Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Truyện
ngắn
Chủ đề:
Viễn du
Tác giả:
Điệp Mỹ Linh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Xuyên qua từng áng mây trĩu nặng hơi nước, những tia nắng đìu hiu của một buổi chiều như đang ngập ngừng bên ngoài khung kính của chiếc Boeing đồ sộ – đang bay. Bảo Trân nghiêng một bên má sát vào mặt kính để nhìn lại phía sau. Đà Lạt đã chìm khuất, chỉ còn những đóm sáng ly ty từ những tòa buildings trên triền núi cao. Từ những triền núi, hơi lạnh toát ra, tạo thành những phiến sương buồn, che khuất những khe núi thâm u rồi bay lang thang trong vùng không gian im vắng để đợi chờ ánh hoàng hôn.
Nhìn vùng không gian đẫm sương chiều của
thành phố Đà Lạt, tự dưng Bảo Trân liên tưởng đến hình ảnh êm đềm
của một thành phố lạ lẫm, xa xăm. Nơi thành phố lạ lẫm đó, khi chiều
xuống, những màn sương trắng đục cũng tỏa ra từ lòng núi; cũng vây
quanh những tòa buildings cao nghệu; cũng bay lang thang để
tìm xem màn đêm về từ lối nào; cũng vượt lên đỉnh núi, hòa lẫn vào
mây, khiến cảnh sắc trở nên hùng vĩ và kỳ bí lạ lùng. Nếu phải so
sánh những điều khác biệt giữa hai thành phố, có lẽ Bảo Trân chỉ
thấy, nơi thành phố xa lạ đó, những màn sương trắng đục thích lơ
lửng trên những nhánh sông cuồn cuộn phù sa.
Từ một trong những nhánh sông đục ngầu phù
sa, chiếc du thuyền nhỏ – Royal – trôi êm ả giữa dòng, bỏ lại phía
xa từng vùng ánh sáng rực rỡ của những thành phố kỹ nghệ và những
khu vực thương mại sầm uất.
Qua khỏi thượng nguồn, sự phồn thịnh dọc
hai bên bờ không còn nữa. Từ chiếc Royal nhìn lên bờ, Bảo Trân thấy
nhiều thân người gầy gò trong những mảnh vườn cằn cỗi đang từ từ lùi
lại phía sau trong khi chiếc Royal xuôi dòng sông sâu, giữa hai
triền núi cao. Nhìn quanh, Bảo Trân chỉ thấy núi và núi. Núi chập
chùng. Núi vây quanh. Núi kéo dài đến vô tận. Núi đổi màu tùy theo
độ cao và sự di chuyển của hơi sương cùng ánh mặt trời. Sự đổi dạng
và tuổi tác của những trái núi tạo nên sự hùng vĩ/sự thướt tha/sự
cuồng nộ của dòng sông.
Dòng sông này không có sự mênh mông bát
ngát của sông An Giang/sông Triêm Ðức/sông Ðà Rằng. Dòng sông này
thiếu hẳn sự nên thơ nhưng đầy nguy khốn của sông Cái Lớn/sông Vàm
Cỏ trong thời binh lửa. Dòng sông này không mang nặng vết đau lịch
sử của cả một dân tộc như sông Gianh/sông Bến Hải/sông Thạch Hãn.
Dòng sông này thiếu hẳn sự tươi trẻ/sự trữ tình của dòng Danube hoặc
sông Rhine bên trời Âu. Dòng sông này cũng không có sự kinh khiếp
đầy huyền diệu của sông Hằng. Dòng sông này thâm trầm, như một cụ Ðồ
Nho, vì tích lũy nhiều điều huyền nhiệm của đời/của thời gian/của
thiên nhiên. Dòng sông này mang tên Dương Tử.
Khi ánh nắng mai ló dạng cuối trời xa cũng
là lúc Bảo Trân thích thú nhìn dòng Dương Tử trườn mình giữa hai
vách núi thẳng đứng. Nhìn lên đỉnh núi, Bảo Trân thấy những cây
tùng/cây bách chễm chệ một vùng trời riêng để vui đùa với gió và tự
tình với mây. Dưới chân núi, nhiều người dân lam lũ đang còng lưng
vét những hạt cát hiếm hoi bên bờ sông để đem về xây những ngôi nhà
nhỏ nhắn trên hóc núi cao hoặc xây những cây cầu cheo leo, nối liền
hai triền núi dọc bờ sông.
Trên mặt sông đục ngầu màu đất đỏ, những
chiếc du thuyền nhỏ vẫn ngược xuôi trong âm thanh vi vu mệt mỏi của
máy tàu. Âm thanh này và màu nước này gợi nơi lòng Bảo Trân hình ảnh
những dòng sông thấm máu và những cánh rừng tràm đầy mìn bẫy và hầm
chông khi chiến tranh còn lan tràn trên Quê Hương đầy khổ nạn! Nàng
tự hỏi, khi mạch sông Dương Tử được đắp đập để mực nước sông dâng
lên cả trăm thước thì cuộc sống nơi vùng Quê Hương nghèo khó của
nàng, sẽ bị ảnh hưởng như thế nào?
Trong khi Bảo Trân trầm ngâm vì những ưu
tư không thể giải đáp được thì có tiếng gõ cửa. Từ từ bước ra cửa,
Bảo Trân nghĩ rằng người gõ cửa là Phong, nhưng vẫn hỏi, vì thói
quen về vấn đề an ninh:
– Ai đó?
– Anh. Anh sang rủ em lên sân tàu ngắm mặt
trời lặn.
Quanh
sân tàu rất nhiều du khách chụp ảnh và ngắm nhìn những tòa nhà nhiều
tầng được xây gần đỉnh núi để dân cư dời lên đó khi công việc xây
đập nước hoàn tất. Rồi đây sẽ có nhiều thành phố bị chìm lấp trong
dòng nước sâu. Không hiểu những người dân cần cù sẽ thích ứng được
với hoàn cảnh khắc nghiệt hay không; vì càng lên cao thời tiết càng
lạnh và những vùng đất xốp để trồng trọt càng hiếm. Nghĩ đến cảnh
không biết bao nhiêu gia đình phải dời lên núi cao, để bao nhiêu
ruộng vườn, mồ mả Tổ Tiên, Ông Bà và người thân chìm sâu vào lòng
nước, Bảo Trân thở dài, lòng đầy thương cảm!
Giọng của Phong cắt đứt ý tưởng của nàng:
– Ở đây đông quá! Mình lên tầng trên, nhé.
Tầng trên ít người. Phong xoay hai chiếc
ghế nhựa để lưng ghế quay về hướng mặt trời rồi chàng và Bảo Trân
ngồi vào. Nhìn vùng không gian rộng lớn của sườn núi đối diện chan
hòa trong ánh nắng chiều, Phong hỏi:
– Màu nắng này có gợi trong hồn em chút gì
không, Bảo Trân?
Bảo Trân không vội đáp, lặng ngắm những thân người gầy guộc đang hái
bắp trên sườn núi và nhóm người khác đang chặt thân cây bắp, bó lại
từng bó. Và gần nơi đỉnh núi, nàng thấy mấy ngôi nhà ẩn mình trong
màu xanh biếc của cây rừng. Bảo Trân đáp:
– Dạ, màu nắng này làm em nhớ những buổi
chiều êm ả trên núi Pilatus ở Thụy Sĩ. Chỉ khác một điều, trên triền
núi Pilatus em thấy vài trang trại và những chú bò thong dong nhơi
cỏ. Nơi cổ của mỗi chú bò, người ta cột một cái chuông nhỏ, khi chú
bò cử động tiếng chuông nghe leng keng. Tiếng chuông này giúp cho
người ta dễ tìm, nếu tối đến mà chú bò không về. Từ những hang động
nhân tạo trên đỉnh núi Pilatus, em có thể thấy, trong ánh nắng vàng
nhạt và từng cơn gió dìu dịu như hôm nay, những áng mây chiều chờn
vờn bên ngoài cửa hang. Cũng từ những hang động đó nhìn xuống, trên
mặt nước xanh ngát như biển khơi, em thấy vài chiếc du thuyền nhỏ,
mang cờ hình chữ thập, trôi lặng lờ trên mặt hồ Lucerne. Nếu tinh ý,
du khách có thể thấy hồ Lucerne mang hình dáng chữ thập. Xa xa, chen
chúc trong màu xanh của cỏ cây là màu đỏ của mái ngói trên những
ngôi nhà thờ cổ, với những tháp chuông cao vời vợi. Và xa, xa tít
đến cuối trời, màu xanh thẫm của phụ lưu hồ Lucerne len lỏi giữa màu
trắng của những khe núi tuyết. Trên đỉnh núi, tuyết lấp lánh trong
chút nắng hắt hiu muộn màng. Trong khung cảnh như vậy mà nghe những
tiếng leng keng trổi lên liên tục từ nhiều hướng khác nhau, tự dưng
tâm hồn em bâng khuâng, xao xuyến một cách lạ lùng! Bây giờ, nhìn
hình ảnh trên triền núi đối diện, ngoài chút bâng khuâng, xao xuyến,
em còn cảm thấy như có điều chi rưng rức trĩu nặng trong lòng!
– Như vậy là tâm hồn em giao động nhiều
hơn trước khung cảnh này, đúng không?
– Dạ, đúng.
– Tại sao?
– Cảnh đẹp của thiên nhiên làm thỏa mãn
tính hiếu kỳ của em. Nhưng điều làm cho em xúc động lại là sự nghèo
khó và nỗi bất hạnh của con người. Còn anh, anh nghĩ gì?
– Anh hả? Anh nghĩ đến những buổi chiều có
nắng vàng tỏa rộng trên sườn núi nơi đèo Rù Rì hoặc lung linh trên
rừng dừa nơi bãi biển tại trung tâm thể dục Ðinh Tiên Hoàng – sau
này đổi lại là trung tâm huấn luyện Biệt Ðộng Quân – ở Ðồng Đế, Nha
Trang.
– Anh là
bác sĩ Quân Y mà anh làm chi ở chỗ người ta huấn luyện Biệt Ðộng
Quân?
– Vì là bác
sĩ Quân Y cho nên Hè phải thụ huấn quân sự ở đó.
– Những buổi chiều như vậy anh nghĩ gì?
– Anh cảm thấy cô đơn lắm và: “Anh
nhìn xa vắng, ngàn thương nhớ. Em đã xa rồi, em biết không?”
(1)
Biết Phong muốn gián tiếp gợi lại Cuộc
Tình Xót Xa/muộn màng giữa chàng và nàng, Bảo Trân thoáng buồn:
– Anh đã hứa với em rồi, anh nhớ không?
– Anh hứa gì?
– Anh hứa sẽ xem em như em gái thôi. Anh
nhớ không?
Phong
cười buồn, im lặng. Một lúc lâu, Bảo Trân chuyển đề tài:
– Từ mấy hôm nay anh có nhận biết được
điều gì khác thường trong không gian mà chúng ta đã đi qua hay
không?
– Có. Anh
cảm thấy như thiêu thiếu cái gì đó, nhưng không biết là cái gì!
– Anh thử tưởng tượng, nếu có vài cánh
chim bay chầm chậm ngang triền núi đối diện thì...
– Ðúng rồi! Từ hôm đặt chân đến đất nước
này anh chưa hề thấy bất cứ loài chim nào cả. Tại sao?
– Em không hiểu.
Vừa khi ấy, Jason – hướng dẫn viên du lịch
– bước lên khỏi bậc thang cuối cùng. Phong gọi Jason, đặt câu hỏi
bằng Anh ngữ; vì Phong biết tất cả hướng dẫn viên du lịch tại Trung
cộng đều được chính phủ đào tạo và Anh văn là sinh ngữ chính. Jason
đáp:
– Tôi không
nhớ bác sĩ là người thứ mấy đã hỏi tôi câu này; nhưng tôi nhớ, khi
tình hữu nghị giữa Nga Sô và chúng tôi còn khắng khít, Nga Sô đã cho
chính phủ của chúng tôi vay một món nợ lớn. Nước chúng tôi đông dân
nhưng nghèo, trả nợ không nổi. Ðến lúc tình hữu nghị giữa hai quốc
gia rạn nứt, Nga Sô đòi nợ gắt gao quá, chính phủ của chúng tôi ra
lệnh mọi tầng lớp nhân dân phải chia xẻ những khó khăn với quốc gia
bằng cách dồn tất cả nỗ lực để tăng gia sản xuất, lấy gạo và ngũ cốc
trả nợ cho Nga. Nhưng trở ngại lớn của chúng tôi là: Sau khi gieo mạ
và hạt giống, chim ăn hết. Thế là chính phủ ra lệnh giết tất cả chim
chóc để hoa màu không bị hao hụt.
Bảo Trân ngạc nhiên:
– Làm sao có thể giết hết được tất cả chim
chóc?
– Chim
muông cũng có linh tính và tiếng nói riêng. Vì vậy, sau vài đợt bị
lùng giết, lũ chim rủ nhau bay đi, không bao giờ trở lại!
Bảo Trân chưa kịp nói chi thêm thì từ các
máy khuyếch đại âm thanh đặt quanh tàu vang lên lời nhắn của
director Charles: “Thưa quý bà, quý ông! Du thuyền của chúng tôi sẽ
dừng lại trong vài phút nữa. Quý vị nào đã ghi tên tham dự cuộc du
ngoạn vào sông Daning, xin chuẩn bị để thuyền máy đưa quý vị đi.”
Chiếc thuyền máy có cửa kính bao quanh rời
sông Dương Tử để tiến vào nhánh sông Daning đầy đá cuội. Dọc theo bờ
sông Daning, nơi những vùng đất chài cũng như trên triền núi cao,
Bảo Trân chỉ thấy những mảnh vườn tàn úa, như là vết tích của mùa
Ðông. Những người đang làm vườn hoặc làm rẫy trên cao hay những
người ngồi giặt quần áo ven sông, vội dừng tay, nhìn đoàn thuyền máy
với nét mặt và ánh mắt tràn đầy ước mơ.
Càng xa dòng Dương Tử bao nhiêu màu nước
càng trong trẻo và đáy sông càng lộ rõ bấy nhiêu. Ðá cuội dọc bờ
sông trở nên nhẵn và láng thêm. Trên những phiến đá cuội đó, những
đôi chân trần khẳng khiu của mấy em bé và của vài thanh niên, ngang
người chỉ quấn một mảnh khố, cố chạy theo chiếc thuyền máy để bán
những cái chuông nhỏ bằng đồng, được chạm trổ chữ Nho và hình tượng
các vị Bồ Tát hoặc bán những cây gậy bằng gỗ được uốn cong một đầu
và cũng được chạm trổ rất công phu.
Thấy mấy em bé trai đen đủi cùng mấy cậu
thanh niên vấn khố, Bảo Trân chạnh nhớ đến vùng trời mờ sương bên
quê nhà; nơi đó đàn ông Thượng cũng vận khố, phụ nữ Thượng để ngực
trần, mặc váy, và đeo những vòng xoắn bằng đồng nơi cổ, nơi chân và
hai trái tai được căng rộng ra. Họ thường đi từng nhóm nhỏ. Ngày còn
bé, Bảo Trân thích nhìn dáng họ chập chờn trong ánh nắng chiều, bên
những đồi trà xanh biếc của ông bà Ngoại. Cũng có lúc họ đem măng
hoặc ngũ cốc đến nhà đổi muối. Ngoại không đổi, bảo người giúp việc
lấy muối đem cho họ. Khi nào cũng vậy, nhận được chén muối họ cười
hớn hở, để lộ hai hàm răng đã bị cà thấp xuống, rồi họ líu lo một
thứ ngôn ngữ không thể nào Bảo Trân hiểu được.
Nụ cười của người Thượng ngày đó và nụ
cười của những người vận khố nơi đây – sau khi bán được món hàng –
đều đượm nét ngây ngô, mộc mạc mà người thị thành không làm sao có
được.
Gió lùa mây
thật thấp. Dòng sông trở nên hẹp và cạn dần. Thuyền tắt máy để vài
thanh niên lực lưỡng dùng sào chống. Mạn thuyền cạ lên đá cuội, âm
thanh nghe không êm ả tý nào cả. Bảo Trân thấy, từ trên mấy đỉnh
núi, nhiều chú khỉ đang xôn xao, có vẻ huyên náo lắm. Giữa lúc Bảo
Trân chưa hiểu dịch vụ du lịch đưa du khách vào đến cuối dòng Daning
để làm gì thì nghe giọng Jason:
– Những gia đình giàu mới có tiền chôn
người thân trên đó.
Từ nãy giờ chỉ để tâm ngắm cảnh lạ, Bảo
Trân không để ý đến lời dẫn giải của Jason. Bây giờ nghe ba tiếng
“chôn trên đó”, Bảo Trân ngạc nhiên, vội nhìn theo hướng ngón tay
trỏ của Jason và thấy, gần những đỉnh núi cheo leo – nơi những
khoảng núi bị lỡ, lộ ra màu đất đỏ hoặc vàng sậm – là những cửa hang
nho nhỏ; trong hang là quan tài của người chết. Bảo Trân tò mò hỏi:
– Jason! Làm thế nào họ có thể đưa quan
tài lên đến đó để chuyền vào hang?
– Ðưa quan tài lên đến đỉnh núi rất khó
khăn. Nhưng họ trả tiền hậu hỷ thì cũng có người làm. Lên đỉnh rồi,
họ sẽ thòng giây để chuyển quan tài vào hang.
– Sau đó hang có được đóng cửa hoặc lấp
lại hay không?
–
Không.
Nhìn
quanh, thấy hầu như nơi mỗi chỗ núi lở đều được dùng làm nhà mồ
không cửa, Bảo Trân hỏi:
– Tại sao họ không tìm đất để chôn mà lại
lập những nhà mồ trong lòng núi, không cửa?
– Vì càng lên cao càng nhiều đá, không có
đất.
– Thế sao họ
không chôn nơi những vùng thấp?
– Ðây là vùng núi đá. Những vùng thấp đất
rất hiếm, chỉ để trồng trọt.
– Tình trạng khai khẩn hiện nay đã khó
khăn như vậy, khi kế hoạch xây đập nước thực hiện xong, mực nước
dâng cao cả hơn trăm thước nữa thì người dân canh tác bằng cách nào
để sống?
– Ðó là
câu hỏi tôi không thể giải đáp được. Tôi nghĩ “Trời sinh trâu, sinh
cỏ.”
Nhìn ánh
hoàng hôn loang nhè nhẹ trong vùng không gian đìu hiu nơi chốn tận
cùng của một nhánh sông, Bảo Trân thầm nghĩ, đời sống của con người
nơi đầu nguồn thì tùy thuộc vào Trời; còn đời sống của những dân tộc
ở cuối nguồn tại sao lại tùy thuộc vào người láng giềng hung bạo/hẹp
hòi/ich kỷ, chỉ thích kiến tạo những đồ án vỹ đại để phô trương chứ
không nghĩ đến nỗi đau khổ của muôn người do sự thực hiện những đồ
án đó tạo nên?
Ý
nghĩ này, cách nay vài hôm, lúc viếng thăm Vạn Lý Trường Thành, cũng
đã thoáng qua trong hồn Bảo Trân. Khi cùng Phong bước nhanh lên
nhiều bậc cấp của một trong những kỳ quan của thế giới, lòng Bảo
Trân chỉ nghĩ đến sự chia xa/niềm đau thương/nỗi thống khổ cùng
máu/mồ hôi/nước mắt của hằng vạn người đã quyện vào với vôi, với cát
khi thực hiện kiến trúc vĩ đại này. Mỗi khi dừng lại nơi tháp canh
nghỉ mệt, trong sự buốt lạnh của từng cơn gió lùa vào, Bảo Trân
tưởng như nàng có thể nghe được tiếng oán than của những oan hồn đã
bỏ thây vì sự hình thành của kỳ quan này!
Ðang quan sát và suy nghĩ vẩn vơ, Bảo Trân
chợt cảm biết chiếc thuyền máy đã ủi bãi và một số ít du khách đang
lên bờ.
Bờ – cũng
là điểm tận cùng của dòng Daning – chỉ là một vùng đất đá bị nước
xoi mòn, rơi khỏi triền núi. Theo thời gian, đất đỏ bị nước cuốn đi;
sự di động liên tục của nước đã dũa mòn những góc cạnh của đá để
ngày nay Bảo Trân thích thú nghe âm vang của những viên đá cuội rạt
rào dưới mỗi bước chân.
Hoàng hôn phủ kín cả vùng không gian đậm
đặc hơi nước. Bảo Trân thấy triền núi dọc hai bên bờ sông đã trở
thành màu xanh thẫm; trên nền xanh thẫm đó, những màn sương mỏng
chờn vờn trông như những áng mây, và ánh đèn leo lét phía xa trông
như những vì sao lạc. Nơi đỉnh núi cao, ánh trăng len lén xuyên qua
những áng mây mờ. Bất chợt Bảo Trân cất tiếng hát nho nhỏ, vừa đủ
cho Phong nghe:
“Qua
những mùa trăng dáng em theo thời gian.
Nhẹ
lướt mơ hồ khi vàng úa trăng tàn.
Sông nước
mịt mùng xóa mờ một kiếp tha phương giang hồ.
Lệ tràn lên mi tình trong giấc mơ...”
(2)
Phong lắng nghe, lòng thầm tiếc là chàng
đã mất Bảo Trân suốt thời gian dài cho nên khoảng đời trai trẻ Phong
đã không có được những giây phút lãng mạn/tình tứ/đầm ấm như thế
này. Bất ngờ giọng Bảo Trân vút cao:
“... Ðêm nay ánh trăng ngà lả lơi,
trải trên cây rừng nhớ thương.
Dưới ánh
trăng u huyền thông mơ reo...”
Bảo Trân nhấn giọng ở chữ “lả” và chữ
“trải” rồi chữ “nhớ” rơi vào note Si bémol của tình khúc
được viết cung Ré Majeur khiến người nghe cảm nhận được tất
cả niềm xót xa/nỗi u hoài!
Sau khi Bảo Trân ngưng hát, Phong đọc khẽ
hai câu thơ vừa mới lướt qua trong hồn chàng:
– Anh nghe em hát, lòng xao xuyến. Trong
cõi hồn em, anh ước mơ.
(3)
Bảo Trân im lặng, cố nén sự giao động bồi
hồi từ trái tim đa cảm của nàng. Phong nhìn Bảo Trân bằng ánh mắt
chan chứa yêu thương.
Cũng với ánh mắt tràn đầy yêu thương đó,
tối đến, trong lúc say mê theo dõi chương trình nhạc cổ truyền tại
The Tang Dynasty, Phong cũng xoay nhìn Bảo Trân, khi đoàn nữ nhạc
công sử dụng nhạc cụ xưa để cùng tấu lên những hợp khúc cổ điển của
nền âm nhạc Trung Hoa.
Khi Phong và Bảo Trân trở lại du thuyền
Royal, ánh trăng đã khuất, máy tàu đã im; nhưng tiếng sáo Pai Xiao
vẫn như còn vương vấn trong sự trầm mặc của muôn loài.
Trong sự trầm mặc đó, mạch nước từ những
dòng suối vẫn âm thầm tìm về đây, cùng nương nhau vượt Three Gorges
Dam đang xây để không còn bị gò bó theo những dãy núi đá – mà sẽ
được trải mình trong những cánh đồng xanh ngát dừa nước và mạ non.
Chiếc Royal đến Three Gorges Dam khi những
hạt sương mai trên cành lá trở nên long lanh dưới những tia nắng đầu
ngày. Công tác đắp đập đã thực hiện được hơn 2/3 bề ngang của dòng
sông cho nên nước chảy siết/cuồn cuộn/xoáy sâu, tạo cảm giác bất an
cho những du khách nhát gan. Người Trung Hoa rất hãnh diện vì đập
nước này sẽ là một trong những đập nước lớn nhất thế giới. Nhưng Bảo
Trân không hiểu người Trung Hoa sẽ nghĩ gì khi những dân tộc ở cuối
nguồn, từ thế hệ này đến thế hệ khác, sẽ ta thán vì mạch sống cứ cạn
dần; và nước mặn từ biển sẽ xâm lấn vùng đất trồng hoa màu?
Qua khỏi đập nước, lưu lượng của dòng sông
trở nên dịu dàng, đằm thắm giữa những khu vực đông đúc dân cư. Bất
ngờ Bảo Trân nghe huyên náo cả vùng và rồi, cùng một lúc, hằng triệu
triệu tấn khối nước từ Three Gorges Dam tràn về. Trong âm thanh
cuồng nộ của nước, Bảo Trân nghe không biết bao nhiêu tiếng kêu gào
thảm khốc. Dù hạm trưởng vận dụng tất cả khả năng để cố đưa chiếc
Royal xuôi theo con nước, tránh rơi vào vùng nước xoáy, Bảo Trân
cũng vẫn nghe được tiếng cửa kính vỡ cùng với tiếng kẽo kẹt của thân
tàu. Nước sông dâng nhanh một cách đáng sợ. Từ phòng ăn, Phong hối
hả đưa Bảo Trân về phòng và dặn:
– Em ở trong này, không đi đâu hết. Anh ra
ngoài xem có ai bị thương, cần cứu cấp chi không, tý anh trở vào
hoặc nhờ người vào thăm chừng em.
Không đợi Bảo Trân đáp, Phong bước ra
ngay. Phong vừa xoay lại đóng cánh cửa xong, tấm kính nơi khung cửa
sổ vỡ tan. Nước bắn vào phòng. Trong nỗi hoang mang tột cùng, Bảo
Trân nghe tiếng director Charles từ máy khuyếch đại âm thanh: “Tất
cả mọi người chú ý! Chiếc du thuyền của chúng ta không thể tiếp tục
chịu đựng cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Chúng tôi buộc lòng phải tấp
thuyền vào một eo núi. Sau khi thuyền tấp vào, bằng mọi phương tiện,
tất cả chúng ta phải rời thuyền ngay lập tức!” Nghe xong, Bảo Trân
gập người xuống, nước mắt chan hòa với nước sông, lòng quặn thắt
nghĩ đến các con. Ngày trước, những lúc bị đời lừa đảo, vùi dập hay
những lúc buồn/cô đơn/chán nản, Bảo Trân thường nghĩ đến cái chết
như là một lối thoát. Nhưng bây giờ cận kề với cái chết, Bảo Trân
lại hãi sợ, lại muốn được sống để về gặp lại các con.
Ðang hướng tâm về Phật Bà Quan Thế Âm với
lời cầu nguyện chân thành nhất, Bảo Trân bỗng giật mình kinh sợ vì
sự xô lệch/chồng chềnh của đồ vật trong phòng. Vừa lúc ấy, Phong
xuất hiện, vội vã kéo Bảo Trân ra ngoài. Nhiều âm thanh lạ vang lên
rất lớn khi thân tàu vặn mình, cố trườn lên khóm đá. Mọi người xô
đẩy nhau rời tàu.
Phong đưa Bảo Trân núp gió bên hốc đá đen
đủi. Bảo Trân hơi bớt sợ. Một lúc sau, nhìn quanh, Bảo Trân thấy
director Charles đang đi tìm để đếm và ghi tên từng du khách. Bỗng
Bảo Trân để ý và không hiểu tại sao vị thuyền trưởng và một người
đàn ông lạ lại tiến về phía nàng và Phong một cách vội vã.
Sau khi bắt tay Phong và hỏi thăm tình
trạng sức khỏe của Phong và Bảo Trân, vị thuyền trưởng nhìn Phong:
– Thưa bác sĩ, cuối đoạn sông này có một
trường tiểu học. Cơn nước lũ vừa rồi khiến nhiều em học sinh bị nước
cuốn đi và nhiều em bị thương. Ðây là ông hiệu trưởng ngôi trường
đó. Ông đến đây kêu cứu, vì ông nghĩ rằng trên du thuyền của chúng
ta có thuốc và dụng cụ y tế. Jason cho biết ông là bác sĩ cho nên
chúng tôi mừng quá, vội đến nhờ. Mong bác sĩ giúp cho.
Phong nhận lời ngay. Bảo Trân tình nguyện
theo giúp nhưng Phong trấn an:
– Anh đi vì bổn phận của người thầy thuốc.
Anh không muốn em tháp tùng vì anh không biết tình trạng nơi anh sắp
đến như thế nào. Em ở đây cơ quan du lịch sẽ tận dụng mọi phương
tiện để đưa du khách về nơi an toàn. Còn anh, một mình anh, anh dễ
xoay trở. Em hiểu ý anh chứ?
Bảo Trân ủ rũ nhìn chiếc thuyền nan đưa
Phong xuôi theo dòng nước cho đến khi chiếc thuyền chỉ còn là một
chấm nhỏ tý ty trong vùng nước mênh mông.
Vẫn trong trạng thái bất an, Bảo Trân thầm
mong chấm nhỏ tý ty ấy xuất hiện để rồi lớn dần, lớn dần trong tầm
mắt nàng. Nhưng hai buổi chiều rồi, chiếc thuyền nan vẫn chưa trở
lại!
Hôm nay cơ
quan du lịch mới tìm được phương vị của chiếc Royal và đoàn du
khách. Ðây là chuyến trực thăng cuối cùng di chuyển du khách khỏi
vùng này. Director Charles cố thuyết phục Bảo Trân một lần nữa:
– Chúng tôi hứa sáng mai công việc tìm
kiếm bác sĩ sẽ được tiếp tục. Vậy xin bà yên tâm, theo chúng tôi đi
về.
– Cảm ơn ông.
Nhưng tôi xin được ở lại đây đợi Phong trở lại hay là cho đến lúc
các ông tìm được Phong.
– Tôi rất tiếc là sự việc đã xảy ra ngoài
ý muốn như thế này. Nhưng bà ở lại đây cũng không thể thay đổi được
sự việc; thế thì tại sao bà phải tự hành hạ bà? Thôi, bà đi về với
chúng tôi. Sáng mai trực thăng lại sẽ tiếp tục tìm kiếm bác sĩ, như
hai ngày qua chúng tôi đã thực hiện.
– Tôi muốn được yên tịnh một mình. Các ông
về đi.
Chiếc trực
thăng nâng thân hình lên rồi lượn vòng gộp đá như có ý chào giã biệt
Bảo Trân. Chiếc trực thăng vút lên cao trong khi Bảo Trân từ từ gục
xuống vì gió, và vì đau khổ!
Còn lại một mình, Bảo Trân đâm ra hối tiếc
vì chút đạo lý mà nàng đã không dám sống theo đà lòng của mình; nàng
đã đạo đức giả, đã cao thượng không đúng lúc, đã hy sinh không phải
cách cho nên không dám đáp ứng mối tình nồng thắm của Phong...
Trong khi Bảo Trân bị niềm ân hận và nỗi
đau xót dày vò để tự trách mình thì, tự dưng, theo từng cơn gió
lạnh, tiếng hát nức nở của Richard Marx vang lên: “Oceans apart day
after day, and I slowly go insane. I hear your voice on the line.
But it doesn’t stop the pain. If I see you next to never, how can we
say forever. Wherever you go, whatever you do, l’ll be right here
waiting for you. What ever it takes, or how my heart breaks, I’ll be
right here waiting for you...” Bảo Trân nhìn quanh như tìm kiếm; vì
nàng nghĩ đó là tiếng hát của Phong.
Không thấy ai cả, nước mắt của Bảo Trân
tuôn tràn! Bất chợt Bảo Trân cảm biết như có người đang nhìn lén
nàng từ phiến đá bên trái. Bảo Trân xoay nhìn về hướng ấy và nhận ra
đó là thanh niên ngoại quốc ngồi cạnh nàng trên chuyến bay của Hàng
Không Việt Nam từ Đà Lạt về Nha Trang!
Bảo Trân bẽn lẽn mỉm cười, đưa ngón tay
quẹt những giọt nước mắt còn ấm. Thanh niên cũng mỉm cười thân thiện
rồi trao nàng vài tờ kleenex. Bảo Trân nhỏ nhẹ cảm ơn.
Bảo Trân dùng kleenex chậm nước mắt rồi
lại nghiêng một bên má sát vào khung kính cửa sổ phi cơ. Xuyên qua
từng áng mây bàng bạc, Bảo Trân thấy những lượn sóng trắng xóa di
động chầm chậm trên vùng biển lặng. Bảo Trân thở dài, chợt nghĩ đến
hai câu thơ mà – trong giấc mơ của nàng – Phong đã đọc trên du
thuyền Royal; có điều Bảo Trân đổi chủ từ cho hợp với tâm trạng của
nàng:
Em nhìn
xa vắng, ngàn thương nhớ.
Anh đã xa rồi,
anh biết không? (4)
ĐIỆP MỸ LINH
https://www.diepmylinh.com
(1)
(3) (4)
– Trong tập thơ Nửa Đời Thương
Đau của Hoàng Vũ Bảo.
(2)
– Trăng Lạnh của cụ Ðiệp Linh
Nguyễn Văn Ngữ.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Những Tác phẩm của Tác giả đăng trong website này
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu,
May 22, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang