
tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng đồn vẫn nguyên
vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn có thể nghe
được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng.
Nước mắt anh rơi lã chã trên nền đất.
Anh đã đếm được đến con số 15, mà tiếng súng của địch vẫn nổ dòn
dã ngay sát tuyến phòng thủ của chị Thàng. Anh biết giây phút
định mệnh thảm thiết nhất cũng đã điểm. Chị Thàng sẽ làm gì với
quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn rên lên trong lòng: “Chỉ còn
một trái lựu đạn nữa thôi, làm sao em cầm cự được đến sáng”.
Chính anh cũng không có được một giây để nghĩ tiếp cái gì sẽ xảy
đến cho vợ con mình, vì dưới chân lô cốt anh tử thủ đã đông nghẹt
quân giặc. Ðủ mọi thứ loại súng nổ chát chúa khắp đồn, anh Hùng
không biết chắc là mình đã nghe được tiếng nổ của trái lựu đạn
thứ 16 chưa.
Cuộc chiến đấu đã kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân địch đã
phá được lớp kẽm gai cuối cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Ðình.
Lúc đó là 3 giờ sáng rạng ngày 2/10/1965. Tình hình đã quá nguy
ngập. Anh Nguyễn Văn Thi, Ðồn Trưởng, quyết định thà hy sinh còn
hơn là để đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay
chị Tâm và thét lớn:
– Hãy bắn lên đầu chúng tôi! Bắn vào
giữa đồn... Hai lô cốt thứ nhứt và thứ hai đã thất thủ. Tụi tui ở
lô cốt thứ ba. Hãy bắn lên trên đầu chúng tôi, Việt cộng đông
lắm. Bắn đi... bắn...
Sau tiếng gọi thống thiết của người Ðồn
Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu Gò Công lập tức bắn vào đồn với loại
đầu nổ cao. Loại đạn đặc biệt này nổ khi cách mặt đất chừng 4, 5
thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người địch, quân ta núp trong
lô cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái bóng đen nhập nhoạng
dưới ánh sáng hỏa châu văng tung tóe, tiếng kêu dẫy chết của
chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng
oàng xuống đồn. Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng vững, anh Thi
cùng anh Hùng từ trong những lỗ châu mai bắn tỉa từng tên địch.
Giữa tiếng súng nổ dòn, dường như người ta nghe âm thanh rì rì
của máy bay. Không Quân Việt Nam đã tới. Những chiếc A1 khu trục
cơ đã xuất kích. Ðến đây thì “Thượng úy” Việt cộng Sáu Bích, tên
chỉ huy trận đánh đã có thể nhận thấy rằng, cuộc tấn công đồn
Giồng Ðình đã đánh dấu chấm hết, với phần thắng nghiêng về phía
Nghĩa Quân Việt Nam Cộng Hòa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn
toàn im tiếng súng. Quân địch đã kéo những xác chết và những tên
bị thương chạy trốn vào phía bóng tối.
Khi ánh hừng đông của một ngày mới đã
lên, hai Ðại Ðội Ðịa Phương Quân do chính Trung tá Tiểu Khu
Trưởng Gò Công chỉ huy đã đến và tổ chức bung quân ra lục soát.
Quân cộng đã để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có 6 xác
khác nằm bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà anh Ðồn Trưởng Thi, Ðồn
Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền tin đã kháng cự mãnh liệt, thà
chết không hàng. Những tên Việt cộng này mang trên mình rất nhiều
lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí mạng để phá cho bằng
được ổ kháng cự cuối cùng này.
Anh Thi và anh Hùng đã bắn địch theo
lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo góc với nhau tạo thành một xạ
trường quét gọn tất cả những tên cộng nào nằm trong đó. Ngày hôm
sau, một người thường dân bị Việt cộng bắt đi tải thương lén trốn
về được đã cho biết số bị thương của chúng chở đầy sáu chiếc ghe
tam bản. Một lính cộng may mắn bị thương tên Dương Văn Thiều, 18
tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh. Tại sao may mắn? Vì nếu anh
ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không bị chết vì nhiễm
trùng, bị những quân y sĩ Việt cộng cưa cắt bằng những loại cưa
và đục của thợ mộc, thì cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi
thủ tiêu. Ðó là lý do giải thích tại sao sau ngày 30/4/1975,
người dân Miền Nam hiếm thấy người thương phế binh cộng sản trên
đường phố.
Nhưng đối với anh Hùng, thì tất cả những gì mà Viêt cộng đã trả
giá cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng
vừa chấm dứt, quân cộng đã rút đi, thì anh đã như một người điên
lao mình ra chỗ chiến hào mà chị Thàng đã một mình một súng trấn
giữ ở đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái
lựu đạn thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng bò vào khúc [giao thông]
hào mà anh đã nuốt nước mắt chạy đi. Chị Thàng cùng hai đứa con
của anh nằm chết bên cạnh ba xác Việt cộng. Anh Hùng gục xuống
như thân cây chuối bị một nhát dao bén chém ngọt làm đôi. Anh
biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ thì chị Thàng cũng đi vào cõi
chết, vì chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép giặc bắt chị hoặc
đạn của chúng bắn vào người chị. Chị Thàng đã chọn một cái chết
thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào lòng, chị Thàng bình
tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt!
Tiếng nổ kinh thiên cùng với xác thịt
và máu của người nữ chiến sĩ đó đã được đánh đổi với ba mạng
giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào lòng và gần như ngất xỉu. Nhưng
khi nhìn ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngổn ngang khắp nơi,
trong nỗi đau khổ tột cùng của mình, anh Hùng thấy trong lòng dậy
lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào. Sự hy sinh của chị Thàng đã
cứu sống được tất cả những thương binh Nghĩa Quân cùng vợ con các
anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh mạng của người chồng mà
chị yêu mến. Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị đã
đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Ðình. Một người
lính chuyên nghiệp và thiện chiến nhất cũng chỉ làm được đến ngần
ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không đứng vững, thì chắc chắn tất cả
sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân và vợ con của đồng Giồng Ðình
đều sẽ chết hết.
Anh Hùng ẳm chị Thàng ra ngoài, để
trông thấy những người còn sống, những người vợ lính khác đã gục
đầu khóc tiếc thương chị Thàng. Những nấm mộ đất được đắp vội với
ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị Thàng, và hai kia của
cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người vợ của lính trong
thời lửa binh. Chị Phạm Thị Thàng, chị Trần Thị Tâm, và nhiều
người chị khác trên khắp nẻo chiến trường, chị Thạch Thị Ðịnh,
chị Bùi Thị Xiếu, chị Am Reng. Người lính của chúng ta, những
công dân xếp hạng chót nhất trong bậc thang xã hội, nhưng là
những người hứng chịu oan nghiệt trước nhất, là bức tường chắn
cho sự an toàn của hậu phương phồn thịnh và hạnh phúc. Trong đời
của các anh không có được một thứ ưu tiên vật chất nào cả, ngoài
cái ưu tiên phải hy sinh và chết. Có những người lính từ Miền Tây
ra tận miền hỏa tuyến hay trên vùng cao nguyên sương mù Miền
Trung, nhiều năm liền không có lấy được một ngày phép về thăm gia
đình. Nếu anh may mắn, thật đau xót, quân thù bắn anh bị thương,
thì anh mới có cái diễm phúc được nắm trong tay tờ giấy phép. Còn
nếu sự gọi là may mắn đó đi xa hơn một bước, anh chết, thì anh
được phép dài hạn trở về và vĩnh viễn được an nghỉ ở nơi đã sinh
ra anh. Ðầu năm 1972, trong một trận đánh của Sư Ðoàn 3 Bộ Binh
tại khu vực Cồn Tiên nằm sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ
sông Bến Hải, một tiểu đoàn sau nhiều ngày cố gắng đã không thể
chiếm được một cao điểm. Vị Tiểu Ðoàn Trưởng gọi bốn người lính
gốc Miền Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh mười ngày phép nếu các anh
chiếm được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng sĩ Kinh Kha đã nai nịt tề
chỉnh, mang thật nhiều lựu đạn bò lên, mỗi người cầm một cây gậy
ngắn dò đường. Ðêm tối như mực. Hễ chọt trúng cái lỗ nào là thảy
lựu đạn vô cái lỗ đó, vì ở đó chính là cái miệng hầm chốt của
địch. Ðến sáng, bốn người dũng tướng vô danh đó đã reo hò trương
Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép đã trở
thành một ân huệ chứ không phải là một quyền lợi đương nhiên của
những người lính trận.
Người vợ lính cùng chia sẻ với chồng
những nỗi đắng cay thiệt thòi đó, bằng tất cả sự câm nín nhẫn
nhục và vui lòng với những gì mình có. Một góc hầm tối tăm, một
chiếc ghế bố cũ, vài cái nồi, chảo nhem nhuốc, những cái chén
sành và những đôi đũa tre, cùng tiếng cười của lũ trẻ thơ cũng đủ
làm nên thành niềm hạnh phúc vĩ đại của những người vợ lính. Chị
Thàng đã chết đi, anh linh của chị cùng hai cháu bé đã thăng
thiên lên cõi vĩnh hằng, nhưng những người còn sống cùng thời với
chị, cho mãi đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ
không bao giờ quên tên chị. NGƯỜI CHỊ CAO CẢ PHẠM THỊ THÀNG. Vì
tên chị đã được trân trọng ghi chép vào những trang bi tráng nhất
của lịch sử dân tộc Việt Nam chống Cộng sản quốc tế và Cộng sản
Hà Nội, một lũ hung đồ diệt chủng, diệt dân tộc gớm ghiếc nhất
của thế kỷ thứ 20 và của lịch sử hình thành nhân con người.
Trường Tiểu học Võ Thị Lớ mới xây dựng sau năm 75, ở đây
ngày trước là đồn bót của Nghĩa quân tên là
đồn Giồng Đình vì kế bên có ngôi đình thần. Trận chiến ác liệt
mà chị Thàng nằm xuống tại đây với quả
lựu đạn thứ 16. Thôn ấp cũng gọi là ấp Giồng Đình.
Cổng vào ngôi đình thần (lần đi sau
phát hiện ngôi đình thần vẫn còn).
Phạm Phong Dinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Thu tím. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by psxh chuyển
Đăng ngày Thứ Tư,
October 2, 2019
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang