Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Biên
Khảo
Chủ đề:
Tranh Đông Hồ ngày Xuân
Tác giả:
Bùi Phạm Thành
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Trong
văn hoá của dân tộc Việt Nam thì ngày Tết là quan trọng nhất.
Phong tục ngày Tết đã có từ thời cổ đại, như chuyện bánh dầy bánh
chưng, được cổ sử ghi là từ thời vua Hùng Vương thứ Sáu (trị vì
1712–1632 TCN). Trong ca dao cũng nhắc đến Tết và cày cấy, rất
đặc trưng của quốc gia nông nghiệp:
Tháng giêng ăn tết ở nhà.
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già;
Ta đi, ta hái
về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu
bò;
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Sớm ngày đem lúa ra ngâm.
Bao giờ mọc
mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi, ta ném ruộng
ta.
Đến khi nên mạ, thì ta nhổ về.
Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi
mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch
rồi,
Nước ruộng vơi mười, còn độ một
hai.
Ruộng thấp đóng một gàu dai,
Ruộng cao thì phải đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa trổ đòng–đòng,
Bấy giờ ta sẽ
trả công cho người.
Bao giờ cho đến
tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài
ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
Trong bài “Xuân Nhật Ngẫu Hứng” cụ Tú
Xương có tả cảnh Tết:
Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột.
Om thòm trên vách bức tranh gà.
Chí cha
chí chát khua giầy dép.
Đen thủi đen
thui cũng lượt là.
Với bốn câu trên cụ Tú Xương đã cho
chúng ta thấy khái quát khung cảnh của ngày Tết:
1. Đốt pháo
2. Trong nhà được trang trí đẹp đẽ, treo
tranh Đông Hồ vẽ đàn gà tượng trưng cho sự sung túc, con cháu
đông vui.
3. Mang giầy dép mới (với ngụ ý là mặc quần áo mới)
4. Câu cuối xem ra quan trọng hơn cả là dù
gia cảnh có như thế nào chăng nữa, thì cũng cố gắng sắm sửa để
vui chơi ba ngày Tết.
Tranh Đông Hồ là một dòng tranh dân
gian Việt Nam có xuất xứ từ làng Đông Hồ. Đây là những bức tranh
được in qua bản khắc trên gỗ (tranh mộc bản), với màu sắc tươi
sáng. Tranh Đông Hồ có nhiều thể loại, trong đó thể loại “Chúc
Tụng” thường được dùng để trang trí trong ngày Tết.
Trước thềm năm mới, Quý Mão, chúng ta
thử xem lại một số tranh Đông Hồ thường được ông bà ta dùng để
trang trí trong nhà vào dịp Tết, như lời chúc tụng, cầu mong cho
gia đình.
Gia
Đình Đông Đúc, Thuận Hoà, Ấm No, Sung Túc
Tranh Đàn Gà Mẹ Con: Tượng trưng cho mái ấm gia đình, như câu thành ngữ: “Nhà đông con là nhà có phúc”.
Tranh Đàn Lợn
Âm Dương: Tượng trưng cho sự ấm no, sung túc, đông con nhiều
cháu; hình ảnh xoáy âm dương trên mình lợn thể hiện sự hoà hợp âm
dương, sinh sôi, nảy nở.
Tiền Của, Chức Tước
Tranh Tiến tài – Tiến lộc: Để thay lời
chúc Tết thông thường: “Làm ăn phát đạt, thăng quan tiến chức”,
trên mỗi bức tranh là một vị thần, một tay nâng bức quấn thư
tượng trưng cho việc học hành, tay kia cầm cây gậy biểu tượng
quyền hành. Tranh Tiến Tài có chữ “Tài hằng nguyên chi” tượng
trưng cho của như nước nguồn, tranh Tiến Lộc có chữ “Lộc vị cao
thăng” tượng trưng cho lộc ngày càng tăng.
Học Hành, Đỗ Đạt
Tranh Vinh Quy Bái Tổ: Tuy thành ngữ có
câu “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, thế nhưng thói thường ai mà
chẳng có ước vọng rằng con cái sẽ học hành, đỗ đạt, để có ngày
“Vinh Quy Bái Tổ”, rạng rỡ tông đường, và các cô thì cũng
“Chẳng tham ruộng cả ao liền,
Chỉ tham cái bút cái nghiên anh đồ”
Trên thực tế thì các cô ngày xưa tận
tụy, đêm năm canh ngày sáu khắc, nuôi anh đồ để mong có ngày đỗ
đạt:
Canh một
dọn cửa, dọn nhà,
Canh hai dệt cửi, canh
ba đi nằm.
Canh tư bước sang canh năm,
Trình anh dậy học, chớ nằm làm chi.
Nữa
mai Chúa mở khoa thi,
Bảng vàng chói lọi
kia đề tên anh.
Bõ công cha mẹ sắm sanh,
Sắm nghiên, sắm bút cho anh học hành.
Chứ có cô nào muốn nuôi một anh “Dài
lưng tốn vải ăn no lại nằm” đâu.
Tranh Đám Cưới Chuột: Đây là bức tranh
ngụ ý con gái thì cũng sẽ “nên bề gia thất” rộn ràng trong ngày
“Vu Quy” lên kiệu hoa về nhà chồng. Thế nhưng bức tranh này đã
gây nhiều bàn luận, bởi vì đã trình bày hai cảnh tượng, bên dưới
là cảnh “vu quy”, nhưng bên trên lại là cảnh chuột mang quà đi
biếu hay “hối lộ kẻ quyền thế”. Xem ra thì việc này vẫn tồn tại
trong nước cho đến ngày nay, hễ cứ dịp Tết đến là cả đoàn nhân
viên tụ tập trước cửa nhà quan để dâng lễ lộc, chúc Tết, với ước
nguyện gì thì xem ra cũng dễ hiểu, bởi thành ngữ có câu “Bánh ít
đi, bánh quy lại.”
“Mừng quan con cá con chim
Sang năm nhờ cậy quan thêm chức giùm.”
Tựu chung, ngoài ước muốn của cha mẹ,
thì ước mong của thanh niên, thiếu nữ cũng vẫn là “Ngựa anh đi
trước, kiệu nàng theo sau.” Đó là căn bản của gia đình, xã hội.
Phong Tục Ngày Tết
Trong nhà thì ước mơ, ngoài đường thì
có những phong tục ngày Tết cũng đáng được chú ý.
Ngoài chuyện Múa Lân, Múa Rồng còn những thú vui chơi khác
Trò chơi “Bịt Mắt Bắt Dê” mang lại niềm vui cho mọi người từ già đến trẻ. Người tham dự và con dê đều có mang lục lạc (cái chuông nhỏ) để người bị bịt mắt nghe theo đó để tìm. Trai gái tham dự, bắt được con dê hay vồ được nhau đều là cảnh tượng thú vị trong một cuộc vui.
Trò chơi “Đánh Đu”: Đây là trò chơi
ngày Tết đã được bà Hồ Xuân Hương khiến trở nên bất tử:
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông,
Trai
co gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng
ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng
bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi
song song.
Chơi xuân đã biết xuân chăng
tá.
Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
Ngoài những trò chơi thanh tao, còn có
những trò chơi lỗ mãng, nhưng cũng được xem là thú vị:
Đấu Vật: Đây có lẽ là một trò chơi cổ xưa nhất, cái thuở “nam trọng, nữ khinh” của thời nông nghiệp “chăn trâu, cầy ruộng”, sức khoẻ của nam giới định đoạt chuyện an lành, sung túc.
Chọi Trâu: không hiểu bắt nguồn từ đâu và với ý nghĩa gì, thế nhưng chọi trâu cũng là một trò chơi dân gian, với một buổi lễ riêng biệt, đôi khi cũng vào những ngày trước Tết. Có lẽ đây là cái cớ để giết con trâu làm thịt ăn Tết, bởi vì trong thời buổi nông nghiệp con trâu là con vật quý giá nhất, nếu không vì lễ hoặc Tết, thì chẳng ai dám giết đi một con trâu khoẻ mạnh.
Ngoài việc treo tranh Đông Hồ, ông bà
ta còn có tục lệ treo câu đối. Các cụ nhà nho thì tự viết lấy câu
đối Tết, còn người dân thường thì tìm mua câu đối của các ông đồ.
Bài thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên là một tuyệt tác:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực Tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài:
“Hoa tay thảo
những nét
Như phượng múa, rồng bay”
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn
không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên
giấy
Ngoài trời mưa bụi bay
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn
năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Câu đối thường mang ý nghĩa chúc tụng
hay mong ước. Thuở còn hàn vi, cụ Nguyễn Công Trứ đã viết:
“Chiều ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng
đạp thằng bần ra khỏi cửa
Sáng mồng một
rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông phúc đón vào nhà”
Đôi khi câu đối lại có ý trêu ghẹo
người, như câu đối của cụ Nguyễn Khuyến tặng ông Bảng Long, là
một quan võ cùng triều nhưng bị chột một mắt:
“Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai
mắt lại
Triều đình cử mục, anh hùng chỉ
có một ngươi thôi”
Nhân đây, tôi xin nhại bài “Tết Dán Câu
Đối” của cụ Tú Xương để ngỏ đôi lời:
Đã đi học chắc cũng thông vài chữ
Chẳng hay ho cũng viết thử một đôi lời
Bởi ít ra cũng qua bậc tú tài
Đầu năm
mới cũng phải có vài câu đối
Đối rằng:
Chiều ba mươi nhuộm tóc cạo râu, nhìn
ra dáng tài tử văn nhân
Sáng mùng một áo
quần tề chỉnh, trông có vẻ giang hồ khí cốt
In chữ lớn dán ngay lên cột
Hỏi: Em ơi anh dốt hay hay?
Rằng: Hay
cũng chẳng bằng may,
Chẳng may sao có
được ngày hôm nay
Bấy nhiêu mà vẫn...
“khoe” hoài!
––(BPT)
oOo
Thưa quý vị, đó là chuyện của một thời
thái bình xưa cũ, những phong tục dân gian đã mờ dần theo thời
gian. Bây giờ, trong những ngày đầu Xuân Quý Mão, “Ra giêng ngày
rộng tháng dài”, xin quý vị cùng chúng tôi bàn rộng ra một chút
về chuyện con mèo.
Mèo là con vật đứng hàng thứ tư trong
mười hai con giáp (Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân,
Dậu, Tuất, Hợi), đồng thời cũng là con vật gần gũi với dân gian,
thế nhưng lại là con vật ít được nhắc đến trong văn chương, nghệ
thuật. Không những thế, nó còn bị mang tiếng xấu như việc đàn ông
“có mèo” thì xem ra là việc không tốt:
“Nửa đêm nghe tiếng mèo gào,
Chàng nằm bên vợ cồn cào nhớ ai?”
Đúng ra thì con mèo là con vật có ích,
vì đã trừ được chuột. Trong thời nông nghiệp, chuột là loài ăn
hại thóc gạo, thế cho nền hầu như nhà nào cũng nuôi mèo, “nuôi
mèo giữ thóc, nuôi chó giữ nhà.”
Năm nay là năm Quý Mão, năm con mèo.
Chữ “Quý” là chữ cuối cùng trong Thập Can (Giáp, Ất, Bính, Đinh,
Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý). Theo Phong Thuỷ thì Quý thuộc về
Âm, hành Thuỷ (trong ngũ hành: Kim Mộc Thuỷ, Hoả Thổ), hướng Bắc.
Chẳng hiểu quan niệm Đông Phương như thế nào, nhưng hai chữ
“Phong Thuỷ” đủ cho thấy Thuỷ (Nước) và Phong (Không khí để thở)
là những yếu tố quan trọng, bởi vì cả hai đều có Oxygen, ký hiệu
hoá học là O, và nước thì là H²O, yếu tố căn bản cho đời sống. Vả
lại trong khoa học thì “nơi nào có nước là nơi đó có sự sống,” vì
nước sẽ thả ra Oxygen để thở. Thế cho nên khoa học ngày nay cố
tìm trong vũ trụ xem hành tinh nào có sông biển, có nước, như quả
đất này hay không? Với hằng hà sa số hành tinh trong vũ trụ thì
chắc là có, nhưng bao xa và bao giờ tìm thấy thì vẫn còn là câu
hỏi chưa có câu trả lời.
Chữ “Quý” thì như thế, còn chữ Mão thì
sao? Mão là con mèo. Như đã nói ở trên,
con mèo không được đánh
giá đúng mức trong văn hoá Đông–Tây; thế nhưng với văn hoá Ai Cập
thì con mèo, nhất là mèo đen, lại là con vật được xem là linh
thiêng. Vị thần Bastet có hình dạng của một phụ nữ với đầu mèo.
Trong truyền thuyết, hơn ba ngàn năm trước Công Nguyên, thì một
con mèo đen đã giết chết con rắn độc để cứu vị vua (Pharaoh) đầu
tiên của Ai Cập.
Trái lại trong văn chương Âu tây, đặc
biệt là Mỹ, thì con mèo đen lại được (hay bị) dùng làm hình ảnh
tượng trưng trong các truyện, phim ảnh liên lệ tới ma quái, hoặc
điềm xấu.
Như
thế thì xấu tốt đều tuỳ thuộc vào văn hoá, quan điểm của con
người, và địa dư; bởi vì “chân lý bên này dãy núi, chưa chắc đã
có giá trị gì ở bên kia dãy núi.” Trong kinh Hoa Nghiêm có lời
dạy của Đức Phật dành cho các môn đệ là “Nhất thiết duy tâm tạo”
hoặc “Vạn vật duy tâm đạo”. Câu nói này thường được hiểu theo
nghĩa là mọi sự vật, hiện tượng trên đời đều do tâm, ý nghĩ, tạo
thành. Bởi vậy, năm Quý Mão, tốt hay xấu là tuỳ ở cá nhân mà
thôi. Bàn về chuyện tương lai thì chẳng khác chi là chuyện “người
mù sờ voi.”
Vả
lại, con người ta thường có ý nghĩ rằng trên cõi đời này luôn
luôn có những điều trái ngược (nhị nguyên) như âm dương, nóng
lạnh, trái phải, trên dưới, trong ngoài, đúng sai, đồng tiền có
hai mặt, bàn tay có xấp ngửa ... Tuyệt đối (nhất nguyên), quan
điểm khoa học là “big bang”, xem ra không dễ đạt được. Chi bằng
chúng ta hãy chấp nhận “nhị nguyên”, chấp nhận rằng trong đời
sống sẽ có điều xấu và điều tốt. Điều quan trọng là nhận thức
được điều xấu để tránh và điều tốt để noi theo. Quan niệm xấu
tốt, một cách tương đối, thì xem ra không quá khác biệt qua văn
hoá, địa dư, hay thời gian.
Để thay lời kết luận, cho dù chuyện
“cầu mà được, ước mà thành” xem ra không dễ; nhưng thuận theo
phong tục, truyền thống của người Việt Nam, chúng tôi xin chúc
quý vị có một cuộc sống an lành, vui vẻ, mạnh khoẻ trong năm mới
cũng như trong những tháng năm tiếp theo của đời người.
Bùi Phạm Thành
Ngày 14 tháng 1 năm 2023
Nhằm ngày 30
tháng 12 năm Nhâm Dần – Ngày ông Táo về trời
Đăng lần đầu tiên ngày 22 tháng 1 năm 2023
Nhằm ngày mùng 1 Tết năm Quý Mão
(Đặc
San Lâm Viên)
Nguồn:
http://www.dslamvien.com/2023/01/ngay-tet-xem-tranh-dong-ho.html
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by đslv chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, January 22, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang