Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút Ký
Chủ đề:
50 năm qh30t4đ
Tác giả:
Mường Giang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Sáng ngày 1/4/1975,
một cuộc họp tại Tòa Hành Chánh tỉnh, gồm BCH Hành Chánh,
tiểu khu, và 7 Quận trưởng nhằm mục đích đối phó với đoàn
người di tản từ Cao Nguyên và miền Trung sắp vào tới Phan
Thiết.
Trong khi tình hình tại Lâm Đồng rất sôi động
nhất là tại vùng giáp ranh với Định Quán (Long Khánh), QL1
tại Rừng Lá đã bị bọn cộng phỉ bắc việt đóng chốt, quân số
cấp sư đoàn, chuẩn bị đánh vào Sư Đoàn 18 Bộ Binh tại Xuân
Lộc. Tại Bình Tuy, Đại tá Tỉnh trưởng Trần Bá Thành cũng
đã lập một nút chận hùng hậu từ Căn Cứ 10 cho đến thị xã La
Gi. Trước tình hình này, Đại tá Ngô Tấn Nghĩa quyết định bỏ
ngỏ Phan Thiết để đoàn di tản đi qua.
Ngày 2/4/1975,
sau khi Bộ Tư Lệnh/Quân Đoàn II lần lượt bỏ Pleiku, Kontum,
Buôn Mê Thuột rút về Nha Trang, Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH ra
quyết định sáp nhập phần lãnh thổ còn lại của Quân Đoàn II
vào Quân Đoàn III. Cuộc bàn giao lãnh thổ tại Lầu Ông Hoàng
nơi đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân của tiểu khu Bình Thuận, giữa
Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II và Thiếu
tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó QĐIII. Coi như kể từ
1:45g ngày 2/4/1975 Quân Đoàn II không còn. Trước tình hình
như vậy, BCH/Tiểu khu Bình Thuận điều động Tiểu Đoàn 229/ĐP
do Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến làm Tiểu đoàn trưởng, lúc
đó đang làm nhiệm vụ giữ an ninh cho Khu định cư Nghĩa
Thuận, nằm bên kia Đập Đồng Mới, thuộc xã Lương Sơn. Tiểu
Đoàn rút về tăng cường cho Nam Bình Thuận. Vào ngày
1/4/1975, Đại đội 4/248/ĐP do Trung úy Nguyễn Tấn Hợi làm
Đại đội trưởng thay thế TĐ/229/ĐP.
Trong ngày này
Tiểu Đoàn được tăng phái cho chi khu Hàm Thuận, riêng Đại
Đội 4/229/ĐP do Trung úy Cao Hoài Sơn làm Đại đội trưởng,
phụ trách bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ và đồng bào hồi hương từ
Campuchia tại Bình Tú, thế cho đơn vị của Đại úy Huỳnh Văn
Quý đã di chuyển tăng cường cho mặt trận Ba Hòn (Kim Bình,
Hàm Thuận).
Ngày 3/4/1975, toàn bộ Tiểu Đoàn 229/ĐP
được lệnh di chuyển về phòng thủ bảo vệ tiểu khu và Tòa Hành
Chánh tỉnh. Đại đội 2/229 do Đại úy Lê Viết Duyên làm Đại
đội trưởng, phòng thủ chu vi Tòa Hành Chánh. Đại đội 3/229
do Trung úy Nguyễn Dương Quang làm Đại đội trưởng trú đóng
tại Vườn Hoa, Lầu nước. Đại Đội 1/229 do Trung úy Nguyễn
Văn Thứ làm Đại đội trưởng, đóng từ Bưu Điện qua Ngân Khố
dọc theo đường Hải Thượng Lãng Ông. Đại Đội 4/229 đóng dọc
theo đường Nguyễn Hoàng, bảo vệ mặt sau cho tiểu khu.
Một ngày đêm trôi qua êm ả, cuối cùng đoàn di tản cũng
tràn vào Phan Thiết theo ngã Quốc lộ 1 từ Bắc Bình Thuận
vào, sau khi đã tàn phá các làng mạc, thị trấn trên đường
đi, gồm các thị trấn Long Hương, Phan Rí Cửa, Chợ Lầu, Lương
Sơn... Tại Phan Thiết, sáng ngày 4/4/1975, trên các con
đường phố tràn ngập những quân xa, có cả Thiết vận xa M113
và Tank M41, M48. Xe Honda và người tràn ngập trên vỉa hè,
tất cả các chợ, quán ăn, tiệm tạp hóa, cây xăng đều đóng
cửa.
Tuy vậy đoàn di tản và một số côn đồ lợi dụng
tình thế cướp giật, không ít Cộng quân đã trà trộn đột nhập
vào thị xã Phan Thiết, gây tình trạng rối ren hầu tìm cách
đánh úp ta. Tất cả đều bị đập phá tan hoang, các cửa tiệm,
cây xăng bị cướp phá. Các nơi chứa gạo dự trữ bị dân tràn
vào cướp đi. Chúng tôi nhìn cảnh này lòng đau như cắt, nhưng
được lệnh không được nổ súng vì sẽ gây thêm hỗn loạn, dân
lành sẽ chết và đặc cộng địch sẽ lợi dụng cơ hội giết thêm
dân vu vạ cho ta. Phan Thiết đã thật sự bỏ ngõ, để tránh đổ
thêm máu vô ích.
Sáng ngày 4/4/1975 tại Cầu Bằng Lăng
ở đoạn đường vắng gần núi Tà Dôn, đoàn di tản đã bị VC phục
kích. Có 2 binh sĩ của Đại đội 4/229 đang công tác may mắn
thoát chết. Theo lời tường thuật của 2 nhân chứng thì đoàn
di tản bị thương vong rất nhiều, vì VC bắn bừa bãi vào đoàn
xe, trên đó đa số là dân chạy nạn từ vùng hỏa tuyến về. May
nhờ có chiến xa tiến lên tiêu diệt địch quân, yểm trợ cho
đoàn di tản tiếp tục tiến về Phan Thiết. Cơn lốc tàn phá
cuối cùng cũng chấm dứt vào buổi chiều, khi một số lượng lớn
người và xe di tản vào Bình Tuy. Phan Thiết tưởng chừng như
qua khỏi cơn đại nạn, cho đến 10:00g đêm thì bỗng nghe một
tiếng nổ rất lớn ở hướng phố Gia Long làm cháy ngôi chợ Lồng
Phan Thiết. ĐĐ4/229 của Trung úy Cao Hoài Sơn đã được lệnh
đến hiện trường, tìm cách giúp đỡ dân chúng chữa lửa cùng
trấn áp bọn tội phạm thừa lúc hỗn loạn cướp phá. Cho đến
trời vừa hừng sáng mới dập tắt được đám cháy trong chợ thì
VC bắt đầu pháo kích vào BCH/Tiểu khu. Nhưng đạn lạc ra
ngoài quanh vườn hoa, dọc bờ sông đường Trưng Trắc và Ngân
Hàng Việt Nam Thương Tín. Có 2 trái rớt vào khu dân cư ở Khu
2 Bình Hưng làm nhiều thường dân vô tội thương vong. Nhờ ta
pháo trả kịp thời nên đã bịt kín họng súng của đích lúc đó
đang đặt tại Xuân Phong, Đại Nẫm. Ngưng được một thời gian
ngắn đến lúc 10:00g, địch tiếp tục pháo vào Phan Thiết,
nhưng chỉ trúng nhà dân, làm tử thương thêm vài người. Một
bọn du đãng ở Lò Heo nhặt đâu được một chiếc xe Jeep quân
đội bỏ lại, bọn thổ phỉ mất dạy này cắm lá cờ bẩn thỉu của
bọn bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tay cầm súng AK47,
mang băng đỏ, lái xe băng qua cầu Quan đi dạo phố như chỗ
không người. Tuy nhiên, khi lũ khủng bố thổ phỉ này tới
trước rạp chiếu bóng Bình Thuận và khách sạn Anh Đào thì
đụng ngay với Đại Đội 1/229/ĐP của Trung úy Nguyễn Văn Thứ.
Những tràng đạn M16 của các chiến sĩ VNCH đã tiêu diệt gọn
không sót một tên khủng bố thổ phỉ nào, xác chết của bọn
chúng nằm vắt vẻo trên xe. Bọn khủng bố thổ phỉ này có lẽ bị
lũ cộng phỉ bắc việt giật dây, cho rằng chính quyền VNCH đã
bỏ chạy hết, nên tìm cách cướp chính quyền lập công dâng
đảng.
Buổi trưa có 2 hỏa tiễn 122ly từ hướng Xuân
Phong, Trinh Tường pháo vào trung tâm Phan Thiết làm thương
vong thêm một số người. Lúc đó đoàn di tản mới chịu rời
thành phố nhưng lại rơi vào ổ phục kích của VC tại Cây Số 37
trên QL1. Số còn lại chạy thoát vào căn cứ 10 thì bị tiểu
khu Bình Tuy giải giới hết. Tuy vậy Tiểu Đoàn 229/ĐP vẫn
được lệnh tiếp tục bảo vệ thị xã Phan Thiết thêm 2 ngày mới
rút.
Ngày 7/4/1975 VC theo đường Tỉnh lộ 8 tấn công
quận lỵ Thiện Giáo sau khi Lâm Đồng bỏ ngõ. Đại úy Mai Vi
Thành lúc này là quyền Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 230/ĐP
kiêm chi khu Trưởng Thiện Giáo (thay Thiếu tá Lê Văn Thông).
Trận chiến diễn ra ác liệt, địch bỏ lại nhiều xác chết và
rút lui trước sự chống trả anh dũng của quân ta. Để bảo vệ
vòng đai Phan Thiết, toàn bộ Tiểu Đoàn 229/ĐP di chuyển đến
phối hợp với Tiểu đoàn 202/ĐP của Đại úy Huỳnh Văn Hoàng
làm quyền Tiểu đoàn trưởng (thế Thiếu tá Bính), BCH Tiểu
đoàn đóng tại căn cứ Tân An.
Ngày 12/4/1975 khi
TĐ229/ĐP đến phòng tuyến mới Cầu Sở Muối, thì Tân Điền đã
lọt vào tay địch. Cho đến ngày 15/4/1975 VC tập trung pháo
kích vào Thiện Giáo. Đại tá Ngô Tấn Nghĩa, Tiểu khu trưởng
ra lệnh cho Tiểu Đoàn 230/ĐP bỏ Thiện Giáo rút về phòng thủ
thị xã Phan Thiết, đơn vị này được phối trí đóng quân tại
vùng nhà thờ Lạc Đạo. Lúc này mặt trận tại Phú Long đang hồi
khốc liệt, tiếng đạn nổ bom rơi ì ầm suốt cả ngày đêm. Trong
ngày 12/4/1975 Đại úy Huỳnh Văn Quý Liên đội trưởng Liên
Đội Đặc Nhiệm Bảo Vệ Nông Trường Sao Đỏ, được bổ nhiệm làm
Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 249/ĐP (thay thế Thiếu tá Phan
Sang) và Đại úy BĐQ Nguyễn Văn Hạnh (TĐP) được tăng phái
thêm Đại Đội 283 Biệt Lập do Đại úy Nguyễn Văn Ba làm Đại
đội trưởng.
Lúc 4:00g chiều ngày 13/4/1975, Tiểu Đoàn
249/ĐP và Đại Đội 283 ĐP đã đánh vào Phú Long, được tăng
cường thêm 1 đơn vị của Trung đoàn 6/Sư Đoàn 23BB đã chiến
đấu oanh liệt chặn địch và chiếm lại Phú Long cho đến ngày
cuối cùng 18/4/1975, khi mà các Binh Đoàn của Cộng sản thanh
toán xong các nút chận và đang tiến về Phan Thiết theo QL1.
Từ ngày 12/4/1975, Tiểu Đoàn 229/ĐP lập phòng tuyến tại
Cầu Sở Muối trên Quốc lộ 1. BCH/Tiểu Đoàn đóng tại Cầu Sở
Muối. Đại Đội 1, 2, 4 lập thành vành đai từ Tân An đến Tân
Điền, dựa theo địa thế thiên nhiên mương rạch chằng chịt
trong khu vực. Đại Đội 3 nằm bên kia QL1 trong những đám
ruộng muối. Có một đồn nhỏ sát với QL1 ngang với Tân Điền do
1 Trung Đội Nghĩa Quân đóng chốt. Trong phạm vi phòng thủ có
vài ngôi nhà dân còn lại là ruộng chưa gieo cày. Trong những
ngày cuối cùng của tháng 3 năm 1975, Tiểu Đoàn 275/ĐP do
Thiếu tá Lê Văn Tư làm Tiểu đoàn trưởng chịu trách nhiệm
an ninh vùng Cây Số 25, thì vào thời điểm đầu tháng 4/1975
bộ đội Cộng sản đã tăng cường áp lực lên chi khu Thiện Giáo
và vùng Nora – Tùy Hòa. Chúng đem 1 đơn vị cấp Tiểu đoàn có
pháo yểm trợ tấn công đồn NORA và chiếm giữ đồn. Tiểu khu
Phòng 3 đã ra lệnh cho Tiểu đoàn 275/ĐP bằng mọi giá phải
lấy lại đồn này không để mất vào tay Cộng sản. Vì vậy trong
đầu tháng 4/1975, Tiểu đoàn đã tiến về đánh chiếm lại Đồn
NORA. Trận chiến diễn ra ác liệt với sự yểm trợ của Pháo
Binh đặt trên núi Tà Dôn. Sau nhiều giờ giao chiến, Tiểu
đoàn đã chiếm lại được đồn NORA với tổn thất nhẹ. Đại Đội 1
do Trung úy Nguyễn Minh Luân làm ĐĐT đã có 1 Trung Đội
Trưởng hy sinh anh dũng. Áp lực địch càng ngày càng gia tăng
lên xã Tùy Hòa, tiểu khu không còn lực lượng để trấn giữ nên
ra lệnh Tiểu đoàn 275/ĐP rời bỏ vùng NORA kể cả đồn này
trước đó đã đổ máu để lấy lại để về giữ vững Tùy Hòa. Tiểu
đoàn tăng viện Đại Đội 2 do Trung úy Lợi làm ĐĐT giữ mấy
khẩu pháo tại núi Tà Dôn. Cộng quân đem 1 đơn vị rất lớn
đánh vào Tùy Hòa nhưng không làm gì được bên ta, Tiểu đoàn
đã cầm cự với Cộng quân trong 2 tuần tại đây. Ý đồ của chúng
là sau khi chiếm được Tùy Hòa rồi mới dồn nỗ lực đánh phá
phòng tuyến Phú Long do Tiểu Đoàn 249/ĐP cùng 1 số đơn vị
tăng phái trấn giữ. Nhưng Cộng quân chiếm không được Tùy Hòa
nên chúng thay đổi kế hoạch bằng cách đem toàn bộ lực lượng
đi vòng đánh chiếm Phú Long. Tại đây chúng gặp sức kháng cự
mạnh mẽ của các đơn vị đồn trú gây cho chúng nhiều thiệt hại
cho đến ngày 18/4/1975, sau khi thanh toán xong Bắc Bình
Thuận, Binh Đoàn Cộng sản có tăng yểm trợ đã tiến vào Phú
Long. Tiểu Đoàn 275/ĐP lại được lệnh bỏ Tùy Hòa để về tăng
cường phòng thủ Phú Long vào trung tuần tháng 4/1975. Tiểu
đoàn phải di chuyển theo triền động cát rút về Kim Ngọc bảo
vệ khu nhà Thờ Kim Ngọc. ĐĐ1/275/ĐP của Trung úy Luân chỉ
huy chịu trách nhiệm bên đây cầu còn bên kia do Tiểu đoàn
249/ĐP trấn giữ. Trong 2 tuần tại đây cộng quân đã tiến đánh
ngày đêm nhưng cứ điểm Phú Long như thành đồng vách sắt
không thể nào chúng phá nỗi.
Sáng ngày 15/4/1975 Đại
Đội 1/229/ĐP bắt được 1 đặc công của địch đang ẩn náu trong
nhà dân gần đó điều chỉnh pháo binh pháo kích vào quân ta.
Trưa ngày 18/4/1975 Đại Đội 4/229/ĐP do Trung úy Cao Hoài
Sơn chỉ huy được lệnh tấn công chiếm lại Tân Điền dưới sự
yểm trợ của Đại đội 1 + 2/229 của Trung úy Thứ và Đại úy
Duyên. Quân số địch tại Tân Điền rất đông lại có chuẩn bị
hầm hố vững chắc, có cả vũ khí hạng nặng, mặc dù lúc sáng,
Tiểu đoàn có nhận được 1 số lớn M72 chống xe Tank và nhiều
đạn cối 81ly xuyên phá dùng để phá hầm địch. Lúc 7:00g tối
18/4/1975 nhận được lệnh sẵn sàng “chờ lui quân”. Trung đội
Nghĩa Quân ở đồn bên cạnh liên lạc với ĐĐ4/229 xin cho sáp
nhập vào đoàn di tản. Chờ mãi đến 8:00g tối mà chưa nghe bất
cứ một hiệu lệnh gì! Hướng Phú Long thì im hơi lặng tiếng
khác với ngày thường. Chính lúc đó, đoàn xe tăng địch đã qua
Cầu Phú Long và đang hướng về Cầu Sở Muối vào Phan Thiết.
Đoàn xe địch khi băng qua khu Kim Ngọc đã dùng đại liên bắn
vào tháp chuông nhà thờ. Khi đoàn xe đi qua đồn Nghĩa Quân
thì dừng lại quay pháo tháp, tôi nghe cả tiếng kẹt kẹt của
pháo tháp quay và nổ nhiều phát đạn vào đồn, lửa văng tung
tóe. Khi xe chạy ngang vị trí ĐĐ4/229 thì 2 trái chiếu sáng
do Tiểu đoàn bắn lên, binh sĩ tình nguyện hạ xe tăng địch
chạy về vị trí phòng thủ bị địch phát hiện nên quay họng
súng đại bác 100ly vào vị trí của đại đội bắn trực xạ. Đằng
sau xe tăng địch đang tràn lên tiếp ứng, mặt sau Tân Điền
không biết địch quân có phối hợp với xe tăng để tấn công ta
hay không chưa biết, nên Tiểu đoàn rút lui về Tân An để cũng
cố đội hình là phương án tốt nhất. Khi xe tank địch đi qua
Cầu Sở Muối thì BCH/Tiểu đoàn 229/ĐP còn dưới cầu, tất cả
lợi dụng bóng đêm rút về Tân An an toàn, trừ Đại đội
3/229/ĐP của Trung úy Nguyễn Dương Quang không băng qua Quốc
lộ 1 được nên rút xuống Bình Hưng tìm ghe về Vũng Tàu. Lúc
này xe tank địch truy đuổi theo con đường đất nối liền QL1
với đường Lương Ngọc Quyến, Tỉnh lộ 8 nối dài. Có lẽ địch
đang chờ phối hợp với bộ binh tại Tân Điền mới tiến đánh.
Tiểu Đoàn 202/ĐP đã rút khỏi Tân An, trong đồn vỏ xe hơi đốt
cháy sáng rực. Lúc này BCH/Tiểu Đoàn liên lạc được với Đại
tá Ngô Tấn Nghĩa hiện đã di tản bằng ghe chài ra Chiến hạm
Trần Khánh Dư HQ4 đang neo ngoài biển Phan Thiết để lập kế
hoạch di tản toàn bộ Quân Dân Cán Chính Bình Thuận vào ngày
mai 19/4/1975 theo kế hoạch. TĐ229/ĐP xin phi cơ yểm trợ để
lui binh. Quân Đoàn III đã cho 1 Hỏa Long C47 đến yểm trợ do
trưởng phi công là Đại úy Minh chỉ huy. Ông đã hết lòng
“giải vây” cho người lính Bộ đang nguy khổn bằng cách thả
đèn và bắn chận địch đang từ Tân Điền tiến vào Tân An. Qua
ánh hỏa châu, thấy xe tăng địch tấp vào núp dưới các tàn cây
trên đường đất, phòng không địch từ Tân Điền và Bình Lâm bắn
lên đầy trời như sao sa, bao vây chiếc Hỏa Long đơn độc. Sau
15 phút quần thảo với địch giúp đơn vị bạn củng cố đội
hình, vượt sông Cà Ty qua ngõ Xuân Phong, Đại Nẫm tiến về
Bình Tú. Chiếc C47 bị trúng đạn phòng không của địch nên
chào từ giã Địa Phương Quân Bình Thuận và chúc may mắn. Ông
lấy làm tiếc vì không giúp được nhiều hơn.
Tại Bắc
Bình Thuận, theo tường thuật của Trung Úy Nguyễn Tấn Hợi,
Đại đội trưởng Đại Đội 4/TĐ248/ĐP là đơn vị tiền phương xa
nhất của tiểu khu Bình Thuận. Đơn vị đóng bên này Cầu Đá
Chẹt (Cà Ná) là ranh giới của tiểu khu Bình Thuận và Ninh
Thuận trên QL1.
Vì tình hình chuyển biến quá nhanh,
nên sau khi liên lạc về BCH/TĐ248 ĐP, Đại Đội 4 nhận được
lệnh bỏ Cà Ná và rút toàn bộ Đại đội (–) về xóm Vĩnh Hảo
nhưng vẫn phải thường xuyên liên lạc với BCH/TĐ và Liên Đoàn
925 ĐP để báo cáo diễn biến của địch từng phút một. Vì khi
còn ở Cà Ná, nhận thấy xóm Vĩnh Hảo không có vị trí phòng
thủ tốt, nên ĐĐ4/248 đã di chuyển đến đóng quân ở một ngọn
đồi thấp, đối diện với sở Nước Suối Vĩnh Hảo. Đây là một vị
trí phòng thủ thiên nhiên rất lý tưởng, hơn nữa nếu nguy cấp
đại đội có thể rút ra phía sau núi là bờ biển. Chỉ có biển
là nơi thoát thân tốt nhất, chuyện đã đến nước này rồi phải
lo cho đơn vị được an toàn rút lui, bảo vệ mạng sống cho
những binh sĩ đã theo “tôi” trong suốt đoạn đường gian khổ
(lời tâm sự đầy máu lệ của Trung úy Hợi).
Mờ sáng
ngày 16/4/1975 Đại Đội 4/248 đã đóng quân trên núi. Khoảng
10:00g sáng qua ống dòm thấy đoàn xe địch di chuyển từ Cà Ná
vào và dừng lại tại xóm Vĩnh Hảo. Nghĩ tới mấy cây cầu, ĐĐ
có xin lệnh cung cấp cho tôi chất nổ để phá hủy nhưng không
có ai giải quyết. Lúc này mặt trận Phan Rang còn đang tiếp
diễn ác liệt thì làm sao có thể phá hủy cầu Đá Chẹt được, là
đường duy nhất để đoàn quân tại Phan Rang lui quân.
Đại đội liên lạc về BCH/TĐ xin phi vụ để oanh kích đoàn xe
địch đang dồn cục tại Vĩnh Hảo và phá hủy cầu Đá Chẹt. Đây
cũng là một phương cách giải quyết của một Đại đội trưởng
trực tiếp ở tuyến đầu, còn có được hay không là do ở cấp
thẩm quyền cao hơn. Có một điều đáng nói nữa là tôi báo đoàn
xe chỉ cách tôi 4–5 cây số, và cách BCH/TĐ 10 cây số, tôi cứ
gọi liên tục về BCH/TĐ để xin lệnh, máy tuyền tin của tôi cứ
yếu dần rồi mất hẳn kể cả chi khu Tuy Phong. Tôi cố gọi mà
không một nơi nào trả lời đành chịu thua và tự tìm cách giải
quyết. Thật ra đơn vị tôi chưa có đụng lớn, chỉ có đụng lẻ
tẻ với đám du kích trên đường rút từ Cà Ná vào Vĩnh Hảo.
Cùng ngày, tôi liên lạc được với Không Quân khoảng giữa
trưa, tôi chỉ rõ mục tiêu cần oanh kích cho viên phi công là
đoàn xe địch tại xóm Vĩnh Hảo, nhưng không hiểu vì lý do gì?
2 chiếc F5 lại thả 2 trái bom xuống vị trí đóng quân của
tôi, cũng may bom lạc ra phía sau hướng về cầu Đại Hòa nên
không ai bị thương vong. Tôi vẫn nghe họ gọi danh hiệu tôi
là “Bản Thế” theo đặc lệnh truyền tin, song tôi không lên
tiếng. Tôi sợ nếu họ biết được đơn vị tôi còn thì dám có thể
ăn tiếp 2 trái nữa lắm. Không nghe tôi trả lời trả vốn, và
tôi nghe họ nói với nhau là bay về hướng “Lê Lai–Sơn Tây”
tức Lương Sơn, tôi nghĩ chắc là họ vô dội 2 trái còn lại vô
1 đơn vị nào đó mà họ biết, không biết em nào đây!
Quả thật sau này có gặp Thiếu úy Đỗ Văn Khuyến
ĐĐP/ĐĐ4/TĐ/212/ĐP đóng tại Đồn Cây Táo hiện ở Seattle có
nghe tiếng tôi báo tất cả mọi tình hình và rút ra khỏi đồn
Cây Táo và cuối cùng quả nhiên đồn này nhận 2 trái bom còn
sót lại. Đoàn xe địch khi vào đến gần Lương Sơn thì bị chặn
lại tại dốc Bà Chá với bãi mìn chống chiến xa làm 7 chiếc bị
phá hủy. Dấu tích còn lại sau 1975 là xác 3 chiếc xe tăng
địch còn nằm tại bờ Sông Lũy gần dốc Bà Chá xóm Ruộng Lương
Sơn. Công lao này do Đại úy Vĩnh ĐĐT/ĐĐ1/TĐ212/ĐP.
Mọi sự liên lạc với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 248 và chi khu Tuy
Phong, Liên Đoàn 925 Địa Phương Quân (Đại tá Lại Văn Khuy)
coi như chấm dứt, phía sau tôi còn có những đơn vị nào? Tôi
nghĩ lúc này tại Tuy Phong chỉ còn duy nhất một Đại đội (–)
của tôi thôi. Tôi cố gắng củng cố lại phòng tuyến, bố trí
binh sĩ đâu vào đó.
Đứng trên núi cao, qua ống dòm
tôi thấy trên QL1, tôi thấy dân chúng chạy bằng đủ loại
phương tiện, tôi xuống dọ hỏi thì mới biết là dân địa phương
Vĩnh Hảo khi thấy đoàn xe của lũ mọi rợ cộng phỉ bắc việt
dừng lại ở đó nên họ bỏ chạy, bởi vì hôm trước tôi không
thấy có một đoàn xe nào di tản ngang qua tôi. Họ cho biết là
lũ mọi rợ cộng phỉ có 1 đoàn xe dài ngừng ngay trước xóm
Vĩnh Hảo. Tôi nghĩ ngay đến việc chắc Phan Rang đã mất, nên
đoàn xe địch mới di chuyển được đến đây.
Sau này đoàn
xe chạy qua tôi thấy có những chiếc GMC mang phù hiệu con
voi trắng của tiểu khu Ninh Thuận. Tôi phác họa đường rút
quân cho đơn vị, nếu rút về Phan Thiết thì xa quá, lương
thực không có, đạn dược cũng cạn, tạm thời tôi rút đơn vị
xuống chân núi, trước mặt là một giao thông hào, nguyên là
đường mương thoát nước của con đường QL1, mương này rất rộng
và sâu, không thể vượt qua bằng xe hay bộ binh nếu không có
cầu nhỏ bắc qua, rất an toàn cho đơn vị cộng thêm có núi che
chắn. Bất cứ 1 đơn vị trưởng nào cũng phải nghĩ tới khi có
chuyện, tôi để lại Tiểu đội Viễn thám kích trên lưng chừng
núi để có gì thì yểm trợ cho nhau. Tôi ra đường chận dân hỏi
tiếp tình hình vì lúc đó không thấy 1 sự di chuyển gì của
đoàn xe địch và được cho biết là sẽ có một chiếc xe Jeep sắp
sửa chạy trước đến đây. Nếu một chiếc xe Jeep thì quá dễ
dàng với chúng tôi, còn nếu cả đoàn xe địch tiến tới thì
chúng tôi như trứng chọi với đá. Thật tình mà nói lính Địa
Phương Quân từ trước giờ chưa có kinh nghiệm chống chiến xa,
mìn chống chiến xa lại không có.
Tôi ra lệnh phải
tiêu diệt chiếc xe Jeep bằng Đại liên M60 và M79 cùng súng
cá nhân M16. Theo địa hình tôi ở trên cao nên quan sát rất
rõ, khi xuống chân núi thì tầm nhìn có giới hạn bởi trước
mặt là một khúc cua cùi chỏ. Chúng tôi nằm chờ, trong tầm
nhìn không thấy chiếc xe Jeep mà thấy nguyên đoàn xe đang
tiến đến càng lúc càng gần. Dẫn đầu là 1 chiếc PT76, chúng
tôi nổ súng vào đoàn xe nhưng nó vẫn tiến tới. Bọn chúng bắn
trả dữ dội, chung quanh tôi chỉ thấy toàn lửa và lửa và âm
thanh chát chúa của các loại súng. Trước tình thế đó, tôi ra
lệnh rút lui theo đường thông thủy, con đường an toàn thiên
nhiên do cây cối và đá bảo vệ và rút về hướng biển. Nói tới
vùng biển từ Cửa Xuất tới Long Hương (chi khu Tuy Phong) tôi
nằm ở gần giữa về hướng Cửa Xuất, đến khi ra tới bờ biển thì
trời đã gần tối, dọc theo bờ biển chỉ có hai loại cây sống
được là cây Ma Vương bò sát mặt cát và cây Rù Rì mọc từng
đám um tùm có khoảng cách, nhờ vậy mà chúng tôi có chỗ ẩn
nấp an toàn không bị địch phát hiện.
Tôi cho đào hố
cá nhân phòng thủ và hy vọng sẽ liên lạc được với tàu Hải
Quân còn đang ở trong vùng này. Nhờ còn đặc lệnh truyền tin
nên tôi đã gọi kêu cứu khắp nơi nhưng chẳng một ai hồi đáp.
Nhìn lại những người lính dưới quyền đã theo tôi trong suốt
bao năm qua mà lòng thấy đau nhói, không thể để cho họ chết
được, tôi phải cố gắng để vượt thoát cùng họ. Tất cả nằm im
lặng giữa bãi cát vắng, giờ thì họ chỉ còn đặt niềm tin vào
tôi, nên không cho phép tôi được hốt hoảng. Giữa cái sống
chết kề cận mới thấy gắn bó tình cảm anh em, và mới là vinh
hay nhục chỉ do quyết định của tôi.
Nhìn ra ngoài
biển những con sóng lớn vẫn gào thét ập vào bờ, bầu trời tối
đen nghĩ rằng không còn hy vọng gì. Trong lúc đó có những
toán du kích đang đi lùng sục tìm dấu vết của chúng tôi về
hướng Long Hương nhưng tôi không cho nổ súng vì để bảo toàn
bí mật. Xa xa có những tiếng nổ vọng lại tôi đoán là những
kho hậu cứ của chi khu bị nổ trong đó có kho hậu cứ của Đại
đội tôi. Tôi ngồi dưới hố sâu trên được phủ kín Poncho rọi
đèn pin tìm tần số để gọi nhưng tất cả đều vô vọng, lúc này
không biết đã mấy giờ rồi, ngoài trời tối đen như mực, sóng
biển vẫn đập vào bờ những cơn giận dữ. Cái đồng hồ của tôi
đã bị rớt mất khi di chuyển ở đường thông thủy, đó cũng là
vật kỷ niệm của tôi, nó đã cùng tôi đi suốt cả đoạn đường
chinh chiến. Tôi có suy nghĩ là sẽ lợi dụng đêm tối, băng ra
QL1 để đi, nhưng không biết sẽ đi đâu trong khi lương thực,
đạn dược thì thiếu thốn. Vì vậy tôi vẫn cố gắng để gọi trên
các tần số, chẳng lẽ đã đến bước đường cùng. Niềm an ủi duy
nhất là đến giờ phút này mà các binh sĩ thuộc quyền vẫn còn
nghe lệnh tôi.
Giữa lúc đang tuyệt vọng thì tôi nghe
được tiếng trả lời, niềm vui chợt đến với tôi dù hy vọng
mong manh. Tôi chưa rõ là tiếng nói của bạn hay của Cộng sản
rà được tần số của mình, sau tôi mới biết anh em Hải Quân đã
rà và nghe được tiếng gọi cầu cứu của tôi. Xưng danh hiệu
thuộc Duyên Đoàn 27 từ Phan Rang vô nhưng họ bảo phải có ai
đó có thẩm quyền xác nhận tôi là “Bản Thế” là họ vô bốc đơn
vị tôi ra liền. Kể cũng thật may tôi nhận ra tiếng nói của
Thiếu tá Hà Văn Thành, chi khu Trưởng chi khu Tuy Phong. Tôi
đoan chắc là Thiếu tá Thành đang ở trên chiếc chỉ huy của
Duyên Đoàn 27, nhờ vậy đơn vị tôi được cứu sống. Lại một lần
nữa ơn trên phù hộ, cuối cùng toàn bộ đơn vị tôi cũng ra
được tàu, nhưng thật vất vả. Đến khi điểm danh quân số thấy
đầy đủ tôi rất mừng, không phải mừng vì mình được ra tàu mà
là đầy đủ anh em được an toàn. Xong cuộc cứu vớt trời cũng
gần sáng, tàu chở chúng tôi tới chiếc Dương Vận Hạm 503
luôn. Mờ sáng đơn vị chúng tôi đã có mặt trên chiếc Dương
Vận Hạm 503 đó là ngày 17/4/1975, con tàu đang nhấp nhô trên
biển với những cơn sóng cao dữ dội.
Tôi nhìn về đất
liền hướng mũi Dinh, thấy lấp lánh ánh sáng từ những kiếng
xe phản chiếu ánh sáng mặt trời nhiều vô kể như sao lấp lánh
giữa trời đêm. Chiếc tàu đang lênh đênh ngoài vịnh Cà Ná –
Cửa Xuất, tôi thấy các vị sĩ quan Hải Quân trên tàu ra dấu
hiệu cho những chiếc ghe đánh cá lại gần, cho họ dầu nhờ họ
đi vào bờ bốc lính ra. Khi công tác cứu vớt lính còn đang
tiếp diễn, thì những đạn pháo từ trong bờ bắn ra, bởi vì
chiếc DVH 503 ở rất gần vịnh Cà Ná, đó là pháo binh của VC
mà tôi đoán là 130 bắn trực xạ, những trái đầu tiên bay qua
tàu và rớt ở xa, tôi nghe chiếc loa trước pháo tháp đài chỉ
huy phát tiếng gọi, những trái đạn kế tiếp pháo trúng pháo
tháp chỉ huy và những loạt đạn sau trúng boong tàu. Trên tàu
lúc này có rất ít người nên thương vong không đáng kể. Chúng
tôi là Bộ Binh mà cũng không biết nơi nào để ẩn núp đành
chụi trận. Những tiếng nổ chạm sắt nghe thật chát chúa như
muốn bể tung tàu.
Bỗng dưng tôi thấy một nắp hầm bật
lên, tôi và một số lính của tôi chạy xuống lòng tàu, lúc này
tàu lắc dữ lắm. Tôi chạy ra trước mũi rồi chạy lên boong
tàu, vì ở trên boong tàu có thể dễ dàng xoay sở nếu tàu lỡ
may chìm, trong tư thế vừa đứng vừa ngã nghiêng vì chiếc tàu
đã bị thương. Chiếc tàu lắc lư dữ dội có lẽ tàu ở sóng
ngang, nên khi sóng đập vào mạn hông là tàu nghiêng, cứ thế
tôi phải vịn vào lan can tàu để cùng lắc lư với nó. Nhìn ra
ngoài khơi thấy có 5 cột khói bốc cao, kế đó Hải pháo bắn
vào tới tấp vào chỗ đặt súng của địch để giải cứu cho con
tàu DVH 503 đã bị thương. Trong tình huống như thế mà lính
của tôi còn lo lắng cho tôi, đã đưa 2 cái bi đông không có
nước có dây cột vào người tôi làm phao để khi lỡ tàu chìm
tôi có thể lội.
Tiếng súng từ bờ biển bắn ra đã im
bặt vì Hải pháo của ta bắn vào dữ dội. “Phước bất trùng lai”
đây là lần thứ 3 chỉ trong vòng 3 ngày tôi thoát chết nhờ ơn
trên phù hộ. Có 1 chiếc chiến hạm từ từ cặp vào bên hông nên
dần dần chiếc DVH 503 trở lại bình thường. Chiếc tàu DVH
được bơm nước ra và kè đi trong đêm tối. Mệt mỏi, ê chề tôi
đã thiếp đi đến khi tỉnh dậy đã thấy gần đất liền và tàu
cặp bến Vũng Tàu đâu khoảng 10:00g sáng ngày 18/4/1975.
Chúng tôi được đưa lên những chiếc xe GMC do Quân Cảnh hướng
dẫn. Khi đến nơi tôi mới biết đó là TTHL/Vạn Kiếp khu tiếp
tân. Đến đây thì tôi lại nhớ lúc trước nguyên tôi là Đại Đội
Phó Đại Đội 966 Địa Phương Quân của Đại úy Lộc khi tôi mới
Thiếu úy, sau này mỗi người mỗi ngả, tôi đi học Khóa Đại
đội trưởng còn Đại úy Lộc về TTHL/Vạn Kiếp.
Tại Phú
Long, đến ngày 18/4/1975 khoảng 2 đến 3 giờ chiều, sau khi
bị trận địa mìn ở Dốc Bà Chá Lương Sơn làm cháy mất 3 chiếc
và hư hại nhiều chiếc khác do công của TĐ 212/ĐP. Đoàn Tank
địch sau hơn 1 ngày dò dẫm đã tiến vào Phú Long. Trước tình
hình địch như vậy Tiểu Đoàn 249/ĐP + ĐĐ283 ĐP và Tiểu Đoàn
275/ĐP cùng các đơn vị tăng phái lần lượt rút bỏ Phú Long di
tản chiến thuật theo kế hoạch về Bình Tú để chờ tàu thủy vào
rước về Vũng Tàu. Mặc dù vậy xe tăng địch chưa dám tiến đánh
vượt qua cầu Phú Long vì sợ lại lọt vào trận địa mìn bẫy.
Đại Đội 1/275 được lệnh giữ vững cầu và tiêu diệt xe tăng
địch. Lúc này đơn vị kiểm điểm lại chỉ còn 7 trái M72 vì đã
bắn nhiều trong nửa tháng không được cung cấp thêm. Xe tăng
địch thì rất nhiều như những con thiêu thân chờ đêm tối mới
tràn qua cầu. Trung úy Luân liên lạc với Phòng 3/TK thì
được biết đã có lệnh rút lui về Bình Tú, nhưng Tiểu đoàn rút
đi mà không thông báo cho đơn vị biết. Dầu vậy anh đã ra
lệnh chờ xe tăng địch tới gần 30m mới cho bắn, để chắc chắn.
Tuy vậy xe tăng địch không dám qua cầu mà rẽ đường vào Phước
Thiệu Xuân tấn công đồn Nghĩa Quân do anh Néo làm Trung đội
trưởng. Tại đây một chiếc tăng T54 đã bị Nghĩa Quân bắn hạ.
Trung úy Luân gọi Hải Pháo bắn chận địch để đơn vị rút
quân. Đơn vị anh từ đó đã về Thanh Hải và tan hàng tại đây,
tự tìm đường đi về Vũng Tàu. Riêng anh nhờ một chiếc ghe vớt
anh trên thúng khi đang lênh đênh ở ngoài biển đưa vào Vũng
Tàu, gặp lại Tiểu đoàn tại đây.
Tiểu đoàn 202/ĐP của
Đại úy Huỳnh Văn Hoàng làm Tiểu đoàn trưởng đã đến đây
từ khuya, phối hợp với Liên đội Bảo vệ Nông Trường Sao Đỏ,
trước đây do Đại úy Huỳnh Văn Quý chỉ huy đóng tại Ba Hòn.
Vừa dọn bãi vừa giữ an ninh cho Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch,
đồng thời di chuyển thương bệnh binh ra bãi biển chờ tàu Hải
Quân vào đón.
Đến trưa thì Tiểu Đoàn 275/ĐP của Thiếu
tá Lê Văn Tư tại Kim Ngọc, Lại An, và Tiểu Đoàn 274/ĐP của
Thiếu tá Trịnh Văn Bình là đơn vị đóng xa nhất tận Bầu Gia,
Phú Hội, Mương Mán... cũng đến được bãi biển Kim Hải. Ngoài
ra còn có Đại Đội 954 ĐP của Đại úy Mai Xuân Cúc và nhiều
Đại Đội khác của các Tiểu Đoàn 249/ĐP, 230/ĐP cũng về được
điểm hẹn. Nói chung thì hầu hết các đơn vị tại Nam Bình
Thuận gần như có mặt đầy đủ tại đây, trừ lực lượng cơ hữu
của chi khu Hàm Thuận, trong số này có Đại đội 288/ĐP của
Đại úy Phạm Văn Sáu theo Thiếu tá Dụng Văn Đối di tản từ
chiều 18/4/1975 bằng đường bộ tới Hàm Tân và bị tiểu khu
Bình Tuy giải giới tại đây, coi như tan hàng mạnh ai nấy lo
kể cả Đại Bàng. Riêng chi khu Hải Long do Thiếu tá Hàng
Phong Cao làm chi khu Trưởng rời Mũi Né vào trưa ngày
18/4/1975 bằng ghe chở nước mắm và chiếc thương thuyền Hương
Giang từ Nha Trang vào bị kẹt bỏ lại. Các đơn vị tại Bắc
Bình Thuận gồm 4 chi khu Tuy Phong, Hải Ninh, Phan Lý Chàm,
Hòa Đa, và Liên Đoàn 925/ĐP đóng tại Lương Sơn, phần lớn
cũng được di tản vào Vũng Tàu bằng tàu Hải Quân và ghe đánh
cá tại các bến Cà Ná, Long Hương, Phan Rí Cửa, Hòn Rơm...
Riêng chi khu Thiện Giáo coi như tan hàng trước ngày
16/4/1975.
Tại bãi biển Kim Hải tình hình mỗi lúc một
thêm căng thẳng. Trời về trưa càng oi bức ngột ngạt, gió
biển vẫn không đủ xoa dịu nổi cái nóng của hơi cát bốc lên
từ bốn hướng. Theo đúng kế hoạch lui quân của Bộ Tư Lệnh
Vùng 2 Duyên Hải, đầu tiên là sự xuất hiện của Duyên Đoàn 28
Phan Thiết, từ ngoài khơi vào bốc các thương bệnh binh của
QYV Đoàn Mạnh Hoạch. Kế tiếp là đoàn tàu Ferro Ciment và tàu
há mồm ào ạt ủi bãi trong lúc thủy triều đang lên cao, lần
lượt bốc hết các đơn vị tại chỗ. Trong lúc đó nhiều chiến
hạm kể cả Chiến hạm Trần Khánh Dư HQ04 cũng tiến sát vào bờ,
sẵn sàng nhả đạn yểm trợ cho các cánh quân bên trong, đang
dồn dập ủi bãi đón người. Đại đội 4/229/ĐP là đơn vị rút sau
cùng vì làm nút chặn cho đoàn người rút ra biển. 3 chiếc hải
thuyền tiến vào bờ đón Đại Đội 4/229/ĐP, lúc này bãi biển
Kim Hải trở nên vắng lặng. Cuộc di tản chiến thuật của tiểu
khu Bình Thuận và các đơn vị từ Phan Rang vào coi như kết
thúc vào lúc 1:00g trưa ngày 19/4/1975 thành công.
Trong giây phút sắp giã từ Phan Thiết yêu thương, bỏ lại sau
lưng vợ con, cha mẹ, bạn bè, không biết bao giờ mới gặp lại,
trái tim người lính trận bỗng dưng khựng điếng như vô cảm.
Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và Đại tá Ngô Tấn Nghĩa hiện đang
có mặt trên Soái Hạm Trần Khánh Dư HQ04, bên trong những
boong tàu có hơn 6000 quân được vớt từ bãi Kim Hải.
Một ngày một đêm lặn lội trong máu lệ đạn bom, cái chết
trước mắt đã làm cho ai nấy quên đi hết sự đói lạnh. Giờ này
được ngồi yên trên tàu xa vùng khói lửa, ngắm nhìn trùng
dương xanh thẳm, cái đói như từ trên trời sập xuống. Tôi ăn
vội gói mì tôm sống chai ngắt nhạt nhẽo và uống ngụm nước
lạnh múc ở suối hồi khuya còn sót lại trong bi đông, mới
thấy lòng ấm lại đôi chút. Tình cờ đưa mắt nhìn lên boong
tàu Trần Khánh Dư, tôi thấy Hải Quân Trung úy Nguyễn Văn
Tạo là cậu họ. Tôi mừng quá đưa tay vẫy và hỏi lớn có gì ăn
không? Chừng 10 phút sau một gói giấy được ném qua tàu tôi,
mở ra thật ngỡ ngàng với 4 con cá khô khét nướng và 1 vắt
cơm. Thì ra thân phận người lính VNCH là thế đó, dù họ có là
sĩ quan hay binh sĩ, là người lính kiêu hùng Dù, Thủy Quân
Lục Chiến, Lực Lượng Đặc Biệt, Biệt Động Quân hay Nghĩa
Quân, Xây Dựng Nông Thôn... là Bộ Binh, Không Quân hay người
Lính Biển... Thì nỗi cam khổ hiểm nguy, tất cả đều giống
nhau không ai ngoại lệ. Nằm gối đầu trên chiếc ba lô mơ mơ
màng màng, nhớ lại những buồn vui đời lính, thì giật mình vì
tiếng còi báo động từ Soái hạm HQ04 vang lên. Tôi nghe tiếng
loa phát ra “Phi cơ địch xuất hiện, tất cả vào vị trí chiến
đấu”. Tôi bật ngồi dậy như cái máy, thấy các anh lính Hải
Quân đang khoác vào mình chiếc áo phao màu cam, tiến đến các
ổ súng Cao Xạ Phòng Không trên tàu, trong lúc hệ thống ra đa
trên tháp chỉ huy không ngớt di động để tìm dấu vết phi cơ
địch. Các tàu chở lính được lệnh tách rời Soái Hạm và hướng
về Nam. Cuối cùng giờ chót phi cơ địch không tấn công đoàn
tàu, nhưng Soái Hạm HQ04 ở lại vùng biển Phan Thiết đoạn hậu
để bảo vệ đoàn tàu xuôi Nam. Gần tối đoàn tàu qua mũi Kê Gà
với tháp Hải Đăng chiếu sáng cả một vùng biển. Mệt mỏi và
say sóng, chúng tôi thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, tới
lúc ánh mặt trời chiếu vào mặt mới thức giấc. Nhìn ra ngoài
thì thấy đây là Bến Đình nhưng tàu còn bỏ neo ngoài biển
chưa cặp bến vì còn chờ lệnh Quân Trấn Vũng Tàu.
Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn
229/ĐP, được sự ủy nhiệm của Đại tá Ngô Tấn Nghĩa lên bờ
trước gặp Quân Cảnh Quân Trấn Vũng Tàu để bàn kế hoạch giao
nạp vũ khí, quân dụng cho Quân Trấn vì sợ chúng tôi làm loạn
khi được lên bờ. Từng người một bị khám xét và bị tịch thu
tất cả mọi thứ kể cả bản đồ, địa bàn trước khi lên Bến Đình.
Chỉ có Thiếu tá Tiến là còn giữ được một khẩu Colt 45 và một
máy PRC25 dùng để liên lạc với Đại tá Nghĩa.
Hỡi ôi!
Đánh trăm trận không chết vì đạn pháo mìn chông của VC mà
nay đoàn lính trận Bình Thuận lại bị chết nhục vì tuân lệnh
giao súng cho Quân Cảnh trong giờ thứ 25 này, qua những lệnh
lạt từ trên trời rơi xuống. Nhưng chúng tôi là những người
lính có kỷ luật và tuyệt đối tuân lệnh cấp chỉ huy, nên
không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đây cũng là lý do làm cho
một số anh em lên được bờ thì bỏ về Sài Gòn vì trong tay
không còn vũ khí và quyền chỉ huy, khiến lính không ra lính
quan không ra quan. Một số cảm thấy bị xúc phạm đến danh dự
khi bị đám Quân Cảnh trấn lột thẳng tay.
Nhưng trái
lại, đồng bào tại Đặc Khu Vũng Tàu đã dành hết sự ưu ái nồng
nhiệt đón tiếp đoàn quân di tản từ Bình Thuận vào. Dọc theo
Bãi Trước gần cầu tàu, các quày thức ăn cung cấp tự do cho
mọi người. Xen lẫn trong số này có các quày của các Soeur
bên Thiên Chúa Giáo và quý Ni Sư Linh Sơn Tự. Các món ăn
chay vừa ngon vừa gợi nhớ, làm cho các quân nhân Phật Tử cảm
động muốn khóc vì nhung nhớ gia đình, không biết giờ này họ
ra sao? Nói chung đồng bào và các đoàn thể ở Vũng Tàu, chính
quyền đã tiếp đón thật nồng hậu những người con trở về từ
giới tuyến. Mối ân tình sâu đậm ấy là những hình ảnh nồng
nàn diễm tuyệt, luôn theo tôi trong suốt cuộc hành trình
không bao giờ phai nhạt trong suốt cuộc đời còn lại.
Đoàn quân xa gồm mấy chục chiếc luân phiên chở chúng tôi về
Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Bà Rịa. Khi đi ngang qua Đặc
Khu Vũng Tàu có ghé lại, để các cô nữ quân nhân ủy lạo cấp
phát cho mỗi người 5 gói mì tôm, của ít lòng nhiều nên chúng
tôi vô cùng cảm động, nói lên được tình huynh đệ chi binh.
Trưa 20/4/1975 gần như các đơn vị di tản từ Phan Thiết
vào đều có mặt tại Trung Tâm Huấn Luyện Quốc gia Vạn Kiếp Bà
Rịa, tỉnh Phước Tuy, ngoại trừ một số ít bỏ ngũ trốn về Sài
Gòn tìm thân nhân. Tôi ước lượng có khoảng 10,000 người tập
trung về đây, đủ các quân binh chủng, nhưng đông nhất là
tiểu khu Bình Thuận hơn 3,000 người. Trong khi đó từng đoàn
xe GMC chở đầy binh sĩ Sư Đoàn 18/BB của Tướng Lê Minh Đảo
vừa từ Xuân Lộc rút về được tái phối trí phòng thủ Sài Gòn,
Vũng Tàu, chạy ngược về hướng Long Thành trên QL15. Cũng tại
Trung Tâm Vạn Kiếp, thấy có mặt Đại tá Lại Văn Khuy, Liên
Đoàn Trưởng 925/ĐP (Bắc Bình Thuận) và Thiếu tá Nguyễn Quốc
Quân Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 212/ĐP. Sau khi chận đánh
đoàn xe tăng địch tại dốc Bà Chá Lương Sơn, đơn vị này rút
quân theo lộ trình Lương Sơn, Sông Lũy ra Bàu Trắng trong
mật khu Lê Hồng Phong để chờ tàu Hải Quân đến đón. Đại úy
Bá, Tiểu Đoàn Phó cùng một số binh sĩ vài chục người tách ra
đi ngược về Lương Sơn tìm đường khác để đi nhưng từ đó đến
nay không nghe gì về đoàn quân này.
Sáng ngày
19/4/1975 Đại đội trưởng Đại Đội 1/212/ĐP, Đại úy Vĩnh là
người trực tiếp chỉ huy phá chiến xa địch tại dốc Bà Chá
Lương Sơn, cùng một số anh em dùng ghe nhỏ ra biển đón được
3 ghe giã cào lớn vào bờ rước toàn bộ BCH/Liên Đoàn 925/ĐP
và binh sĩ còn lại của Tiểu đoàn 212/ĐP vào Vũng Tàu an
toàn. Lúc này, Đại tá Khuy và Thiếu tá Quân không mặc quân
phục, hiện cũng có mặt tại đó nhưng Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến
được Đại tá Ngô Tấn Nghĩa chỉ định thay thế ông trực tiếp
chỉ huy binh sĩ Bình Thuận trong thời gian ông về Sài Gòn
xin lương bổng và tái trang bị cho đơn vị.
Ngày 21
tháng 4/1975 hầu hết các đơn vị từ Bình Thuận di tản vào
được chở ngược về Đặc Khu Vũng Tàu và tập trung tại căn cứ
Thủy Quân Lục Chiến ở Bãi Sau. Trung Đoàn Bình Thuận được
thành lập và được tái trang bị vũ khí cùng quân trang quân
dụng. Gạo được tiếp tế dư thừa nên một số đơn vị tính bán
bớt để mua cá thịt cho anh em ăn.
Ngày 22/4/1975 Đại
tá Nghĩa dùng trực thăng đáp xuống căn cứ TQLC Vũng Tàu mang
theo 5 triệu đồng cấp phát tạm cho anh em mua thực phẩm, mỗi
người nhận tạm 200 đồng/ngày. Ngày 25/4 lại nhận thêm 2
triệu.
Đích thân Thiếu tá Tiến nhận tiền từ Đại tá
Nghĩa và Trung úy Cao Hoài Sơn giúp phát số tiền này (Thiếu
tá Tiến đã qua đời tại Úc vì bệnh sau nhiều năm ở trong trại
tù khắc nghiệt ngoài Bắc).
Quân số Trung Đoàn Bình
Thuận lúc đó vào khoảng 3,000 người, gồm sĩ quan, hạ sĩ
quan, binh sĩ của các đơn vị tác chiến. Riêng BCH/Tiểu khu,
BCH/Liên Đoàn 925, và các BCH Chi khu, An ninh Quân Đội, các
ban ngành coi như tan hàng ngày 19/4/1975, ngoại trừ “người
Lính Già Ngô Tấn Nghĩa, đã theo anh em đến giờ phút cuối
cùng từ mọi nẻo đường” nên đã bị kẹt lại ở Sài Gòn dù ông có
đầy đủ phương tiện để ra đi trong giờ phút cuối, nhưng ông
vẫn không đi khi những chiến binh của Bình Thuận còn đó.
Trong ngày 25/4/1975, Đặc Khu Vũng Tàu cấp cho Trung
Đoàn Bình Thuận một xe Dodge, các Tiểu đoàn nhận lại Máy
PRC25 và bản đồ tỉnh Phước Tuy. Lúc này bắt đầu hỗn loạn
vì bọn khủng bố cộng phỉ vô nhân tính bắt đầu áp sát thành
phố, pháo kích trực xạ bừa bãi vào dân chúng đang tập trung
tại sân vận động nhằm gây hoang mang và hỗn loạn. Phi trường
bị pháo kích liên tục làm tê liệt các chuyến bay. Tệ hại
nhất là tại sân vận động, những người không nhà lại phải
bồng bế nhau tháo chạy dưới làn pháo của lũ mọi rợ cộng phỉ
bắc việt. Hơn 10,000 người tại đây hoảng loạn kêu khóc rất
thương tâm. Không thấy có ai có lấy một lời lên án hành động
dã man này. Lương tâm loài người đâu rồi? Các đài BBC, VOA,
PHÁP ở đâu???!!! Sao không tố cáo tội ác chống nhân loại
này?!
Đạn bom lửa khói đã bắt đầu tiến vào đường phố,
xác người cháy đen nằm trên lề đường, quân cướp giật lợi
dụng hoành hành, làm cho tình hình thêm rối rắm. Tình hình
trở nên nguy ngập khi Sư Đoàn 18 BB được lệnh rút về Biên
Hòa. Các Tiểu Đoàn 274/ĐP của Thiếu tá Bình và 275/ĐP của
Thiếu tá Tư chỉ huy thuộc Trung Đoàn Bình Thuận được lệnh
bung ra Long Hải làm tiền đồn chận giặc, bảo vệ phía Đông
Bắc thành phố Vũng Tàu. Các Đại đội biệt lập và Tiểu Đoàn
229/ĐP trách nhiệm giữ căn cứ TQLC làm phòng tuyến chính,
tiếp ứng cho các đơn vị bảo vệ Vũng Tàu.
Ngày
29/4/1975 Trung tướng Nguyễn Văn Toàn và một số tùy viên
thân cận từ Biên Hòa dùng trực thăng đáp xuống Căn cứ TQLC,
lúc đó do Trung Đoàn Bình Thuận trấn giữ. Buổi trưa cùng
ngày các vị di tản chiến thuật bằng trực thăng ra Hạm đội Mỹ
đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu. Buổi trưa, bọn cộng phỉ tấn
công vào Long Hải, 2 Tiểu đoàn của Trung Đoàn Bình Thuận rút
về phòng thủ căn cứ TQLC, trước áp lực của đich quá lớn mà
không có yểm trợ hỏa lực của Đặc Khu Vũng Tàu.
Trên
QL15 dẫn vào Vũng Tàu, Cầu Cỏ May do TQLC đóng giữ, bị VC
tấn công dữ dội nhưng gặp sự chống trả mãnh liệt nên gây
nhiều thương vong cho giặc. Tại căn cứ TQLC do Trung đoàn
Bình Thuận trấn giữ, Cộng quân bắt đầu tấn công bằng lối
tiền pháo hậu xung cổ điển. Trung Đoàn đã đánh với giặc trận
chiến cuối cùng vô cùng oanh liệt. Từng đơn vị địch như
những con thiêu thân lao vào, ác liệt nhất là mặt phía tây
có rừng dương liễu và động cát.
Xác những tên phỉ
quân bắc việt xâm lược nằm ngổn ngang vì mìn bẫy và những
lằn đạn của ta. Tới chiều gần tối biết không thể nào ngăn
chặn được nữa, Trung Đoàn Bình Thuận rút đi dọc theo bãi
biển tiến về bãi trước. Chúng tôi bỏ lại tất cả chỉ mang
theo đạn dược, vũ khí nhẹ, và lương thực vì vũ khí nặng
không còn đạn nên phá hủy trước khi rút. Chúng tôi chiếm
ngọn núi nhỏ có tượng Chúa ngó ra biển làm vị trí phòng thủ.
Đây là một căn cứ quân sự mà quân đội Nhật Hoàng đã xây dựng
trước đây hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Trong đó có hệ thống giao
thông hào, hầm trú ẩn kiên cố, và có giếng nước. Dân chúng
xung quanh kéo đến đây lánh nạn rất đông trên vài ngàn
người.
Lại một đêm dài không ngủ đi qua rất chậm như
những đêm dài VN suốt 20 năm chinh chiến trên quê hương khổ
đau. Tiếng súng trong thành phố vẫn tiếp diễn không ngớt,
kéo dài tới cả buổi sáng ngày 30/4/1975. Cuối cùng là lệnh
buông súng của “Tổng Thống Hai Ngày” Dương Văn Minh, kết
thúc vận hội của dân tộc VN Tự Do, bước vào ngưỡng cửa của
thế giới đói nghèo.
Hơn 40 năm qua rồi, nhưng lịch sử
cận đại của nước Việt vẫn còn đó chứ không sang trang như
nhiều người đã ngộ nhận lúc ban đầu. Hãy nói lên những sự
thật của lịch sử để tự trọng và xứng đáng là người cầm bút,
là Người Lính hay ít nhất cũng là một bình dân lương thiện.
Đó là cách duy nhất đền đáp lại mối ân tình đối với người
Chiến Sĩ VNCH một đời hy sinh hạnh phúc và mạng sống của
mình cho đời.
Người Lính Bình Thuận, những Địa Phương
Quân, Nghĩa Quân, Cán Bộ Cảnh Sát... một đời xứng đáng để
các thế hệ sau trân quý, noi gương. Chúng ta đã không lầm
lẫn khi viết bất cứ một trang sử nào nói về “sự
hy sinh cao quý của người lính VNCH”.
Mường Giang & Một Nhóm
cựu sĩ quan tiểu khu Bình Thuận
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by cathy chuyển
Đăng ngày Thứ
Sáu, April 11, 2025
tkd (thư ký dù). Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH