Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang
Sách–Báo
Chủ đề:
Giới thiệu Thi phẩm
nhân Ngày QL–19T6/2023
Tác giả:
Điệp Mỹ Linh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
L.G.T.– Thi phẩm Tiếng Chim Bên Dòng Thác
Champy của Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn được ra mắt tại Houston,
năm 1992, sau khi Ông được cộng sản Việt Nam (csVN) trả tư do ––
nhờ sự vận động của tập thể người Việt Quốc Gia và sự can thiệp
rất tích cực của chính phủ Úc Đại Lợi.
Hôm ra mắt sách, Điệp Mỹ Linh là người
duy nhất giới thiệu thi phẩm này. Bây giờ, Điệp Mỹ Linh yêu cầu
Ban Biên Tập phổ biến lại bài giới thiệu này –– sau khi hiệu đính
–– để mừng Thượng Thọ cựu Phục Quốc Quân Võ Đại Tôn.
–ĐMY
Điệp Mỹ Linh xin trân trọng kính chào quý vị quan khách.
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn
Ban Tổ Chức đã dành cho tôi vinh dự được giới thiệu thi phẩm
Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy. Tiếp đến, tôi xin chân thành cảm
ơn quý vị quan khách đã hiện diện kín cả hội trường để chào mừng
một Phục Quốc Quân đã trở về từ ngục tù csVN.
Kính thưa quý vị, thời gian gần đây,
nhiều ngòi bút trong tập thể người Việt tị nạn đã tốn không biết
bao nhiêu giấy mực để viết/ca ngợi và “đánh bóng” hai nhân vật
của “phía bên kia”. Hai nhân vật đó là Bùi Tín và Dương Thu
Hương. Tôi sẽ không phê phán bất cứ điều gì về Bùi Tín và Dương
Thu Hương; tôi chỉ xin thưa với quý vị rằng những ngòi bút thuộc
“phía bên này” đã thực hiện rõ nét câu “Bụt nhà không thiêng”.
Thật vậy, trong cộng đồng người Việt tị
nạn, biết bao nhiêu người đã thật sự dấn thân cho đại cuộc, tại
sao không ai khuyến khích mà chỉ tìm cách bôi bẩn? Trong tập thể
cựu quân nhân mới sang Hoa Kỳ theo diện H.O. đã có biết bao nhiêu
người –– ngày 30/04/1975 –– quyết tâm ở lại Việt Nam với mục đích
làm được chút gì để giành lại Quê Hương. Cũng có nhiều người trốn
ra ngoại quốc tị nạn cộng sản từ năm 1975, cuộc sống gia đình tạm
ổn định, nhưng họ lại âm thầm thành lập hoặc gia nhập các tổ chức
Phục Quốc để trở về Việt Nam, quyết chống lại sự cai trị tàn
ác/đầy man rợ của csVN; để rồi, chính họ bị csVN bắt/giết/nhốt
tù/hành hạ, v.v. mà còn bị “phe mình” “nặng lời”!
Giữa lúc tôi cứ buồn buồn và bị ray rứt
về phản ứng của một số người Việt tị nạn đối với Bùi Tín, Dương
Thu Hương và quý vị “phe mình” thì tôi được tin cựu Đại tá Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH) Võ Đại Tôn đã được csVN trả tự do và trở về
Úc Đại Lợi ngày 11/12/1991.
Ông Võ Đại Tôn được đồng bào Việt Nam
tại Úc Đại Lợi tưng bừng tiếp đón. Cùng chia xẻ niềm vui với mọi
người, tôi tự mãn: Ít ra “phe mình” cũng có một người được đón
tiếp một cách trịnh trọng và nồng nhiệt như thế.
Sự đón tiếp nồng nhiệt của tập thể
người Việt tị nạn tại Úc Đại Lợi dành cho ông Võ Đại Tôn đã nói
lên tất cả lòng thương yêu, sự quý trọng của họ đối với một người
đã thật sự làm chấn động dư luận thế giới trong cuộc họp báo ––
do csVN tổ chức, được trực tiếp truyền thanh và truyền hình, ngày
13/07/1982 –– tại Hà Nội.
Trong cuộc họp báo đó, ông Võ Đại Tôn
đã dùng mắt để âm thầm chuyển tín hiệu (morse) cho thế giới hiểu
rằng: Ông –– cũng như tất cả tù nhân chính trị cùng chí hướng với
Ông –– đều bị csVN hành hạ rất dã man và buộc tội đã được Hoa Kỳ
yểm trợ để trở về Việt Nam chống phá “nhà nước”.
Xuất xứ, ông Võ Đại Tôn là một sĩ quan
Quân Lực VNCH và cũng là một cá nhân trong tập thể tị nạn chúng
ta. Nhưng, ông Võ Đại Tôn đã không chấp nhận làm thân tị nạn như
chúng ta. Ông đã cùng một số thanh niên Việt Nam có chí lớn, âm
thầm trở về Việt Nam, quyết giải phóng Quê Hương khỏi sự cai trị
đầy sắt máu của csVN!
Ông Võ Đại Tôn cùng các chiến hữu bị
csVN bắt tại biên giới Lào–Việt!
Đây không phải là lần đầu tiên tôi đề
cập đến nhân vật Võ Đại Tôn. Trong lần phát biểu cảm tưởng về
Người Lính VNCH nhân kỷ niệm ngày Quân Lực VNCH, 19/06/1986,
trước một cử tọa chọn lọc, với sự tham dự của cựu Trung tướng
Vĩnh Lộc –– nguyên Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của Quân Lực
VNCH –– tôi đã nói: “Quân Lực VNCH sẽ không còn được nhắc nhở
nhiều nếu không có một Võ Đại Tôn làm chấn động dư luận thế giới
vì tấm lòng tha thiết với non sông...” Bây giờ, sáu năm sau, nơi
đây, tôi không đủ ngôn từ để nói đến cái Dũng và Trí của Người
Hùng Võ Đại Tôn mà tôi chỉ xin phép được đề cập đến tâm hồn lãng
mạn, rất nghệ sĩ của nhà thơ Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn.
Từ lâu, cả thế giới và tập thể tị nạn
chúng ta nhìn ông Võ Đại Tôn dưới hình ảnh một chiến sĩ đầy quả
cảm. Sau khi ông Võ Đại Tôn được csVN trả tự do chúng ta mới ngạc
nhiên khi được biết rằng từ chốn tận cùng của khổ nhục/từ những
rung động thầm kín của trái tim/từ những khắc khoải thâu đêm của
một tâm hồn rất nhạy cảm, hồn của dũng sĩ Võ Đại Tôn đã sáng tạo
những vần thơ ướt lệ không thua gì một nhà thơ đã thành danh.
Đúng như Novalis đã nói: “Poetry heals the wounds inflicted by
reason”.
Kính
thưa quý vị, thi sĩ ẩn núp bên trong người võ biền Võ Đại Tôn là
nhà thơ Hoàng Phong Linh. Thi phẩm tôi muốn giới thiệu đến quý vị
hôm nay là Tiếng Chim Bên Dòng Thác Champy, do nhà xuất bản Bất
Khuất ấn hành, dày 119 trang, gồm 34 bài thơ, viết theo đủ thể
loại.
Mở đầu,
Hoàng Phong Linh trang trọng tưởng niệm phục quốc quân Vũ Hoài ––
người đã tử trận khi xảy ra cuộc giao tranh đầu tiên giữa Phục
Quốc Quân và csVN, tại biên giới Lào–Việt. Trang Thay Lời Tựa,
tác giả Hoàng Phong Linh gửi gấm: “... Xin mời các bạn đi vào thơ
tôi với chút niềm cảm thông suy lắng, chút ngậm ngùi bâng khuâng.
Xin đừng phũ phàng đạp mạnh, trời Thơ động vỡ hồn tôi.”
Nếu quý vị đọc xong tập thơ, quý vị sẽ
nhận ra lời nhắn gửi của Hoàng Phong Linh chỉ là sự khiêm nhường.
Để dành những giây phút thích thú cho
quý vị khi quý vị thưởng thức những dòng thơ ướt lệ, nơi đây, tôi
sẽ không phân tích, mà tôi chỉ xin trình bày một cách sơ lược để
quý vị có một khái niệm tổng quát về toàn thể tập thơ.
Bài thơ đầu tiên, Tiếng Chim Bên Dòng
Thác Champy, được tác giả chọn làm tựa đề cho thi tập. Ngay những
dòng đầu, tác giả đã vẽ ra một cuộc chia ly vĩnh viễn đầy tức
tưởi và đớn đau giữa tác giả và phục quốc quân Vũ Hoài:
Em cứ nằm yên đấy,
Bên dòng thác Champy
Con đường chúng ta
đi,
Đã vô cùng gian khổ.
Dăm mảnh đá xanh rêu thành nấm mộ,
Anh
đắp lên cùng với cả tình anh.
Em đã đi
qua bao thác bao ghềnh.
Đường về quê nay
trở thành tử lộ...
Qua những câu thơ vừa dẫn, nếu không
thấy những dòng tác giả đề tặng cố phục quốc quân Vũ Hoài, độc
giả cũng vẫn cảm nhận được nỗi đau của một người khi thấy chiến
hữu của mình gục ngã. Nỗi đau ấy giẵm nát hồn người ở lại. Từ nỗi
đau thương quằn quại đó, tâm hồn nghệ sĩ trong người võ biền Võ
Đại Tôn vươn lên để thi vị hóa một cảnh đời nghiệt ngã:
Rồi từ đấy, trong rừng vắng từng đêm
Hay mỗi sáng sương mờ ôm đỉnh núi,
Trên
cành vắt mình qua khe suối
Con chim buồn
đứng hót tiếng cô đơn!
Câu “Con chim buồn đứng hót tiếng cô
đơn” chính là tiếng than thầm ông Võ Đại Tôn muốn gửi theo người
hùng Vũ Hoài, và, đồng thời, cũng là lời tự hứa của tác giả đối
với chiến hữu bạc mệnh để tiếp nối đoạn đường gian khổ, với mục
đích thực hiện hoài bão giải phóng Quê Hương khỏi ách bạo tàn của
csVN. Nhưng, oái ăm thay:
Đường quê hương, anh ngã ngựa không
ngờ,
Trong phút chốc trở thành tên chiến
bại.
Em là chim trên ghềnh xa hót mãi.
Anh là chim trong bốn vách tù cao...
Tiểu sử của nhà thơ Hoàng Phong Linh Võ
Đại Tôn in đậm nét ở giai đoạn này. Trên thi đàn Việt Nam, không
phải chỉ có một Hoàng Phong Linh vừa là chiến sĩ, vừa là thi sĩ;
cũng không phải chỉ có Hoàng Phong Linh mới sáng tác thơ trong
tù. Nhưng, quả thật, trong những nhà thơ Việt Nam, chỉ có một nhà
thơ Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn mới rời xa gia đình/lìa bỏ cuộc
sống đầy tiện nghi và điều kiện tự do sáng tác tại hải ngoại để
trở về giành lại vùng trời xưa yêu dấu!
Khi thất bại, Hoàng Phong Linh cũng
không hề nao núng, cũng vẫn là “chim trong bốn vách tù cao.” Tôi
nghĩ câu này biểu lộ sự cao ngạo, ngang tàng của một chiến sĩ và
thể hiện rõ nét cái “ngông” rất dễ thương của một nghệ sĩ. Và câu
thơ này của Hoàng Phong Linh khiến tôi nhớ đến câu “My head is
bloody but unbowed” của William Ernest Henley.
Suốt tập thơ hơn 30 bài, độc giả sẽ bắt
gặp rất nhiều câu hùng tráng. Nhưng, như tôi đã thưa ở đoạn trên,
tôi chỉ xin đi vào thế giới tình cảm/thế giới lãng mạn của một
dũng sĩ mà thôi. Với mục đích đó, mời quý vị đọc những vần thơ
sau đây:
Ánh
trăng soi vằng vặc.
Dòng tơ trời lung
linh,
Xuyên qua song cửa sắt,
Vào thăm ta tự tình...
Tuy không thấy tác giả dùng từ ngữ “cô
đơn” hay “buồn”, nhưng hình ảnh vầng trăng là gì, nếu không phải
là biểu hiệu cho sự cô lẻ/đơn độc? Song cửa sắt là gì nếu không
phải là biểu tượng của chốn lao tù? Khi người đọc vừa cảm nhận
được nỗi quạnh quẽ của người tù biệt giam thì:
... Trăng nhìn ta hiu hắt.
Ta nhìn trăng tái tê.
Trong gió mùa đông
bắc,
Kẻng thù nghe lê thê.
Người tù mở rộng tâm tư để đón nhận ân
sủng của thiên nhiên thì tiếng kẻng nhà tù vang lên, đưa người tù
trở về thực tại. Trong cõi quạnh hiu này, âm vang tiếng kẻng nghe
đồng vọng xa xôi khiến tâm hồn của người tù cảm thấy não nùng khi
nghĩ đến chuỗi ngày dài vô vọng của mình!
Nhà tù có thể giam giữ thân xác, nhưng
nhà tù không thể giam giữ được tâm hồn và sự suy nghĩ của ai cả;
nhờ vậy, tâm hồn của nhà thơ Hoàng Phong Linh mới vượt khỏi/vút
cao/tìm về dĩ vãng êm mơ với những dòng thơ ngọt ngào trong bài
Paris, Em:
Giọt lệ buồn bên tháp Eiffel
Trời mù
sương hay nước mắt em,
Nhỏ xuống hồn ta
thành mộng mị.
Sầu thương tím ngắt một
dòng Seine...
Trong những dòng kế tiếp, chúng ta bắt gặp nỗi nhớ mênh mang của
thi sĩ hướng về buổi chia xa nào đó mà lòng thi sĩ không thể nào
quên lãng. Vì không quên được, thi sĩ đành nhắn nhủ người xưa:
... Ta vẫn tìm em qua dáng mộng.
Thuyền xưa về lại bến tình sông.
Hãy giữ
cho ta dòng lệ ấm,
Cho dù trời lạnh mấy
mùa đông!
Có
ai nghĩ đến người xưa mà lòng không trĩu nặng u hoài? Hoàng Phong
Linh cũng vậy. Nhưng, khi đang đắm hồn trong niềm thương/nỗi nhớ,
Hoàng Phong Linh chợt nhận ra thực trạng của chính mình, rồi tự
thán:
... Xin
tạ từ màu mắt của em xanh,
Trong hồn ta
trái mộng đã rơi cành!...
Mặc dù đã có nàng thơ bầu bạn, Hoàng
Phong Linh cũng không thể nguôi sầu; vì Hoàng Phong Linh là phần
hồn của một dũng sĩ. Mà, dũng sĩ có nguôi sầu được không khi quê
hương còn lầm than/bạn hữu còn khổ nhục trong vòng lao lý và đồng
bào đang quằn quại dưới sự thống trị đầy sắt máu của csVN? Vì
không thể nguôi sầu, dũng sĩ Võ Đại Tôn lại “mượn” thơ để nói lên
nỗi niềm của chính Ông:
Đêm nghe vẳng tiếng còi tàu
Xuôi Nam hay ngược hướng nào, về đâu?
Xin ngừng cho nhắn đôi câu,
Nếu toa còn
trống, chở sầu dùm ta!
Sau những lúc bi lụy vì tình cảm chi
phối, Hoàng Phong Linh lại trở về với bản tính bất khuất/đầy khí
phách của một sĩ quan Quân Lực VNCH:
Ban ngày dù cá chậu
Ban đêm vẫn đại bàng.
Giữa buồng giam ta
cất tiếng cười vang!
Từ thái độ trầm tĩnh và lời xác quyết
dứt khoát trong lần họp báo quốc tế do csVN tổ chức cho đến thái
độ cao ngạo lúc sống trong tù của Võ Đại Tôn, chúng ta thấy rằng
Võ Đại Tôn là một người trước sau như một; lúc nào cũng sống hiên
ngang và chấp nhận hoàn cảnh để mưu đồ việc lớn. Đó là nhân sinh
quan của kẻ sĩ.
Trong bài Lời Viết Cho Con, Hoàng Phong
Linh Võ Đại Tôn cũng truyền đạt đến người con trai duy nhất của
Ông tinh thần dũng cảm của một kẻ sĩ:
... Chí kình ngư trong bốn bể mênh
mông,
Không thể sống cùng sông ngòi
phẳng lặng.
Cánh đại bàng vỗ tung trời
hoa nắng,
Không chập chờn cùng chim sẻ
quanh sân.
Trong một môi trường mà ai cũng nặng lòng mong cho con có được
mảnh bằng bác sĩ hoặc luật sư, có việc làm tốt/lương cao/nhà
lớn/xe đắt tiền, v.v. thì những lời thơ của Hoàng Phong Linh viết
cho con trai có bị xem là “lập dị” hay không?
Thưa không! Đó là tinh thần kẻ sĩ Đông
Phương mà nền giáo dục Hoa Kỳ chưa bao giờ đưa vào học đường.
Dù là một người có chí lớn, đầy nghị
lực để chấp nhận gian khổ, nhục nhằn, đôi khi tâm hồn của Hoàng
Phong Linh cũng yếu mềm, thấy mình bất lực trước nỗi điêu linh
của dân tộc! Những lúc ấy, tác giả phải nương vào sự huyền nhiệm
của đấng thiêng liêng để tâm hồn được lắng đọng:
Và đêm nay
Trong âm thầm ngục tối
Con lạc loài như
một ánh sao sa!
Lạy Mẹ Maria,
Hồn con dâng tiếng khóc,
Quê hương con
là ngục tù tang tóc,
Bao năm rồi dòng
máu chảy trong đêm.
Đường Thánh Giá sao
cứ mãi dài thêm,
Đời khổ nhục, đá cũng
tan thành lệ!
Là một người ngoại đạo, nhưng với tôi, những dòng trích dẫn ở
đoạn trên là những dòng thơ hàm xúc nhất, tạo được cảm nhận sâu
xa nhất giữa tác giả và người đọc.
Bằng những dòng thơ bình dị, không làm
dáng và ý thơ đậm đà cùng lối gieo vần nhẹ nhàng, Hoàng Phong
Linh đã trải rộng nỗi lòng của Ông với Quê Hương/với đồng đội/với
gia đình. Ông cũng dành cho vợ trái tim nồng ấm và truyền cho con
ý chí bất khuất. Và, trên tất cả mọi điều, Hoàng Phong Linh cho
người đọc thấy rõ sự vi diệu của niềm tin.
Tôi nghĩ, chỉ với hơn 100 trang giấy mà
Hoàng Phong Linh đã giàn trải được tất cả nỗi niềm của Ông thì
quả là tuyệt vời!
Xin độc giả đón nhận thi phẩm
Tiếng
Chim Bên Dòng Thác Champy của nhà thơ Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn
với tất cả nhiệt tình như quý vị đã hân hoan đón mừng người hùng
Võ Đại Tôn sau khi Ông trở về từ ngục sâu.
Trước khi dứt lời, tôi xin cảm ơn ban
tổ chức. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn quý vị quan khách đã lắng
nghe./.
Điệp Mỹ Linh
https://www.diepmylinh.com
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Điệp Mỹ Linh chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu,
June 16, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang