Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Sưu tầm
Chủ đề: Chống Bạo quyền
Tác giả: GENE SHARP
Người dịch: Nguyễn văn Thái, Ph.D.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Mục
lục
Bài 1 - Con đường nào dẫn đến giải phóng?
Bài 2 - Những Yếu tố căn bản trong Chiến lược Bất Bạo Động
Bài 3 - Chọn lựa phương pháp
Bài 4 - Tiếp Thu Kiến Thức Mới
Bài 5 - Ba loại kiến thức
Bài 1
Con đường nào dẫn đến giải phóng?
Nhiều người đang sống tại những quốc
gia mà chính quyền bị xem là những nền độc tài, hay nói nhẹ hơn,
là những chế độ độc đoán. Thông thường thì đa số người dân tại
những quốc gia này thích chế độ áp bức của họ được thay thế bằng
một hệ thống chính trị dân chủ và tự do hơn. Nhưng làm thế nào để
đạt được điều này?
Các nền độc tài không phải là loại áp
bức chính duy nhất. Còn có các hệ thống áp bức về xã hội và kinh
tế nữa. Khi người ta muốn chấm dứt áp bức và đạt được những tự do
rộng lớn hơn và nhiều công bằng hơn thì có cách gì để thực hiện
điều này một cách thực tiễn, có hiệu năng, tự lực, và bằng những
phương tiện vững bền không?
Nhiều người đã tìm kiếm những giải đáp
cho các câu hỏi này và đã từngdấnthân hoạtđộngrất khó nhọc nhằm
đạt đến giải phóngcho kỳ được. Nhiều người khác lại cố gắng giúp
đỡ những kẻ bị áp bức chấm dứt sự nô thuộc của họ. Tuy nhiên,
không ai trong chúng ta có thể cho là mình đã cung cấp những giải
đáp thỏa đáng. Những thách đố này vẫn còn đó.
[1]
Trong những cuộc xung đột giữa một nền
độc tài, hay một sự áp bức nào đó, và dân chúng bị thống trị, thì
quần chúng cần phải quyết định là họ chỉ đơn thuần ước mong lên
án sự áp bức hay phản đối hệ thống mà thôi. Hay là, họ thực sự
muốn chấm dứt đàn áp, và thay vào đó một hệ thống có nhiều tự do,
dân chủ và công lý hơn?
Nhiều người có lòng tốt cho rằng nếu họ
cứ tố giác áp bức đủ mạnh, và phản đối đủ lâu thì sự thay đổi
mong ước thế nào rồi cũng xảy đến. Giả định này là một sai lầm.
Tìm kiếm một giải pháp tốt đẹp hơn thì
có nhiều nguy hiểm. Không phải mọi giải đáp đưa ra đều có giá trị
ngang nhau. Một vài “nhà cách mạng” tự phát, mặc dù hùng biện,
thường vẫn thiếu tin cậy người dân bị áp bức. Những “nhà cách
mạng này” tin rằng cơ chế thống trị chỉ có thể bị dẹp bỏ hoàn
toàn nếu những “vị bảo trợ” của chính phe nhóm họ, bằng cách nào
đó, giành được quyền quản trị guồng máy Nhà Nước, và rồi dùng
những hệ thống quản trị và đàn áp của guồng máy này để tái lập xã
hội, bất kể nguyện vọng của người dân –mà đáng lẽ ra là đã phải
được “giải phóng”– là gì.
Những vấn đề này đòi hỏi một sự
cân nhắc mới.
Vấn đề làm thế nào để dẹp bỏ các nền
độc tài đã được đề cập một cách tổng quát trong cuốn Từ Độc Tài
Đến Dân Chủ: Một Khung Ý Niệm Cho Giải Phóng
[2]
của tác giả.
Tuy vậy, cẩm nang lập kế hoạch chiến lược này có mục đích giới
hạn hơn. Nó chỉ nhằm giúp những ai muốn tự mình hoạch định một
đại chiến lược, hay một siêu kế hoạch, để đạt được giải phóng và
xây dựng một hệ thống dân chủ và tự do hơn. Hơn nữa, tài liệu này
không những chỉ thích hợp cho những người đối diện với các nền
độc tài quốc nội. Nó còn chủ ý muốn được hữu ích cho những người
đối diện với bất cứ loại áp bức nào khác nữa.
Tài liệu ngắn ngủi này không thể trình
bày đầy đủ và thấu đáo mọi kiến thức và ý tưởng cần cho một cuộc
đấu tranh giải phóng bất bạo động.
Do đó, rải rác trong bản văn này là
những tham chiếu các sách đã phát hành được chọn lọc đề cập đến
các chủ đề quan trọng đó. Tra cứu cẩn thận các sách chọn lọc này
theo trình tự đề nghị là một việc làm thiết yếu. Các sách này
chứa đựng nhiều sự thông hiểu, kiến thức, và nhận định hữu ích
cho việc soạn thảo các chiến lược giải phóng.
Để hiểu định nghĩa các từ chiến lược,
mời đọc: The Politics of Nonviolent Action, [Chính Trị của Hành
Động Bất Bạo Động], trang 492-496; Waging Nonviolent Struggle,
[Tiến Hành Cuộc Đấu Tranh Bất Bạo Đông], trang 445-446 và
456-467]; và The Politics of Nonviolent Action, [Chính Trị của
Hành Động Bất Bạo Động], trang 506-512. Số trang: 26.
CHÚ THÍCH: Muốn biết thông tin ấn hành
của những phần này và tất cả những trích đoạn về sau, mời xem
phần “Các sách đọc” ở cuối tài liệu này. Các ấn bản không kê tên
tác giả là của Gene Sharp.
Qua việc sử dụng cẩm nang lập kế hoạch
chiến lược này, hy vọng là các cuộc đấu tranh bất bạo động trong
tương lai nhằm dẹp bỏ áp bức có thể được thực hiện hiệu quả hơn
và ít tổn thất hơn.
Hiện nay những người đang sống dưới một
nền độc tài hay một sự áp bức khắc nghiệt nào khác có rất ít lựa
chọn thỏa đáng hầu làm thế nào để có thể tự giải phóng được.
Phổ thông đầu phiếu nhằm đem lại thay
đổi lớn đòi hỏi cho một xã hội dân chủ và tự do chính trị hơn thì
thường không có, hoặc bị gian lận, hoặc là kết quả bị thay đổi
hay lờ đi.
Nổi
loạn bạo động, bao gồm cả chiến tranh du kích và khủng bố, thường
đưa đến đàn áp thẳng tay, tổn thất nặng nề, thất bại, và, ngay cả
khi “thành công”, thường đưa đến một nền độc tài còn cường bạo
hơn nữa. Một cuộc đảo chánh thì thường thất bại, hoặc chỉ đưa
những cá nhân hay bè đảng vào những chức vụ cũ mà thôi.
Diễn biến tiệm tiến có thể mất hằng
thập kỷ, và có thể bị chặn đứng lại hay đảo ngược hướng đi, có
thể nhiều hơn là một lần.
Khi chiêm nghiệm làm thế nào để đạt
được giải phóng khỏi áp bức, không nên giả dụ là sẽ có cách thực
hiện điều này dễ dàng. Trái lại, lập kế hoạch và thực thi hành
động dẹp bỏ áp bức cho có hiệu quả là một điều luôn luôn cực kỳ
khó khăn. Hơn nữa, đạt được giải phóng mà không bị tổn thất là
một điều khó xảy ra. Nên nhớ rằng bất cứ nỗ lực nào bằng bất cứ
phương tiện nào nhằm loại bỏ một hệ thống áp bức cũng có thể sẽ
phải gặp sự đàn áp khắc nghiệt.
Khi đối diện với thực tế áp bức cùng
cực và có thể là sự đàn áp tàn nhẫn, thì rất thông thường các cá
nhân, các nhóm đối kháng, và hầu hết các chính quyền đều chỉ còn
trông cậy vào quân sự để giải quyết xung khắc. Điều này vẫn xảy
ra mặc dù bằng chứng cho thấy rất thường là hậu quả của các hình
thức xung đột bạo động thật là tang thương. Các chế độ áp bức
thường được trang bị đầy đủ để thực hiện đàn áp cực kỳ tàn bạo.
Đôi khi những người muốn có được tự do
nhiều hơn mất tin tưởng là họ có thể tự giải phóng được. Họ có
thể ngay cả đặt hy vọng vào sự can thiệp quân sự mạnh mẽ của
ngoại bang. Giải pháp này có những bất lợi trầm trọng:
Một chính quyền ngoại bang có thể dùng
chiêu bài độc tài ở một quốc gia khác như là cái cớ để can thiệp
quân sự nhưng thực sự là để nhắm đến các mục tiêu khác, ít cao
quý hơn.
Ngay
cả khi chính quyền quốc ngoại lúc ban đầu có những động lực vị
tha để can thiệp vào những trường hợp như thế, nhưng khi cuộc
xung đột bành trướng thì chính quyền can dự có thể sẽ khám phá ra
là những mục tiêu vị kỷ hơn đang trở nên mở rộng ra trước mắt họ.
Những mục tiêu này bao gồm việc kiểm soát các tài nguyên kinh tế
hoặc thiết lập các căn cứ quân sự.
Một chính quyền có đủ khả năng quân sự
để dẹp bỏ một hệ thống áp bức mạnh tại một quốc gia khác thì
thường sau này cũng đủ mạnh để áp đặt những mục tiêu của chính
mình. Điều này có thể xảy đến ngay cả khi những người dân “được
giải phóng” không muốn những mục tiêu này.
Ngược lại, một khả năng tự lực thực
tiễn nhằm chấm dứt một nền độc tài hay một áp bức nào khác, không
những chỉ nhắm vào hệ thống áp bức hiện hành. Khả năng giải phóng
tự lực đó còn đánh đổ được niềm tin vào lời tuyên bố dối trá của
chính quyền can dự là mục tiêu của họ là đẩy mạnh thêm nhiều tự
do và công lý trong khi mục tiêu thực sự của họ lại khác hẳn.
Còn có giải pháp giải phóng nào
khác không?
Những cuộc đấu tranh bất bạo động quan
trọng, tự phát hoặc ứng biến chống những nền độc tài và áp bức đã
từng xảy ra trong quá khứ. Chúng đem lại những kết quả khác nhau:
một vài thất bại, một vài thành công, và một số có hậu quả lẫn
lộn.
Những
chống đối công cộng, những hành vi bất hợp tác, và những can dự
tạo rối loạn này không những đã bao nhiêu lần gây ra những khó
khăn nghiêm trọng cho các hệ thống áp bức và đánh bại các nhà
lãnh đạo độc đoán. Có lúc chúng còn làm cho những hệ thống áp bức
và các nền độc tài tàn bạo phải sụp đổ
[3].
Một vài trong số những cuộc đấu tranh
bất bạo động này đã có được những nhân vật lôi cuốn được quần
chúng, như Mohandas K. Gandhi. Tuy nhiên, những trường hợp này
không phải là điển hình. Lịch sử thường hay xao lãng rất nhiều về
việc sử dụng kỹ thuật này, phủ nhận hầu hết những tiên kiến và
những quan niệm sai lạc phổ biến về đấu tranh bất bạo động.
Trong một vài thập kỷ vừa qua, một vài
cuộc cách mạng và những cuộc nổi loạn được biết như là “những
cuộc cách mạng màu” đã được người ta biết đến nhiều. Những trường
hợp này đầy hy vọng vì đã lôi kéo được sự tham gia của đám đông
quần chúng vào những cuộc đấu tranh chủ yếu là bất bạo động với
những hiệu quả đáng kể. Kết quả đạt được trong những trường hợp
này đã tùy thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm hoàn cảnh, sự hiểu
biết về những trường hợp xảy ra trước đó, có hay không có một
chiến lược khôn ngoan, mức độ thiết kế có thể thực hiện và ứng
dụng được, và các phương pháp được sử dụng.
[4]
Vượt quá những kinh nghiệm đã
qua
Còn cần phải học hỏi nhiều về cách thức kỹ thuật bất bạo động này
vận hành như thế nào. Tuy nhiên những áp dụng trong lịch sử và
kiến thức hiện có của chúng ta bây giờ đã tiến đến mức mà không
những người ta chỉ trông đợi kỹ thuật này được sử dụng nhiều hơn
trong các cuộc xung đột; mà còn rất quan trọng là với kiến thức
sâu rộng hơn, với những tính toán chiến lược khôn ngoan, với kinh
nghiệm giàu thêm, với việc lập kế hoạch, với kỹ năng gia tăng về
cách hành động thì hiệu quả của những cuộc đấu tranh bất bạo động
chống lại áp bức trong tương lai hầu như chắc chắn sẽ tăng lên
bội phần. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì kết quả của hầu
như bất cứ loại sinh hoạt nào cũng có thể được tăng phần tốt đẹp
một cách đáng kể do những nỗ lực có chủ tâm.
So với những cách hành sử khác có thể
có như đã đề cập trước đây thì tranh đấu bất bạo động có kế hoạch
chiến lược chứng tỏ là một lựa chọn đúng đắn cho những nỗ lực
nhằm đạt đến một hệ thống tự do, dân chủ, và công bằng hơn. Những
ai hay những nhóm người nào quyết định khai phá tiềm năng của
giải pháp này nhằm tranh thủ tự do và công bằng nhiều hơn cần
phải được khen ngợi. Tuy nhiên, họ phải đối diện với một công
việc thật là khó khăn.
Thay đổi quan trọng không xảy đến chỉ
bằng cách khẳng định một mục đích dài hạn hay bằng cách phản đối
lại nguyên trạng mà thôi. Đòi hỏi phải có hành động chiến lược có
trách nhiệm, khôn ngoan, và có hiệu quả. Đối mặt với áp bức cảm
nhận được, đấu tranh bất bạo động chiến lược có thể trở nên một
lựa chọn thích hợp thay thế cho cả vũ lực lẫn sự chịu đựng thụ
động.
Tài liệu
này và các sách đọc được chỉ định cốt nhằm giúp những người hoặc
nhóm người đang đối diện với áp bức mà muốn có kiến thức và hiểu
biết hơn về bản chất và tiềm năng của đấu tranh bất bạo động có
chiến lược. Tài liệu này khẳng định là lập kế hoạch chiến lược có
thể đóng góp bằng nhiều phương cách quan trọng vào việc làm cho
sự áp dụng đấu tranh bất bạo động có hiệu quả đáng kể nhiều hơn
là những phản đối và đối kháng mà không có kế hoạch chiến lược.
Điều rất quan trọng là sự chiêm nghiệm chuyện gì có thể xảy ra
sau cuộc xung đột tiên khởi đòi hỏi cần có một sự cân nhắc trước
và cần có phần nào kế hoạch cho trật tự xã hội thời hậu xung đột.
[5]
Thực tiễn và có chiến lược
Phương thức ở đây là thực tiễn và có
chiến lược. Phương thức này dựa trên thực tế chứ không phải dựa
vào những niềm tin, dù hai điều này có thể phù hợp với nhau.
Mục đích của cẩm nang này là để giúp
cho nhóm người mong chấm dứt một nền độc tài hay sự áp bức nào
khác, và thay thế vào đó một hệ thống tự do và công bằng hơn, lập
kế hoạch làm thế nào để xúc tiến những cuộc đấu tranh cho có hiệu
quả. Làm thế nào để người ta có thể sử dụng được những tài nguyên
sẵn có của họ cho có hiệu quả để chấm dứt áp bức, và thay vào đó
một hệ thống vững bền, tự do và công bằng hơn?
Lập kế hoạch khôn ngoan còn có thể giúp
giữ tổn thất ở mức độ thấp. Một số phương pháp có thể quá khiêu
khích và có thể biến những người biểu tình thành những mục tiêu
dễ dàng cho quân đội của kẻ áp bức. Ngược lại, một vài phương
pháp khác vừa có thể có tác dụng mạnh hơn vừa có thể không tăng
tổn thất. Ví dụ như một kế hoạch có thể để cho những người chống
đối tiến bước trên một con đường về phía quân lính được vũ trang
bằng súng máy. Một kế hoạch khác có thể thúc dục dân chúng để
đường sá trống vắng và yên lặng, và ở nhà một thời gian.
Giáo Sư Nguyễn văn Thái
Nguyên Giáo Sư Thỉnh giảng -University of Pennsylvania, -St.
Joseph's University, --Chestnut Hill College.
Người dịch chú thích:
[1] Tác giả
tri ơn sự cố vấn của TS. Mary King và Henry L. Helvey, thêm vào
đó sự hỗ trợ tổng quát của ban Giám Đốc Viện Albert Einstein,
trong việc soạn thảo tài liệu này.
[2] Bangkok:
Ủy Ban Phục Hồi Dân chủ tại Miến Điện, 1993. Boston: Viện Albert
Einstein, 2003 và 2008.
[3]
Xem Gene Sharp, The Politics of Nonviolent Action [Chính Trị của
Hành Động Bất Bạo Động] (Boston: Porter Sargent Publishers,
1973); Gene Sharp, Waging Nonviolent Struggle: 20th Century
Practice and 21st Century Potential [Tiến Hành Đấu Tranh Bất Bạo
Động: Thực Hành của Thế Kỷ 20 và Tiềm Năng cho Thế Kỷ 21]
(Boston: Extending Horizons, Porter Sargent Publishers, 2005);
and Ronald M. McCarthy và Gene Sharp, với sự phụ trợ của Brad
Bennett, Nonviolent Action: A Research Guide [Hành Động Bất Bạo
Động: Cẩm Nang Nghiên Cứu]. New York và London: Garland Ấn Hành,
1997.
[4]
Để tìm những nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng một hành động bất
bạo động thành công hay thất bại trong việc có đạt được mục tiêu
hay không, mời xem Gene Sharp, The Politics of NonviolentAction
[Chính Trị của Hành Động Bất Bạo Động], tt. 815-817.
[5] Xem thảo
luận ở phần sau về những nguy hiểm của đảo chánh.
Bài 2
Những Yếu tố căn bản trong Chiến lược Bất Bạo Động?
Sau
đây là những trích đoạn nhằm mục đích làm sáng tỏ các quan niệm Đại
Chiến Lược, Chiến Lược, Chiến Thuật, và Phương Pháp của Đấu Tranh
Bất Bạo Động (ĐTBBĐ). Những đoạn văn không liên hệ đến những quan
niệm này đã được bỏ qua. Do đó, có nhiều chỗ mạch văn không liên
tục.
Chiến lược
và những chiến thuật chiến tranh đã từng được hoạch định và học hỏi
một cách cẩn thận, và đã có nhiều nỗ lực quan trọng nhằm đưa ra một
lý thuyết cơ bản. Các châm ngôn, các lề luật và các hệ thống điều
động chiến tranh đã từng được soạn thảo để đáp ứng một “yêu cầu khẩn
trương.” Trong lãnh vực hoạt động bất bạo động thì đến nay vẫn chưa
có những phát triển tương đương. Gandhi đã có những nỗ lực có chủ ý
quan trọng hơn cả trong việc hoạch định chiến lược và các chiến
thuật trong kỹ thuật đấu tranh này. Tuy vậy, ông ta không phải là
một nhà phân tích và cũng không phải là một lý thuyết gia; do đó,
mặc dù ông đã đóng góp trong lãnh vực thực hành và trong những nhận
xét khái lược của ông, công việc phân tích và hoạch định chiến lược
và các chiến thuật đã phải để lại cho người khác thực hiện. Chỉ mới
gần đây người ta mới trở nên lưu ý đến những khó khăn và những khả
năng của chiến lược và các chiến thuật trong đấu tranh bất bạo động
chống lại những nhà độc tài quốc nội và những kẻ xâm lược có thể có.
Cần phải lưu ý đến cả lãnh vực rộng lớn của chiến lược và các chiến
thuật lẫn những khó khăn cụ thể có thể xảy ra khi đối mặt với đối
phương và khi tranh thủ các mục tiêu.
Chiến lược và các chiến thuật dĩ nhiên
mang nhiều hình thái khác nhau và hiện hữu ở những mức độ khác nhau
trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên, chúng đặc biệt quan
trọng trong hoạt động quân sự và hoạt động bất bạo động; cả hai đều
là những kỹ thuật mà theo đó những xung khắc xã hội và chính trị
được phát động khi những xung khắc này đã phát triển đến độ cần phải
đấu tranh công khai và cần phải đọ sức. Hình như có một vài điểm mà
những soi sáng của chiến lược quân sự có thể ứng dụng được vào chiến
lược bất bạo động; và cũng có những điểm mà những soi sáng về quân
sự không nên ứng dụng, bởi vì bản chất cũng như những động cơ của
hai kỹ thuật đấu tranh hoàn toàn khác biệt. Đoạn này do đó không chỉ
thuần mô tả hay phân tích những nhận định hiện có về chiến lược
trong hoạt động bất bạo động mà còn bàn đến việc du nhập những
nguyên tắc quân sự vào nơi nào hợp lý đối với kỹ thuật bất bạo động,
và nơi nào mà các nguồn tài liệu quân sự rõ ràng và sáng sủa hơn là
những nhận định của những nhà hoạt động bất bạo động.
Sau đây là một vài định nghĩa ngắn gọn của
những từ căn bản về chiến lược:
Đại chiến lược là một quan niệm rộng lớn
nhất dùng để phối trí và điều hướng tất cả những tài nguyên của nhóm
đấu tranh nhằm đạt những mục tiêu của cuộc xung đột.
Chiến lược, một từ hạn hẹp hơn, là kế
hoạch hành động bao quát cho cuộc đấu tranh toàn bộ, bao gồm việc
tạo ra một hoàn cảnh thuận lợi, quyết định khi nào phải đánh, hoạch
định kế hoạch bao quát cho việc thi hành những hoạt động cụ thể khác
nhau trong cuộc xung đột tổng quát.
Những chiến thuật là những kế hoạch cho
những xung đột giới hạn hơn bên trong kế hoạch chiến lược đã lựa
chọn.
1.
Sự quan trọng của chiến lược và các chiến thuật
Chiến lược cũng quan trọng trong hoạt động
bất bạo động cũng như trong hoạt động quân sự. Dù các nguyên tắc và
quan điểm quân sự không thể tự động được ứng dụng vào lãnh vực hoạt
động bất bạo động, nhưng sự quan trọng căn bản của chiến lược và các
chiến thuật cũng không hề bị suy giảm đi chút nào. Do đó cần phải
lưu ý đến những nguyên tắc chiến lược và các chiến thuật tổng quát
thích hợp với kỹ thuật này (cả những nguyên tắc đặc thù của kỹ thuật
này lẫn những nguyên tắc có thể ứng dụng từ chiến lược quân sự và từ
những loại xung đột khác). Những khía cạnh này cần phải được xét
định, dĩ nhiên là, trong bối cảnh của những động lực đặc thù và
những cơ cấu đấu tranh bất bạo động.
Những người được đào tạo về quân sự sẽ lấy
làm lạ khi thấy những người cổ võ những phương tiện đấu tranh bất
bạo động lại nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến lược và chiến thuật.
Và những người có quá trình bất bạo động theo khuynh hướng tôn giáo
và triết học cũng có thể ngạc nhiên khi thấy chiến lược và chiến
thuật được đặt nặng thay vì những nguyên tắc đạo đức và lương tri.
Do đó cần thảo luận qua về chức năng của chiến lược và các chiến
thuật trong hoạt động bất bạo động.
Muốn tác động lên hậu quả của cuộc đấu
tranh thì cần phải khôn ngoan lựa chọn phương thức hành động và tiến
hành một cách cẩn thận và sáng suốt. Chỉ nói là mình chính đáng và
làm điều đúng thì thật không đủ, bởi vì có thể có nhiều phương thức
hành động “đúng” theo quan điểm đạo đức; điều “đúng” có thể bao gồm
việc duy trì hay là tạo ra một đối lực cực mạnh chống lại cái “ác”
và nếu vậy thì vấn đề là làm thế nào để thực hiện điều này; để đáp
ứng trách nhiệm đạo đức và gia tăng tối đa hiệu quả của hành động
của mình, những hành động này phải được lựa chọn một cách cẩn thận
và thực hiện đúng thời điểm. Các nhà chuyên môn nghiên cứu và chỉ
đạo chiến tranh đã học được từ lâu là những kết quả tốt đẹp nhất gặt
hái được không phải chỉ vì do một sự bộc phát vũ lực thiếu kiểm soát
và do hy sinh. Như Liddell Hart đã từng nói: “...việc chỉ đạo chiến
tranh cần phải được kiểm soát bởi lý trí nếu muốn đạt được mục
tiêu... Chiến lược càng tốt thì càng dễ chiếm thế thượng phong, và
càng ít bị tổn thất.” Cũng như trong chiến tranh, chiến lược và các
chiến thuật được sử dụng trong hoạt động bất bạo động để sự can đảm,
sự hy sinh, số lượng người và vân vân của những nhà hoạt động bất
bạo động có thể gây được tác dụng lớn lao nhất.
Phương thức đấu tranh có thể mang nhiều
hình thức khác nhau, tùy vào các chiến lược, chiến thuật, và những
phương pháp lựa chọn để đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của hoàn
cảnh. Những hành động cụ thể như phản kháng, bất hợp tác, và can
thiệp của tiến trình chiến dịch bất bạo động sẽ có hiệu quả nhất nếu
những hành động này ăn khớp với nhau như là những bộ phận của một
tổng thể toàn bộ, để mỗi hành động cụ thể đóng góp tối đa vào sự
phát triển và thành quả của cuộc đấu tranh. Do đó sự phối hợp thuận
lợi tối đa cho những hoạt động sẽ đạt được ở nơi nào mà các nhà lãnh
đạo phong trào với sự hiểu biết đầy đủ về tình hình và kỹ thuật có
thể vạch ra được hướng đi cho các chiến dịch. “Chỉ có vị tướng chỉ
huy chiến trận mới có thể biết được mục tiêu của từng nước đi một,”
Gandhi viết. Gandhi đã chọn chủ điểm đấu tranh, nơi chốn, thời điểm
và phương pháp hành động hết sức cẩn thận, để cho phong trào của ông
được đặt vào vị thế mạnh nhất có thể có đối với người Anh, và để cho
chính những hành động chuyển đạt đến đồng bào người Ấn của ông một
sự hiểu biết rõ ràng nhất và kích động được thiện cảm tối đa và hậu
thuẫn của mọi người. Cũng như chiến lược quan trọng trong những cuộc
đình công lao động, thì nó cũng quan trọng đối với các loại đấu
tranh bất bạo động phức tạp hơn — và còn quan trọng hơn nhiều, khi
cuộc đấu tranh là để chống lại những nền độc tài quá khích.
Có đầy đủ chứng cớ lịch sử về sự quan
trọng của chiến lược và các chiến thuật. Đôi khi các chứng cớ này có
tính tiêu cực, cho thấy hậu quả của sự thiếu vắng chiến lược hoặc
không đưa ra những quyết định quan trọng đối với những vấn đề chiến
lược và chiến thuật. Đôi khi những vấn đề khó khăn xảy ra trong tiến
trình của những xung khắc đã có thể tránh được hoặc giải quyết một
cách thoả đáng hơn nếu trước đó người ta hiểu biết hơn về vai trò và
các nguyên tắc đấu tranh bất bạo động. Có nhiều trường hợp khác, các
chiến dịch bất bạo động vẫn cứ tiếp diễn sau thời điểm mà hầu như
tất cả những mục tiêu và yêu sách đều đã có thể đạt được — nhiều hơn
rất nhiều, so với trường hợp những xung đột quân sự; những biến cố
sau đó, do đó, sẽ dẫn đến sự thất bại của phong trào. Hay là trong
những trường hợp khác phong trào bất bạo động tự xem mình đã thất
bại mặc dù theo những tiêu chuẩn bình thường thì phong trào thực sự
đang thắng; kết quả là hành động bất bạo động sau đó sẽ được thay
thế bằng hành động quân sự được tin là có hiệu quả hơn. Những cuộc
đấu tranh của người Mỹ chống lại chính quyền Anh có thể được diễn
giải không có gì khó khăn theo chiều hướng này. Rất nhiều soi sáng
sẽ được chiếu rọi vào những vấn đề và những nguyên tắc tổng quát của
chiến lược bất bạo động, nếu thực hiện được những phân tách cẩn thận
về chiến lược và chiến thuật của một số cuộc đấu tranh bất bạo động.
Việc nhóm khiếu nại chấp nhận chiến lược cho cuộc đấu tranh cũng rất
quan trọng; trong trường hợp nước Phần Lan năm 1901, sự bất đồng ý
kiến về việc làm thế nào để đối phó với đối phương hình như đã làm
nổi bật một cách trầm trọng sự xung khắc nội bộ đang xảy ra.
2. Một vài yếu tố then chốt trong
chiến lược và các chiến thuật bất bạo động
Mặc dù tương đối không có những phân tách
chiến lược về những cuộc đấu tranh bất bạo động trong quá khứ và
thiếu những nghiên cứu có hệ thống về những nguyên tắc căn bản của
chiến lược bất bạo động, ta vẫn có thể liệt kê ra được một số nguyên
tắc khá rõ ràng mang những hình thái cụ thể trong một số cuộc đấu
tranh. Clausewitz viết là trong trường hợp chiến tranh thì dễ đưa ra
một lý thuyết về các chiến thuật hơn là về chiến lược. Cả hai loại
lý thuyết đều rất khó trong hành động bất bạo động, và bảng liệt kê
các nguyên tắc cung ứng ở đây hẳn là thiếu sót và chỉ có tính cách
tạm thời.
Gián
tiếp tiếp cận sức mạnh đối phương. Kỹ thuật hành động bất bạo động
có thể được xem như là một sự phát triển cùng cực của phương thức
“gián tiếp tiếp cận” chiến lược quân sự như Liddell Hart đã vạch ra,
và đã được thảo luận trước đây trong chương này.
Liddell lý luận là chiến lược trực tiếp sẽ
làm vững chãi sức mạnh của đối phương, còn phương thức gián tiếp thì
về mặt quân sự có cơ sở hơn; thường đem lại hiệu quả khi mà kế hoạch
hành động có tính “gián tiếp để chắc chắn là đối phương không sẵn
sàng để chống lại.” Do đó, thay vì tấn công trực tiếp vào những vị
trí mạnh của đối phương, Liddell nhấn mạnh vào sự quan trọng của các
yếu tố tâm lý; mục đích của chiến lược lúc đó trở thành “làm suy
giảm khả năng đối kháng...” “Gây bất ổn” cho kẻ thù, ông khẳng
quyết, là thiết yếu cho việc tạo điều kiện để thắng lợi, và việc gây
rối này phải được tiếp theo bằng “khai thác” cơ hội do vị thế bất ổn
đó tạo ra. Do đó “vô hiệu hóa đối lực bằng cách làm tê liệt khả năng
chống đối” và làm cho kẻ thù phải “làm một điều gì sai lầm” trở nên
quan trọng. Những nguyên tắc tổng quát này đều có thể áp dụng được
vào việc dùng hành động bất bạo động để chống lại một đối thủ sử
dụng phương tiện quân sự, để cho những phương tiện hành động của đối
phương luôn luôn bị chọi lại một cách gián tiếp và sức mạnh đàn áp
của ông ta sẽ dội ngược trở lại chính ông theo lối nhu thuật chính
trị. Sau cùng, chính những nguồn sức mạnh của ông ta sẽ bị cắt giảm
và loại bỏ mà không cần phải được trực tiếp đối đầu bằng cùng những
phương tiện đấu tranh...
Thiết kế chiến lược
Việc thiết kế ngắn hạn, hay chiến thuật
từng xảy ra trong những cuộc xung đột trong quá khứ mà trong đó
những phương pháp bất bạo động được sử dụng tỏ ra là hữu ích và đã
đóng góp vào việc hoàn thành những cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên,
thiết kế chiến lược dài hạn cho cuộc đấu tranh toàn bộ có thêm những
lợi điểm riêng biệt, giúp cho nhóm đấu tranh bất bạo động có thể
tính toán những phương cách hữu hiệu nhất để dẹp bỏ áp bức, để thẩm
định khi nào là lúc hoàn cảnh chính trị và tâm lý quần chúng đã chín
muồi để hành động, và để chọn lựa làm thế nào để khởi động chiến
dịch bất bạo động và làm thế nào để phát triển chiến dịch khi chiến
dịch đang tiến hành, trong lúc đang đối đầu với đàn áp và những biện
pháp phản công khác của đối phương.
Thiết kế chiến lược cũng làm cho nhóm đấu
tranh bất bạo động có khả năng trở nên mạnh hơn vì kế hoạch biết
được dự tính sẽ tiến đến đâu và vì kế hoạch biết được những khó
khăn, những diễn biến, và những phản ứng mà những người đối kháng có
thể phải đối đầu.
Mục đích càng quan trọng, hoặc là những
hậu quả của thất bại càng trầm trọng, thì việc lập kế hoạch càng trở
nên quan yếu. Thiết kế chiến lược gia tăng khả năng những nguồn lực
có sẵn sẽ được sử dụng hữu hiệu hơn cả. Điều này đặc biệt quan trọng
đối với một phong trào có một mục tiêu cao quý nhưng những tài
nguyên vật chất giới hạn và trong phong trào này những người ủng hộ
gặp nguy hiểm trong thời gian xung đột. Trái lại, đối phương thường
có được những nguồn tài nguyên vật chất lớn lao, sức mạnh tổ chức,
và khả năng áp dụng bạo tàn.
Việc sử dụng chiến lược được biết đến
nhiều hơn cả trong chiến tranh quân sự. Đã bao thế kỷ nay, những sĩ
quan quân đội đã từng dấn thân vào việc thiết kế chiến lược cho
những chiến dịch quân sự. Những nhà tư tưởng quan trọng như Tuân Tử,
Carl von Clausewitz, và Ngài Basil Liddell Hart đã từng phân tách và
tinh lọc chiến lược quân sự quy ước. Mao Trạch Đông và Ernesto “Che”
Guevara, trong số những người khác, cũng đã cố làm như vậy đối với
chiến tranh du kích. Trong cả chiến tranh quân sự quy ước lẫn trong
chiến tranh du kích, sử dụng chiến lược tân kỳ là yêu cầu cơ bản của
thành công.
Cũng
như đấu tranh quân sự hữu hiệu đòi hỏi những chiến lược khôn ngoan,
lập kế hoạch cho đấu tranh bất bạo động, và thực hiện kế hoạch này
sẽ hữu hiệu hơn cả khi cuộc đấu tranh cũng vận hành trên cơ sở thiết
kế chiến lược sâu sắc. Tuy nhiên, việc thiết lập và áp dụng chiến
lược trong những cuộc đấu tranh bất bạo động tầm cỡ phức tạp hơn là
trong những cuộc đấu tranh quân sự. Trong những cuộc đấu tranh bất
bạo động lớn, toàn thể dân chúng và nhiều cơ chế tổ chức trong xã
hội đều có tiềm năng trở thành người đấu tranh, chứ không đơn giản
chỉ là các lực lượng quân đội mà thôi. Để có thể làm cho tất cả
những người này và các cơ chế được hữu hiệu nhất, đòi hỏi phải có
những chiến lược có khả năng.
Những sức mạnh tuyệt đối và tương đối của
đối phương và của nhóm đấu tranh bất bạo động có thể biến đổi rất
nhiều và thay đổi nhanh chóng trong thời gian cuộc đấu tranh đang
tiến hành. Những hành động và hành vi của nhóm đấu tranh bất bạo
động có thể có những hiệu quả bất ngờ, vượt quá thời gian và không
gian của những hành động và hành vi này. Những thay đổi về sức mạnh
của những nhóm tranh chấp này có thể cực độ trong những cuộc đấu
tranh bất bạo động hơn là những thay đổi trong những xung đột bằng
vũ lực. Do đó, cần phải hết sức cẩn thận trong việc chọn lựa ngay cả
những hành động có giới hạn và trong hành vi của những người đối
kháng trong cuộc đấu tranh.
Các cấp chiến lược
Trong khi thiết lập một kế hoạch chiến
lược, người ta phải hiểu là có bốn cấp chiến lược [2]. Đại chiến
lược và chiến lược đã được giới thiệu rất ngắn gọn trước đây. Tuy
nhiên, ở đây, cần phải khai triển có chiều sâu hơn. Ở cấp căn bản
nhất là đại chiến lược. Rồi đến chiến lược, tiếp đến là các chiến
thuật và các phương pháp.
Đại chiến lược có thể được gọi là quan
niệm chủ đạo cho việc điều hành cuộc đấu tranh. Đó là ý niệm rộng
lớn nhất dùng để phối hợp và điều động tất cả những nguồn lực của
nhóm đấu tranh đi đến việc đạt những mục tiêu của cuộc đấu tranh.
Chiến lược rất giống đại chiến lược, nhưng
được áp dụng cho những giai đoạn có giới hạn hơn của toàn bộ cuộc
đấu tranh, như cho những chiến dịch có những mục tiêu nhất định.
Chiến lược gồm có việc phác họa ra một hoàn cảnh thuận lợi, quyết
định khi nào thì chiến đấu, và một mô hình bao quát cho những đụng
độ nhỏ hơn trong khuôn khổ chiến lược đã được chấp thuận.
Chiến thuật nói đến những kế hoạch để xúc
tiến những giao chiến còn giới hạn hơn nữa trong chiến lược đã được
lựa chọn — giới hạn về tầm cỡ, về số người tham gia, về thời gian,
hoặc về vấn đề nào đó. Chiến thuật nói đến cách làm thế nào một nhóm
có thể áp dụng những phương pháp được nhóm chọn lựa và hành động
trong một cuộc đụng độ nào đó với đối phương.
Phương pháp trong đấu tranh bất bạo động
là nhiều hình thái hành động cá biệt, như là làm rào cản, tẩy chay
xã hội, những cuộc tẩy chay của giới tiêu thụ, những vụ tổng đình
công, bất tuân dân sự, biểu-tình-ngồi, và lập chính phủ song hành,
như đã liệt kê ở Chương Bốn. Trong số những nhân tố cần duyệt xét
trong việc tuyển chọn các phương pháp là phương thức tạo thay đổi
(cải hoá, thích nghi, cưỡng ép bất bạo động, hoặc phân hủy), mức độ
những người đối kháng kiểm soát được những nguồn sức mạnh của đối
phương, và tình huống, các ưu điểm, các nhược điểm, và các nguồn sức
mạnh của những người đối kháng.
Nếu bất cứ một cấp nào trong bốn cấp chiến
lược này được nhận thức hoặc thiết kế một cách không hoàn chỉnh, hay
ngay cả thiếu vắng, thì toàn bộ cuộc đấu tranh bất bạo động sẽ bị
suy yếu đi một cách trầm trọng. Không có một kiến thức về toàn cảnh,
người ta có thể lơ là trong việc chuẩn bị, hay là không thể thực
hiện được, những nước bước đi đến việc tranh thủ các mục tiêu đã đề
ra.
Sự chọn lựa
đại chiến lược, việc thực thi các chiến lược, chiến thuật và các
phương pháp cần sử dụng phải quyết định hướng đi tổng quát và cách
điều hành của cuộc đấu tranh suốt tiến trình của cuộc xung đột. Bốn
cấp chiến lược này sẽ được bàn đến đầy đủ hơn nhiều trong chương
tới.
Muốn thực
thi một chiến lược thì cần phải có những sinh hoạt hỗ trợ cẩn thận.
Những sinh hoạt này đòi hỏi phải có thiết kế và nhiều chuẩn bị.
Những sinh hoạt này là những công tác hậu cần. Công tác hậu cần bao
gồm một loạt những sinh hoạt hỗ trợ chi tiết cần cho việc điều hành
của một cuộc đấu tranh, như là sự sắp đặt về tài chánh, chuyên chở,
thông tin, và tiếp liệu.
Các Cấp Chiến Lược
Một khi đã có kiến thức thu lượm được từ
phỏng định chiến lược và những mục tiêu của nhóm đấu tranh bất bạo
động sẵn trong đầu óc, thì quan niệm rộng lớn về cách làm thế nào để
xúc tiến cuộc đấu tranh và làm thế nào để đạt được các mục tiêu là
gì? Thực hiện quyết định này đòi hỏi — ngoài những chuyện khác — xác
định phương thức tạo thay đổi dự tính, được tin cậy trong đấu tranh
bất bạo động, và quyết định là cần phải có một hay nhiều chiến dịch.
Đây là lãnh vực của suy tư chiến lược.
Một chiến lược là một quan niệm về cách
làm sao để hành động tốt nhất để đạt được những mục tiêu trong một
cuộc xung đột. Chiến lược lưu tâm đến vấn đề có nên chiến đấu hay
không, chiến đấu khi nào, và chiến đấu như thế nào, và làm thế nào
để đạt được hiệu quả tối đa hầu tranh thủ được những mục đích nào
đó. Chiến lược là kế hoạch phân phối, thích nghi, và áp dụng những
phương tiện có sẵn để tranh thủ những mục tiêu mong muốn.
Như đã thảo luận trước đây, có bốn cấp độ
chiến lược: đại chiến lược, chiến lược, chiến thuật, và phương pháp
[4]. Căn bản nhất là đại chiến lược. Rồi đến chiến lược cho những
chiến dịch có giới hạn, tiếp theo đó là các chiến thuật và những
phương pháp được sử dụng để thực thi các chiến lược. Khẩn thiết cần
phải thông hiểu bốn yếu tố này, và những khác biệt giữa những yếu tố
đó, nếu chúng ta muốn thiết kế những chiến lược cho một cuộc đấu
tranh nào đó.
Dĩ
nhiên là cần phải nhớ rằng không có một chiến lược duy nhất nào có
thể áp dụng được cho việc sử dụng đấu tranh bất bạo động trong tất
cả mọi trường hợp. Không thể có một khuôn mẫu duy nhất hoặc thiết kế
một mẫu để áp dụng cho mọi cuộc đấu tranh. Mỗi hoàn cảnh đều có phần
nào khác nhau, thường thì rất khác. Tuy nhiên, những chỉ dẫn tổng
quát vẫn có thể vạch ra được cho công việc thiết lập kế hoạch chiến
lược với điều kiện là cần lưu ý đến những nhân tố đã được thảo luận
trước đây. Những người lập kế hoạch đại chiến lược cho một cuộc đấu
tranh nào đó sẽ đòi hỏi phải có một sự thông hiểu sâu sắc, không
những chỉ về hoàn cảnh xung đột, mà còn về kỹ thuật đấu tranh bất
bạo động, và cả về những nguyên tắc chiến lược tổng quát nữa. Một số
nguyên tắc này sẽ được bàn đến ở Chương Ba Mươi Bảy.
Đại chiến lược
Đại chiến lược là ý niệm chủ đạo cho việc
điều hành cuộc đấu tranh. Một đại chiến lược là quan niệm dùng để
điều hợp và điều động tất cả những tài nguyên thích hợp và có sẵn
(kinh tế, nhân lực, và tinh thần, v.v.) của dân chúng hay của nhóm
để đạt những mục tiêu của mình trong một cuộc xung đột. Đó là một kế
hoạch tổng quát cho việc điều hành cuộc đấu tranh. Kế hoạch này cho
phép người ta biết trước là cuộc đấu tranh như là một toàn bộ cần
phải tiến hành như thế nào. Cuộc đấu tranh có thể đi đến chiến thắng
bằng cách nào? Làm sao để đạt được sự thay đổi mong muốn?
Đại chiến lược bao gồm việc xét định lẽ
phải của lý tưởng đấu tranh của nhóm đấu tranh bất bạo động, việc
đánh giá và sử dụng những áp lực và ảnh hưởng khác ngoài kỹ thuật
đấu tranh, và việc quyết định các điều kiện cho phép xúc tiến cuộc
đấu tranh công khai.
Đại chiến lược bao gồm, rất là quan trọng,
sự lựa chọn kỹ thuật đấu tranh, hay là biện pháp ngăn chặn tối hậu.
Biện pháp này sẽ được sử dụng như là một lợi thế phòng hờ trong
trường hợp có những đe dọa thực sự hay hiểu ngầm trong thời gian
thương thảo, và sau này được sử dụng trong cuộc đụng độ công khai
của các lực lượng, nếu điều này xảy ra. Trong trường hợp này, kỹ
thuật sử dụng là đấu tranh bất bạo động. Đại chiến lược được lựa
chọn cũng sẽ đưa ra khuôn mẫu cơ bản cho việc thiết lập các chiến
lược nhằm xúc tiến cuộc đấu tranh trong những chiến dịch có giới hạn
hơn, được điều động nhắm đến những mục tiêu nhất định.
Thêm nữa, đấu tranh bất bạo động đôi khi
có thể được hỗn hợp, trong đại chiến lược, cùng với việc sử dụng
những phương tiện khác không bạo động, và do đó không đe doạ sự vận
hành của kỹ thuật này. Tìm kiếm dữ kiện, quảng bá công khai, giáo
dục quần chúng, kêu gọi đối phương, và đôi khi thương thảo, cũng
như, trong một vài trường hợp, các chiến dịch đầu phiếu, có thể,
trong nhiều hoàn cảnh, được sử dụng cùng chung với đấu tranh bất bạo
động một cách rất có lợi. Những phương tiện này thường được sử dụng
song hành với các tẩy chay kinh tế và đình công lao động chẳng hạn.
Những vụ kiện và những hành động pháp lý khác có lúc cũng đã từng
được sử dụng để hỗ trợ đấu tranh bất bạo động, như vụ tẩy chay xe
buýt tại quận Montgomery, tiểu bang Alabama.
Đại chiến lược cũng bao gồm việc xét định
cuộc đấu tranh liên hệ như thế nào với việc đạt những mục tiêu mà
cuộc đấu tranh đã được tiến hành để tranh thủ. Dự phóng những hậu
quả lâu dài có thể xảy ra của cuộc đấu tranh cũng thuộc lãnh vực của
đại chiến lược.
Một đại chiến lược cho một cuộc đấu tranh bất bạo động tốt hơn là
nên bao gồm không những một sự chấm dứt điều bị phủ nhận mà còn phải
bao gồm việc thiết lập một điều gì mới để thay thế cho điều đã phủ
nhận. Ví dụ, một đại chiến lược chỉ giới hạn mục tiêu vào việc đánh
tan nền độc tài hiện hành mà thôi sẽ gặp phải sự nguy hiểm lớn lao
là sẽ sản xuất ra một nền độc tài mới. Một mục đích hay hơn có thể
sẽ thay đổi được hệ thống thống trị, đồng thời thiết lập được một hệ
thống chính trị tốt đẹp hơn có nhiều tự do hơn và nhiều sự kiểm soát
dân chủ hơn.
Đại
chiến lược được lựa chọn cần phải phác họa những đường nét chính về
việc nhóm đấu tranh bất bạo động phải điều hành cuộc đấu tranh như
thế nào. Điều này sẽ trải rộng từ hiện tại cho đến một hoàn cảnh
trong tương lai khi mà các mục tiêu đã đạt được. Những phương tiện
tổng quát tạo áp lực và hành động nào có thể được áp dụng vào nỗ lực
này? Mũi dùi chính của nhóm đấu tranh bất bạo động chống lại đối
phương sẽ là gì? Có phải áp lực được áp dụng sẽ tạo ra các tổn thất
về kinh tế hay không? Hay sẽ đánh sập chính danh tự tạo của đối
phương? Hay làm tê liệt kinh tế? Còn áp lực quốc tế thì sao? Có sử
dụng những áp lực khác không?
Câu hỏi sau đây rất quan trọng: Nhóm đấu
tranh bất bạo động có thể làm suy yếu hay cắt đi được hầu hết hay
tất cả các nguồn sức mạnh của đối phương hay không? Những nguồn sức
mạnh này gồm có uy quyền (hay chính danh), nhân lực, kỹ năng và kiến
thức, các nhân tố không nắm bắt được, vật lực, và các chế tài. Làm
suy yếu hay cắt bỏ được những nguồn sức mạnh này là thiết yếu cho
những cuộc đấu tranh chống lại những chế độ áp bức tàn bạo, và có
thể làm cho sức mạnh của những chế độ này sụp đổ.
Nếu những người đối kháng mạnh đủ, có đủ
số người tham gia, và tập trung bất hợp tác vào những nguồn sức mạnh
này, thì ngay cả một chế độ hết sức tàn ác cũng có thể có tiềm năng
bị làm suy yếu đi hoặc phân hủy. Cuộc đấu tranh Tháng Mười năm 2000
của người Serb là một thí dụ.
Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu của cuộc đấu
tranh, những nỗ lực nhằm vô hiệu hoá hoàn toàn hay cắt đi những
nguồn sức mạnh của đối phương khó mà nằm trong khả năng của nhóm đấu
tranh. Những kết quả của phỏng định chiến lược phải giúp quyết định
là nhóm có có khả năng áp dụng những áp lực đòi hỏi với một sức mạnh
đủ để thành công trong một chiến dịch duy nhất, hay là nhóm phải lập
kế hoạch cho một loạt nhiều chiến dịch có giới hạn hơn. Sự tính toán
này là một phần cần thiết của đại chiến lược, và sẽ được thảo luận
đầy đủ hơn ở Chương Ba Mươi Bảy.
Chiến lược
Những chiến lược cá biệt cho những chiến
dịch có những mục tiêu giới hạn hơn rất quan trọng. Những chiến lược
cho các chiến dịch hướng dẫn những cuộc đấu tranh cần phải được xúc
tiến như thế nào trong phạm vi của cuộc đấu tranh rộng lớn hơn và
của đại chiến lược. Những chiến lược giới hạn này phác họa những
phương cách các chiến dịch cụ thể sẽ phải phát triển như thế nào, và
các bộ phận riêng biệt của những chiến dịch này sẽ phải ăn khớp với
nhau như thế nào để đạt được các mục tiêu một cách tốt đẹp nhất.
Chiến lược cũng bao gồm việc phân công tác cho các nhóm và phân phối
tài nguyên cho họ sử dụng trong cuộc đấu tranh. Những chiến lược sâu
sắc của các chiến dịch giúp hướng dẫn cuộc đấu tranh lấy cái sườn
mẫu của đại chiến lược, đắp đầy cái sườn này thành một quan niệm bao
quát điều hướng tất cả mọi khía cạnh của cuộc đấu tranh.
Mặc dù liên hệ với nhau, việc thiết kế một
đại chiến lược và lập ra những chiến lược cho các chiến dịch là hai
tiến trình khác biệt. Chỉ sau khi đại chiến lược đã được quyết định
thì các chiến lược cho những chiến dịch mới được thiết lập một cách
đầy đủ. Những chiến lược cho các chiến dịch sẽ cần phải được thiết
kế nhằm tranh thủ và củng cố những mục tiêu đại chiến lược. Các nhân
tố trong việc thiết lập những chiến lược cho các chiến dịch bao gồm
việc tạo ra một hoàn cảnh thuận lợi, việc quyết định khi nào xúc
tiến một chiến dịch, và mô hình rộng lớn cho việc sử dụng những đụng
độ giới hạn trong phạm vi chiến lược được lựa chọn để đem lại thành
công.
Thường thì
những mục tiêu chiến lược cho các chiến dịch phải phản ánh những vấn
đề tranh chấp rộng lớn hay những khiếu nại đã được phác họa trong
đại chiến lược. Nếu cuộc xung đột phần lớn mang bản sắc kinh tế, và
một đại chiến lược đã được chuẩn y đòi hỏi chủ yếu phải sử dụng
những áp lực kinh tế, thì những chiến lược cho các chiến dịch được
tuyển chọn sẽ có chiều hướng tập trung hầu hết vào các mục tiêu kinh
tế hơn cả và sẽ áp dụng những áp lực như là những cuộc đình công lao
động hay là những vụ tẩy chay kinh tế. Tuy nhiên, nếu đại chiến lược
tập trung vào việc tranh thủ tự do chính trị, chống đối nền cai trị
độc tài, hay là ủng hộ tự do phát biểu, thì những chiến lược cho các
chiến dịch cá biệt có thể tập trung vào những diễn đạt cụ thể của
những vấn đề này, bằng cách sử dụng những phương pháp thích hợp như
là phân phối những tài liệu bị nghiêm cấm, thực thi quyền tự do ngôn
luận bị cấm đoán, hay sử dụng những phương pháp khác có thể làm nổi
bật bản chất cực đoan của nền cai trị chuyên chế hay của những vi
phạm nhân quyền hay các tự do dân sự.
Điều này không có ý muốn nói là chỉ có
những áp lực kinh tế mới nên được áp dụng trong những cuộc đấu tranh
về những vấn đề kinh tế, hay là chỉ những áp lực chính trị mới nên
áp dụng cho những cuộc đấu tranh nặng về chính trị. Bất hợp tác kinh
tế có thể hữu hiệu trong việc ép buộc phải có những thay đổi chính
sách chính trị, và trong một vài trường hợp, ngay cả thay đổi chế
độ. Mặc dù vậy, khi thiết kế các chiến lược cho những chiến dịch
giới hạn thì chọn lựa những vấn đề tranh chấp cụ thể và những mục
tiêu dễ được thừa nhận như là tiêu biểu cho sự khiếu nại tổng quát
đã được xác định trong đại chiến lược vẫn có lợi.
Chiến thuật
Chiến lược cho một chiến dịch có mục tiêu
giới hạn sẽ quyết định những kế hoạch “chiến thuật” nhỏ hơn và những
phương pháp hành động cụ thể nào cần phải được sử dụng để đeo đuổi
mục đích chính. Một chiến lược hay cũng sẽ bất lực trừ phi chiến
lược đó được thực thi bằng hành động với những chiến thuật có cơ sở.
Tuy nhiên, sự lựa chọn và thực thi khéo léo các chiến thuật sẽ không
bù đắp được cho một chiến lược mà nói chung là tồi tệ. Sự chọn lựa
các chiến thuật để thực thi một chiến lược có thể bao hàm việc xét
định các mặt trận, các nhóm, các thời điểm, và các phương pháp khác
nhau.
Một chiến
thuật là một kế hoạch hành động có giới hạn, dựa trên một quan niệm
là làm thế nào để, trong một giai đoạn giới hạn của cuộc đấu tranh,
sử dụng tốt nhất những phương tiện đấu tranh sẵn có hầu đạt một mục
tiêu giới hạn như là một phần của chiến lược rộng lớn hơn của một
chiến dịch. Để được hữu hiệu nhất, các chiến thuật và các phương
pháp phải được chọn và áp dụng như thế nào để chúng thực sự hỗ trợ
việc thực thi chiến lược và đóng góp vào việc đạt được các yêu cầu
đòi hỏi cho chiến lược được thành công.
Chiến thuật chỉ định những phương pháp nào
cần phải được áp dụng như thế nào và những nhóm người đối kháng nào
sẽ phải hành động trong một hoàn cảnh nhất định nào đó. Ví dụ, trong
một cuộc đình công lao động mà các công nhân xưởng đình công để
tranh đấu cho nghiệp đoàn được công nhận, để đòi tăng lương, hay đòi
những điều kiện làm việc tốt hơn, thì các chiến thuật cần bao gồm sự
chọn lựa thời điểm cho cuộc đình công, làm sao để công nhân được
thuyết phục tham gia vào cuộc đình công, hành động nào cần phải có
để làm nản chí những người bỏ hàng ngũ đình công, làm sao để những
người đình công có thể được hỗ trợ về kinh tế trong thời gian họ
không làm việc, những nỗ lực nào cần phải thực hiện để khuyến khích
cảm tình và hỗ trợ của dân chúng, và những tiếp xúc nào cần phải có
với các chủ nhân của xưởng.
Các chiến thuật do đó là những kế hoạch để
xúc tiến những đụng độ có giới hạn trong phạm vi chiến lược đã được
lựa chọn — giới hạn về tầm cỡ, về số người tham gia, về thời lượng,
hay là về vấn đề tranh chấp. Chiến thuật xác định rõ là nhóm đấu
tranh phải hành động như thế nào trong một cuộc đụng độ nhất định
nào đó với đối phương.
Một chiến thuật nằm gọn bên trong một
chiến lược của một chiến dịch, cũng như các chiến lược cho những
chiến dịch nằm gọn bên trong đại chiến lược. Mặc dù chiến lược còn
bao gồm những xét định rộng lớn hơn ngoài việc phải đấu tranh như
thế nào, nhưng chiến thuật luôn luôn quan tâm đến đấu tranh. Người
ta chỉ có thể hiểu được một chiến thuật trong tương quan với những
phương pháp mà chiến thuật đó sử dụng và như là một bộ phận của
chiến lược rộng lớn hơn của một chiến dịch.
Phương pháp
Muốn đạt được những kết quả tốt đẹp nhất
và việc thực thi các chiến lược đã được hoạch định một cách hữu hiệu
nhất, thì sự lựa chọn các “vũ khí” bất bạo động, hay là những phương
pháp cụ thể, sẽ cần phải được thực hiện một cách cẩn trọng và khôn
ngoan. Nhiều cuộc đấu tranh trong quá khứ đã được bắt đầu bằng sự
chọn lựa các phương pháp hành động cụ thể để sử dụng, thay vì bằng
sự thiết lập những kế hoạch dài hạn cho việc xúc tiến cuộc đấu
tranh. Chúng tôi không đề nghị làm như vậy. Ngược lại, trình tự khôn
ngoan hơn là thiết lập đại chiến lược trước tiên, rồi hoạch định
chiến lược cho một chiến dịch cá biệt. Chỉ lúc đó, những người lập
kế hoạch mới chọn lựa những chiến thuật và những phương pháp hành
động cụ thể thích hợp nhất. Những phương pháp sẵn có đã được liệt kê
ở Chương Bốn [5]. Ngoài ra còn có những phương pháp khác nữa.
Chúng ta cần nên duyệt lại những đặc tính
của ba loại phương pháp tổng quát đã được đề cập trước đây.
•Phản đối và thuyết phục: Những phương
pháp này gồm có những đêm không ngủ, diễn hành, các kiến nghị, làm
rào cản, và bãi công đột ngột. Những phương pháp này có những hiệu
quả phần lớn chỉ có tính biểu tượng và tạo một ý thức là có sự bất
đồng ý kiến.
•Bất
hợp tác: Những phương pháp này bao gồm những vụ tẩy chay xã hội, tẩy
chay kinh tế, những cuộc đình công lao động, và nhiều hình thái bất
hợp tác chính trị, bao gồm những vụ tẩy chay những chức vụ của chính
quyền, bất tuân dân sự, và nổi loạn. Những phương pháp bất bạo động,
nếu được áp dụng một cách phổ quát, thì có thể tạo những khó khăn
cho việc duy trì sự điều hành và hiệu năng bình thường của hệ thống
chính trị hoặc kinh tế của đối phương. Trong những trường hợp quá
khích, thì những phương pháp này có thể đe dọa sự tồn tại của chế
độ.
•Can thiệp:
Những phương pháp này bao gồm tuyệt thực, biểu-tình-ngồi, gây cản
trở bất bạo động, tạo ra hoặc tăng cường các cơ chế thay thế, và lập
chính quyền song hành. Những phương pháp này có những phẩm chất của
hai nhóm phương pháp trước đây, nhưng thêm vào đó có thể tạo ra một
thách thức trực tiếp hơn đối với chế độ của đối phương. Bằng cách
gây rối loạn đủ loại, những phương pháp này có thể — nhưng không bảo
đảm — sẽ tạo nên một tác dụng lớn hơn với số người tham gia ít hơn,
với điều kiện là can đảm và kỷ luật có thể duy trì được dù bị đàn
áp.
Trong nhiều
cuộc đấu tranh quan trọng, những phương pháp bất hợp tác đặc biệt
quan trọng bởi vì những phương pháp này có thể đe dọa khả năng vận
hành của hệ thống. Những phương pháp này đòi hỏi phải có kỹ năng
trong việc chọn lựa và áp dụng chúng. Lợi điểm của những phương pháp
bất hợp tác là, nếu được áp dụng trọn vẹn trong một thời gian lâu
đủ, thì chúng sẽ có tính cưỡng ép và ngay cả có thể phân hủy chế độ
của đối phương.
Những phương pháp bất hợp tác thường đòi hỏi nhiều thời gian và sự
tham gia của nhiều người mới tạo được tác dụng. Nhiều phương pháp
trong số những phương pháp can thiệp bất bạo động, trái lại, có thể
được áp dụng với một số người ít hơn. Tuy nhiên, những phương pháp
này thường đòi hỏi rất nhiều kỷ luật và chuẩn bị mới áp dụng thành
công được, và một số phương pháp này chỉ có thể áp dụng được trong
một thời gian có giới hạn mà thôi. Một vài trong số những phương
pháp can thiệp bất bạo động này còn có thể gặp phải sự đàn áp hết
sức khắc nghiệt nữa. Một vài phương pháp can thiệp bất bạo động, như
phương pháp chính quyền song hành chẳng hạn, đòi hỏi phải có sự ủng
hộ lớn lao.
Thường thường, các phương pháp áp dụng những áp lực khác nhau và sử
dụng những phương thức khác có thể được hỗn hợp với nhau một cách
hữu hiệu trong cùng một chiến dịch. Không thể đặt ra những luật ngắn
gọn được, nhưng những hỗn hợp hữu hiệu của những phương pháp đòi hỏi
phải có thiết kế chiến lược khôn ngoan.
Trong hầu hết các cuộc đấu tranh, người ta
sẽ sử dụng nhiều hơn là một phương pháp. Trong những trường hợp như
thế, thứ tự theo đó các phương pháp được áp dụng, những phương cách
theo đó các phương pháp được hỗn hợp với nhau, những phương pháp này
ảnh hưởng đến sự áp dụng những phương pháp khác như thế nào, và
những phương pháp này đóng góp vào cuộc đấu tranh như là một toàn bộ
như thế nào; tất cả đều trở nên rất quan trọng.
Đôi khi sự hỗn hợp các phương pháp tương
đối đơn giản, nhất là trong loại đấu tranh địa phương hay loại có
giới hạn. Những vụ tẩy chay kinh tế đã từng được sử dụng, chẳng hạn,
để hỗ trợ những cuộc biểu-tình-ngồi chống kỳ thị chủng tộc, và hàng
rào cản thường được sử dụng để hỗ trợ những cuộc đình công. Tuy
nhiên, khi một cuộc tổng đình công được sử dụng để ủng hộ hay chống
đối một vụ nổi loạn của quân đội chính quyền thì hoàn cảnh trở nên
phức tạp hơn, và nhiều phương pháp có thể được sử dụng.
Người nào lập kế hoạch cho đấu tranh bất
bạo động thì cần phải quen thuộc với tất cả những phương pháp đấu
tranh bất bạo động sẵn có để sẵn sàng áp dụng khi có thể được. Tác
dụng của các phương pháp khác nhau rất nhiều, dù cho những phương
pháp đó đã được áp dụng một cách sành sõi. Ví dụ, một vụ tuyệt thực
để phản đối do một nhân vật hết sức được trọng vọng thực hiện sẽ tạo
nên một hiệu quả rất khác với việc gây trở ngại hành chánh do công
chức thực hiện. Hiệu quả của vụ tuyệt thực hay gây trở ngại hành
chánh lại khác xa hiệu quả của một vụ tổng đình công trải rộng hay
của việc cảnh sát từ chối tìm và bắt những người đối kháng chính
trị. Cần phải chọn những phương pháp khác nhau cho những hoàn cảnh,
mục tiêu, và chiến lược khác nhau.
Chuyển ngữ: NGUYỄN VĂN THÁI, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư Thỉnh giảng -University of Pennsylvania, -St.
Joseph’s University, --Chestnut Hill College.
oOo
Người dịch chú thích:
[2]
Những định nghĩa này được Robert Helvey, Bruce Jenkins, và Gene
Sharp soạn thảo. Bản Ghi Nhớ Không Phát Hành, Viện Albert
Einstein.
[4]
Những định nghĩa này được Robert Helvey, Bruce Jenkins, và Gene
Sharp soạn thảo. Bản Ghi Nhớ Không Phát Hành, Viện Albert
Einstein
[5]
Muốn có định nghĩa đầy đủ về các phương pháp cùng với những thí
dụ lịch sử, xem Sharp, Chính Trị của Hành Động Bất Bạo Động, Phần
Hai, Những Phương Pháp Đấu Tranh Bất Bạo Động. Dĩ nhiên là còn có
nhiều phương pháp khác có sẵn hay sẽ được tạo nên.
Bài 3
Chọn
lựa phương pháp
Tác giả: Gene
Sharp
Chuyển ngữ:
Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư
Thỉnh giảng University of Pennsylvania, St. Joseph’s University,
-Chestnut Hill College.
Lời của dịch giả: Bài này cũng như bài trước là những trích đoạn có mục đích làm sáng tỏ những quan điểm về Đại Chiến lược, Chiến lược, Chiến thuật, và các Phương pháp cần được lựa chọn và sử dụng trong Đấu tranh Bất Bạo động (ĐTBBĐ); do đó, mạch văn có thể không liên tục.
oOo
Mỗi
chiến lược cá biệt đòi hỏi một sự chọn lựa kỹ lưỡng những phương
pháp đấu tranh bất bạo động sẽ được sử dụng, tiếp theo đó là sự
áp dụng sành sõi những phương pháp này. Những phương pháp cụ thể
quan trọng nhất sẽ được sử dụng cần phải có một sự tương quan rõ
rệt với các mục tiêu của chiến dịch hay của cuộc đấu tranh như là
một toàn bộ, và phải đóng góp như là phương tiện nhằm đạt những
mục tiêu này.
Số phương pháp áp dụng trong bất cứ một cuộc xung đột duy nhất
nào cũng biến đổi từ một đến cả hằng tá. Những phương pháp được
lựa chọn cần phải hợp với những vấn đề tranh chấp được nêu lên,
với phương thức tạo thay đổi đã được dự tính, với những khả năng
của dân chúng áp dụng những phương pháp đó, và với chiến lược đã
được lựa chọn cho chiến dịch. Những nhân tố khác cần được xét
định khi chọn các phương pháp bao gồm hoàn cảnh, các mục tiêu của
cả hai nhóm, nhóm đấu tranh bất bạo động lẫn nhóm đối phương,
những đặc tính của nhóm đối kháng và của nhóm đối phương, sự đàn
áp sẽ xảy ra, và sự phát triển dự tính của cuộc đấu tranh.
Đây là một số câu hỏi cần phải được đặt
ra. Câu hỏi rất quan trọng là: Những phương pháp đang được xét
định có đóng góp vào việc thực thi đại chiến lược đã được lựa
chọn và chiến lược cá biệt cho chiến dịch hay không? Những phương
pháp vừa nói có áp dụng những áp lực chống lại đối phương được
xác định là cần thiết cho sự thành công của cuộc đấu tranh hay
không? Ví dụ, nếu chiến lược xác định những áp lực kinh tế là
quan trọng hơn cả, thì có thể đòi hỏi cần phải có những phương
pháp kinh tế như là đình công lao động và những vụ tẩy chay kinh
tế. Ngược lại, nếu mục tiêu chiến lược là đánh đổ khả năng cai
trị của đối phương, thì có thể sẽ phải cần đến những phương pháp
đặc biệt về bất hợp tác chính trị để làm suy yếu hay cắt đứt sự
cung cấp các nguồn sức mạnh của chế độ bằng cách tấn công vào các
cột trụ chống đỡ.
Nếu những phương pháp đang được xét
định không trực tiếp thực thi các chiến lược cho những chiến dịch
và không trực tiếp áp dụng những áp lực cần phải có đã được xác
định, thì ít nhất những phương pháp này có giúp cho việc áp dụng
những phương pháp sẽ dùng những áp lực này được dễ dàng không,
như là bằng cách nâng cao tinh thần đối kháng hoặc làm lụn bại
tinh thần của đối phương không? Ví dụ, nếu đình công lao động là
phương pháp chính yếu đang được sử dụng theo kế hoạch chiến lược,
thì những phương pháp thứ yếu như làm hàng rào cản hay một cuộc
tẩy chay kinh tế có thể được sử dụng để hỗ trợ cuộc đình công.
Những phương pháp sẽ được sử dụng cũng
cần phải được lựa chọn với sự xét định là những phương pháp này
có thể giúp tạo thay đổi bằng những phương thức đấu tranh bất bạo
động đã được lựa chọn hay không, như: cải hoá, thích nghi, cưỡng
ép bất bạo động, hoặc phân hủy, như chúng ta đã thảo luận ở
Chương Ba Mươi Hai và Ba Mươi Ba. Ví dụ, một cuộc tuyệt thực kéo
dài có thể tác dụng đến cảm tình của người dân và có thể tranh
thủ được sự quảng bá rộng rãi. Tuy nhiên, một cuộc tổng đình
công, một cuộc bãi công đột khởi của công chức, hay một sự nổi
loạn của quân đội có thể làm tê liệt chế độ, tạo nên cưỡng ép bất
bạo động. Các phương pháp và các phương thức tạo thay đổi phải
phù hợp với nhau.
Một nhân tố quan trọng nữa trong việc
lựa chọn các phương pháp là thể loại đàn áp và những biện pháp
phản công khác được chờ đợi sẽ xảy ra. Tập thể dân chúng, những
người đối kháng, và những người lãnh đạo phong trào được chuẩn bị
để chịu đựng đàn áp đến mức độ nào trong lúc vẫn tiếp tục đối
kháng và thách thức?
Thêm nữa, số người đối kháng có được
cũng rất quan trọng trong việc lựa chọn các phương pháp và những
phương thức tạo thay đổi. Kêu gọi một cuộc tổng đình công mà chỉ
có được 20 người tình nguyện tham gia thì hiển nhiên là một điều
không khôn ngoan. Tuy nhiên, bằng một phương pháp khác, như tuyệt
thực chẳng hạn, 20 người, tùy họ là ai, có thể kêu gọi được sự
chú ý đáng kể đến sự khiếu nại và gây được áp lực tâm lý và tinh
thần lớn lao có thể dẫn đến hành động mạnh hơn. Một hành động
giới hạn như thế tuy nhiên vẫn cần phải được xúc tiến với những
chuẩn mực hành vi hết sức cao về phía những người tham dự.
Những hiệu quả do các phương pháp tạo
ra trong việc phát triển phong trào cũng quan trọng. Những phương
pháp này có đóng góp vào việc phát triển tiệm tiến của phong
trào, vào việc thay đổi thái độ, vào việc thay đổi các tương quan
lực lượng, vào sự chuyển đổi sự ủng hộ đối với mỗi bên, và vào
việc áp dụng và những tác dụng sau này của những phương pháp bất
bạo động mạnh hơn hay không?
Trong khi chọn phương pháp thì ta nên
nhớ rằng khiến người ta đừng làm một điều gì đã được chỉ thị phải
làm thì dễ hơn là khiến người ta làm một điều gì mà người ta
không thường làm. Điều này đặc biệt đúng khi hành động đòi hỏi
nhiều mạo hiểm hay là bị cấm đoán.
Trong lúc đấu tranh
Những phương pháp cụ thể cần phải được
lựa chọn để khởi động cuộc đấu tranh. Những phương pháp này có
thể chỉ có tính biểu tượng, hay là có thể tham vọng hơn, như tung
ra một một cuộc đình công. Lúc bắt đầu một chiến dịch, các chiến
lược gia đấu tranh bất bạo động có thể cố tình sử dụng những
phương pháp tương đối yếu để trắc nghiệm, qua phản ứng của dân
chúng, xem dân chúng có sẵn lòng sử dụng những phương pháp mạnh
hơn và có thể chịu đựng nổi đàn áp khắc nghiệt hơn như là cái giá
phải trả để đánh đổi thành công hay không.
Một khi cuộc đấu tranh đã tiến hành thì
cũng cần phải duyệt lại chiến lược trước đây đã được chọn cho
cuộc xung đột để quyết định xem có cần phải sắp thời biểu cho
việc áp dụng những phương pháp phụ thêm hay cần phải thay đổi
phương pháp. Chỉ sử dụng một số ít phương pháp có phương hại đến
sự thành công của cuộc đấu tranh hay không, hay là một sự giới
hạn như thế là cần thiết để có thể tập trung các áp lực lên đối
phương? Những người đối kháng có thể chịu đựng nổi các áp lực và
đàn áp của đối phương khi đối phương tập trung hành động của họ
vào mấy điểm đã được lựa chọn này hay không? Chuyển đổi các
phương pháp có cần thiết để duy trì sự uyển chuyển của cuộc đấu
tranh đang phát triển hay không?
Còn nhiều câu hỏi nữa cần phải được
giải đáp. Những phương pháp được lựa chọn có giúp tranh thủ hay
duy trì được sáng kiến trong cuộc đấu tranh hay không? Nếu những
phương pháp lựa chọn được dự tính là sẽ áp dụng trên bình diện
rộng lớn, thì những phương pháp này thực sự có thể lan rộng ra
được không? Nếu những phương pháp lựa chọn đòi hỏi phải có huấn
luyện hay những chuẩn bị đặc biệt – do đó chỉ thích hợp cho những
nhóm tuyển chọn nhỏ — thì những chuẩn bị như thế đã có sẵn chưa?
Nếu những phương pháp lựa chọn cần được áp dụng bởi những đám
đông quần chúng, thì việc sử dụng những phương pháp này có thể
được lặp lại trên bình diện rộng lớn mà không cần huấn luyện hay
những chuẩn bị đặc biệt hay không?
Chuyển từ một mức hành động này đến một
mức khác – như từ những phản đối có tính biểu tượng đến bất hợp
tác, và từ bất hợp tác đến can thiệp– có thể lôi kéo một sự gia
tăng tiệm tiến về mức độ đàn áp cần phải mạo hiểm. Đi ngược lại,
chọn bất hợp tác thay vì can thiệp đôi lúc có thể giúp tạo ra
được một hoàn cảnh xung đột tương đối ít có tính bùng nổ và nguy
hiểm và đàn áp tương đối ít khắc nghiệt hơn. Tuy nhiên, những
tương quan giữa các cấp độ phương pháp và sự khắc nghiệt của đàn
áp không thể áp dụng được cho tất cả mọi hoàn cảnh và chống lại
mọi đối thủ được. Những phương pháp rất nhẹ nhàng có lúc vẫn có
thể gặp phải đàn áp tàn bạo, nhất là khi đối phương là một chế độ
không chấp nhận những biểu thị công khai về bất đồng ý kiến hay
đối lập.
Trong
một cuộc đấu tranh lâu dài, phân chia thành giai đoạn thường rất
quan trọng. Chọn lựa các mục tiêu và sự chọn lựa và trình tự của
các phương pháp có thể là những nhân tố quan trọng nhất trong
việc phân giai đoạn. Thường thì một số hành động nhẹ nhàng cần
phải đi trước những hành động khác để việc sử dụng những hành
động mạnh hơn có thể đi tiếp theo sau. Quyết định khi nào cần
tiến đến một giai đoạn mới trong cuộc đấu tranh cần phải được cân
nhắc cẩn thận. Những chuyển đổi phương pháp như thế có thể giúp
tránh được tình trạng bất động và duy trì được sáng kiến...
Ông [Gandhi] dùng sự tẩy chay của giới
tiêu thụ để thử nghiệm xem đã sẵn sàng để dùng phương pháp bất
tuân dân sự được hay chưa. Gandhi viết năm 1921: “Tôi tin chắc là
nếu chúng ta thực hiện được việc tẩy chay hàng vải ngoại thành
công thì chúng ta sẽ đã có thể tạo ra được một khung cảnh cho
phép chúng ta đánh dấu sự khởi đầu bất tuân dân sự ở một mức độ
mà không có một Chính quyền nào có thể cưỡng lại được.”
Năm 1920 Gandhi đã phúc trình ở Ấn Độ
Trẻ Trung là những người tổ chức phong trào bất hợp tác sắp tới
đã quyết định là phong trào phải được xúc tiến theo bốn giai
đoạn: 1) từ bỏ những chức vụ và tước vị danh dự, 2) tuần tự tự
động rút lui không làm việc cho chính phủ, 3) rút cảnh sát và
quân đội ra khỏi dịch vụ của chính phủ (“một mục đích xa”), và 4)
ngưng trả các thứ thuế (“một mục đích xa hơn nữa”). Giai đoạn một
đòi hỏi nguy hiểm và hy sinh tối thiểu, hai giai đoạn cuối thì
đem lại nhiều nguy hiểm hơn cả.
Phong trào 1930-1931 được thiết kế theo
một chiến lược khác, bắt đầu bằng những phản đối bất bạo động,
như là chính cuộc Diễn Hành Chống Thuế Muối và những cuộc
mít-tinh đông đảo, và những hình thức bất hợp tác chính trị nhẹ
nhàng, như những vụ rút lui có giới hạn ra khỏi ngành lập pháp ở
cấp tỉnh — tất cả đều chỉ đòi hỏi một số ít người. Phong trào
quần chúng tự nó trực tiếp bắt đầu bằng sự bất tuân dân sự về một
luật bị xem là trái với đạo đức, rồi phát triển ra bao gồm những
hình thức bất hợp tác nhẹ nhàng lẫn những hình thức bất hợp tác
triệt để hơn và can thiệp bất bạo động.
Chọn lựa chiến lược và chiến
thuật
Chiến lược tổng quát, các loại chiến
thuật, và sự lựa chọn các phương pháp đã được những người lãnh
đạo thực hiện sẵn, thường sẽ quyết định hướng đi đại thể và cách
điều hành chiến dịch suốt cuộc đấu tranh. Việc chọn lựa này do đó
hết sức quan trọng. Cũng như trong chiến tranh, rất nhiều nhân tố
cần được xét định khi lựa chọn chiến lược và các chiến thuật. Tuy
nhiên, những động cơ và phương thức khác nhau của đấu tranh bất
bạo động hình như làm cho sự tương quan giữa những nhân tố này
đậm nét và phức tạp hơn là trong đấu tranh quân sự.
Nền tảng cho công tác này là cẩn trọng
xét định các mục tiệu chính và phụ của đối phương, và những mục
tiêu khác nhau của nhóm bất bạo động. Đánh giá chính xác các ưu
và nhược điểm của đối phương và của chính mình, và xét định những
ưu khuyết điểm này khi thiết kế chiến lược và các chiến thuật là
một điều hết sức quan trọng. Không làm như vậy có thể đưa tới
hoặc những kế hoạch quá tham vọng gây nên thất bại vì không dựa
trên thẩm định thực tế về những gì có thể thực hiện được, hoặc
những kế hoạch quá nhút nhát dẫn đến thất bại chính vì nhắm đến
quá ít. Thẩm định các ưu điểm và bản chất của đối phương có thể
giúp lãnh đạo bất bạo động phác họa một đường hướng đấu tranh rất
có thể tạo ra hoặc làm trầm trọng thêm các nhược điểm và các
tranh chấp nội bộ trong hàng ngũ của họ. Thẩm định đúng những
nhược điểm của chính nhóm bất bạo động có thể dùng vào việc lựa
chọn chiến lược và các chiến thuật với dụng ý tránh những nhược
điểm này, và cũng có thể đóng góp vào việc làm cho các nhược điểm
đó trở thành vững chắc hơn. Cần có những phỏng định là cuộc đấu
tranh sắp tới sẽ kéo dài bao lâu và những phỏng định như thế rất
quan trọng đối với việc hoạch định đường hướng đấu tranh. Nhưng
cũng cần phải dự trù khi phỏng định sai lệch và phải có những
chiến lược phòng hờ nhỡ khi cuộc đấu tranh kéo dài thay vì ngắn
ngủi.
Cẩn
trọng xét định những nhân tố khác trong hoàn cảnh tổng quát sẽ
cần thiết cho việc quyết định xem các điều kiện có thuận lợi để
tung ra hành động bất bạo động hay không, và, nếu được, thì các
điều kiện tổng quát và cụ thể của hoàn cảnh có nghĩa gì đối với
việc hoạch định chiến lược. Sibley đã từng nhấn mạnh là
“...
Việc sử dụng đối kháng bất bạo động hữu hiệu tùy thuộc không
những chỉ vào huấn luyện đầy đủ và dấn thân mà còn tùy thuộc vào
hoàn cảnh “khách quan” nữa: những điều kiện ngoại tại phải chín
mùi thì chiến dịch mới có hiệu quả, và nếu không thì sự khôn
ngoan và đạo đức buộc không nên dùng đối kháng bất bạo động.”
Gandhi khẳng quyết là khi thiết kế và
thi hành chiến lược và các chiến thuật của cuộc đấu tranh, những
người lãnh đạo cần phải đáp ứng những những phẩm chất đã được
chứng minh của phong trào và hoàn cảnh đang diễn biến:
“Trong
chiến dịch đấu tranh bất bạo động (satyagraha) phương thức đấu
tranh và sự lựa chọn các chiến thuật, ví dụ, nên tiến hay nên
thoái, đưa ra đối kháng dân sự hay là tổ chức sức mạnh bất bạo
động qua công việc hữu ích và dịch vụ nhân đạo hoàn toàn vị tha,
đều được quyết định tùy theo yêu cầu của hoàn cảnh.”
Chiến lược và chiến thuật dĩ nhiên là
lệ thuộc vào nhau. Những chiến thuật chính xác chỉ có thể vạch ra
được trong bối cảnh của chiến lược toàn bộ và của sự hiểu biết
thấu đáo về toàn cảnh và những phương pháp cụ thể có thể sử dụng
được. Chọn lựa và thực hiện khéo léo các chiến thuật không bù trừ
cho một chiến lược toàn bộ dở được, và một chiến lược hay cũng sẽ
bất lực nếu không được thi hành nhằm thực hiện các chiến thuật
đúng đắn: “...chỉ những kết quả lớn lao của chiến thuật mới đem
lại những kết quả lớn lao về chiến lược...”
Liddell Hart đưa ra ý kiến là đường lối
đấu tranh phải có nhiều hơn là một mục tiêu.
“Hãy
nắm lấy một phương thức hoạt động có nhiều mục tiêu có thể luân
hoán cho nhau. Như thế bạn sẽ đặt đối phương vào thế tiến thối
lưỡng nan, bảo đảm bạn đạt được ít nhất là một mục tiêu — mục
tiêu mà đối phương ít phòng thủ nhất – và có thể giúp bạn đạt
được cứ mục tiêu này rồi đến mục tiêu khác.
Nhiều mục tiêu luân hoán cho phép bạn
nắm giữ cơ hội đạt được một mục tiêu; trong lúc chỉ một mục tiêu
duy nhất, trừ phi kẻ thù yếu kém một cách tuyệt vọng, thì chắc
chắn có nghĩa là bạn sẽ không đạt được mục tiêu đó — một khi kẻ
thù không còn nghi ngờ gì về mục đích của bạn nữa. Không có lỗi
lầm nào thông thường hơn là nhầm lẫn giữa một đường lối hoạt động
duy nhất, thường là một điều khôn ngoan, với một mục tiêu duy
nhất, thường là một điều vô tích sự.”
Dù sao thì điều này một phần lớn cũng
thường xuyên xảy ra trong hoạt động bất bạo động dù không có kế
hoạch gì cả, vì nhóm bất bạo động thường vừa nhằm đạt những mục
tiêu nào đó vừa nhằm đạt những thay đổi tổng quát về thái độ và
tương quan lực lượng trong mỗi nhóm và giữa các nhóm đang chống
đối nhau. Những thay đổi tổng quát này thường xảy ra trong suốt
thời gian của cuộc xung đột, và có thể đạt được ở một mức độ khả
quan ngay cả trong những trường hợp không đạt được mục đích chính
trị. Tuy nhiên, cần phải lưu ý đến khả năng áp dụng nguyên tắc
chiến lược của Liddell Hart vào những mục tiêu cụ thể có giới
hạn, với điều kiện là điều này không vi phạm nguyên tắc tập trung
đã được thảo luận trước đây.
Sự diễn biến tiệm tiến của phong trào,
một phần nào mang sắc thái của những phương pháp hành động mới
được đưa vào theo sự thu xếp sẵn (như đã thảo luận ở phần trước),
cũng sẽ đem lại kết quả nếu được thiết kế chiến lược cẩn thận.
Diễn biến như thế sẽ giúp bảo đảm là sửa đổi phương pháp hay
đường lối hoạt động mới sẽ đóng góp vào việc sử dụng tối đa lực
lượng của những người hoạt động, tạo điều kiện để lên tinh thần,
và gia tăng xác suất thắng lợi. Không có một nhận thức chiến lược
sáng suốt thì những thay đổi từ loại hành động này sang loại hành
động khác có thể xảy ra mà không có mục đích hay hiệu quả, và
những kết quả nản lòng sau đó có thể dẫn đến trước tiên là sự gia
tăng hoài nghi về chuyện gì cần làm, tiếp đến là mất tinh thần,
và sau cùng là sự tan rã của phong trào bất bạo động.
Phân giai đoạn có chiến lược những
chiến dịch bất bạo động dĩ nhiên không phải là điều mới mẻ. Tuy
nhiên hiểu thấu đáo hơn bản chất của kỹ thuật này và của những
nguyên tắc chiến lược có thể làm cho việc phát triển đầy đủ và
việc sử dụng có hiệu quả một sự phân chia giai đoạn như thế khả
thi hơn là trước đó. Ba thí dụ có trước về việc phân giai đoạn sẽ
được trình bày ở đây. Hội nghị cấp tỉnh của Virginia [Provincial
Convention of Virginia], họp vào khoảng đầu tháng Tám, năm 1774,
đã phác hoạ ra một chiến dịch bất hợp tác kinh tế có giai đoạn
nhằm đạt những mục tiêu đã hoạch định sẵn. Hội nghị định ngày cho
việc thực hiện những giai đoạn mới của chiến dịch, có thể thay
đổi tùy theo sự thoả thuận của những đại biểu của Virginia trong
Đại Hội Lục Địa [Continental Congress]. Bắt đầu ngay là không
nhập cảng và không dùng trà. Nếu Boston bị ép buộc phải hoàn tiền
về các tổn thất (như tổn thất trà trong vụ Boston Tea Party) cho
Công Ty Đông Ấn [East India Company] thì việc tẩy chay sẽ nới
rộng đến tất cả các hàng hoá do công ty bán cho đến khi nào số
tiền này được trả lại. Vào ngày mồng 1 tháng Mười Một đã có một
cuộc tẩy chay toàn bộ tất cả các hàng hoá (ngoại trừ thuốc men)
nhập cảng trực tiếp hoặc gián tiếp từ Anh quốc, bao gồm tất cả
những nô lệ bất cứ từ đâu đem đến. Nếu những yêu sách từ thuộc
địa không được đáp ứng trước ngày 10 tháng Tám, năm 1775 (tức một
năm sau) thì sẽ áp dụng một chương trình tuyệt đối không xuất
cảng tất cả mọi thứ hàng hoá sang Anh quốc. Thời gian một năm
trước khi chương trình không xuất cảng có hiệu lực giúp người Mỹ
trả nợ cho những thương gia Anh, và giúp những nhà trồng thuốc lá
ở Virginia chuyển sang trồng các nông phẩm khác có thể dùng được
ở địa phương. Chiến dịch có giai đoạn được người dân Virginia
soạn thảo này là tiền thân của chương trình mà Đại Hội Lục Địa
Lần Thứ Nhất [First Continental Congress] chấp thuận.
Một chiến dịch hành động của nông dân
có giai đoạn được phát động ở Nga bởi Đại Hội Hiệp Hội Nông Dân
lần thứ Hai [Second Congress of the Peasants Union], họp tại
Moskow tháng Mười Một năm 1905, trong thời gian cách mạng của năm
này. Hội Nghị kêu gọi sử dụng những phương pháp dùng áp lực hoà
bình (như là tập thể nông dân từ chối mua hay mướn đất của địa
chủ) để đạt được việc chuyển nhượng đất đai cho nông dân. Nếu
những phương pháp này không đem lại kết quả thì Hiệp Hội sẽ kêu
gọi một cuộc tổng đình công điền thổ để trùng hợp với một cuộc
tổng đình công ở các đô thị. Nếu chính quyền Nga hoàng sách nhiễu
Hiệp Hội thì Hiệp Hội sẽ kêu gọi nông dân khước từ trả thuế và
phục vụ trong quân ngũ.
Những người chủ trương Liên Châu Phi
[Pan-Africanists] tại Nam Phi đã vạch kế hoạch cho một chiến dịch
thách thức các Luật Thông Hành [Pass Laws] vào mùa Xuân năm 1960
đơn giản như là giai đoạn một của một cuộc đấu tranh dài hạn gồm
có ba mặt trận: 1) chính trị, với mục đích quốc tế cô lập Nam Phi
(bao gồm việc kết án của Liên Hiệp Quốc và trục xuất ra khỏi Liên
Hiệp Anh) và mục đích quốc nội chấm dứt hợp tác và phục tùng của
người Phi mà chính quyền phải lệ thuộc; 2) lao động, rút lui lao
động rẻ do người Phi cung cấp sẽ đưa đến sụp đổ về kinh tế, và do
đó đình công tại gia đã được thiết kế để khuyến dụ các nhà kỹ
nghệ đòi hỏi chính quyền thay đổi chính sách; và 3) tâm lý, người
Phi châu sẽ “khám phá ra được sức mạnh mà họ có, mà không cần vũ
khí và họ sẽ không bao giờ như trước nữa.” Tuy nhiên, mặc dù có
tư duy sáng suốt và kế hoạch vững chắc cho một chiến dịch có giai
đoạn, tổ chức vẫn không dự tính trước được là chính quyền đã chộp
lấy sáng kiến và tuyên bố tình trạng khẩn trương.
Mặc dù những chiến thuật cụ thể cho các
giai đoạn về sau của cuộc đấu tranh không thể hoạch định trước
được, người ta vẫn có thể khai phá một số phương sách tổng quát
để sau này xét định. Tuy vậy, những chiến thuật để sử dụng ở giai
đoạn đầu (và có thể ở giai đoạn giữa) vẫn có thể được chọn lựa
trước một cách thành công nếu người ta tiên đoán được chính xác
hoàn cảnh và hình thái của cuộc tấn công.
Có nhiều phương thức có thể sử dụng
được trong các chiến thuật, liên hệ đến các mặt trận, các nhóm,
các thời điểm, các phương pháp và nhân tố khác nhau. Ví dụ, gánh
nặng trách nhiệm thực thi hành động, sau một khoảng thời gian nào
đó hay một số biến cố chính trị nào đó, có thể được chuyển giao
từ nhóm này đến nhóm khác, hay là những vai trò khác nhau có thể
được giao phó cho các nhóm nào đó. Những công tác nguy hiểm nhất
(liên quan đến, ví dụ như, việc sử dụng các phương pháp táo bạo
hơn cả, như những phương pháp can thiệp bất bạo động) có thể được
giao phó cho các nhóm có kỷ luật thật cao, có kinh nghiệm, có kỹ
năng, hoặc có huấn luyện, trong lúc những công tác khác quan
trọng nhưng ít nguy hiểm hơn có thể do các nhóm tiêu biểu cho
quần chúng nói chung chịu trách nhiệm. Có lúc một số trách nhiệm
lại rơi vào những nhóm thuộc các ngành nghề hay địa phương nào đó
vì các chánh sách hay hành động của đối phương. Ở nơi nào những
người đấu tranh bất bạo động nắm được sáng kiến thì họ có thể có
chủ ý chọn tung ra nhiều hành động cùng một lúc trên nhiều mặt
trận nếu sức mạnh của họ và hoàn cảnh tổng quát cho phép. Có lúc
các chiến thuật lại có thể liên hệ với những mặt trận địa lý cũng
như với những mặt trận chính trị, như khi sử dụng các vụ đột kích
bất bạo động hoặc gây chướng ngại; tuy vậy, thường thì sẽ không
có mặt trận địa lý và cuộc đối kháng sẽ tản mát và tổng quát hơn,
như trong trường hợp đình công tại gia. Việc lựa chọn các chiến
thuật sẽ chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi những mục đích trung hạn và
dài hạn của những người đấu tranh bất bạo động, và bởi những
phương thức được sử dụng để tạo thay đổi. Những loại chiến thuật
khác nhau sẽ tạo ra những khó khăn khác nhau cho kẻ tiếm quyền và
có những hiệu quả khác nhau đối với dân chúng bất bạo động.
Thay đổi chiến thuật có thể quan trọng
để đem lại cái mới và thích thú (và thường bắt thông tin) đối với
chiến dịch. Những thay đổi như thế còn có thể phục vụ những mục
đích khác nữa, như là lôi kéo những thành phần khác trong dân
chúng, gia tăng áp lực tâm lý, chính trị và kinh tế lên đối
phương, trải rộng hay thâu tóm mặt trận để trắc nghiệm kỷ luật,
tinh thần và khả năng của những người đấu tranh bất bạo động. Các
thay đổi chiến thuật có thể được thiết kế để đạt những hiệu quả
khác nhau đối với đối phương, với lãnh đạo, với người bàng quang,
hay là với cảnh sát và quân đội được giao phó trách nhiệm đàn áp.
Ví dụ, Ebert nói đến việc chủ ý sử dụng những nhóm biểu tình nhỏ
(thay vì những nhóm lớn) trong một vài trường hợp và khoảng cách
thời gian giữa những cuộc biểu tình (thay vì biểu tình liên tục)
như là một phương cách giảm thiểu sự tàn bạo trong việc đàn áp,
để làm cho cảnh sát và quân đội của đối phương dễ thấy là những
người đấu tranh cũng là những con người cá biệt, và làm cho cho
họ có thì giờ suy nghĩ và suy xét lại trong khoảng thời gian giữa
những lần biểu tình.
Việc tung ra chiến lược và ứng dụng các
chiến thuật trong những hành động cụ thể thường xảy ra trong bối
cảnh cảm nhận được hay phản ứng lại hoàn cảnh xung đột đang diễn
tiến. Những kế hoạch rất cẩn thận và chính xác có thể đã được
chuẩn bị để bắt đầu tấn công. Tuy nhiên sau khi bắt đầu cuộc đấu
tranh, cần phải dự trù có sự uyển chuyển trong việc phát triển
thêm, sửa đổi và áp dụng chiến lược và các chiến thuật. Liddell
Hart đã nhấn mạnh sự quan trọng của sự uyển chuyển trong việc
phác họa và ứng dụng một đường lối hành động có tính trước:
“Hãy
nắm chắc là kế hoạch lẫn bố trí phải uyển chuyển – có thể thích
nghi với hoàn cảnh. Kế hoạch nên thấy trước và phải cung ứng một
bước tiếp theo sau trong trường hợp thành công hoặc thất bại, hay
là chỉ thành công phần nào thôi — điều xảy ra thường xuyên nhất
trong chiến tranh. Các bố trí (hay đội hình) phải làm thế nào để
có thể khai thác được điểm này hoặc là thích nghi trong một thời
gian ngắn nhất.”
Khả năng phản ứng lại những biến cố
không thấy trước (hoặc là không thể thấy trước được) cần phải
được phát huy cho thật sắc bén. Đặc biệt quan trọng là phản ứng,
tinh thần và hành động của những người đấu tranh bất bạo động và
những ủng hộ viên có thể có. Nếu họ chứng tỏ là không được chuẩn
bị hoặc quá yếu để có thể thi hành các kế hoạch, thì các kế hoạch
này phải được thay đổi, bằng cách hoặc thực hiện “một bước ngoạn
mục đập vào óc tưởng tượng của người dân, và phục hồi niềm tin là
có thể hoàn toàn đối kháng bằng bất bạo động,” hay là bằng cách
kêu gọi tạm lui bước để chuẩn bị cho nỗ lực mạnh hơn trong tương
lai. Không có gì thay thế, hay là có đường tắt cho sức mạnh của
một phong trào hoạt động bất bạo động. Nếu không có được sức mạnh
và khả năng cần thiết để kiên trì trước những trừng phạt và đau
khổ thì thực tế này cần phải được nhìn nhận và cần có một phản
ứng sáng suốt. “Một vị tướng khôn ngoan không đợi cho đến lúc ông
ta bị đuổi chạy; ông rút quân kịp thời và trật tự ra khỏi vị trí
mà ông biết là ông không thể trấn giữ được.” Lãnh đạo, cũng như
trong xung đột quân sự, sẽ phải thành thật nhìn nhận những nhược
điểm của những người tình nguyện và các ủng hộ viên tương lai để
tìm cách sửa chữa các nhược điểm đó. Phương tiện để thực hiện
điều này biến đổi tùy theo các điều kiện của từng hoàn cảnh.
Mặt khác, cuộc đấu tranh có thể cho
thấy những nhược điểm trầm trọng của đối phương đòi hỏi những
người đấu tranh phải tức khắc thay đổi chiến thuật và tăng tốc
nhịp độ của cuộc đấu tranh. Cũng có lúc cuộc đấu tranh có thể cho
thấy là những người đấu tranh bất bạo động và quần chúng mạnh hơn
là mong đợi, và do đó có thể tiến nhanh hơn trên cơ sở vững chắc
hơn là như đã từng quan niệm trước đó.
Giáo Sư Nguyễn văn Thái
Nguyên Giáo Sư Thỉnh giảng
-University of Pennsylvania, -St. Joseph’s University, --Chestnut
Hill College.
Bài 4
Tiếp
Thu Kiến Thức Mới
Tác giả: Gene
Sharp
Chuyển ngữ:
Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư
Thỉnh giảng University of Pennsylvania, St. Joseph’s University,
-Chestnut Hill College.
oOo
Đã
bao năm rồi, vài người trong chúng tôi hằng lưu tâm đến việc áp
dụng đấu tranh bất bạo động
[1] nhằm giải phóng khỏi áp bức, đã
tập trung vào việc cung ứng sự hiểu biết căn bản cần thiết về
hành động bất bạo động và về sự quan trọng của việc lập kế hoạch
chiến lược qua các bài giảng, khóa học, và hội thảo. Những học
hội này được cung ứng bởi một người hoặc một toán, trong hơn một
thập kỷ nay ở nhiều quốc gia khác nhau tại Âu châu và Á châu.
Nội dung của một vài bài thuyết trình
này chỉ có tính cách dẫn nhập, nhưng còn một số khác thì cao cấp.
Đôi khi những bài thuyết trình này được trình bày như một khóa
học kéo dài đến hai tuần với lớp học cả sáng lẫn chiều. Một khóa
hội thảo hai tuần lễ cùng với những bài giảng thường tập trung
vào việc làm thế nào để hội thảo viên có thể sau này soạn được kế
hoạch của một đại chiến lược cho những cuộc đấu tranh của họ.
Các bài giảng, khóa học, và khóa hội
thảo lúc bấy giờ tỏ ra là đầy đủ. Còn bây giờ thì chúng được đánh
giá như thế nào?
Rõ ràng là thuyết trình có thể hữu ích
và có hiệu quả trong việc dẫn nhập bộ môn cho những người mới và
kích thích sự tò mò ở những nơi mà trước đó chưa ai để ý hoặc
không hề để ý. Thuyết trình dưới dạng “huấn luyện” trước một cuộc
biểu tình nào đó cho một chiến dịch có giới hạn có thể rất hữu
ích cho việc chuẩn bị những người tham gia có được những hành vi
mang lại hiệu quả trong thời gian biểu tình có kế hoạch.
Những kết quả tích cực này của một số
thuyết trình quan trọng, nhưng không đủ để giúp người ta soạn kế
hoạch chiến lược. Hình như đã rõ ràng là kiến thức và sự hiểu
biết về việc lập kế hoạch chiến lược và các áp dụng ở mức cao
không thể truyền đạt được một cách thỏa đáng chỉ bằng cách nói
chuyện hay hội thảo. Kết luận này cũng đúng đối với các buổi thảo
luận, mặc dù một vài tham dự viên đã có biết nhiều rồi. Cũng đúng
đối với các bài giảng, dù cho các giảng sư rất có kiến thức và
kinh nghiệm.
Thuyết trình không mà thôi thì thực sự không đủ để: Chuyển đạt
kiến thức cao; và Đào tạo người nghe thực hiện được các phân tích
chiến lược.
Sau một thời gian đã qua đi, các nhóm đã từng hấp thụ các bài
giảng, khóa học, và hội thảo vẫn tỏ ra là tự mình chưa có khả
năng lập kế hoạch đại chiến lược cho những cuộc đấu tranh của họ.
Các nhóm này thường cũng không có khả năng ngay cả trong việc
soạn chiến lược cho những chiến dịch có giới hạn, hạn hẹp hơn,
nhắm đến những mục đích khiêm nhường hơn.
Sau một thời gian lâu dài thì thường
còn lại ít bằng chứng là kiến thức và sự hiểu biết căn bản được
trình bày trước đó đã được các tham dự viên hấp thụ đủ để tác
động lên những quyết định và hoạt động của họ sau này, càng ít
hơn nữa là làm cho họ có khả năng lập kế hoạch các chiến lược.
Nhiều người bị giới hạn về khả năng
hiểu những điều mà họ chỉ được nghe bằng tai. Hình như là lượng
và loại kiến thức và sự hiểu biết cần có về đấu tranh bất bạo
động vừa quá bao la vừa quá phức tạp nên khó có thể hấp thụ được
dễ dàng bằng cách chỉ nghe thuyết trình không mà thôi.
Phương thức “đào tạo huấn luyện viên”
cũng gây được sự chú ý đáng kể. Nhìn qua thì phương thức này tỏ
ra rất hữu ích như là một cách giúp số đông người trở thành những
người hành động bất bạo động có khả năng cho những cuộc biểu tình
trong tương lai. Huấn luyện dựa trên mô thức này có thể đóng góp
một cách hữu ích cho mục đích rõ rệt như thế. Tuy nhiên, phương
thức này thực không chắc thành công đối với những mục đích cao.
Phương thức này theo định nghĩa thì hầu
như không thể đào tạo được bất cứ ai lập được kế hoạch chiến lược
ở bất cứ cấp độ nào. Lý do là vì phương thức này đã tầm thường
hóa lượng kiến thức cần có cho một người muốn lập kế hoạch chiến
lược. Phương pháp này còn cho rằng kiến thức và sự hiểu biết cần
thiết có thể chuyển đạt được một cách thành công bằng cách nói
chuyện hai lần rồi đem ra áp dụng vào việc lập kế hoạch chiến
lược. Điều đó hết sức đáng quan ngại. Sự hướng dẫn lập kế hoạch
chiến lược cung ứng trong tập tài liệu này vẫn có ý nghĩa.
Có nhiều lý do chính đáng để tìm hiểu
thêm những phương cách theo đó các nhóm bị áp bức có thể học hỏi
làm thế nào để lập kế hoạch chiến lược cho những cuộc đấu tranh
giải phóng của họ. Có thể là kiến thức và sự hiểu biết cần có có
thể được hấp thụ tốt hơn nếu được chuyển đạt bằng một vài phương
tiện khác.
Những kinh nghiệm Baltic và Balkan
Có ít nhất là hai trường hợp chính yếu
có kết quả tốt đẹp một cách bất thường nhờ tiếp cận thông tin về
đấu tranh bất bạo động. Đây là những trường hợp tham vấn với các
nhà lãnh đạo đòi độc lập ở Lithuania, Latvia, và Estonia năm 1991
và khóa hội thảo năm 2000 cho những người Serbs muốn chấm dứt nền
độc tài Milosovic. Hai trường hợp này đủ khác với những trường
hợp khác để đáng được ta lưu ý.
Ba quốc gia nhỏ bé vùng Baltic này,
trước kia độc lập, bị nhập vào Liên Bang Sô Viết, bị Đức Quốc Xã
chiếm đóng, rồi lại bị sát nhập trở lại vào Liên Bang Sô Viết.
Những biến cố này đem lại những thay đổi bi thảm, tàn phá trầm
trọng, những vụ giết người tập thể, những vụ trục xuất vĩ đại,
những biến đổi lớn lao về dân số, và sự áp đặt các chế độ bạo
tàn. Đối kháng đủ loại đã được thực hiện chống lại những biện
pháp này. Kháng chiến du kích tầm cỡ đã được xúc tiến chống lại
nền cai trị của Sô Viết, tại Lithuania (1944 đến 1952), Latvia
(1941 đến 1944-1945), và Esotnia (từ 1944 đến khoảng 1949).
Tiếp theo sau khi các cuộc đấu tranh du
kích chấm dứt, và ở một mức độ nào đó trong thời gian này, dân
chúng đã tiến hành những vụ phản đối và đối kháng bất bạo động
hết sức quan trọng. Những hoạt động này được thi hành vào những
năm về sau với sự khuyến khích hoặc hỗ trợ của các chính đảng ủng
hộ độc lập, sau này được bầu làm chính phủ ủng hộ độc lập.
Những phong trào đầu mùa này hoàn toàn
do địa phương, và, theo như biết được, thì không bị ảnh hưởng,
hoặc rất ít bị ảnh hưởng, bởi những nguồn thông tin từ bên ngoài
về đấu tranh bất bạo động.
Sau khi những phản đối và đối kháng bất
bạo động rất đáng kể đã xảy ra rồi thì những tham vấn về đấu
tranh bất bạo động và về phòng vệ
[2] dựa trên nền tảng dân sự
mới được cung cấp cho Estonia, Latvia, và Lithuania năm 1991 bởi
những đại diện của Viện Albert Einstein. Tham vấn đầu tiên do
Gene Sharp, Bruce Jenkins, và Peter Ackerman cung cấp, và lần thứ
hai do Gene Sharp và Bruce Jenkins
[3]. Họ đã họp với các đảng
viên và các nhà lãnh đạo đảng ủng hộ dân chủ và các giới chức
chính quyền dân cử. Các tham vấn viên cũng cung cấp những bài
thuyết giảng, những buổi nói chuyện và tổ chức những buổi thảo
luận thân mật với những giới chức cao cấp của chính quyền, với
các ủy ban, và những thành viên quốc hội lưỡng viện. Chủ điểm của
tất cả những tìm hiểu này là bản chất và tiềm năng của đấu tranh
bất bạo động. Các tham vấn viên không hề khuyến cáo ai phải làm
gì trong các cuộc đấu tranh của họ.
Audrius Butkevicius, lúc bấy giờ là
Tổng Giám Đốc đặc trách Quốc Phòng của Lithuania, đã nhận được
các trang bản thảo đầu tiên của cuốn sách mới ra Civil-Based
Defense [4] [Phòng Vệ Dựa Trên Nền Tảng Dân Sự] từ TS Grazina
Miniotaite thuộc Học Viện Khoa Học của Lituania. Bà nhận được các
trang bản thảo từ Sharp và Jenkins tại một hội nghị ở Mát-cơ-va.
Butkevicius sao lại năm mươi bản phóng ảnh các trang bản thảo này
và gửi đi khắp Liên Bang Sô Viết gồm cả các nước láng giềng
Latvia và Estonia. Sau khi duyệt sách, Butkevicius thốt lên: “À,
hóa ra có cả một hệ thống cho việc này!”
[5]
Những vụ phản đối bất bạo động ứng biến
mang tính biểu tượng trước đó (như vụ giây chuyền hơn hai triệu
người nối liền các thủ đô vùng Baltic) sau này đã trở thành những
hình thái có chủ tâm và có hệ thống của hành động bất hợp tác và
thách thức bất bạo động chính thức.
[6]
Việc thiết lập các tổ chức mới, thiên
độc lập, cũng như sự chuyển hướng các tổ chức hiện hữu nhằm thiên
về độc lập, là những đặc tính chính yếu của các phong trào này.
Tổng Thống Sô Viết Gorbachev tuyên bố là các tuyên ngôn độc lập
của các nước vùng Batic vô hiệu lực.
Audrius Butkevicius, sau này là Tổng
Trưởng Quốc Phòng, ghi công cuốn sách Phòng Vệ Dựa Trên Nền Tảng
Dân Sự là nền tảng của các chiến lược của Lithuania. Tổng Trưởng
Quốc Phòng Talavs Jundzis của Latvia và Tổng Trưởng Ngoại Giao
Raivo Vare của Estonia cũng có những khẳng định tương tự.
Vào ngày 13 tháng Giêng, 1991, Chủ Tịch
của Chủ Tịch Đoàn Sô Viết Tối Cao, Boris Yelsin, ký một bản tuyên
ngôn chung ở Tallin, Estonia, cùng với các nhà lãnh đạo của ba
quốc gia Baltic. Tuyên ngôn chung này nguyện sẽ giúp đỡ và hỗ trợ
lẫn nhau, chống lại bất cứ sự can thiệp quân sự nào vào công việc
của họ. Các đàm phàn về sau đã đưa đến việc quân đội Sô Viết rút
lui hoàn toàn.
Các tổn thất về nhân mạng ở Lithuania
là mười bốn người trong một cuộc biểu tình lớn tại tháp truyền
hình và sau độc lập, sáu người tại các doanh trại quan thuế biên
giới; sáu người ở Latvia; và không có ai chết ở Estonia. Thế mà
cả ba quốc gia Baltic đã thành công tách khỏi Liên Bang Sô Viết,
vẫn nguyên vẹn, mặc dù địa thế của họ hiểm nghèo, mặc dù họ đã bị
quân đội Sô Viết chiếm đóng, và sức mạnh ồ ạt của quân đội Sô
Viết.
Ở tại Serbia, những vụ phản đối
bất bạo động ứng biến mang tính biểu tượng, thường là trong lúc
thời tiết đang ở nhiệt độ đông đá, đã được dân Serb xúc tiến vào
những năm cuối của thập niên 90 chống lại nền độc tài của Tổng
Thống Milosovic.
Thông tin về đấu tranh bất bạo động đã
được Robert L. Helvey cung cấp qua một khóa hội thảo tại
Budapest, Hung Gia Lợi năm 2000. Tham dự viên là những người Serb
trẻ từ tổ chức đối kháng chính trị Optor. Helvey kết hợp các bài
thuyết trình có hệ thống của ông với những đề nghị các sách đọc
chính, cả hai loại đều lấy từ cuốn Từ Độc Tài Đến Dân Chủ và
Chính Trị của Hành Động Bất Bạo Động của Gene Sharp. Khóa hội
thảo này hình như đã mang lại hiệu quả rất tích cực. Helvey đã để
lại nhiều bản của những cuốn sách đó cho các tham dự viên để họ
mang về Serbia. Từ Độc Tài Đến Dân Chủ, do tổ chức Sáng Kiến Dân
Sự ấn hành bằng tiếng Serbian, cũng đã gây ảnh hưởng rộng lớn.
[7]
Srdja
Popovic, một chiến lược gia trội bật của nhóm người Serb đã từng
gặp Helvey tại Budapest, trước đó đã có tìm hiểu các cách thực
hành của các tổ chức và cơ chế khác nhau. Ông đã tìm kiếm những
bài học có thể ứng dụng được vào hành động chấm dứt độc tài
Milosovic.
Sau
khi nghiên cứu cuốn Chính Trị của Hành Động Bất Bạo Động, Srdja
Popovic đã viết là, “...Cuốn sách của Ô. Sharp đã cung cấp một mô
hình đem lại hiệu quả một cách đáng kinh ngạc trong việc đương
đầu với một chế độ bạo tàn đồng thời lôi kéo được dân chúng vào
một cuộc đấu tranh bất bạo động, đa nguyên nhằm tự giải phóng.”
[8]
Srdja
Popovic và các đồng nghiệp của ông đã tập trung vào sáu nguồn sức
mạnh [9] chính cần thiết ngõ hầu đưa ra chìa khóa lật đổ những
chế độ đàn áp: Làm cho teo lại hay cắt đứt các nguồn đó đi thì
chính thể sẽ suy yếu hoặc tan rã.
Trong cả ba quốc gia vùng Baltic, và ở
Serbia có năm nhân tố chung:
Cả bốn quốc gia đã đều chịu đau khổ
dưới những chế độ cực kỳ tàn bạo.
Mỗi quốc gia, trong những năm trước đó,
đã kinh qua những cuộc đấu tranh bạo động đáng kể, nhưng không
thành công.
Vào khoảng năm 1990 trong trường hợp những quốc gia vùng Baltic,
và vào khoảng năm 2000 trong trường hợp Serbia, đã có những vụ
phản đối, đối kháng bất bạo động lớn, phổ biến do địa phương tổ
chức.
Lúc bấy
giờ có những chuyên gia từ bên ngoài vào có quá trình nhiều năm
nghiên cứu và phân tích đấu tranh bất bạo động chống độc tài,
chống ngoại bang chiếm đóng, và chống đảo chánh, đích thân thuyết
trình và thảo luận.
Các bài thuyết trình này được kết hợp
với những ấn phẩm quan trọng để đọc về sức mạnh chính trị và đấu
tranh bất bạo động chống lại các nền độc tài và xâm lược, đã được
dọn sẵn cho các nhà lãnh đạo chính trị trong chính quyền cũng như
ngoài chính quyền trong trường hợp các quốc gia vùng Baltic và
cho các nhà lãnh đạo chính trị ngoài chính quyền trong trường hợp
Serbia.
Kế
hoạch từng có trước đây
Suy nghĩ và lập kế hoạch làm thế nào để
một vụ phản đối hay một cuộc đấu tranh bất bạo động nào đó đạt
được hiệu quả hơn vừa là điều mong muốn và cũng là điều có thể
thực hiện được. Việc lập kế hoạch như thế không phải là điều hoàn
toàn mới mẻ. Đã có một số thí dụ về việc lập kế hoạch trong quá
khứ.
Trong
những chiến dịch có tầm mức nhỏ trước đây, như là một vụ tẩy chay
xe buýt, hay một vụ biểu tình ngồi ở quầy ăn trưa chống kỳ thị
chủng tộc tại Hoa Kỳ cũng đã có kế hoạch. Cũng vậy, suốt nhiều
thập kỷ nay đã từng có những chuẩn bị chiến thuật cho những cuộc
diễn hành phản đối kéo dài hằng ngày hoặc hàng tuần đòi hòa bình,
công lý, quyền đi bầu của phụ nữ, dân quyền, nhân quyền, và bảo
vệ môi trường.
Trong các vụ tổng đình công tại nhiều
quốc gia tranh đấu cho những mục đích kinh tế và chính trị, cũng
đã có kế hoạch và chuẩn bị. Đã từ lâu kể từ những cuộc đấu tranh
bất bạo động của Hoa Kỳ thời thuộc địa từ 1765 đến 1775 chống lại
luật lệ của người Anh thì không những đã có việc lập kế hoạch
chiến thuật, mà ngay cả kế hoạch chiến lược dài hạn nữa.
[10]
Hiếm khi có được một chiến lược gia
xuất sắc có trực giác như Mohandas K. Gandhi, người đã phác họa
ra những chiến lược để thực hiện theo từng bước chiến thuật một.
Tại Ba lan trong những thập niên 80 các
khối quần chúng trong những cuộc đấu tranh của Công Đoàn Đoàn Kết
độc lập và các nhóm liên hệ, với sự hướng dẫn từ kinh nghiệm lịch
sử của họ, và qua nhiều khó khăn, đã đạt được sự tự giải phóng.
Tại Serbia vào năm 2000 thì từ trước đã có những tính toán, những
hoạt động, chuẩn bị, và lập kế hoạch chiến lược cho cuộc đấu
tranh lật đổ nền độc tài Milosovic.
Tuy nhiên, trong nhiều cuộc xung đột
được xúc tiến bằng đấu tranh bất bạo động thì điều này không phải
là trường hợp điển hình. Thường thường thì hoàn toàn không có
những tính toán chiến lược, và có lúc thì kế hoạch lại thiếu sót.
Tuy vậy vẫn có một vài thành công đáng kể.
Cũng nên lưu ý nữa là có nhiều trường
hợp thắng lợi rất giới hạn. Cũng có những thất bại thê thảm và
tổn thất khủng khiếp, như trường hợp Quảng Trường Thiên An Môn,
Bắc Kinh, Trung Cộng. Những thất bại và tổn thất như thế cần phải
được giảm thiểu trong tương lai, đồng thời phải đạt được thắng
lợi lớn lao hơn.
Thiết lập kế hoạch chiến lược trọn vẹn
và có cơ sở hơn có thể giúp tăng hiệu quả của những cuộc đấu
tranh bất bạo động trong tương lai chống lại áp bức cực đoan và
còn giảm thiểu được tổn thất nữa. Tuy nhiên, lệ thuộc vào những
cố vấn từ bên ngoài cung ứng việc lập kế hoạch loại này có thể là
mạo hiểm và thiếu khôn ngoan. Tốt nhất là làm thế nào để kiến
thức về cách thiết lập các chiến lược được có sẵn để cho những
người đối diện với các nền độc tài hay áp bức có thể lập kế hoạch
như thế nào để họ có thể tự lực dẹp bỏ đi sự áp bức.
Một mô thức mới cho việc tự lực thiết
lập kế hoạch?
Như đã có thảo luận trước đây, hình như là đối với bộ môn này thì
thuyết trình chỉ đem lại hiểu biết giới hạn hơn là nghiên cứu kỹ
lưỡng các bài trình bày và phân tích đã được in ra. Ấn phẩm thì
có thể đọc vào lúc nào và ở nơi nào tùy mình lựa chọn, và có thể
nghiên cứu chậm rãi khi cần, lặp lại, và ôn lại được.
Tài liệu này tìm cách đưa ra một mô
thức mới để hỗ trợ những người và nhóm người muốn xét định tiềm
năng có thể có của đấu tranh bất bạo động nhằm giải phóng khỏi áp
bức. Mô thức này cũng còn có thể giúp phát huy kiến thức, hiểu
biết, và suy tư để người ta có thể học hỏi làm cách nào để hành
động cho có hiệu quả hơn trong các cuộc xung đột với những đối
thủ cực đoan. Để đạt được điều này, đòi hỏi cần phải học hỏi thấu
đáo những ấn phẩm nghiên cứu đã được chọn lọc về cách điều hành
đấu tranh bất bạo động và các phân tích về tiềm năng của nó trong
những cuộc xung đột chính trị nghiêm trọng thường đưa đến đàn áp
khắc nghiệt.
Nếu sự phân tích trong tập tài liệu này được xét là có tiềm năng
hữu ích thì chúng tôi khuyến khích phổ biến rộng rãi và nghiên
cứu những sách đã xuất bản được đề nghị về hoạt động bất bạo
động. Sự phổ biến rộng rãi kiến thức và sự hiểu biết như thế còn
có thể phản công lại bất cứ khuynh hướng nào đó có thể xảy ra là
kiến thức và sự hiểu biết này chỉ dành cho thành phần ưu tú mà
thôi. Kiến thức sâu sắc có thể được phân phối ra cho nhiều người
thay vì vẫn chỉ là sở hữu của một nhóm thiểu số nhỏ bé. Khả năng
thiết lập kế hoạch cho những cuộc đấu tranh tương lai nhằm đạt
được và bảo vệ giải phóng có thể được trải rộng ra cho nhiều
người. Điều này có thể đem lại những kết quả lớn lao.
Thay vì con đường cũ, con đường mới đi
tìm kiến thức này, nếu cẩn thận đi theo, thì hẳn rồi sẽ làm cho
những người hay những nhóm người trở nên có khả năng tự lực soạn
được một đại chiến lược cho một cuộc xung đột lớn. Nó cũng phải
giúp soạn được những chiến lược cá biệt cho những chiến dịch cục
bộ có giới hạn.
Một đại chiến lược được thiết kế khôn
ngoan sẽ làm cho những người tham gia trong một cuộc đấu tranh có
khả năng hành động theo những phương cách cứ dồn dập làm cho việc
đạt các mục tiêu của cuộc xung đột xích lại gần hơn. Điều này có
thể thực hiện được trong lúc đồng thời đương đầu với các chính
sách, hành động, và sự đàn áp của kẻ áp bức.
Những thành quả này sẽ không tự nhiên
được người ta đem đến để sẵn trên một đĩa bạc. Những nghiên cứu
và việc lập kế hoạch đề nghị ở đây chỉ có thể đem lại kết quả
tích cực khi những người mới làm quen với phương thức tăng cường
sức mạnh biến kiến thức đã được phát huy thành kiến thức của
chính mình. Lúc bấy giờ, cùng với những phân tích có cơ sở và lập
kế hoạch cẩn thận, với hành động có kỷ luật và can đảm thì mới có
thể chuyển từ hệ thống áp bức hiện hành đến một xã hội khá hơn
dựa trên những nền tảng trách nhiệm và tự do.
Ba loại kiến thức
Nhờ nghiên cứu, quan sát, và phân tích
mà chúng tôi biết là đòi hỏi cần phải có ba loại kiến thức mới có
thể giúp người ta phát huy khả năng soạn thảo được một đại chiến
lược thành thạo để đạt được thành công trong một cuộc đấu tranh
giải phóng:
Kiến thức về hoàn cảnh của cuộc xung đột, về đối thủ, và về xã
hội cùng các nhu cầu của xã hội
Kiến thức sâu sắc về bản chất và cách
vận hành của kỹ thuật hành động bất bạo động
Kiến thức và khả năng đòi hỏi để phân
tích, suy tư, và lập kế hoạch một cách có chiến lược
Bất cứ nhóm người nào khởi công một
cuộc đấu tranh chống độc tài hay áp bức, hay ngay cả chỉ thử soạn
thảo chiến lược cho một cuộc đấu tranh như thế mà không có ba
loại kiến thức này thì thật là điên rồ, và có thể dẫn đến tai
họa.
Nhìn nhận
được điểm này, có người đề nghị tập họp ba nhóm người lại với
nhau, mỗi nhóm có một trong ba loại kiến thức chuyên biệt này, để
chia sẻ với những nhóm kia, và nghĩ rằng ba nhóm người tập họp
lại trong một căn phòng có thể sản xuất ra được một đại chiến
lược hay. Rất tiếc là tập họp ba nhóm người lại với nhau, mỗi
nhóm có một trong ba loại kiến thức cần có, không thể đem lại kết
quả mong muốn được.
Như thế là vì chuyên môn đặc biệt của
mỗi nhóm sẽ ở trong trí óc của từng nhóm riêng biệt. Khả năng
phân tích có thể đưa đến việc sản xuất ra một đại chiến lược khôn
ngoan đòi hỏi sự tổng hợp của cả ba loại kiến thức và suy tư này.
Cả ba loại kiến thức này đều cần cùng phải có trong đầu óc của
tất cả mọi người soạn bản thảo chiến lược, chứ không phải chỉ ở
trong ba nhóm người tập họp lại với nhau.
Cần thiết phải tìm hiểu làm thế nào để
ba loại kiến thức và kỹ năng này có thể được tổng hợp lại với
nhau để thiết lập một đại kế hoạch, hay có khả năng tăng cường
sức mạnh đấu tranh và dân chủ hóa. Kiến thức tổng hợp này cũng
còn cần cho việc lập kế hoạch cho những chiến dịch cục bộ có giới
hạn nhằm đạt những mục tiêu hạn hẹp hơn.
(Còn tiếp)
CƯỚC CHÚ:
[1]
Về những mô tả các loại đấu tranh bất bạo động có nguyên tắc, xem
Gene Sharp, Gandhi as a Political Strategist with Essays on
Ethics and Politics [Gandhi như là một Chiến Lược Gia Chính Trị
với những Tiểu Luận về Đạo Đức Học và Chính Trị Học], Chương 10,
“Types of Principled Nonviolence, ” [Những Loại Bất Bạo Động có
Nguyên Tắc], tt. 201-234. Về phân tích làm thế nào để các phương
pháp có nguyên tắc và thực tiễn liên hệ với nhau, xem Chương 13,
“Nonviolence: Moral Principle or Political Technique? Clues From
Gandhi’s Thought and Experience,” [Bất Bạo Động: Nguyên Tắc Luân
Lý hay Kỹ Thuật Chính Trị? Chứng cớ Từ Tư Tưởng và Kinh Nghiệm
của Gandhi], tt. 273-309. Xem thêm bài thuyết trình của Sharp
“What Are the Options in Acute Conflicts for Believers in
Principled Nonviolence?” [Những Giải Pháp Nào đối với Các Xung
Đột Nghiêm Trọng Dành cho những Người Tin Tưởng vào Bất Bạo Động
Có Nguyên Tắc?] trình bày ngày 22-9-2006 tại the Joan B. Kroc
Institute for International Peace, Notre Dame University [Học
Viện Hòa Bình Quốc Tế Joan B. Kroc, Đại Học Notre Dame]. Có ở
mạng www.aeinstein.org.
[2]
Bất hợp tác và thách thức chính trị được tổ chức có kế hoạch
chống xâm lược ngoại bang và các cuộc đảo chánh.
[3]
Các tham vấn này xảy ra trong thời gian từ 24 tháng Tư đến 1
tháng Năm, 1991 theo lời mời của Bộ Ngoại Giao Lithuania. Chuyến
đi thứ hai đến các thủ đô Nga, Lithuania, Latvia, và Estonia xảy
ra từ ngày 14 tháng Mười Một đến 7 tháng Mười Hai, 1991. Họ có
những buổi thảo luận về tiềm năng đối kháng dân sự nhằm chặn đứng
đảo chánh và ngoại xâm. Xem Biennial Report 1990-1992 [Phúc Trình
Hai Năm 1990-1992], tt. 5-9 của Viện Albert Einstein (Cambridge,
Massachusetts, 1993).Tiếp theo chuyến đi thứ nhất, theo lời yêu
cầu của Audrius Butkevicius, Bruce Jenkins đã thu thập một tập
hướng dẫn học tập quan trọng về phòng vệ dựa trên nền tảng dân sự
để cho một toán các nhà nghiên cứu tại Bộ Quốc Phòng Lithuania sử
dụng.
[4] Của Gene
Sharp, với sự hỗ trợ của Bruce Jenkins, Princeton, N.J.:
Princeton University Press, 1990.
[5]
Butkevicius đã cho dịch vội cuốn Civilian-Based Defense [Phòng Vệ
Dựa Trên Nền Tảng Dân Sự] ra tiếng Lituanian để chính quyền sử
dụng. Tổng Trưởng Quốc Phòng Latvia Talavs Jundziscũng cho dịch
vội để chính phủ sử dụng. Bản chính tiếng Anh do Tổng Trưởng
Ngoại Giao Raivo Varedùng tại Estonia.
Sách này sau này được ấn hành thành ba
ngôn ngữ, tiếng Estonian do Informare tại Tallin ấn hành, tiếng
Latvian do nhà in Junda Publishers tại Riga, và tiếng Lithuanian
do Mintis Publishers tại Vilnius, tất cả đều được các tổng trưởng
đặc trách quốc phòng các nước liên hệ ủng hộ.
Trong chuyến đi thứ hai, Sharp và
Jenkins gặp không những chỉ các giới chức quốc phòng Lithuanian
mà, tại Latvia, ngay cả Tổng Trưởng Quốc Phòng Talavs Jundzisvà
các thành viên của Hội Đồng Tối Cao của Latvia cùng với những
giới chức quốc phòng. Tại Estonia, Sharp và Jenkins gặp Tổng
Trưởng Ngoại Giao Raivo Vare, cùng với các thành viên của Hội
Đồng Quốc Phòng, và các giới chức quốc phòng và chính phủ. Tổng
Trưởng Vare ban huấn thị về đối kháng bất bạo động đến các trung
tâm chính trị khắp nơi tại Estonia, nhưng ông đã cố ý không lưu
giữ các ấn bản tại văn phòng của ông.
Vào tháng Mười Hai 1991, Butkeviciusđã
ghi công cuốn sách Civil-Based Defense [Phòng Vệ Dựa Trên Nền
Tảng Dân Sự] làđã cung cấp một nền tảng cho hầu hết kế hoạch đối
kháng bất bạo động của ông chống lại xâm lược Nga, trước tiên là
vào tháng Giêng 1991 và sau đó là tháng Tám 1991.
[6]
Xem Olgerts Eglitis, Nonviolent Action in the Liberation of
Latvia [Hành Động Bất Bạo Động trong Cuộc Giải Phóng Latvia]
(Cambridge, Massachusetts: Albert Einstein Institution, 1993)
vàGrazina Miniotaite, Nonviolent Resistance in Lithuania [Đối
Kháng Bất Bạo Động tại Lithuania] (Boston: Albert Einstein
Institution, 2002).
Muốn nghiên cứu toàn vẹn và chi tiết
hơn về đấu tranh giải phóng bất bạo động tại Latvia, mời xem
Valdis Blüzma, Talavs Jundzis, Janis Riekstins, Gene Sharp,
vàHeinrihs Strods, Non-violent Resistance: the Struggle for
Renewal of Latvian Independence [Đối Kháng Bất Bạo Động: Đấu
Tranh Đổi Mới Nền Độc Lập Latvian] (1945-1991). Riga: Học Viện
Các Khoa Học Latvian, UlzeUpmale, Akademijas laukums 1, Riga
LV-1050, 2009.
[7]
Phiên bản Anh ngữ được Ô. Marek Zelaskiewz trước đó đã trao cho
họ từ California.
[8]
“CANVAS TOTAL INDEX: Serbian Arena for NonViolent Conflict: An
AnalyticalOverview of the Application of Gene Sharp’s Theory of
Nonviolent Action in Milosovic’sSerbia.” [TOÀN BỘ DANH MỤC
CANVAS: Đấu Trường Của Xung Đột Bất Bạo Động tại Serbia: Một Phân
Tích Tổng Quan về việc Áp Dụng Lý Thuyết Hành Động Bất Bạo Động
của Gene Sharp vào Serbia của Milosovic] Tài liệu phóng ảnh, 8
trang., Belgrade, 2001. CANVAS là viết tắt của the Centre for
Applied NonViolent Action and Strategies [Trung Tâm Các Chiến
Lược và Hành Động Bất Bạo Động Ứng Dụng] ở tại Belgrade, Serbia.
[9]
Liệt kê trong cuốnThe Politics of Nonviolent Action [Chính Trị
của Hành Động Bất Bạo Động].
[10] Xem Walter H. Conser, Jr., Ronald M.
McCarthy, David J. Toscano, and Gene Sharp, biên tập viên,
Resistance, Politics, and the American Struggle for Independence,
[Đối Kháng, Chính Trị, và Cuộc Đấu Tranh Giành Độc Lập của Hoa
Kì] 1765-1775.Boulder, Colorado: Lynne Rienner Publishers, 1986.
Chú Ý đặc biệt “Phụ bản F, Continental Association, Tháng Mười,
1774.”
WEBSITE:
http://www.uybantruyto.com
Orange
County, California. USA
Ngày 8/6/2018
Bài 5
Ba
loại kiến thức
Tác giả: Gene
Sharp
Chuyển ngữ:
Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Nguyên Giáo Sư
Thỉnh giảng University of Pennsylvania, St. Joseph’s University,
-Chestnut Hill College.
oOo
1.
Kiến thức về hoàn cảnh của xung đột, về đối thủ, và về xã hội
Những người đang sống dưới nền cai trị
độc tài hoặc những hình thái áp bức khác thì thường đã có sẵn một
kiến thức khá lớn về hệ thống mà họ đang ở trong đó. Do đó họ có
được một phần nào tiềm năng của sức mạnh. “Tiềm Năng của Sức
Mạnh” ở đây là muốn nói đến những phẩm chất, những tài nguyên, và
những khả năng mà, một khi đã được huy động và áp dụng, có thể
làm cho nhóm người này có khả năng thi thố sức mạnh đáng kể trong
một cuộc xung đột.
Những câu hỏi sau đây có thể hữu ích
trong việc làm sáng tỏ loại kiến thức này:
Những vấn đề đặt ra trong cuộc xung đột
này là gì?
Những vấn đề này quan trọng đến mức nào đối với mỗi bên?
Những vấn đề này, hay là cường độ dấn
thân vào những vấn đề này có đã biến đổi theo thời gian hay
không?
Mỗi bên
thấy dễ hoặc khó đến mức độ nào khi phải nhượng bộ bên kia?
Các nhượng bộ khả dĩ chấp nhận được có
lợi hay có hại cho những người đối kháng chống lại áp bức?
Có thể nào dân chúng đối kháng có
phương cách huy động thêm những người khác hay nhóm người khác
tham gia vào cuộc đấu tranh cho những vấn đề này không?
Làm sao sử dụng những vấn đề thực tế để
xúc tiến động viên đối kháng, để làm teo đi sự ủng hộ đối thủ, và
để chuyển đổi sự trung thành trong hàng ngũ đối phương và các
thành phần thứ ba?
Những người lưu vong có thể phần nào
thiếu kiến thức này, mặc dù họ có thể có những ưu điểm khác. Họ
có thể có thông tin và những nhận thức mà những người sống trong
xã hội đó không có.
Khi thẩm định hiện tình quốc nội thì
soạn thảo một bảng thẩm định về những sức mạnh tuyệt đối và sức
mạnh đối chiếu của hệ thống áp bức và của phong trào dân chủ hiện
tại và có thể có trong tương lai, là một việc làm có thể hữu ích.
Đối thủ mạnh ở chỗ nào và yếu ở chỗ nào? Đối kháng mạnh ở chỗ nào
và yếu ở chỗ nào? Điều này có thể làm được bằng cách thực hiện
một phỏng định chiến lược.
Phỏng định chiến lược được cắt nghĩa
trong những sách đọc sau đây: Waging Nonviolent Struggle, [Tiến
Hành Đấu Tranh Bất Bạo Động] tt. 525-545; Robert L. Helvey, On
Strategic Nonviolent Conflict, [Về Đấu Tranh Bất Bạo Động Chiến
Lược] tt. 47-62, và 154-155. Số trang: 39. Tổng số trang cho đến
điểm này: 65.
Tuy nhiên, khi đưa ra một phỏng định chiến lược thì cần phải thận
trọng đừng để các thành viên trong nhóm lập kế hoạch bị ám ảnh
bởi những chi tiết của phỏng định chiến lược mà bỏ quên những
nhân tố quan yếu của toàn cảnh.
Điểm chính yếu là phải biết được những
ưu điểm cũng như những nhược điểm của cả hai bên, các cội nguồn
của sức mạnh của họ, và những tác dụng có thể có khi sử dụng sức
mạnh này của cả hai bên trong một cuộc xung đột công khai. Những
ưu điểm và nhược điểm này của hai bên đối chiếu với nhau thì như
thế nào? Và, làm thế nào để có thể thay đổi được những ưu điểm và
những nhược điểm này của cả hai bên?
Rõ ràng là nên biết trước các phương
tiện đàn áp bạo động và những khống chế mà đối thủ có thể áp dụng
để cố chặn đứng bất hợp tác và thách thức. Cần cân nhắc các dữ
kiện này khi lập kế hoạch cho cuộc xung đột tới.
Đôi lúc một chế độ áp bức, khi đối diện
với sự đối kháng mạnh mẽ, có thể giáng xuống những đòn đàn áp và
hung bạo cùng cực. Cũng phải nên cân nhắc những biện pháp phản
công về tâm lý, kinh tế, và chính trị mà đối thủ có thể sử dụng.
Khả năng và sự sẵn sàng của quần chúng đối kháng có kiên trì
trong cuộc đấu tranh giải phóng dù bị đàn áp hay không, và những
phản công khác của đối thủ cũng cần phải được thẩm định.
2. Kiến thức sâu sắc về bản chất và
cách vận hành của kỹ thuật hành động bất bạo động
Kỹ thuật bất bạo động này thường được
hiểu một cách thô sơ và không đầy đủ. Nhiều người có những tiên
kiến sai lầm về kỹ thuật này. Họ có thể tin là họ hiểu nó rõ
ràng, nhưng thực tế thì thường thường rất khác.
Theo một vài cách nào đó thì đấu tranh
bất bạo động rất đơn giản. Theo một vài cách khác thì kỹ thuật
này lại hết sức phức tạp. Đòi hỏi cần phải có một sự hiểu biết
cao hơn là sự hiểu biết sơ đẳng về hiện tượng này thì mới có thể
lập được chiến lược khôn ngoan và có hiệu quả. Không ai có thể
lập được một đại chiến lược khôn ngoan đặt nhiều tin cậy vào việc
sử dụng đấu tranh bất bạo động, và những chiến lược cho các chiến
dịch cục bộ cá biệt, mà trước đó không hoàn toàn thông hiểu kỹ
thuật này.
Sự
thiếu sót phổ quát về kiến thức hiện hữu và về sự thông hiểu kỹ
thuật này có nghĩa là các nhóm người hay những người thừa nhận sự
hữu ích có thể có được của đấu tranh bất bạo động không nên hấp
tấp đi vào hành động mà chưa nghiên cứu kỹ lưỡng và chuẩn bị khôn
ngoan.
Họ cũng
không nên tham gia ngay vào việc thiết lập một đại chiến lược cho
cuộc đấu tranh toàn diện, hoặc những chiến lược cá biệt cho những
chiến dịch cục bộ có giới hạn. Thừa nhận mình không biết có thể
rất có ích ở chỗ mình khỏi lâm vào cảnh đưa ra những giả định khờ
khạo và nguy hiểm có thể đưa đến khó khăn hay tai họa.
Hầu như là đâu đâu cũng khan hiếm sự
hiểu biết sâu sắc về kỹ thuật này. Hiện tượng này chỉ mới bắt đầu
được sửa sai qua những ấn phẩm bằng Anh ngữ trong một vài thập
niên mới đây mà thôi.
Mặc dù chưa được hoàn hảo, đa phần kiến
thức và sự hiểu biết cần dùng sẵn có, đòi hỏi để tham gia vào
việc lập kế hoạch chiến lược nay đã tìm thấy trong những công
trình nghiên cứu được ấn hành bằng Anh ngữ. Kiến thức này thì
hiếm hơn trong các ngôn ngữ khác. Hơn nữa, tương đương hoàn toàn
về từ ngữ trong các ngôn ngữ khác hầu như là không bao giờ có
được. Các ý niệm và từ ngữ trước đây rất thiếu thốn hoặc không có
ngay cả trong các nghiên cứu bằng Anh ngữ. Tình trạng này đã làm
cho việc dịch thuật tài liệu hiện có từ tiếng Anh sang các thứ
tiếng khác trở nên khó khăn hơn.
Những nỗ lực nhằm thủ đắc kiến thức và sự hiểu biết mới về
đấu tranh bất bạo động đã đòi hỏi và sản xuất ra các từ mới cũng
như đưa đến việc duyệt xét lại các định nghĩa.
[1] Những điều này đã
làm cho việc chuyển đạt các ý niệm và ý tưởng then chốt khả dĩ
tiến bộ hơn. [2]
Những bản dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau của một số từ then
chốt và của một vài sách quan trọng có thể tìm thấy trên mạng của
Viện Albert Einstein. [3]
Hầu hết
các sách đọc về hành động bất bạo động đề nghị ở đây đều do cùng
một tác giả duy nhất trước tác. Tiếc rằng đó là thực tế, và rằng
lãnh vực đấu tranh bất bạo động đã chưa được nghiên cứu đầy đủ và
cân nhắc một cách thỏa đáng. Sự lựa chọn các sách đọc, tuy vậy,
đã được thực hiện dựa trên nội dung chứ không phải dựa vào người
trước tác. Những công trình nghiên cứu tương đương do những tác
giả khác đề cập đúng cùng một nội dung thì chưa tìm thấy. Những
nghiên cứu quan trọng khác hiện có về hành động bất bạo động mà
không được liệt kê ở đây có thể hữu ích sau này như là những sách
đọc bổ túc.
Việc chọn lựa các sách đọc đề nghị ở đây được thực hiện dựa trên
giả định là độc giả chủ yếu có ý muốn sau này có thể áp dụng kỹ
thuật này vào việc chống độc tài. Tuy nhiên, như có nói trước đây
là những sách đọc này còn có thể hữu ích cho việc đối đầu với
những xung đột khắc nghiệt khác, đặc biệt là những xung đột nhằm
thay thế áp bức xã hội và kinh tế bằng những chính sách và thể
chế công bằng hơn.
Cung cấp một tài liệu học tập có hướng
dẫn vào một thời điểm mà người ta nghĩ rằng họ đã sẵn sàng hành
động thì thật là gây rối trí, ngay cả phiền toái, cho họ. Đó là
một phản ứng chung thường được quan sát lặp đi lặp lại nhiều lần.
Những người từng suy nghĩ về việc sử
dụng đấu tranh bất bạo động trong tương lai thường cho rằng họ đã
thông hiểu giải pháp này một cách đầy đủ và do đó thấy không có
nhu cầu phải tốn thì giờ đọc thêm. Điều đó hầu như là không bao
giờ đúng như vậy.
Một thái độ và thói quen như thế, trong
trường hợp tốt nhất, thì sẽ là toa thuốc đưa đến thiết kế chiến
lược thiếu sót, và, trong trường hợp xấu nhất, thì sẽ là điềm báo
trước thảm họa.
Hỗ trợ từ bên ngoài?
Có vài người từng thừa nhận là thiếu
kiến thức sâu về đấu tranh bất bạo động đã xoay qua người ngoài
để nhờ hướng dẫn họ cần phải làm gì. Họ có thể tìm được những cá
nhân hay nhóm người sốt sắng cố vấn và sẵn sàng giúp đỡ.
Tuy nhiên, nhận những giúp đỡ này có
thể đôi khi lại cũng nguy hiểm như là quyết định làm thế nào để
xúc tiến một cuộc xung đột như thế mà không hiểu sâu về đấu tranh
bất bạo động. Nhân lực từ bên ngoài không thể có được kiến thức
thiết thực về hoàn cảnh của cuộc xung đột, và về hoàn cảnh chính
trị hiện hành, cũng như về bối cảnh lịch sử. Người từ bên ngoài
có thể ngay cả không hiểu thấu đáo đấu tranh bất bạo động. Sự
hướng dẫn mà họ cung cấp có thể không được khôn ngoan, và có tiềm
năng đưa đến thất bại và tổn thất nặng nề.
Thêm vào đó, sự hỗ trợ từ bên ngoài
không có khả năng tăng cường tự lập. Những người nhận sự cố vấn
từ bên ngoài để giải quyết khó khăn của họ sẽ vẫn phải lệ thuộc
vào người khác để giải quyết những vấn đề của chính mình.
Hơn nữa, sự hướng dẫn do người ngoài
cung cấp có khi lại chủ yếu được thúc đẩy bởi sự mong ước được
đạt những mục tiêu của chính nhóm bên ngoài đã cố vấn, thay vì
những mục tiêu của người dân đang đối diện với áp bức. Đôi khi,
nhờ người ngoài hướng dẫn về những gì những người đối kháng cần
phải làm có thể đưa đến kết quả là đánh mất sự kiểm soát cuộc đấu
tranh cho người ngoài. Cố vấn sai lầm và hời hợt có thể gây nên
tai hại lớn.
Có thể xảy ra sự kiện là những người bên ngoài đề nghị giúp đỡ
một nhóm đấu tranh bất bạo động cũng còn đề nghị giúp tiền bạc
cho những người đối kháng thường xuyên gặp khó khăn về tài chánh.
Cần cân nhắc hết sức cẩn thận những trường hợp như vậy.
Sự hỗ trợ về tài chánh như thế thường
có thể được cung cấp bởi những cá nhân, các tổ chức, hay là các
cơ quan tình báo. Sự hỗ trợ về tài chánh sau này có thể được khám
phá ra là có liên quan đến những khống chế thuộc loại này hay
loại khác. Nếu chấp nhận những khống chế này thì những người đối
kháng sẽ mất đi khả năng quyết định con đường hành động của mình.
Nếu không chấp nhận những khống chế đó thì hỗ trợ tài chánh có
thể bị cắt đứt. Nếu hỗ trợ tài chánh là do một cơ quan tình báo
cung cấp thì những thay đổi chính sách của chính quyền bảo trợ có
thể đưa đến sự chấm dứt tài trợ một cách đột ngột.
Thêm vào đó, hồ sơ những “trò chơi bẩn”
xấu xa nhất trong quá khứ liên quan đến một cơ quan tình báo và
chính phủ của cơ quan này làm cho bất cứ những liên hệ nào với họ
bởi một phong trào giải phóng dân chủ sẽ bị nghi ngờ là thiếu
khôn ngoan và làm gia tăng gấp bội khả năng phong trào bị công
kích. Những phát hiện là những người đối kháng được tài trợ bởi
một cơ quan tình báo có thể làm nhơ nhuốc phong trào một cách tệ
hại và đóng góp vào việc làm mất thanh danh của những người đối
kháng như là công cụ của một chính quyền ngoại bang thù địch.
Điều này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với công
việc của phong trào đối kháng nhận lãnh tài trợ.
Những thực tế này làm cho việc Gandhi
cảnh báo mạnh mẽ những người đối kháng là không nên lệ thuộc vào
hỗ trợ tài chánh từ bên ngoài dễ hiểu hơn.
Đi tìm kiến thức có chiều sâu
Cố gắng lập kế hoạch cho những chiến
lược cho một cuộc đấu tranh bất bạo động trong tương lai mà không
có một quá trình và kiến thức đầy đủ thì cũng giống như một sinh
viên trẻ hăng hái đi vào một phòng thí nghiệm hóa học, pha trộn
hỗn độn các nguyên tố và các hợp chất xa lạ lại với nhau mà không
hề học hỏi các sách vở về hóa học trước. Không có một kiến thức
sâu về hoạt động bất bạo động mà khuyến cáo một đường lối hành
động thì có lẽ sẽ gây phương hại lớn lao cho phong trào.
Cần phải có một lời thề tương đương như
lời thề Hippocrate trong y khoa cho những nỗ lực phổ biến kiến
thức về đấu tranh bất bạo động: Trước tiên, đừng gây hại. Muốn
lưu ý đến lời cảnh báo này thì cần phải biết cái gì phương hại
đến việc áp dụng đấu tranh bất bạo động.
Muốn đáp ứng nhu cầu của sự hiểu biết
sâu về hành động bất bạo động thì cần phải đặc biệt chú trọng đến
việc tra cứu những xét định sẵn có về kỹ thuật này. Các sách đọc
được chỉ định sau đây đã được chọn lọc cho việc học tập theo một
trình tự đề nghị chính xác. Tự chọn lựa lấy trong số sách này,
thay đổi trình tự các sách đọc, thay thế những sách khác vào, hay
nhảy vọt, bỏ không đọc một sách nào đó là một điều không khôn
ngoan. Sau này, đọc thêm các sách khác có thể hữu ích, nhưng bây
giờ thì không. Trừ phi có ghi chú khác đi, những sách này đều do
Gene Sharp trước tác.
Các sách đọc vỡ lòng
Về phân tích những chỗ yếu của độc tài
đối với đối kháng bất bạo động thì đọc “Facing Dictatorships with
Confidence” [“Đối Diện Độc Tài Bằng Tự Tin”] trong cuốn Social
Power and Political Freedom [Sức Mạnh Xã Hội và Tự Do Chính Trị],
tt. 91-112. Số trang: 22.
Dẫn luận ngắn gọn về hành động bất bạo
động ở trong: “There Are Realistic Alternatives,” [“Có Những Giải
Pháp Thay Thế Thực Tiễn”] tt. 1-45. Số trang: 45.
Muốn tìm hiểu những phương thức để giải
quyết độc tài thì đọc “From Dictatorship to Democracy,” [Từ Độc
Tài Đến Dân Chủ] tt. viii-x, 1-90. Số trang: 90.
Các sách đọc trung cấp
Phân tích sức mạnh của hành động bất
bạo động ở trong: Robert L. Helvey, On Strategic Nonviolent
Conflict, [Về Đấu Tranh Bất Bạo Động Chiến Lược] tt. ix-xii,
1-45, và 64-81. Số trang: 63.
Thêm tài liệu về hành động bất bạo động
trong những cuộc xung đột: Waging Nonviolent Struggle, [Tiến Hành
Tranh Bất Bạo Động] tt. 13-67, 359-432. Số trang: 129. Tổng số
trang cho đến chỗ này là: 414.
Các sách đọc để lập kế hoạch chiến lược
và chọn phương pháp
Để đẫn nhập vào việc lập kế hoạch chiến
lược, duyệt lại The Politics of Nonviolent Action, [Chính Trị của
Hành Động Bất Bạo Động] tt. 492-496; đọc: Waging Nonviolent
Struggle, [Tiến Hành Đấu Tranh Bất Bạo Động] tt. 433-447; Helvey,
On Strategic Nonviolent Conflict, [Về Đấu Tranh Bất Bạo Động
Chiến Lược] tt. 82-93. Số trang: 32.
Về cách cắt bỏ các nguồn sức mạnh thì
đọc:The Politics of Nonviolent Action, [Chính Trị của Hành Động
Bất Bạo Động] tt. 11-12 và 744-757. Số trang: 16.
Về việc tái phân phối quyền lực chính
trị thì đọc:Waging Nonviolent Struggle, [Tiến Hành Đấu Tranh Bất
Bạo Động] tt. 424-432. Số trang: 9.
Hướng dẫn soạn thảo kế hoạch chiến lược
có ở trong The Politics of Nonviolent Action, [Chính Trị của Hành
Động Bất Bạo Động] tt. 496-512; và Waging Nonviolent Struggle,
[Tiến Hành Đấu Tranh Bất Bạo Động] tt.433-515. Số trang: 100.
Để thảo luận làm thế nào nhổ tận gốc áp
bức mà tổn thất tối thiểu và hiệu quả tối đa thì đọc: Social
Power and Political Freedom, [Sức Mạnh Xã Hội và Tự Do Chính Trị]
tt. 161-179. Số trang: 19.
Về sự quan trọng của những tổ chức phi
chính phủ thì đọc Social Power and Political Freedom, [Sức Mạnh
Xã Hội và Tự Do Chính Trị] tt. 21-67. Số trang: 47.
Muốn phân tích mối tương quan giữa kỹ
thuật đấu tranh và cơ cấu xã hội thì đọc Social Power and
Political Freedom, [Sức Mạnh Xã Hội và Tự Do Chính Trị] tt.
309-379. Số trang: 71.
Để thảo luận thêm các khía cạnh của
hành động bất bạo động thì đọc On Strategic Nonviolent Conflict,
[Về Đấu Tranh Bất Bạo Động Chiến Lược] tt.94-132. Số trang: 39.
Tổng số trang cho đến chỗ này là: 747.
Các sách đọc này có thể cung cấp sự
hiểu biết rất hữu ích sau này cho việc lập kế hoạch đấu tranh
chống lại những đối thủ đã cố thủ vững chắc. Những đối thủ này
thường khó mà buông rơi quyền quản lý và thống trị của họ mà
không chiến đấu. Hành động khôn ngoan có thông tin trong những
hoàn cảnh như thế này sẽ gia tăng xác xuất đạt được thành công,
đồng thời giảm thiểu được tổn thất.
Giả dụ những kế hoạch đối kháng, ít
nhất cũng là một phần nào của kế hoạch, đang được thiết lập, dựa
trên cơ sở phỏng định chiến lược. Trong lúc một cuộc xung đột bất
bạo động lớn đang diễn ra thì cả sức mạnh tiềm năng lẫn sức mạnh
thực thụ đã được huy động của cả hai bên chắc chắn sẽ thay đổi.
Do đó đòi hỏi cần phải có một sự chú ý mới về sự cân bằng lực
lượng của các đối thủ. Khi sức mạnh thực thụ của một hay cả hai
bên đã thay đổi thì thực hiện một phỏng định chiến lược mới có
thể sử dụng trong việc lập những kế hoạch cho giai đoạn kế tiếp
của cuộc xung đột là một việc làm khôn ngoan.
Đấu tranh bất bạo động khôn ngoan có lẽ
sẽ đạt được giải phóng hơn là những phương tiện khác bởi vì áp
dụng kỹ thuật này thường phân tán sức mạnh có hiệu quả ra khắp cả
xã hội. Sự phân tán này xảy ra theo hai cách:
Dân chúng trở nên kinh nghiệm về cách
áp dụng loại hành động có thể sử dụng, với sự cẩn trọng, để chống
lại bất cứ sự áp bức nào trong hiện tại cũng như trong tương lai.
Áp dụng đấu tranh bất bạo động sẽ tăng
sức mạnh cho, và giúp tạo nên, những tổ chức độc lập bên ngoài sự
kiểm soát của Nhà Nước. Những tổ chức hay nhóm này có thể được
gọi là những tụ điểm của sức mạnh, những “nơi” có sức mạnh và từ
đó sức mạnh được áp dụng. Những tổ chức này khi cần đến có thể
dùng như là những cứ điểm cho việc đối kháng có tổ chức. Những
đối kháng và thách thức cá nhân có thể cao quý và anh hùng, nhưng
đối kháng mang lại thành công trong việc dứt điểm độc tài đòi hỏi
đối kháng và thách thức tập thể.
Tuy nhiên, ở đây cũng nên nhắc nhở là
phải thận trọng. Một chiến lược có thể có được hiệu quả không
phải tự động mà có chỉ vì nghiên cứu những sách này. Những tuyển
tập có trình tự này có thể rất hữu ích, nhưng chỉ những sách này
không mà thôi thì không bảo đảm là độc giả sẽ có khả năng lập
được những chiến lược khôn ngoan. Đòi hỏi cần phải có thêm cái gì
khác.
3. Khả
năng suy tư và lập kế hoạch một cách có chiến lược
Những ai có ý định muốn lập một kế
hoạch khôn ngoan nhằm xóa bỏ áp bức thì cần phải gia tăng những
khả năng của mình bằng những phương cách sau đây:
Cần nghiên cứu những khuyến cáo về việc
thiết lập kế hoạch các chiến lược
Cần tự suy nghĩ, và lập kế hoạch một
cách khôn ngoan
Cần chuẩn bị để nhận lãnh trách nhiệm
Cần phát huy các khả năng suy tư một
cách chiến lược và lập kế hoạch các chiến lược một cách thành
thạo.
Nói cách
khác, những người làm kế hoạch cần suy nghĩ làm sao nhóm có thể
hành động như thế nào để những người đối kháng thực sự đóng góp
được vào việc đạt những mục tiêu của họ. Tất cả những điều này
cần phải được thực hiện trong bối cảnh của cuộc đấu tranh chống
lại những đối thủ độc tài hoặc thống trị đang có vẻ sẵn sàng và
có khả năng đàn áp một cách ác độc.
“Suy tư một cách có chiến lược” có
nghĩa là tính toán làm sao hành động cho thực tiễn theo những
phương cách làm thay đổi được hoàn cảnh để cho việc đạt mục đích
mong ước trở nên có thể dễ thực hiện hơn. Điều này rất khác việc
chỉ khẳng định sự đáng ước mong của mục đích, hay khác việc chỉ
tuyên bố đối lập với hệ thống hiện hành.
Tính toán làm sao để đạt cho được mục đích dài hạn bao gồm việc
tính toán những hành động nào cần thực hiện mà có thể làm cho
việc đạt mục đích mong ước xích lại gần hơn. Việc thiết lập kế
hoạch cho một đại chiến lược dài hạn sẽ cần một sự chú ý sắc bén
đến một số chiến dịch có giới hạn dự phóng cho tương lai của cuộc
xung đột dài hạn.
Những kế hoạch này cần bao gồm các sự
kiện là cuộc xung đột dài hạn sẽ được bắt đầu như thế nào, các
hoạt động sẽ được phát triển như thế nào, và bằng cách nào những
chiến lược phụ và những chiến dịch cá biệt dành cho các vấn đề có
giới hạn có thể đóng góp vào việc rốt cuộc đạt được mục đích
chính.
Suy tư
chiến lược còn có nghĩa là phải học được cách làm thế nào để phản
công lại những hành động của đối thủ hay của bất cứ những người
hay nhóm người nào muốn cuộc đấu tranh bất bạo động thất bại.
Những cân nhắc chiến lược cơ
bản: những nguồn sức mạnh của đối thủ
Lập kế hoạch chiến lược thực tiễn đòi
hỏi khả năng nhận dạng được những nguồn sức mạnh của đối thủ, và
xét định xem những người đối kháng có thể làm suy giảm hay cắt
đứt sự cung ứng các nguồn này hay không, và nếu được thì bằng
cách nào.
Tại
Serbia, khi lập kế hoạch lật đổ độc tài Milosovic, Srdja Popovic
và các cộng sự viên của ông đã chú trọng đến sáu nguồn sức mạnh
chính trị được nhìn thấy ở bất cứ nhà cai trị nào.
Duyệt lại: The Politics of Nonviolent
Action, [Chính Trị của Hành Động Bất Bạo Động] tt. 11-12 và tt.
744-757. Không đọc thêm tài liệu.
Sáu nguồn sức mạnh được nhận dạng này
là quyền hành (chính danh), nhân lực, kỹ năng và kiến thức, các
nhân tố không nắm bắt được, vật lực, và chế tài. Việc cung cấp
cho các nhà cai trị sáu nguồn sức mạnh này xảy ra được là nhờ sự
hỗ trợ, sự giúp đỡ, sự tuân phục, và hợp tác của dân chúng và của
các tổ chức trong xã hội. Những nhóm người và tổ chức cung cấp
cho các nhà lãnh đạo các nguồn sức mạnh cần thiết này được Robert
L. Helvey gọi là những “cột trụ chống đỡ”cho chế độ.
Những nhóm người và tổ chức này không
bảo đảm là sẽ cung cấp các nguồn sức mạnh đó. Mức độ ủng hộ của
họ luôn luôn biến đổi một phần nào, và có thể được cố ý làm cho
biếnđổi. Một khi những cột trụ chống đỡ trở nên không còn tin cậy
được nữa, một khi họ làm teo lại hay ngay cả cắt bỏ việc cung ứng
sáu nguồn sức mạnh đó thì chế độ áp bức sẽ bị suy yếu. Nếu việc
cung ứng các nguồn sức mạnh cần thiết bị cắt đứt thì chế độ áp
bức có thể sẽ bị làm mất hết quyền lực và tan rã.
Những nhận thức này cùng với kinh
nghiệm của Serbia cho thấy là nhân tố chính yếu trong việc thiết
lập một đại chiến lược phải là sự thử thách xem mỗi chiến dịch
đối kháng có làm suy yếu hay tăng sức mạnh của đối thủ. Điều này
cũng được áp dụng vào việc đánh giá những chiến lược có thể có và
những mục tiêu dành cho các chiến dịch có giới hạn.
Điều ngược lại ít nhất cũng có ý nghĩa
tương tự: các nguồn sức mạnh của những người đối kháng có được
tăng cường hay bị suy yếu đi sau mỗi chiến dịch có giới hạn?
Những người lập kế hoạch chiến lược cần
phải cân nhắc những vấn đề này thật cẩn trọng.
Những cân nhắc chiến lược cơ
bản: quân bình lệ thuộc
Các hành vi bất hợp tác xã hội, kinh
tế, và chính trị (còn được gọi là tẩy chay) tạo nên những thể
loại chính yếu của các phương pháp đấu tranh bất bạo động sẵn có.
Những phương pháp này chỉ có tác dụng
mạnh trên các đối thủ nếu họ thực sự cần những hàng hóa, dịch vụ,
và các nguồn sức mạnh đã bị tẩy chay và nếu đối thủ lệ thuộc vào
những người đối kháng về những thứ này. Nếu lệ thuộc vào một điều
gì rất cần thì bất hợp tác để siết lại hay cắt đứt cung cấp sẽ có
thể có tác dụng rất mạnh. Nếu cả hai bên đều lệ thuộc vào đối
phương về một điều gì quan trọng thì cuộc xung đột có lẽ sẽ phức
tạp hơn nhiều. Những thực tế này cần phải được cân nhắc cẩn thận
trong việc lập kế hoạch chiến lược đối kháng.
Việc phân phối các lệ thuộc và cân bằng
các lệ thuộc sẽ ảnh hưởng lớn đến tác dụng của bất hợp tác. Do đó
các câu hỏi như sau đây cần được giải đáp trong lúc thiết lập kế
hoạch chiến lược:
Bên nào lệ thuộc vào đối phương về
những hàng hóa, dịch vụ, và nguồn sức mạnh cần thiết, và lệ thuộc
đến mức độ nào?
Những lệ thuộc này là thuần đơn phương,
hay là cả hai bên đều lệ thuộc rất nhiều vào đối phương?
Bên lệ thuộc, hay các bên lệ thuộc có
đã, hay có thể, tạo ra hàng hóa, dịch vụ, hay các nguồn sức mạnh
thay thế để điền vào những thứ đã bị phe bất hợp tác cắt bớt hay
cắt bỏ đi hay không?
Những cân nhắc chiến lược cơ
bản: tình trạng xã hội dân sự như thế nào?
Một nhân tố chính yếu thứ ba cần phải
được cân nhắc là tình trạng của các nhóm và các tổ chức độc lập
của xã hội, những tụ điểm của sức mạnh, như đã có lưu ý trước
đây. Khi soạn bản thảo các chiến lược, và sau này khi áp dụng
chúng vào cuộc xung đột công khai, cẩn trọng cân nhắc những tổ
chức không bị cơ cấu chính quyền kiểm soát này là một việc làm
rất quan trọng.
Các tụ điểm của sức mạnh này có thể có
những mục đích khác nhau, nhiều tổ chức hoàn toàn phi chính trị.
Một số thì có thể rõ ràng là chính trị. Áp dụng tiềm năng sức
mạnh của các tụ điểm sức mạnh này có thể chỉ có giá trị soi sáng
(như trong giáo dục), hoặc có thể làm lung lay hệ thống (như
trường hợp công chức bất hợp tác), hoặc ngay cả có thể chấm dứt
áp bức (như sự tan rã của nền hành chánh và nhân viên công lực
của đối thủ).
Gộp lại với nhau, các nhóm và các tổ chức này thường được gọi là
“xã hội dân sự”. Nếu xã hội có những tụ điểm sức mạnh này với con
số và sức mạnh đáng kể thì chúng có thể làm căn cứ cho việc tăng
cường tự lực cho dân chúng trong cuộc đấu tranh dân chủ hóa. Các
tụ điểm này có thể giúp rất nhiều cho dân chúng đối kháng tiến
hành bất hợp tác nhằm siết lại hay cắt đứt các nguồn sức mạnh của
chế độ. Bằng cách đem lại đoàn kết và hỗ trợ, các tổ chức này có
thể giúp dân chúng chịu đựng nổi đàn áp cực kỳ tàn bạo.
Nếu xã hội không có những tụ điểm sức
mạnh với con số và sức mạnh đáng kể thì cần phải cân nhắc các
nhược điểm hay sự thiếu vắng của những tổ chức này khi lập kế
hoạch cho đại chiến lược hay cho các chiến lược của những chiến
dịch cục bộ cá biệt. Những bước tiên khởi của một cuộc đấu tranh
dài hạn nhằm dứt điểm độc tài do đó sẽ cần phải thật giới hạn và
được xúc tiến thật cẩn thận.
Nếu cuộc đấu tranh dài hạn cần phải đủ
mạnh để chấm dứt áp bức thì hầu như chắc chắn cần thiết là các tụ
điểm sức mạnh phải hiện hữu, phải xuất đầu lộ diện, hoặc phải
được chủ ý tạo ra và động viên. Tăng sức mạnh của các tụ điểm này
hay là tạo ra những tụ điểm sức mạnh, do đó, phải là ưu tiên.
Những tụ điểm như thế, dưới dạng các
“hội đồng”, đã xuất hiện trong thời kỳ Cách Mạng Hung Gia Lợi năm
1956-1957 trước khi cuộc đấu tranh chuyển sang các phương tiện
quân sự khi Quân Đội Hung cố gắng đánh các lực lượng quân đội Sô
Viết. Sau khi cuộc đấu tranh quân sự bị đập nát thì một cuộc đấu
tranh giai đoạn hai bắt bạo động đã được xúc tiến.
Cần đòi hỏi những người soạn thảo chiến
lược phải chú trọng đến tình trạng và điều kiện của những tụ điểm
sức mạnh này.
Những cân nhắc chiến lược cơ bản: các mục tiêu và hoạt động của
chiến dịch có làm trầm trọng thêm các nhược điểm của hệ thống áp
bức không?
Một
nhân tố chính yếu thứ tư cần phải được cân nhắc khi lập kế hoạch
cho đại chiến lược và cho các chiến lược của những chiến dịch cục
bộ là xét xem các mục tiêu và các hoạt động có làm trầm trọng
những nhược điểm tự tại của độc tài cực đoan hay của hệ thống áp
bức không.
Ngược lại những gì người ta thường nghĩ, những nền độc tài cực
đoan và những hệ thống thống trị khác không vĩnh viễn hùng mạnh
như hình ảnh được trưng bày hay thường được gắn cho chúng. Các
chế độ này thực ra có những khó khăn nội bộ và những động năng
mà, với thời gian, có khuynh hướng làm suy yếu sự kiểm soát và
tồn tại của trung ương. Những hoạt động đối kháng làm suy yếu các
nhược điểm tự tại này có cơ may gây tác dụng mạnh hơn là những
hoạt động khác.
Để biết các nhược điểm của những nền
độc tài cực đoan, mời đọc: Social Power and Political Freedom,
[Sức Mạnh Xã Hội và Tự Do Chính Trị] tt. 100-101. Số trang: 2.
Tổng số trang cho đến chỗ này: 749.
Giả thuyết vận hành ở đây là các hoạt
động làm trầm trọng những chỗ yếu sẵn có trước sẽ có cơ may gây
những tác dụng tổn hại nặng nề cho nền độc tài hơn là những hoạt
động không đem lại hiệu quả như thế.
Những cân nhắc chiến lược cơ bản: sự
quan trọng của sáng kiến trong lúc xung đột
Muốn có được những cuộc đấu tranh bất
bạo động hữu hiệu thì điều quan trọng là những người đối kháng
vừa cần phải chụp lấy sáng kiến ngay từ ban đầu vừa phải duy trì
sáng kiến suốt cuộc xung đột. Những người đối kháng không được
cho phép [để]
mình bị đưa vào cái thế chỉ chủ yếu phản ứng lại những hành động
của đối phương.
Duy trì sáng kiến vẫn có thể thực hiện
được ngay cả khi những kết quả phỏng định chiến lược lúc ban đầu
cho thấy là chế độ hiện hữu cực kỳ mạnh và những người đối kháng
thì có vẻ yếu hơn nhiều.
Duy trì sáng kiến có ý nghĩa cho cả
giai đoạn công lẫn giai đoạn thủ của cuộc xung đột.
CƯỚC CHÚ:
[1] Xem cuốn The New Technical Dictionary
of Civilian Struggle [Tự Điển Đấu Tranh Dân Sự, tự điển chuyên
môn mới] của Gene Sharp đang chờ ấn hành.
[2] “A Guide
to Translating Texts on Nonviolent Struggle” [Hướng dẫn Dịch
Thuật các Sách về Đấu Tranh Bất Bạo Động] có trên mạng của Viện
Albert Einstein: www.aeinstein.org
[3]
www.aeinstein.org
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)/a>
Những
bài liên quan
Đấu tranh Vũ Trang hay Đấu tranh Bất Bạo Động?
Những Yếu tố căn bản trong Chiến lược Bất Bạo Động
THIÊN SỨ MICAE - BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: Bộ Huy hiệu Sư Đoàn Nhảy Dù QLVNCH. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML-5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by LT chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, May 23, 2018
Cập
nhật hóa ngày Thứ Bảy, June 16, 2018 – thêm bài 4
Cập
nhật hóa ngày Thứ Năm, May 31, 2018 – thêm bài 2
Cập nhật hóa ngày Thứ Tư, May 30, 2018 – thêm bài 3
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A-72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang