Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Trang Sưu tầm
Chủ đề: Đấu tranh Bất Bạo Động
Tác giả: Gene Sharp
Chuyển ngữ: NGUYỄN VĂN THÁI, Ph.D.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Sau
đây là những trích đoạn nhằm mục đích làm sáng tỏ các quan niệm Đại
Chiến Lược, Chiến Lược, Chiến Thuật, và Phương Pháp của Đấu Tranh
Bất Bạo Động (ĐTBBĐ). Những đoạn văn không liên hệ đến những quan
niệm này đã được bỏ qua. Do đó, có nhiều chỗ mạch văn không liên
tục.
Chiến lược
và những chiến thuật chiến tranh đã từng được hoạch định và học hỏi
một cách cẩn thận, và đã có nhiều nỗ lực quan trọng nhằm đưa ra một
lý thuyết cơ bản. Các châm ngôn, các lề luật và các hệ thống điều
động chiến tranh đã từng được soạn thảo để đáp ứng một “yêu cầu khẩn
trương.” Trong lãnh vực hoạt động bất bạo động thì đến nay vẫn chưa
có những phát triển tương đương. Gandhi đã có những nỗ lực có chủ ý
quan trọng hơn cả trong việc hoạch định chiến lược và các chiến
thuật trong kỹ thuật đấu tranh này. Tuy vậy, ông ta không phải là
một nhà phân tích và cũng không phải là một lý thuyết gia; do đó,
mặc dù ông đã đóng góp trong lãnh vực thực hành và trong những nhận
xét khái lược của ông, công việc phân tích và hoạch định chiến lược
và các chiến thuật đã phải để lại cho người khác thực hiện. Chỉ mới
gần đây người ta mới trở nên lưu ý đến những khó khăn và những khả
năng của chiến lược và các chiến thuật trong đấu tranh bất bạo động
chống lại những nhà độc tài quốc nội và những kẻ xâm lược có thể có.
Cần phải lưu ý đến cả lãnh vực rộng lớn của chiến lược và các chiến
thuật lẫn những khó khăn cụ thể có thể xảy ra khi đối mặt với đối
phương và khi tranh thủ các mục tiêu.
Chiến lược và các chiến thuật dĩ nhiên
mang nhiều hình thái khác nhau và hiện hữu ở những mức độ khác nhau
trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, chúng đặc biệt quan
trọng trong hoạt động quân sự và hoạt động bất bạo động; cả hai đều
là những kỹ thuật mà theo đó những xung khắc xã hội và chính trị
được phát động khi những xung khắc này đã phát triển đến độ cần phải
đấu tranh công khai và cần phải đọ sức. Hình như có một vài điểm mà
những soi sáng của chiến lược quân sự có thể ứng dụng được vào chiến
lược bất bạo động; và cũng có những điểm mà những soi sáng về quân
sự không nên ứng dụng, bởi vì bản chất cũng như những động cơ của
hai kỹ thuật đấu tranh hoàn toàn khác biệt. Đoạn này do đó không chỉ
thuần mô tả hay phân tích những nhận định hiện có về chiến lược
trong hoạt động bất bạo động mà còn bàn đến việc du nhập những
nguyên tắc quân sự vào nơi nào hợp lý đối với kỹ thuật bất bạo động,
và nơi nào mà các nguồn tài liệu quân sự rõ ràng và sáng sủa hơn là
những nhận định của những nhà hoạt động bất bạo động.
Sau đây là một vài định nghĩa ngắn gọn của
những từ căn bản về chiến lược:
Đại chiến lược là một quan niệm rộng lớn
nhất dùng để phối trí và điều hướng tất cả những tài nguyên của nhóm
đấu tranh nhằm đạt những mục tiêu của cuộc xung đột.
Chiến lược, một từ hạn hẹp hơn, là kế
hoạch hành động bao quát cho cuộc đấu tranh toàn bộ, bao gồm việc
tạo ra một hoàn cảnh thuận lợi, quyết định khi nào phải đánh, hoạch
định kế hoạch bao quát cho việc thi hành những hoạt động cụ thể khác
nhau trong cuộc xung đột tổng quát.
Những chiến thuật là những kế hoạch cho
những xung đột giới hạn hơn bên trong kế hoạch chiến lược đã lựa
chọn.
1.
Sự quan trọng của chiến lược và các chiến thuật
Chiến lược cũng quan trọng trong hoạt động
bất bạo động cũng như trong hoạt động quân sự. Dù các nguyên tắc và
quan điểm quân sự không thể tự động được ứng dụng vào lãnh vực hoạt
động bất bạo động, nhưng sự quan trọng căn bản của chiến lược và các
chiến thuật cũng không hề bị suy giảm đi chút nào. Do đó cần phải
lưu ý đến những nguyên tắc chiến lược và các chiến thuật tổng quát
thích hợp với kỹ thuật này (cả những nguyên tắc đặc thù của kỹ thuật
này lẫn những nguyên tắc có thể ứng dụng từ chiến lược quân sự và từ
những loại xung đột khác). Những khía cạnh này cần phải được xét
định, dĩ nhiên là, trong bối cảnh của những động lực đặc thù và
những cơ cấu đấu tranh bất bạo động.
Những người được đào tạo về quân sự sẽ lấy
làm lạ khi thấy những người cổ võ những phương tiện đấu tranh bất
bạo động lại nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến lược và chiến thuật.
Và những người có quá trình bất bạo động theo khuynh hướng tôn giáo
và triết học cũng có thể ngạc nhiên khi thấy chiến lược và chiến
thuật được đặt nặng thay vì những nguyên tắc đạo đức và lương tri.
Do đó cần thảo luận qua về chức năng của chiến lược và các chiến
thuật trong hoạt động bất bạo động.
Muốn tác động lên hậu quả của cuộc đấu
tranh thì cần phải khôn ngoan lựa chọn phương thức hành động và tiến
hành một cách cẩn thận và sáng suốt. Chỉ nói là mình chính đáng và
làm điều đúng thì thật không đủ, bởi vì có thể có nhiều phương thức
hành động “đúng” theo quan điểm đạo đức; điều “đúng” có thể bao gồm
việc duy trì hay là tạo ra một đối lực cực mạnh chống lại cái “ác”
và nếu vậy thì vấn đề là làm thế nào để thực hiện điều này; để đáp
ứng trách nhiệm đạo đức và gia tăng tối đa hiệu quả của hành động
của mình, những hành động này phải được lựa chọn một cách cẩn thận
và thực hiện đúng thời điểm. Các nhà chuyên môn nghiên cứu và chỉ
đạo chiến tranh đã học được từ lâu là những kết quả tốt đẹp nhất gặt
hái được không phải chỉ vì do một sự bộc phát vũ lực thiếu kiểm soát
và do hy sinh. Như Liddell Hart đã từng nói: “...việc chỉ đạo chiến
tranh cần phải được kiểm soát bởi lý trí nếu muốn đạt được mục
tiêu... Chiến lược càng tốt thì càng dễ chiếm thế thượng phong, và
càng ít bị tổn thất.” Cũng như trong chiến tranh, chiến lược và các
chiến thuật được sử dụng trong hoạt động bất bạo động để sự can đảm,
sự hy sinh, số lượng người và vân vân của những nhà hoạt động bất
bạo động có thể gây được tác dụng lớn lao nhất.
Phương thức đấu tranh có thể mang nhiều
hình thức khác nhau, tùy vào các chiến lược, chiến thuật, và những
phương pháp lựa chọn để đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của hoàn
cảnh. Những hành động cụ thể như phản kháng, bất hợp tác, và can
thiệp của tiến trình chiến dịch bất bạo động sẽ có hiệu quả nhất nếu
những hành động này ăn khớp với nhau như là những bộ phận của một
tổng thể toàn bộ, để mỗi hành động cụ thể đóng góp tối đa vào sự
phát triển và thành quả của cuộc đấu tranh. Do đó sự phối hợp thuận
lợi tối đa cho những hoạt động sẽ đạt được ở nơi nào mà các nhà lãnh
đạo phong trào với sự hiểu biết đầy đủ về tình hình và kỹ thuật có
thể vạch ra được hướng đi cho các chiến dịch. “Chỉ có vị tướng chỉ
huy chiến trận mới có thể biết được mục tiêu của từng nước đi một,”
Gandhi viết. Gandhi đã chọn chủ điểm đấu tranh, nơi chốn, thời điểm
và phương pháp hành động hết sức cẩn thận, để cho phong trào của ông
được đặt vào vị thế mạnh nhất có thể có đối với người Anh, và để cho
chính những hành động chuyển đạt đến đồng bào người Ấn của ông một
sự hiểu biết rõ ràng nhất và kích động được thiện cảm tối đa và hậu
thuẫn của mọi người. Cũng như chiến lược quan trọng trong những cuộc
đình công lao động, thì nó cũng quan trọng đối với các loại đấu
tranh bất bạo động phức tạp hơn — và còn quan trọng hơn nhiều, khi
cuộc đấu tranh là để chống lại những nền độc tài quá khích.
Có đầy đủ chứng cớ lịch sử về sự quan
trọng của chiến lược và các chiến thuật. Đôi khi các chứng cớ này có
tính tiêu cực, cho thấy hậu quả của sự thiếu vắng chiến lược hoặc
không đưa ra những quyết định quan trọng đối với những vấn đề chiến
lược và chiến thuật. Đôi khi những vấn đề khó khăn xảy ra trong tiến
trình của những xung khắc đã có thể tránh được hoặc giải quyết một
cách thoả đáng hơn nếu trước đó người ta hiểu biết hơn về vai trò và
các nguyên tắc đấu tranh bất bạo động. Có nhiều trường hợp khác, các
chiến dịch bất bạo động vẫn cứ tiếp diễn sau thời điểm mà hầu như
tất cả những mục tiêu và yêu sách đều đã có thể đạt được — nhiều hơn
rất nhiều, so với trường hợp những xung đột quân sự; những biến cố
sau đó, do đó, sẽ dẫn đến sự thất bại của phong trào. Hay là trong
những trường hợp khác phong trào bất bạo động tự xem mình đã thất
bại mặc dù theo những tiêu chuẩn bình thường thì phong trào thực sự
đang thắng; kết quả là hành động bất bạo động sau đó sẽ được thay
thế bằng hành động quân sự được tin là có hiệu quả hơn. Những cuộc
đấu tranh của người Mỹ chống lại chính quyền Anh có thể được diễn
giải không có gì khó khăn theo chiều hướng này. Rất nhiều soi sáng
sẽ được chiếu rọi vào những vấn đề và những nguyên tắc tổng quát của
chiến lược bất bạo động, nếu thực hiện được những phân tách cẩn thận
về chiến lược và chiến thuật của một số cuộc đấu tranh bất bạo động.
Việc nhóm khiếu nại chấp nhận chiến lược cho cuộc đấu tranh cũng rất
quan trọng; trong trường hợp nước Phần Lan năm 1901, sự bất đồng ý
kiến về việc làm thế nào để đối phó với đối phương hình như đã làm
nổi bật một cách trầm trọng sự xung khắc nội bộ đang xảy ra.
2. Một vài yếu tố then chốt trong
chiến lược và các chiến thuật bất bạo động
Mặc dù tương đối không có những phân tách
chiến lược về những cuộc đấu tranh bất bạo động trong quá khứ và
thiếu những nghiên cứu có hệ thống về những nguyên tắc căn bản của
chiến lược bất bạo động, ta vẫn có thể liệt kê ra được một số nguyên
tắc khá rõ ràng mang những hình thái cụ thể trong một số cuộc đấu
tranh. Clausewitz viết là trong trường hợp chiến tranh thì dễ đưa ra
một lý thuyết về các chiến thuật hơn là về chiến lược. Cả hai loại
lý thuyết đều rất khó trong hành động bất bạo động, và bảng liệt kê
các nguyên tắc cung ứng ở đây hẳn là thiếu sót và chỉ có tính cách
tạm thời.
Gián
tiếp tiếp cận sức mạnh đối phương. Kỹ thuật hành động bất bạo động
có thể được xem như là một sự phát triển cùng cực của phương thức
“gián tiếp tiếp cận” chiến lược quân sự như Liddell Hart đã vạch ra,
và đã được thảo luận trước đây trong chương này.
Liddell lý luận là chiến lược trực tiếp sẽ
làm vững chãi sức mạnh của đối phương, còn phương thức gián tiếp thì
về mặt quân sự có cơ sở hơn; thường đem lại hiệu quả khi mà kế hoạch
hành động có tính “gián tiếp để chắc chắn là đối phương không sẵn
sàng để chống lại.” Do đó, thay vì tấn công trực tiếp vào những vị
trí mạnh của đối phương, Liddell nhấn mạnh vào sự quan trọng của các
yếu tố tâm lý; mục đích của chiến lược lúc đó trở thành “làm suy
giảm khả năng đối kháng...” “Gây bất ổn” cho kẻ thù, ông khẳng
quyết, là thiết yếu cho việc tạo điều kiện để thắng lợi, và việc gây
rối này phải được tiếp theo bằng “khai thác” cơ hội do vị thế bất ổn
đó tạo ra. Do đó “vô hiệu hóa đối lực bằng cách làm tê liệt khả năng
chống đối” và làm cho kẻ thù phải “làm một điều gì sai lầm” trở nên
quan trọng. Những nguyên tắc tổng quát này đều có thể áp dụng được
vào việc dùng hành động bất bạo động để chống lại một đối thủ sử
dụng phương tiện quân sự, để cho những phương tiện hành động của đối
phương luôn luôn bị chọi lại một cách gián tiếp và sức mạnh đàn áp
của ông ta sẽ dội ngược trở lại chính ông theo lối nhu thuật chính
trị. Sau cùng, chính những nguồn sức mạnh của ông ta sẽ bị cắt giảm
và loại bỏ mà không cần phải được trực tiếp đối đầu bằng cùng những
phương tiện đấu tranh...
Thiết kế chiến lược
Việc thiết kế ngắn hạn, hay chiến thuật
từng xảy ra trong những cuộc xung đột trong quá khứ mà trong đó
những phương pháp bất bạo động được sử dụng tỏ ra là hữu ích và đã
đóng góp vào việc hoàn thành những cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên,
thiết kế chiến lược dài hạn cho cuộc đấu tranh toàn bộ có thêm những
lợi điểm riêng biệt, giúp cho nhóm đấu tranh bất bạo động có thể
tính toán những phương cách hữu hiệu nhất để dẹp bỏ áp bức, để thẩm
định khi nào là lúc hoàn cảnh chính trị và tâm lý quần chúng đã chín
muồi để hành động, và để chọn lựa làm thế nào để khởi động chiến
dịch bất bạo động và làm thế nào để phát triển chiến dịch khi chiến
dịch đang tiến hành, trong lúc đang đối đầu với đàn áp và những biện
pháp phản công khác của đối phương.
Thiết kế chiến lược cũng làm cho nhóm đấu
tranh bất bạo động có khả năng trở nên mạnh hơn vì kế hoạch biết
được dự tính sẽ tiến đến đâu và vì kế hoạch biết được những khó
khăn, những diễn biến, và những phản ứng mà những người đối kháng có
thể phải đối đầu.
Mục đích càng quan trọng, hoặc là những
hậu quả của thất bại càng trầm trọng, thì việc lập kế hoạch càng trở
nên quan yếu. Thiết kế chiến lược gia tăng khả năng những nguồn lực
có sẵn sẽ được sử dụng hữu hiệu hơn cả. Điều này đặc biệt quan trọng
đối với một phong trào có một mục tiêu cao quý nhưng những tài
nguyên vật chất giới hạn và trong phong trào này những người ủng hộ
gặp nguy hiểm trong thời gian xung đột. Trái lại, đối phương thường
có được những nguồn tài nguyên vật chất lớn lao, sức mạnh tổ chức,
và khả năng áp dụng bạo tàn.
Việc sử dụng chiến lược được biết đến
nhiều hơn cả trong chiến tranh quân sự. Đã bao thế kỷ nay, những sĩ
quan quân đội đã từng dấn thân vào việc thiết kế chiến lược cho
những chiến dịch quân sự. Những nhà tư tưởng quan trọng như Tuân Tử,
Carl von Clausewitz, và Ngài Basil Liddell Hart đã từng phân tách và
tinh lọc chiến lược quân sự quy ước. Mao Trạch Đông và Ernesto “Che”
Guevara, trong số những người khác, cũng đã cố làm như vậy đối với
chiến tranh du kích. Trong cả chiến tranh quân sự quy ước lẫn trong
chiến tranh du kích, sử dụng chiến lược tân kỳ là yêu cầu cơ bản của
thành công.
Cũng
như đấu tranh quân sự hữu hiệu đòi hỏi những chiến lược khôn ngoan,
lập kế hoạch cho đấu tranh bất bạo động, và thực hiện kế hoạch này
sẽ hữu hiệu hơn cả khi cuộc đấu tranh cũng vận hành trên cơ sở thiết
kế chiến lược sâu sắc. Tuy nhiên, việc thiết lập và áp dụng chiến
lược trong những cuộc đấu tranh bất bạo động tầm cỡ phức tạp hơn là
trong những cuộc đấu tranh quân sự. Trong những cuộc đấu tranh bất
bạo động lớn, toàn thể dân chúng và nhiều cơ chế tổ chức trong xã
hội đều có tiềm năng trở thành người đấu tranh, chứ không đơn giản
chỉ là các lực lượng quân đội mà thôi. Để có thể làm cho tất cả
những người này và các cơ chế được hữu hiệu nhất, đòi hỏi phải có
những chiến lược có khả năng.
Những sức mạnh tuyệt đối và tương đối của
đối phương và của nhóm đấu tranh bất bạo động có thể biến đổi rất
nhiều và thay đổi nhanh chóng trong thời gian cuộc đấu tranh đang
tiến hành. Những hành động và hành vi của nhóm đấu tranh bất bạo
động có thể có những hiệu quả bất ngờ, vượt quá thời gian và không
gian của những hành động và hành vi này. Những thay đổi về sức mạnh
của những nhóm tranh chấp này có thể cực độ trong những cuộc đấu
tranh bất bạo động hơn là những thay đổi trong những xung đột bằng
vũ lực. Do đó, cần phải hết sức cẩn thận trong việc chọn lựa ngay cả
những hành động có giới hạn và trong hành vi của những người đối
kháng trong cuộc đấu tranh.
Các cấp chiến lược
Trong khi thiết lập một kế hoạch chiến
lược, người ta phải hiểu là có bốn cấp chiến lược [2]. Đại chiến
lược và chiến lược đã được giới thiệu rất ngắn gọn trước đây. Tuy
nhiên, ở đây, cần phải khai triển có chiều sâu hơn. Ở cấp căn bản
nhất là đại chiến lược. Rồi đến chiến lược, tiếp đến là các chiến
thuật và các phương pháp.
Đại chiến lược có thể được gọi là quan
niệm chủ đạo cho việc điều hành cuộc đấu tranh. Đó là ý niệm rộng
lớn nhất dùng để phối hợp và điều động tất cả những nguồn lực của
nhóm đấu tranh đi đến việc đạt những mục tiêu của cuộc đấu tranh.
Chiến lược rất giống đại chiến lược, nhưng
được áp dụng cho những giai đoạn có giới hạn hơn của toàn bộ cuộc
đấu tranh, như cho những chiến dịch có những mục tiêu nhất định.
Chiến lược gồm có việc phác họa ra một hoàn cảnh thuận lợi, quyết
định khi nào thì chiến đấu, và một mô hình bao quát cho những đụng
độ nhỏ hơn trong khuôn khổ chiến lược đã được chấp thuận.
Chiến thuật nói đến những kế hoạch để xúc
tiến những giao chiến còn giới hạn hơn nữa trong chiến lược đã được
lựa chọn — giới hạn về tầm cỡ, về số người tham gia, về thời gian,
hoặc về vấn đề nào đó. Chiến thuật nói đến cách làm thế nào một nhóm
có thể áp dụng những phương pháp được nhóm chọn lựa và hành động
trong một cuộc đụng độ nào đó với đối phương.
Phương pháp trong đấu tranh bất bạo động
là nhiều hình thái hành động cá biệt, như là làm rào cản, tẩy chay
xã hội, những cuộc tẩy chay của giới tiêu thụ, những vụ tổng đình
công, bất tuân dân sự, biểu-tình-ngồi, và lập chính phủ song hành,
như đã liệt kê ở Chương Bốn. Trong số những nhân tố cần duyệt xét
trong việc tuyển chọn các phương pháp là phương thức tạo thay đổi
(cải hoá, thích nghi, cưỡng ép bất bạo động, hoặc phân hủy), mức độ
những người đối kháng kiểm soát được những nguồn sức mạnh của đối
phương, và tình huống, các ưu điểm, các nhược điểm, và các nguồn sức
mạnh của những người đối kháng.
Nếu bất cứ một cấp nào trong bốn cấp chiến
lược này được nhận thức hoặc thiết kế một cách không hoàn chỉnh, hay
ngay cả thiếu vắng, thì toàn bộ cuộc đấu tranh bất bạo động sẽ bị
suy yếu đi một cách trầm trọng. Không có một kiến thức về toàn cảnh,
người ta có thể lơ là trong việc chuẩn bị, hay là không thể thực
hiện được, những nước bước đi đến việc tranh thủ các mục tiêu đã đề
ra.
Sự chọn lựa
đại chiến lược, việc thực thi các chiến lược, chiến thuật và các
phương pháp cần sử dụng phải quyết định hướng đi tổng quát và cách
điều hành của cuộc đấu tranh suốt tiến trình của cuộc xung đột. Bốn
cấp chiến lược này sẽ được bàn đến đầy đủ hơn nhiều trong chương
tới.
Muốn thực
thi một chiến lược thì cần phải có những sinh hoạt hỗ trợ cẩn thận.
Những sinh hoạt này đòi hỏi phải có thiết kế và nhiều chuẩn bị.
Những sinh hoạt này là những công tác hậu cần. Công tác hậu cần bao
gồm một loạt những sinh hoạt hỗ trợ chi tiết cần cho việc điều hành
của một cuộc đấu tranh, như là sự sắp đặt về tài chánh, chuyên chở,
thông tin, và tiếp liệu.
Các Cấp Chiến Lược
Một khi đã có kiến thức thu lượm được từ
phỏng định chiến lược và những mục tiêu của nhóm đấu tranh bất bạo
động sẵn trong đầu óc, thì quan niệm rộng lớn về cách làm thế nào để
xúc tiến cuộc đấu tranh và làm thế nào để đạt được các mục tiêu là
gì? Thực hiện quyết định này đòi hỏi — ngoài những chuyện khác — xác
định phương thức tạo thay đổi dự tính, được tin cậy trong đấu tranh
bất bạo động, và quyết định là cần phải có một hay nhiều chiến dịch.
Đây là lãnh vực của suy tư chiến lược.
Một chiến lược là một quan niệm về cách
làm sao để hành động tốt nhất để đạt được những mục tiêu trong một
cuộc xung đột. Chiến lược lưu tâm đến vấn đề có nên chiến đấu hay
không, chiến đấu khi nào, và chiến đấu như thế nào, và làm thế nào
để đạt được hiệu quả tối đa hầu tranh thủ được những mục đích nào
đó. Chiến lược là kế hoạch phân phối, thích nghi, và áp dụng những
phương tiện có sẵn để tranh thủ những mục tiêu mong muốn.
Như đã thảo luận trước đây, có bốn cấp độ
chiến lược: đại chiến lược, chiến lược, chiến thuật, và phương pháp
[4]. Căn bản nhất là đại chiến lược. Rồi đến chiến lược cho những
chiến dịch có giới hạn, tiếp theo đó là các chiến thuật và những
phương pháp được sử dụng để thực thi các chiến lược. Khẩn thiết cần
phải thông hiểu bốn yếu tố này, và những khác biệt giữa những yếu tố
đó, nếu chúng ta muốn thiết kế những chiến lược cho một cuộc đấu
tranh nào đó.
Dĩ
nhiên là cần phải nhớ rằng không có một chiến lược duy nhất nào có
thể áp dụng được cho việc sử dụng đấu tranh bất bạo động trong tất
cả mọi trường hợp. Không thể có một khuôn mẫu duy nhất hoặc thiết kế
một mẫu để áp dụng cho mọi cuộc đấu tranh. Mỗi hoàn cảnh đều có phần
nào khác nhau, thường thì rất khác. Tuy nhiên, những chỉ dẫn tổng
quát vẫn có thể vạch ra được cho công việc thiết lập kế hoạch chiến
lược với điều kiện là cần lưu ý đến những nhân tố đã được thảo luận
trước đây. Những người lập kế hoạch đại chiến lược cho một cuộc đấu
tranh nào đó sẽ đòi hỏi phải có một sự thông hiểu sâu sắc, không
những chỉ về hoàn cảnh xung đột, mà còn về kỹ thuật đấu tranh bất
bạo động, và cả về những nguyên tắc chiến lược tổng quát nữa. Một số
nguyên tắc này sẽ được bàn đến ở Chương Ba Mươi Bảy.
Đại chiến lược
Đại chiến lược là ý niệm chủ đạo cho việc
điều hành cuộc đấu tranh. Một đại chiến lược là quan niệm dùng để
điều hợp và điều động tất cả những tài nguyên thích hợp và có sẵn
(kinh tế, nhân lực, và tinh thần, v.v.) của dân chúng hay của nhóm
để đạt những mục tiêu của mình trong một cuộc xung đột. Đó là một kế
hoạch tổng quát cho việc điều hành cuộc đấu tranh. Kế hoạch này cho
phép người ta biết trước là cuộc đấu tranh như là một toàn bộ cần
phải tiến hành như thế nào. Cuộc đấu tranh có thể đi đến chiến thắng
bằng cách nào? Làm sao để đạt được sự thay đổi mong muốn?
Đại chiến lược bao gồm việc xét định lẽ
phải của lý tưởng đấu tranh của nhóm đấu tranh bất bạo động, việc
đánh giá và sử dụng những áp lực và ảnh hưởng khác ngoài kỹ thuật
đấu tranh, và việc quyết định các điều kiện cho phép xúc tiến cuộc
đấu tranh công khai.
Đại chiến lược bao gồm, rất là quan trọng,
sự lựa chọn kỹ thuật đấu tranh, hay là biện pháp ngăn chặn tối hậu.
Biện pháp này sẽ được sử dụng như là một lợi thế phòng hờ trong
trường hợp có những đe dọa thực sự hay hiểu ngầm trong thời gian
thương thảo, và sau này được sử dụng trong cuộc đụng độ công khai
của các lực lượng, nếu điều này xảy ra. Trong trường hợp này, kỹ
thuật sử dụng là đấu tranh bất bạo động. Đại chiến lược được lựa
chọn cũng sẽ đưa ra khuôn mẫu cơ bản cho việc thiết lập các chiến
lược nhằm xúc tiến cuộc đấu tranh trong những chiến dịch có giới hạn
hơn, được điều động nhắm đến những mục tiêu nhất định.
Thêm nữa, đấu tranh bất bạo động đôi khi
có thể được hỗn hợp, trong đại chiến lược, cùng với việc sử dụng
những phương tiện khác không bạo động, và do đó không đe doạ sự vận
hành của kỹ thuật này. Tìm kiếm dữ kiện, quảng bá công khai, giáo
dục quần chúng, kêu gọi đối phương, và đôi khi thương thảo, cũng
như, trong một vài trường hợp, các chiến dịch đầu phiếu, có thể,
trong nhiều hoàn cảnh, được sử dụng cùng chung với đấu tranh bất bạo
động một cách rất có lợi. Những phương tiện này thường được sử dụng
song hành với các tẩy chay kinh tế và đình công lao động chẳng hạn.
Những vụ kiện và những hành động pháp lý khác có lúc cũng đã từng
được sử dụng để hỗ trợ đấu tranh bất bạo động, như vụ tẩy chay xe
buýt tại quận Montgomery, tiểu bang Alabama.
Đại chiến lược cũng bao gồm việc xét định
cuộc đấu tranh liên hệ như thế nào với việc đạt những mục tiêu mà
cuộc đấu tranh đã được tiến hành để tranh thủ. Dự phóng những hậu
quả lâu dài có thể xảy ra của cuộc đấu tranh cũng thuộc lãnh vực của
đại chiến lược.
Một đại chiến lược cho một cuộc đấu tranh bất bạo động tốt hơn là
nên bao gồm không những một sự chấm dứt điều bị phủ nhận mà còn phải
bao gồm việc thiết lập một điều gì mới để thay thế cho điều đã phủ
nhận. Ví dụ, một đại chiến lược chỉ giới hạn mục tiêu vào việc đánh
tan nền độc tài hiện hành mà thôi sẽ gặp phải sự nguy hiểm lớn lao
là sẽ sản xuất ra một nền độc tài mới. Một mục đích hay hơn có thể
sẽ thay đổi được hệ thống thống trị, đồng thời thiết lập được một hệ
thống chính trị tốt đẹp hơn có nhiều tự do hơn và nhiều sự kiểm soát
dân chủ hơn.
Đại
chiến lược được lựa chọn cần phải phác họa những đường nét chính về
việc nhóm đấu tranh bất bạo động phải điều hành cuộc đấu tranh như
thế nào. Điều này sẽ trải rộng từ hiện tại cho đến một hoàn cảnh
trong tương lai khi mà các mục tiêu đã đạt được. Những phương tiện
tổng quát tạo áp lực và hành động nào có thể được áp dụng vào nỗ lực
này? Mũi dùi chính của nhóm đấu tranh bất bạo động chống lại đối
phương sẽ là gì? Có phải áp lực được áp dụng sẽ tạo ra các tổn thất
về kinh tế hay không? Hay sẽ đánh sập chính danh tự tạo của đối
phương? Hay làm tê liệt kinh tế? Còn áp lực quốc tế thì sao? Có sử
dụng những áp lực khác không?
Câu hỏi sau đây rất quan trọng: Nhóm đấu
tranh bất bạo động có thể làm suy yếu hay cắt đi được hầu hết hay
tất cả các nguồn sức mạnh của đối phương hay không? Những nguồn sức
mạnh này gồm có uy quyền (hay chính danh), nhân lực, kỹ năng và kiến
thức, các nhân tố không nắm bắt được, vật lực, và các chế tài. Làm
suy yếu hay cắt bỏ được những nguồn sức mạnh này là thiết yếu cho
những cuộc đấu tranh chống lại những chế độ áp bức tàn bạo, và có
thể làm cho sức mạnh của những chế độ này sụp đổ.
Nếu những người đối kháng mạnh đủ, có đủ
số người tham gia, và tập trung bất hợp tác vào những nguồn sức mạnh
này, thì ngay cả một chế độ hết sức tàn ác cũng có thể có tiềm năng
bị làm suy yếu đi hoặc phân hủy. Cuộc đấu tranh Tháng Mười năm 2000
của người Serb là một thí dụ.
Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu của cuộc đấu
tranh, những nỗ lực nhằm vô hiệu hoá hoàn toàn hay cắt đi những
nguồn sức mạnh của đối phương khó mà nằm trong khả năng của nhóm đấu
tranh. Những kết quả của phỏng định chiến lược phải giúp quyết định
là nhóm có có khả năng áp dụng những áp lực đòi hỏi với một sức mạnh
đủ để thành công trong một chiến dịch duy nhất, hay là nhóm phải lập
kế hoạch cho một loạt nhiều chiến dịch có giới hạn hơn. Sự tính toán
này là một phần cần thiết của đại chiến lược, và sẽ được thảo luận
đầy đủ hơn ở Chương Ba Mươi Bảy.
Chiến lược
Những chiến lược cá biệt cho những chiến
dịch có những mục tiêu giới hạn hơn rất quan trọng. Những chiến lược
cho các chiến dịch hướng dẫn những cuộc đấu tranh cần phải được xúc
tiến như thế nào trong phạm vi của cuộc đấu tranh rộng lớn hơn và
của đại chiến lược. Những chiến lược giới hạn này phác họa những
phương cách các chiến dịch cụ thể sẽ phải phát triển như thế nào, và
các bộ phận riêng biệt của những chiến dịch này sẽ phải ăn khớp với
nhau như thế nào để đạt được các mục tiêu một cách tốt đẹp nhất.
Chiến lược cũng bao gồm việc phân công tác cho các nhóm và phân phối
tài nguyên cho họ sử dụng trong cuộc đấu tranh. Những chiến lược sâu
sắc của các chiến dịch giúp hướng dẫn cuộc đấu tranh lấy cái sườn
mẫu của đại chiến lược, đắp đầy cái sườn này thành một quan niệm bao
quát điều hướng tất cả mọi khía cạnh của cuộc đấu tranh.
Mặc dù liên hệ với nhau, việc thiết kế một
đại chiến lược và lập ra những chiến lược cho các chiến dịch là hai
tiến trình khác biệt. Chỉ sau khi đại chiến lược đã được quyết định
thì các chiến lược cho những chiến dịch mới được thiết lập một cách
đầy đủ. Những chiến lược cho các chiến dịch sẽ cần phải được thiết
kế nhằm tranh thủ và củng cố những mục tiêu đại chiến lược. Các nhân
tố trong việc thiết lập những chiến lược cho các chiến dịch bao gồm
việc tạo ra một hoàn cảnh thuận lợi, việc quyết định khi nào xúc
tiến một chiến dịch, và mô hình rộng lớn cho việc sử dụng những đụng
độ giới hạn trong phạm vi chiến lược được lựa chọn để đem lại thành
công.
Thường thì
những mục tiêu chiến lược cho các chiến dịch phải phản ánh những vấn
đề tranh chấp rộng lớn hay những khiếu nại đã được phác họa trong
đại chiến lược. Nếu cuộc xung đột phần lớn mang bản sắc kinh tế, và
một đại chiến lược đã được chuẩn y đòi hỏi chủ yếu phải sử dụng
những áp lực kinh tế, thì những chiến lược cho các chiến dịch được
tuyển chọn sẽ có chiều hướng tập trung hầu hết vào các mục tiêu kinh
tế hơn cả và sẽ áp dụng những áp lực như là những cuộc đình công lao
động hay là những vụ tẩy chay kinh tế. Tuy nhiên, nếu đại chiến lược
tập trung vào việc tranh thủ tự do chính trị, chống đối nền cai trị
độc tài, hay là ủng hộ tự do phát biểu, thì những chiến lược cho các
chiến dịch cá biệt có thể tập trung vào những diễn đạt cụ thể của
những vấn đề này, bằng cách sử dụng những phương pháp thích hợp như
là phân phối những tài liệu bị nghiêm cấm, thực thi quyền tự do ngôn
luận bị cấm đoán, hay sử dụng những phương pháp khác có thể làm nổi
bật bản chất cực đoan của nền cai trị chuyên chế hay của những vi
phạm nhân quyền hay các tự do dân sự.
Điều này không có ý muốn nói là chỉ có
những áp lực kinh tế mới nên được áp dụng trong những cuộc đấu tranh
về những vấn đề kinh tế, hay là chỉ những áp lực chính trị mới nên
áp dụng cho những cuộc đấu tranh nặng về chính trị. Bất hợp tác kinh
tế có thể hữu hiệu trong việc ép buộc phải có những thay đổi chính
sách chính trị, và trong một vài trường hợp, ngay cả thay đổi chế
độ. Mặc dù vậy, khi thiết kế các chiến lược cho những chiến dịch
giới hạn thì chọn lựa những vấn đề tranh chấp cụ thể và những mục
tiêu dễ được thừa nhận như là tiêu biểu cho sự khiếu nại tổng quát
đã được xác định trong đại chiến lược vẫn có lợi.
Chiến thuật
Chiến lược cho một chiến dịch có mục tiêu
giới hạn sẽ quyết định những kế hoạch “chiến thuật” nhỏ hơn và những
phương pháp hành động cụ thể nào cần phải được sử dụng để đeo đuổi
mục đích chính. Một chiến lược hay cũng sẽ bất lực trừ phi chiến
lược đó được thực thi bằng hành động với những chiến thuật có cơ sở.
Tuy nhiên, sự lựa chọn và thực thi khéo léo các chiến thuật sẽ không
bù đắp được cho một chiến lược mà nói chung là tồi tệ. Sự chọn lựa
các chiến thuật để thực thi một chiến lược có thể bao hàm việc xét
định các mặt trận, các nhóm, các thời điểm, và các phương pháp khác
nhau.
Một chiến
thuật là một kế hoạch hành động có giới hạn, dựa trên một quan niệm
là làm thế nào để, trong một giai đoạn giới hạn của cuộc đấu tranh,
sử dụng tốt nhất những phương tiện đấu tranh sẵn có hầu đạt một mục
tiêu giới hạn như là một phần của chiến lược rộng lớn hơn của một
chiến dịch. Để được hữu hiệu nhất, các chiến thuật và các phương
pháp phải được chọn và áp dụng như thế nào để chúng thực sự hỗ trợ
việc thực thi chiến lược và đóng góp vào việc đạt được các yêu cầu
đòi hỏi cho chiến lược được thành công.
Chiến thuật chỉ định những phương pháp nào
cần phải được áp dụng như thế nào và những nhóm người đối kháng nào
sẽ phải hành động trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Ví dụ, trong
một cuộc đình công lao động mà các công nhân xưởng đình công để
tranh đấu cho nghiệp đoàn được công nhận, để đòi tăng lương, hay đòi
những điều kiện làm việc tốt hơn, thì các chiến thuật cần bao gồm sự
chọn lựa thời điểm cho cuộc đình công, làm sao để công nhân được
thuyết phục tham gia vào cuộc đình công, hành động nào cần phải có
để làm nản chí những người bỏ hàng ngũ đình công, làm sao để những
người đình công có thể được hỗ trợ về kinh tế trong thời gian họ
không làm việc, những nỗ lực nào cần phải thực hiện để khuyến khích
cảm tình và hỗ trợ của dân chúng, và những tiếp xúc nào cần phải có
với các chủ nhân của xưởng.
Các chiến thuật do đó là những kế hoạch để
xúc tiến những đụng độ có giới hạn trong phạm vi chiến lược đã được
lựa chọn — giới hạn về tầm cỡ, về số người tham gia, về thời lượng,
hay là về vấn đề tranh chấp. Chiến thuật xác định rõ là nhóm đấu
tranh phải hành động như thế nào trong một cuộc đụng độ nhất định
nào đó với đối phương.
Một chiến thuật nằm gọn bên trong một
chiến lược của một chiến dịch, cũng như các chiến lược cho những
chiến dịch nằm gọn bên trong đại chiến lược. Mặc dù chiến lược còn
bao gồm những xét định rộng lớn hơn ngoài việc phải đấu tranh như
thế nào, nhưng chiến thuật luôn luôn quan tâm đến đấu tranh. Người
ta chỉ có thể hiểu được một chiến thuật trong tương quan với những
phương pháp mà chiến thuật đó sử dụng và như là một bộ phận của
chiến lược rộng lớn hơn của một chiến dịch.
Phương pháp
Muốn đạt được những kết quả tốt đẹp nhất
và việc thực thi các chiến lược đã được hoạch định một cách hữu hiệu
nhất, thì sự lựa chọn các “vũ khí” bất bạo động, hay là những phương
pháp cụ thể, sẽ cần phải được thực hiện một cách cẩn trọng và khôn
ngoan. Nhiều cuộc đấu tranh trong quá khứ đã được bắt đầu bằng sự
chọn lựa các phương pháp hành động cụ thể để sử dụng, thay vì bằng
sự thiết lập những kế hoạch dài hạn cho việc xúc tiến cuộc đấu
tranh. Chúng tôi không đề nghị làm như vậy. Ngược lại, trình tự khôn
ngoan hơn là thiết lập đại chiến lược trước tiên, rồi hoạch định
chiến lược cho một chiến dịch cá biệt. Chỉ lúc đó, những người lập
kế hoạch mới chọn lựa những chiến thuật và những phương pháp hành
động cụ thể thích hợp nhất. Những phương pháp sẵn có đã được liệt kê
ở Chương Bốn [5]. Ngoài ra còn có những phương pháp khác nữa.
Chúng ta cần nên duyệt lại những đặc tính
của ba loại phương pháp tổng quát đã được đề cập trước đây.
•Phản đối và thuyết phục: Những phương
pháp này gồm có những đêm không ngủ, diễn hành, các kiến nghị, làm
rào cản, và bãi công đột ngột. Những phương pháp này có những hiệu
quả phần lớn chỉ có tính biểu tượng và tạo một ý thức là có sự bất
đồng ý kiến.
•Bất
hợp tác: Những phương pháp này bao gồm những vụ tẩy chay xã hội, tẩy
chay kinh tế, những cuộc đình công lao động, và nhiều hình thái bất
hợp tác chính trị, bao gồm những vụ tẩy chay những chức vụ của chính
quyền, bất tuân dân sự, và nổi loạn. Những phương pháp bất bạo động,
nếu được áp dụng một cách phổ quát, thì có thể tạo những khó khăn
cho việc duy trì sự điều hành và hiệu năng bình thường của hệ thống
chính trị hoặc kinh tế của đối phương. Trong những trường hợp quá
khích, thì những phương pháp này có thể đe dọa sự tồn tại của chế
độ.
•Can thiệp:
Những phương pháp này bao gồm tuyệt thực, biểu-tình-ngồi, gây cản
trở bất bạo động, tạo ra hoặc tăng cường các cơ chế thay thế, và lập
chính quyền song hành. Những phương pháp này có những phẩm chất của
hai nhóm phương pháp trước đây, nhưng thêm vào đó có thể tạo ra một
thách thức trực tiếp hơn đối với chế độ của đối phương. Bằng cách
gây rối loạn đủ loại, những phương pháp này có thể — nhưng không bảo
đảm — sẽ tạo nên một tác dụng lớn hơn với số người tham gia ít hơn,
với điều kiện là can đảm và kỷ luật có thể duy trì được dù bị đàn
áp.
Trong nhiều
cuộc đấu tranh quan trọng, những phương pháp bất hợp tác đặc biệt
quan trọng bởi vì những phương pháp này có thể đe dọa khả năng vận
hành của hệ thống. Những phương pháp này đòi hỏi phải có kỹ năng
trong việc chọn lựa và áp dụng chúng. Lợi điểm của những phương pháp
bất hợp tác là, nếu được áp dụng trọn vẹn trong một thời gian lâu
đủ, thì chúng sẽ có tính cưỡng ép và ngay cả có thể phân hủy chế độ
của đối phương.
Những phương pháp bất hợp tác thường đòi hỏi nhiều thời gian và sự
tham gia của nhiều người mới tạo được tác dụng. Nhiều phương pháp
trong số những phương pháp can thiệp bất bạo động, trái lại, có thể
được áp dụng với một số người ít hơn. Tuy nhiên, những phương pháp
này thường đòi hỏi rất nhiều kỷ luật và chuẩn bị mới áp dụng thành
công được, và một số phương pháp này chỉ có thể áp dụng được trong
một thời gian có giới hạn mà thôi. Một vài trong số những phương
pháp can thiệp bất bạo động này còn có thể gặp phải sự đàn áp hết
sức khắc nghiệt nữa. Một vài phương pháp can thiệp bất bạo động, như
phương pháp chính quyền song hành chẳng hạn, đòi hỏi phải có sự ủng
hộ lớn lao.
Thường thường, các phương pháp áp dụng những áp lực khác nhau và sử
dụng những phương thức khác có thể được hỗn hợp với nhau một cách
hữu hiệu trong cùng một chiến dịch. Không thể đặt ra những luật ngắn
gọn được, nhưng những hỗn hợp hữu hiệu của những phương pháp đòi hỏi
phải có thiết kế chiến lược khôn ngoan.
Trong hầu hết các cuộc đấu tranh, người ta
sẽ sử dụng nhiều hơn là một phương pháp. Trong những trường hợp như
thế, thứ tự theo đó các phương pháp được áp dụng, những phương cách
theo đó các phương pháp được hỗn hợp với nhau, những phương pháp này
ảnh hưởng đến sự áp dụng những phương pháp khác như thế nào, và
những phương pháp này đóng góp vào cuộc đấu tranh như là một toàn bộ
như thế nào; tất cả đều trở nên rất quan trọng.
Đôi khi sự hỗn hợp các phương pháp tương
đối đơn giản, nhất là trong loại đấu tranh địa phương hay loại có
giới hạn. Những vụ tẩy chay kinh tế đã từng được sử dụng, chẳng hạn,
để hỗ trợ những cuộc biểu-tình-ngồi chống kỳ thị chủng tộc, và hàng
rào cản thường được sử dụng để hỗ trợ những cuộc đình công. Tuy
nhiên, khi một cuộc tổng đình công được sử dụng để ủng hộ hay chống
đối một vụ nổi loạn của quân đội chính quyền thì hoàn cảnh trở nên
phức tạp hơn, và nhiều phương pháp có thể được sử dụng.
Người nào lập kế hoạch cho đấu tranh bất
bạo động thì cần phải quen thuộc với tất cả những phương pháp đấu
tranh bất bạo động sẵn có để sẵn sàng áp dụng khi có thể được. Tác
dụng của các phương pháp khác nhau rất nhiều, dù cho những phương
pháp đó đã được áp dụng một cách sành sõi. Ví dụ, một vụ tuyệt thực
để phản đối do một nhân vật hết sức được trọng vọng thực hiện sẽ tạo
nên một hiệu quả rất khác với việc gây trở ngại hành chánh do công
chức thực hiện. Hiệu quả của vụ tuyệt thực hay gây trở ngại hành
chánh lại khác xa hiệu quả của một vụ tổng đình công trải rộng hay
của việc cảnh sát từ chối tìm và bắt những người đối kháng chính
trị. Cần phải chọn những phương pháp khác nhau cho những hoàn cảnh,
mục tiêu, và chiến lược khác nhau.
Chuyển ngữ: NGUYỄN VĂN THÁI, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư Thỉnh giảng -University of Pennsylvania, -St.
Joseph’s University, --Chestnut Hill College.
Người dịch chú thích:
[2]
Những định nghĩa này được Robert Helvey, Bruce Jenkins, và Gene
Sharp soạn thảo. Bản Ghi Nhớ Không Phát Hành, Viện Albert
Einstein.
[4]
Những định nghĩa này được Robert Helvey, Bruce Jenkins, và Gene
Sharp soạn thảo. Bản Ghi Nhớ Không Phát Hành, Viện Albert
Einstein
[5]
Muốn có định nghĩa đầy đủ về các phương pháp cùng với những thí
dụ lịch sử, xem Sharp, Chính Trị của Hành Động Bất Bạo Động, Phần
Hai, Những Phương Pháp Đấu Tranh Bất Bạo Động. Dĩ nhiên là còn có
nhiều phương pháp khác có sẵn hay sẽ được tạo nên.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Những
bài liên quan
Đấu tranh Vũ Trang hay Đấu tranh Bất Bạo Động?
Những Yếu tố căn bản trong Chiến
lược Bất Bạo Động
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
Mùa Chiến Sĩ Trậng Vong - 2018
|
Hình nền: Mùa CSTV-2018. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Liên Thành chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy,
May 26, 2018
Ban Kỹ Thuật Khóa
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang