Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Điểm
sách
Chủ đề:
Một Ngàn Giọt
Lệ rơi
Tác giả: Lâm Lễ Trinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Yung
Krall, nhũ danh Đặng Mỹ Dung, con gái của một đại sứ Việt Cộng trở
thành gián điệp nhị trùng giúp CIA và FBI phá vỡ lưới Tình Báo cộng
sản tại Hoa Kỳ.
Giới chính trị và văn hóa nghệ thuật đã khai thác mạnh, dở nhiều hơn
hay, đề tài chiến tranh Việt nam trong nhiều thập niên sau khi tiếng
súng ngưng nổ tại Ðông Dương. Về chính trị, nhiều sự thật chưa tiết
lộ hết. Mong rằng các tài liệu xác thực sẽ được giải mật lần hồi để
đưa ra trước ánh sáng lịch sử những bí ẩn và bài học bổ ích cho hậu
thế.
Trong phạm
vi điện ảnh, Hollywood và Pháp đã sản xuất một loạt phim thương mại
nhằm vuốt ve thị hiếu đồi trụy và phản chiến của lớp khán giả hiểu
biết hời hợt về Việt Nam.
Một số phim, đếm trên đầu ngón tay, ít
nông cạn hơn nhưng không đưa ra được một thông điệp nghiêm chỉnh.
Trên phương diện văn hóa, các tác giả Việt sản xuất hăng hái, lượng
nhiều phẩm yếu, phần đông viết hồi ký và chuyện giả tưởng.
Một vài tác phẩm của Duyên Anh, Dương Thu
Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài và Nguyễn Chí Thiện được
chuyển ngữ. Ðộc giả ngoại quốc đặc biệt tán thưởng hai bản dịch
tiếng Pháp (Le Chagrin de la guerre) và tiếng Anh (The Sorrow of
War) của quyển tiểu thuyết “Nỗi Buồn Chiến Tranh” của Bảo Ninh. Rất
tiếc, sách này chưa phổ biến sâu rộng ở nước ngoài, ngay cả trong
cộng đồng người Việt. Tại Hoa kỳ, tác giả Việt sáng tác bằng tiếng
Anh lại càng hiếm hoi.
Năm 1989, với sự trợ giúp của Day Wurts,
Lê Lý Hayslip cho xuất bản tại Double Day Publishers, New York,
quyển “When Heaven And Earth Changed Places, A Vietnamese woman’s
journey from War to Peace” tiểu thuyết hóa cuộc đời gian truân của
một thiếu nữ dân dã Việt kẹt giữa hai lằn đạn quốc gia và cộng sản.
Chương chót của sách kêu gọi hòa giải, hòa hợp dân tộc. Olivier
Stone, nhà đạo diễn danh tiếng của hai phim phản chiến Platoon và
Born On the Fourth Of July, đã dùng cốt truyện vừa nói để hình thành
cuồn phim “Heaven And Earth, Thiên Ðường và Hạ Giới” với tài tử Lê
Thị Hiệp, sinh tại Quảng Nam như Lê Lý Hayslip. Lần này, O. Stone tỏ
ra già giặn hơn nhưng cái nhìn của y về cuộc chiến VN vẫn còn phiến
diện vì nhiều đoạn trong phim không thiết thực.
Cuối năm 1995, nhà xuất bản Longstreet
Press, Atlanta, Georgia, cho phát hành ấn phẩm “Một Ngàn Giọt Lệ
Rơi, A Thousand Tears Falling” của một phụ nữ Việt khác tên Yung
Krall tự Ðặng Mỹ Dung, với lời giới thiệu nồng nhiệt của Griffin B.
Bell, nguyên Bộ trưởng Tư pháp thời Tổng thống Carter.
Quyển tự thuật này, dày 412 trang, khác
với tác phẩm “When Heaven And Earth” về nhiều khía cạnh:
* Tác giả là một phụ nữ thuộc giới trung
lưu gốc Cần Thơ, trình độ trên trung học, sinh năm 1946, hoạt động
trong ngành tình báo CIA, đồng thời là nhân viên của FBI.
Ðiểm đáng lưu ý:
* Thân phụ của Yung Krall là Ðặng Quang
Minh, một thành viên cấp cao trong Ðảng CSVN và đại sứ của Chính phủ
Giải Phóng Miền Nam tại Bắc Âu và Liên Sô.
Năm 1968, tác giả lập gia đình với Trung
úy phi công Hải quân Mỹ John J. Krall. Sau khi bất chấp hiểm nguy
giúp chính quyền Hoa kỳ phá vỡ năm 1978, mạng lưới tình báo Việt
cộng tại Mỹ gồm có Ðinh Bá Thi, Trương Ðình Hùng và đồng bọn, tác
giả từ nhiệm và về sinh sống tại Atlanta.
Ðương sự đã phải viết thơ khiếu nại thẳng
với Ðề đốc Stansfield Turner, Giám Ðốc CIA, và mặt khác, nhờ Văn
phòng Luật sư Quinlan J. Shea Jr, Columbia, Maryland, căn cứ vào
Luật Thông tin Tự do, quyết liệt tranh đấu nhiều tháng mới được phép
thực hiện quyển hồi ký MNGLR.
Cả hai, Griffin Bell và Quinlan Shea, nơi
trang 8 và 142 trong sách, đều đề cao Yung Krall như “truly a great
American, a genuine American hero”.
Phê bình về các tác phẩm tả thực bi kịch
VN, GS Douglas Pike, thuộc Ðại học Berkeley, viết:
* “Yung Krall’s A Thousand Tears Falling
is one of the best of this genre, if not the best”.
Ngày 19/4/1996, tại buổi lễ ở Kennesaw
State College, GA, Ủy ban Georgia Author of the Year Committee đã
bầu Ðặng Mỹ Dung một trong 45 tác giả đặc sắc nhứt trong năm.
Ngày 18 tháng 4 1998, Ðại hội toàn quốc
Society Daughters of The American Revolution, Hoa kỳ, tặng cho đương
sự tại Hoa Thịnh Ðốn huy chương danh dự về thành quả phục vụ cộng
đồng và đất nước.
Giới Lập pháp và các hội đoàn cựu chiến
binh Mỹ cũng thường mời Yung Krall trình bày về vấn đề VN.
Ðể giúp độc giả Việt nhận định về mối nguy
nan do hoạt động tình báo của CS Hà Nội tạo ra tại Hoa kỳ, nhứt là
đối với cộng đồng di cư chúng ta, tác giả bài này đã phỏng vấn Yung
Krall về quyển sách của cô và nhiều chi tiết bên lề.
Xin tóm lược sau đây các điểm
chính yếu.
Tình phụ tử sâu đậm không hàn gắn nổi
những dị biệt chính trị giữa cha con.
17 chương đầu của hồi ký MNGLR dành để
trình bày cuộc sống của gia đình tác giả từ 1945 đến 1954 trong
chiến khu Nam bộ và từ 1954 đến 1975 trong vùng quốc gia.
Thân phụ của Yung Krall xuất thân là một
giáo viên, tên thật Ðặng Văn Quang, sau đổi thành Ðặng Quang Minh,
sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, hoạt động cho CS từ lúc 18 tuổi, bị
Pháp bắt giam năm 1930 và sau 1940, đày ra Côn đảo cho đến 1945.
Thân mẫu của Yung Krall là bà Trần Thị
Phàm, có 7 người con, hai trai và năm gái. Yung Krall là người con
thứ tư trong gia đình.
Trước Hiệp định Genève, Ðăng Quang Minh
đắc cử Dân biểu Cần Thơ trong Quốc hội CS và năm 1954, rút về Bắc để
làm việc trong ngành ngoại giao.
Trong 10 năm chống Pháp và Chính phủ quốc
gia, Ðặng Quang Minh cùng gia đình đổi vùng thường xuyên, từ Ông
Giẹo, Ba Ngọn (Cần Thơ) qua Kim Quy, Cảng Chú Hàng (Chương Thiện) để
tổ chức kháng chiến.
Yung Krall kể lại rằng cha cô lắm lúc vắng
mặt nhiều tháng, có lẽ qua Thái Lan mua võ khí, và khi về nhà thì
thường phải cải trang ẩn núp để tránh Mật thám Pháp truy lùng.
Tại Ông Giẹo, Lê Ðức Mai, sau này đổi tên
thành Mai Chí Thọ, em ruột của Lê Ðức Thọ, thường lui tới với gia
đình cô.
Cuối
1953, Lê Ðức Thọ, từ Hà Nội vào, có đến chủ tọa một phiên nhóm cán
bộ tại Cảng Chú Hàng. Sau Hiệp ước Genève, Ðặng Quang Minh tập kết
ra Bắc với Khôi, đứa con trai đầu lòng 18 tuổi.
Ðặng Mỹ Dung – lúc đó vừa lên chín – cùng
với mẹ và chị em về tá túc tại nhà ông ngoại ở Long Thành, Cần Thơ.
Trong gia đình của Dung, các chú và cô đều hoạt động cho CS nhưng mẹ
và ông ngoại, thủ cựu, thì lại không chấp nhận chủ nghĩa xã hội bất
nhân. Sự dị biệt về lý tưởng, tuy nhiên, không làm sứt mẻ tình
thương kính lẫn nhau.
Vì biết không thuyết phục nổi vợ con thay
đổi lập trường, Ðặng Quang Minh không tìm cách gây áp lực quá đáng.
Trong suốt cuộc chiến VN, mỗi gia tộc là một thảm cảnh phân chia –
hình ảnh chung của đất nước!
Với những thân nhân sanh Bắc tử Nam hay
trái lại. Gia đình của tác giả MNGLR không phải là một biệt lệ.
Trước khi tập kết, Ðặng Quang Minh thận trọng cho thủ tiêu tất cả
hình ảnh chụp chung với y, lập khai sanh khác cho các con, ghi cha
“vô danh” và sửa tờ khai gia đình. Y hứa hai năm sẽ trở lại. Không
ngờ hai mươi mốt năm sau, về nơi sinh quán thì gia đình đã bỏ “thiên
đường CS” vĩnh viễn ra đi.
Từ 1954 cho đến ngày Miền Nam sụp đổ, Ðặng
Mỹ Dung và gia quyến sống lang bạt, hụp lặn trong mọi thử thách vật
chất, an ninh và tinh thần. Dung lớn lên như cỏ dại, với mặc cảm ray
rứt của một người con không cha, “cha vô danh” mặc dù biết rõ cha
còn đó, bên CIA vĩ tuyến.
Xong Trung học tại trường Phan Thanh Giản
Cần Thơ năm 1964, lúc 18 tuổi, Dung liền tìm việc làm để giúp đỡ gia
đình. Nhờ xông xáo, xốc vác, kiên nhẫn – và cả may mắn – Dung được
Phòng 5 Tâm lý chiến Quân đội VNCH của Ðại úy Nguyễn Ðạt Thịnh, Vùng
4 Chiến thuật, tuyển vào chân phóng viên.
Nơi đây, Dung tập viết lách và thu thập
kinh nghiệm về chiến tranh tâm lý. Có một lúc, Dung bị An ninh Quân
đội điều tra nhưng mọi việc không đi đến đâu.
Thân mẫu của Dung phải dẹp tiệm may và dời
về Sài Gòn sinh sống sau một cơn bịnh nặng, Dung tìm ra được một job
kế toán – điện thoại viên tại Ðông Nam Ấn Quán, trả lương chết đói.
Dung thất vọng, một mình trở lại Cần Thơ xin tái phục vụ tại Phòng
Tâm lý chiến cũ.
Không đầy một năm sau, Dung nhớ gia đình và thấy tương lai không có
triển vọng nên trở lên Sài Gòn, nhờ hai người chị, sẵn làm cho Mỹ,
giới thiệu vào giúp việc tại Trung tâm BOQ, Bachelor Officers’
Quarter.
Tại đây,
Dung gặp Trung úy Hải quân John James Krall và sau vụ tấn công Tết
Mậu thân 1968, cả hai rời VN về Monterey, Californie để làm đám
cưới. Lúc đó, hai người chị của Dung đang sống tại Mỹ và ba chị em
đã trở thành công giáo.
Hải Vân, người em trai của Dung, 21 tuổi,
tình nguyện gia nhập Không Quân và được Bộ Quốc phòng VNCH gởi tu
nghiệp tại Lacland, Texas.
Ðầu tháng giêng 1971, Hải Vân tử nạn trong
một chuyến bay tập dượt gần Savannah, Georgia. Năm 1973, Yung Krall
về thăm gia đình tại Sài Gòn và nhân dịp này, nhận góp phần bảo trợ
Cô nhi viện Minh Trí tại Gò vấp.
Ðầu 1975, John Krall đổi qua Fleet Weather
Central, Hawai. Bất thần một buổi sáng, Yung Krall nhận một cú điện
thoại từ Paris của một người Pháp xưng tên Jean Sagan, bạn thân của
Ðặng Quang Minh, báo tin Miền Nam VN sắp sụp đổ và thúc Yung Krall
di tản gấp mẹ và em ra khỏi xứ.
Yung Krall sực nhớ lại ba năm trước, có
nhận được cũng của kẻ trung gian bí mật này một bao thơ (không ghi
tên người gởi), cũng từ Pháp, chuyển một số hình của đại sứ Ðặng
Quang Minh chụp ở Hà Nội chung với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường
Chinh và tại Mạc Tư Khoa và Mông cổ.
Tình nguyện làm gián điệp để di tản gia
đình. Tái ngộ với cha để chia tay vĩnh viễn.
Tình thế trở nên nguy kịch sau ngày Ban Mê
Thuột và Quảng Trị thất thủ. Chị của Yung Krall, kết hôn với một sĩ
quan Hoa kỳ tên Wray Allan Hall, không chịu tiết lộ cho chồng biết
lai lịch của cha.
Thiếu tá John Krall xin nghỉ phép 30 hôm,
liều bay cấp bách về Sài Gòn vận động đem nhạc mẫu và em vợ qua Hoa
kỳ. Trên nguyên tắc, chuyến ra đi này bất hợp pháp vì lúc đó, Ngũ
Giác Ðài cấm ngặt sĩ quan Mỹ vào VN nếu không có công vụ lệnh của
cấp chỉ huy trực tiếp.
Yung Krall sốt ruột vì không biết việc gì
xảy ra cho chồng và gia đình tại VN nên nghĩ ra giải pháp táo bạo:
* Điện thoại cầu cứu thẳng với Ðề đốc
Gaylor, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương.
Sau nhiều khó khăn, Dung được nói chuyện,
xác nhận chức vụ của cha, trình bày nguy cơ của mẹ và luôn cả cuộc
điện đàm với Jean Sagan.
Ðề đốc Gaylor liền cho Thiếu tá Hải quân
Dave Smith tiếp Dung hỏi thêm chi tiết. Trong lần gặp gỡ này, để
chắc ăn, Dung đánh lá bài chót:
* Cô tình nguyện “cộng tác với chính phủ
(HK) nếu và khi nào cần đến”.
Ðề nghị có hiệu quả mau chóng. Không đầy
24 giờ sau, một nhân viên CIA mặc thường phục, tên Bob Jantzen, đến
tận nhà, sốt sắng ghi đầy đủ lý lịch của thân nhân của Yung Krall.
Bob cũng hứa thông báo cho Tòa đại sứ HK tại Sài Gòn biết sự hiện
diện của John Krall ở VN. Tham vụ ngoại giao Grant Ichikawa, nhờ
thế, liên lạc được với John để sắp xếp mọi việc. Ngày 10/4/1975,
John Krall yên tâm, trở về Mỹ trước. Vài hôm sau, mẹ và hai em vợ
đến an toàn tại phi trường Honolulu.
Ðầu tháng 6/1975, Bob Jantzen cho Yung
Krall gặp sĩ quan đặc trách, case officer Robert Hall (hay Rob) là
người có phận sự trong hệ thống CIA theo dõi công tác, ra chỉ thị và
nhận báo cáo Rob lập một hồ sơ đầy đủ về Yung và đề nghị Yung theo
học một khóa huấn luyện tại trung tâm Langley ở Washington.
Ngày 20/7/1975, tại Hickam, Yung vui mừng
đọc trong báo Japan Times một tin ngắn cho biết ngày 5 tháng 8, hai
phái đoàn Hà Nội và Mặt trận giải phóng Miền Nam do Ðỗ Xuân Oánh và
Ðặng Quang Minh hướng dẫn sẽ tham dự Hội nghị quốc tế chống bom
nguyên tử và khinh khí tại Tokyo. Yung, mừng tủi lẫn lộn, liền bay
qua Nhựt với đứa con trai Lance, 5 tuổi, để gặp lại cha sau trên 20
năm xa cách.
Có 2 điểm đáng ghi trong cuộc tái ngộ này:
1. Ðặng Quang Minh nghi đế quốc Mỹ đã âm
mưu sát hại con trai là phi công Hải Vân trong phi vụ tại Georgia để
trả thù Minh theo CS. Minh không tin lời cải chính của Yung đây chỉ
là tai nạn.
2.
Trước mặt nhân viên CS, Ðặng Quang Minh không dám công nhận con và
cháu ngoại. Y giới thiệu họ là “người cùng làng!” Yung buộc lòng
phải đóng trò xưng hô “Bác, Cháu” với cha. Trong những lần nói
chuyện riêng với thân sinh về một số vấn đề chính trị, Yung khổ tâm
nhận thấy một thế giới chia cách hai người và thổ lộ sự thất vọng.
Ð.Q. Minh an ủi khi chia tay: “Ba không tìm cách thay đổi con nhưng
xin con đừng dày xéo những xác tín của Ba. Nếu con thoải mái với
điều con tin tưởng thì Ba cũng mừng thấy con hài lòng!”. (trang 247,
254, hồi ký).
Trung tuần tháng 9/1975, Yung làm thủ tục đem mẹ qua Paris gặp thân
phụ trong dịp ông công tác tại Pháp. Trước ngày khởi hành, xếp Xịa
Jerry Parker tiếp Yung tại một nông trại Virginia và ngỏ ý muốn giúp
sĩ quan VC Ðặng Văn Khôi đào thoát khỏi Bắc Việt. Khôi là anh cả của
Yung, chuyên về hỏa tiễn, guided missiles, từng được huấn luyện tại
Trung cộng và Liên Sô.
Rob được lịnh qua Paris theo dõi việc làm
của Yung.
Phan
Thanh Nam, xử lý thường vụ Tòa đại sứ GPMN đặt ở 44 Ðại lộ Madrid,
Neuilly –sur– Seine, chỉ định “sinh viên” Phạm Gia Thái lái xe đưa
mẹ con Yung về ngụ tại một ngôi nhà ở Verrières–la–Buisson. Ðồng
thời, Thái có phận sự làm hướng đạo cho hai người khách. Vì không
muốn Thái dò xét hành tung của mình, Yung từ chối, viện lẽ đã thuê
phòng tại khách sạn. Nam được Bắc bộ phủ gài trong MTGPMN.
Không để mất thời giờ, vài hôm sau, Nam
gặp riêng Yung để tìm hiểu về chức vụ và khả năng chuyên môn của
John Krall trong Quân đội HK, đề nghị Krall giúp Hà Nội, khuyến dụ
Yung về Mỹ vận động dư luận quần chúng đòi Hoa Thịnh Ðốn bồi thường
3.5 tỷ đô cho VN và yêu cầu mẹ Yung – nếu không về Việt Nam – thì ít
nữa cũng theo ÐS Minh qua Moscou vì Chính phủ Sô viết “hiến cho vé
máy bay Aéroflot miễn phí”.
Nam không thuyết phục được thân mẫu của
Yung vì bà dư biết nhà cầm quyền CS không tha thứ vợ một cán bộ cao
cấp từ chối tập kết, bỏ nước ra đi và hơn nữa, gả hai con gái cho
“Mỹ Ngụy”. Vả chăng, ÐS Minh không ngại cho vợ biết điểm này.
Những ngày vui mừng tái ngộ qua mau. Mẹ
Yung quyết định cho Nam biết dứt khoát bà phải trở về Hoa kỳ để săn
sóc gia đình và thoái thác dự buổi cơm do Võ Văn Sung, đại sứ Bắc
Việt, khoản đãi. Bà cảm thấy nhẹ nhõm khi lên máy bay về Hoa Kỳ vì
những hôm chót, nhiều kẻ lạ mặt lui tới nơi địa chỉ cư ngụ, làm bà
lo sợ bị bắt cóc.
Võ Văn Sung mời Yung đến sứ quán, tỏ ý
muốn Thiếu tá John Krall “tiếp một tay với cha vợ, cho biết Việt
cộng có một số cảm tình viên” tại Honolulu và đề nghị Yung tiếp xúc
làm việc với người cầm đầu Hội Việt Kiều Yêu Nước tại San Francisco.
Trở về Hawai, Yung Krall được CIA chỉ thị
cùng chồng dời lên thủ đô Washington.
Hướng công tác không còn chú trọng đến nạn
nhân của CSVN và từ nay, nhắm vào hệ thống chỉ huy CS ở nước ngoài.
Yung được bố trí đóng vai trò “gián điệp nhị trùng” để lấy tin. Một
vai trò tế nhị và nguy hiểm mà Yung chấp nhận.
Yung trở qua Paris vài tháng sau để bắt
liên lạc với Huỳnh Trung Ðồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt kiều.
Trong nhiều tuần lễ, Ðồng dẫn Yung viếng trụ sở và thư viện chứa đầy
tài liệu tuyên truyền, tham dự những buổi học tập của cán bộ và gặp
các phần tử thiên tả Việt–Pháp.
Ðồng trao cho Yung nhiều ấn phẩm Anh–Việt
để phổ biến tại Hoa kỳ. Ðặc biệt, Ðồng dặn Yung tiếp xúc với cán bộ
Nguyễn Thị Ngọc Thoa, người cầm đầu một hệ thống tình báo CS tại Hoa
Thịnh Ðốn.
Sĩ
quan đặc trách Rob Hall – khi được thông báo mọi việc – ngăn Yung
gặp Thoa vì cho rằng công tác phản gián là phần vụ cảnh sát của FBI,
không liên hệ đến CIA chỉ chú trọng về chính trị. Y hăm sẽ bãi nhiệm
Yung nếu bất tuân lịnh:
* Không một ai được phép làm việc cùng một
lúc với CIA và FBI.
Yung bướng bỉnh cãi lại rằng cô làm việc
không lương cho CIA từ 9 tháng nay, vì thế không bị ràng buộc bởi
hợp đồng nào và cô sẽ nhờ chồng tường trình lên Ðề đốc Bobby Inman,
Giám đốc Cục Tình báo Hải quân.
Lúc đó, John Krall là nhân viên Phòng Liên
lạc Quốc ngoại trong cơ quan này. Vài hôm sau, Ðề đốc Inman tiếp
Yung. Cô trình bày nhu cầu cấp thiết phá vỡ lưới tình báo VC tại HK.
Inman hứa sẽ thảo luận với Clarence Kelly, Giám đốc FBI.
Tháng 6/1976, nhân viên FBI Bill Fleshman
và sĩ quan đặc trách CIA Bill Reardon được chỉ định làm việc với
Yung Krall, từ nay một gián điệp có hợp đồng.
Vụ án Ðinh Bá Thi, Trương Đình
Hùng và đồng bọn.
Bức thơ giới thiệu của Huỳnh Trung Ðồng
giúp Yung Krall gặp Nguyễn Thị Ngọc Thoa dễ dàng tại một căn gác nhỏ
ở 18th street N.W. thủ đô Washington. Ðịa chỉ này là trung tâm phát
hành nhiều tài liệu tuyên truyền CS và nguyệt san Người Việt Ðoàn
Kết mỗi tháng in 5000 số, với sự giúp đỡ của Linh mục Trần Tam Tĩnh,
Gia Nã Ðại.
Thoa rất kín đáo, sống kham khổ và có một
người chồng Mỹ thiên tả nhưng không ở tại đây. Hệ thống của đương sự
gồm có Việt kiều thân Cộng, không đông, có căn bản học thức, phản
chiến trong những thập niên 60/70 và hoạt động khá hăng hái. Sinh
viên Trương Ðình Hùng, con của Luật sư Trương Ðình Dzu, nguyên ứng
cử viên Tổng thống chống Thiệu năm 1967, là một trong các người này.
Thoa và Hùng thường nhờ Yung chuyển nhiều bao thơ mật cho Huỳnh
Trung Ðồng và Nguyễn Ngọc Giao ở Paris.
Mỗi lần, FBI và CIA được Tòa án cho phép
chụp ảnh tài liệu để lưu trữ.
Tháng 4/1976, nhờ Võ Văn Sung giới thiệu,
Yung bắt liên lạc được với Nguyễn Văn Lũy, Chủ tịch Hội Việt kiều
Yêu nước tại San Francisco và Lũy cho Yung gặp hai “đồng chí đắc
lực” học tại Virginia Tech, Christiansburg, VA. Sĩ quan đặc trách
Rob Hall được tái chỉ định trở về cộng tác với Yung.
Cuối 1976, Yung điện thoại xin đến thăm
Ðinh Bá Thi, đại sứ CS tại Liên Hiệp Quốc ở New York với một bao thơ
tài liệu của Trường Ðình Hùng. Thi vui vẻ nhận lời vì quen thân với
ÐS Ðặng Quang Minh. Chẳng những thế, Thi còn mời Yung Krall đến ở
tại Sứ quán. Vì xông vào hang cọp, Yung thông báo trước cho CIA/FBI
biết: nếu quá ba ngày, không nhận được tin, là có chuyện nguy. Nhân
viên sứ quán vỏn vẹn gồm có Phạm Ngạc, Tham vụ phụ tá, Phạm Dương
chuyên viên kinh tế, Hưng gác dan kiêm đầu bếp, và Vân tài xế kiêm
vệ sĩ. Tất cả sống chung với nhau, nhịn ăn điểm tâm “để tiết kiệm”,
thường xuyên nghe ngóng thời sự trên 3 máy truyền hình và không được
phép rời Nữu Ước quá 25 dặm.
Theo Yung, Ðinh Bá Thi tánh tình cởi mở và
không quá khích. Y than vợ đang bịnh nặng ở VN và không được Chính
phủ cho xuất ngoại. Nhân viên ngoại giao không có quyền đem theo gia
đình để tránh nạn đào ngũ. Thi thông cảm nỗi khó khăn thân mẫu của
Yung gặp phải nếu trở về VN. Thi buồn rầu nhận định:
“Một khi chế độ không đem lại hạnh phúc
cho dân và không đưa đất nước tiến tới một tương lai hứa hẹn thì
phải thối lui và tự đặt câu hỏi: Vì sao?” (trang 312, hồi ký).
Sau khi CIA trắc nghiệm bằng máy dò sự
thật, polygraph test, theo thủ tục định kỳ, Yung Krall trở lại
Paris, tổng hành dinh tình báo VC ở hải ngoại. Mỗi chuyến đều có Rob
Hall đi kèm, để bảo vệ an ninh và vì lý do nghề nghiệp.
Tuy đại diện cho MTGPMN, Phan Thanh Nam
thiên hẳn về chủ trương của Hà Nội xúc tiến thống nhứt gấp VN. Nam
khuyên Yung không nên lộ diện với Việt kiều cánh tả để dễ làm việc
mật với y. Nam còn xúi Yung bề ngoài vung vít chống Cộng, để đánh
lạc hướng. Yung cũng bị Phòng Nhì Pháp theo dõi. Phòng thuê của cô
tại khách sạn bị lục soát, điện thoại bị ghi âm. Yung phản đối, viên
Giám đốc xin lỗi, nói rằng có sự hiểu lầm.
Vì tính cách hệ trọng của kỳ công tác này,
Yung được gặp Dan Andrew, chỉ huy khu vực của CIA. Huỳnh Trung Ðồng
đề nghị Yung đứng ra thành lập một Hội Việt–Mỹ tại Hoa Kỳ vì các
nhóm Việt kiều Yêu nước ở Hoa Thịnh Ðốn, San Francisco và nơi khác
chống đối lẫn nhau. Chính Trương Ðình Hùng (tự David Trương) nhiều
lần khuyên Yung không nên liên hệ với những nhóm “ăn hại” vừa kể.
Dù sao, theo Yung, những tổ chức này đã
thu được vài kết quả:
* Móc nối với một số trí thức và khoa học
gia HK hô hào giúp chính quyền Hà Nội. GS Edward Cooperman, thuộc
Ðại học Fullerton, California, sáng lập viên của Ủy ban US–VN
Science & Technology Committee, là một thí dụ.
Yung xâm nhập vào hoạt động của Ủy ban.
Một thời gian sau, xảy ra hai vụ:
1. Trần Văn Bé Tư mưu sát hụt KS Trần
Khánh Vân, thành viên của Ủy ban nói trên và
2. Sinh viên Lâm Văn Minh hạ sát
Cooperman.
Cộng
đồng người Việt rất xao động về chuyện thanh toán này. Mặt khác, lúc
ở Paris, Yung cũng đã lui tới với vài phần tử trước hợp tác với
MTGP, nay bất mãn:
* Ký giả Cao Minh Chiếm và Kỹ sư Huỳnh
Ngọc Châu, rể và con của cố Huỳnh Ngọc Nhuận, một triệu phú ở Gia
Định từng chứa chấp tại nhà dược sĩ Hồ Thu và nhiều nhân vật kháng
chiến. Sau 1975, bà Nhuận bị CS giam cầm và tịch thu tài sản.
Kể từ mùa xuân 1977, Yung bám sát hoạt
động của Trương Ðình Hùng. Hùng nghịch với Nguyễn Văn Lũy và làm
việc thẳng với Phan Thanh Nam (Paris) và Ðinh Bá Thi (New York),
đồng thời liên lạc trực tiếp với Hà Nội.
Hùng tâm tình với Yung rằng, với khả năng
sẵn có và giao thiệp rộng, y mơ ước ngày CIA, được “Trung Ương” giao
cho trách nhiệm điều khiển “hệ thống thông tin quốc ngoại CS” ở Hoa
Kỳ, tương đương với vai trò giám đốc CIA Việt Nam (!).
Mộng xa vời, chưa đạt thì xộ khám. Ðúng
vậy, Yung liền thông báo cho Clarence Kelley, Giám đốc FBI và Thứ
trưởng Ngoại giao Warren Christopher hay khi David Trương khoe với
cô rằng y “có thể có làm những gì y muốn”, nhờ nắm được một nhân vật
(HK) “vô ra ở tầng thứ 7 của Bộ Ngoại giao” (trang 336, hồi ký).
Cuối tháng 4/1977, Huỳnh Trung Ðồng, vừa
được thu nạp vào đảng CS sau một cuộc viếng thăm Hà Nội, mời Yung
Krall qua Paris “để chào” Thủ tướng Phạm Văn Ðồng công du tại Pháp.
David Trương nhờ Yung trao cho Phan Thanh Nam hai bao thơ “tối
mật/tối khẩn”. Tất nhiên, FBI chụp ảnh tất cả tài liệu bên trong.
Huỳnh Trung Ðồng niềm nở chào đón Yung ở
Paris và giới thiệu với bốn cán bộ VC, trong đó có một phụ nữ tên
Vân, nguyên phụ tá của Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình tại Hội nghị
Paris. Tất cả tỏ vẻ vui mừng nhận được tài liệu của T. Ð. Hùng để
cho phái đoàn CS Việt nhóm hôm sau với đại diện của Washington về
“vấn đề bồi thường chiến tranh”.
Giờ chót, không rõ lý do, Huỳnh Trung Ðồng
xin Yung đừng đến phi trường Orly đón Thủ tướng Ðồng và dự buổi tiếp
tân.
Tại HK,
chiến dịch “Operation Magic Dragon” xúc tiến để tóm trọn gói tổ chức
tình báo Việt Cộng. FBI ghi âm được đầy đủ điện đàm giữa Trương Ðình
Hùng và Ronald Louis Humphrey, một nhân viên của USIA, US
Information Agency.
Với sự đồng ý của Tổng thống Carter và
giấy phép của Bộ trưởng Tư pháp Griffin Bell, FBI đặt máy thu hình
bí mật trong văn phòng của Humphrey và bắt quả tang đương sự trộm
tài liệu bí mật quốc gia để chuyển cho Hùng.
Trong bức thơ riêng do Phan Thanh Nam nhờ
Yung đưa cho Hùng, Nam viết:
* “Hoan nghinh chương trình làm việc của
anh. Có những cố gắng lừa đảo và bịp lẫn nhau”.
Hùng sống thanh bạch trong một căn phố
nhỏ, đầy sách và báo, ở đường F. Street và làm việc trong một tiệm
gởi thư tín, đường M Street, Hoa Thịnh Ðốn.
Khi Yung đến từ giã Hùng để đi Luân Ðôn,
nhiệm sở mới của chồng chuyển về Bộ Tư Lệnh Hải quân HK tại Âu châu,
Hùng đưa cho Yung một bì thơ đựng tài liệu “lấy từ Quốc hội” để nhờ
trao cho Huỳnh Trung Ðồng. Hùng nói:
* “I ran over to the Congress to get a
package of that stuff”.
Ðây là bao thơ cuối cùng, trước ngày Hùng
bị bắt.
Yung
Krall thử thi hành một kế hoạch chót trước khi thôi việc với
CIA–FBI:
* Thuyết
phục thân sinh từ nhiệm và giúp người anh cả là sĩ quan VC Ðặng Văn
Khôi trốn khỏi. CIA tặng cho Khôi 10,000 đô để trang trải chi phí.
Yung qua Paris nhờ ÐS Võ Văn Sung can
thiệp với Bộ Ngoại giao CS cho Ðặng Quang Minh đến Pháp gặp vợ, khai
đang đau nặng.
Sung cho biết đến nay, chính phủ Hà Nội không cho cán bộ nào, dù cao
cấp, xuất ngoại vì vấn đề riêng tư.
Yung đánh liều gởi hai bức thơ thỉnh
nguyện cho Tổng Bí thư Lê Duẫn và Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh, kèm
theo giấy chứng bịnh (giả) của mẹ.
Bất ngờ, một thời gian sau, Lai Xuân
Chiêu, xử lý thường vụ Tòa đại sứ VC tại Anh quốc, cho Yung hay ÐS
Ðặng Quang Minh, trong dịp công du tại Moscou, sẽ ghé Luân Ðôn.
Ðược thông báo, Rob (CIA) và Bill (FBI) đề
nghị Yung hãy khuyên cha xin về hưu và di cư qua Hoa kỳ. Nếu Ðặng
Quang Minh cương quyết từ chối, họ sẵn sàng giúp tay để tổ chức bắt
cóc.
Ngày
13/12/1977, ÐS Minh đến phi trường Heathrow. Ban ngày, ÐS Minh ở tại
nhà Yung, chuyện trò và ăn uống với vợ con nhưng ban đêm lại nhứt
quyết đòi về ngủ tại phòng của sứ quán dành riêng cho khách. Nói là
tuân hành quy tắc chung (của CS!).
Khi nghe Yung năn nỉ về vấn đề xin về hưu
để đoàn tụ với gia đình, ÐS Minh lắc đầu, trả lời:
* “Ðảng còn cần, không thể trốn nhiệm
vụ!”.
ÐS Minh có
vẻ hoảng hốt khi Yung – quá thất vọng – nói đùa:
* “Con sẽ bắt cóc Ba!”.
Cuối cùng, Yung bỏ qua ý định bắt cóc vì
biết giải pháp này sẽ vĩnh viễn đốt cháy cuộc đời của cha, chỉ biết
có Ðảng.
Nơi trang 382, Yung Krall chán nản kết luận:
* “Phải có gì hơn phép mầu mới thắng nổi
sự mê tín lý tưởng và lòng chung thủy vô biên của cha tôi đối với
chủ trương của ông!”.
Mẹ Yung thấy con khổ sở bèn vỗ về:
* “Không thể thay đổi đất nước và dân Việt
bằng cách tố khổ suông CS trước mặt Ba. Ðừng hành hạ Ba vì kinh
nghiệm đau đớn của con. Không phải chỉ Ba con mà là cả chế độ đã
không làm được gì tốt cho dân tộc. Mẹ biết con khổ, con còn trẻ, rồi
mọi vết thương sẽ hàn gắn. Ba con không còn thời gian như con”.
Khi tiễn cha lên máy bay, Yung cảm động
bắt tay từ giã, với lời thú:
* “Con chống Chính phủ CS. Con không chống
Ba!”.
Ðặng Quang
Minh trả lời, lạnh lùng: “Con là con, Ba là Ba. Ba không chịu trách
nhiệm về những gì con làm!”. (trang 385. 395. Hồi ký)
Ðây là cuộc hội ngộ chót. Yung Krall quyết
định giải nghệ mặc dù về thành quả công tác, Yung được thượng cấp
đánh giá như một spy catcher, super spook, superstar spy và CIA tăng
nguyệt phí lên 1,200 đô, một giá rẻ mạt, sánh với bao nhiêu công sức
và hy sinh!
Tiền
không phải là mục tiêu. Yung không thiết tha gì nữa. Cô trả lời với
Tony Lapham, Cố vấn CIA, và John Martin, Luật sư của Bộ Tư pháp,
rằng cô sẵn sàng làm chứng (nhân chứng chính, key witness) khi Tòa
xử vụ án gián điệp VC.
Quyết định này gây nguy hiểm cho cô và gia
đình. Mặt khác, sẽ chấm dứt liên hệ từ nay với CIA và FBI vì cô lộ
diện. Nhưng không sao!
Ngày 31/1/1978, FBI bủa lưới bắt Ronald
Humphrey, Trương Ðình Hùng và đồng bọn.
Một số can phạm khác bị truy tố
nhưng không bị bắt:
* Huỳnh Trung Ðồng, Phan Thanh Nam, Nguyễn
Ngọc Giao và Ðinh Bá Thi.
Trong hồ sơ, Yung cung khai dưới bí danh
Keyseat, ngụ tại 8 Regal Lane, Regent Park, London.
Giới truyền thông HK ầm ĩ tung tin về vụ
án này. Huỳnh Trung Ðồng gởi cho Yung Krall một tấm thiệp căn dặn
“hãy đề phòng” vì tới giờ chót, y vẫn không ngờ Yung là gián điệp
nhị trùng.
Mãi
đến ngày 17/3/1978, công chúng mới biết được lý lịch thiệt của
Keyseat. Yung liền nhận được nhiều thơ nặc danh hăm dọa và sỉ vả là
“kẻ phản bội”.
CIA cũng không hài lòng vì mất một cộng tác viên đắc lực. Nỗi khổ
tâm của Yung là không biết hậu quả gì xảy ra tại VN cho cha và anh?
Tuy nhiên, cô không hối tiếc đã giúp lật
tẩy CS phá hoại tại Hoa kỳ, đất dung thân của gia đình cô.
Những tâm tư này được gởi gấm
trong một hồi ký đầy kỷ niệm và nước mắt:
* “Một Ngàn Giọt Lệ Rơi”.
Yung Krall đã biến các dày xéo của bản
thân và đất nước thành mốt hành động tích cực để đấu tranh cho dân
chủ. Trong những lần tiếp xúc riêng, Yung Krall đã trả lời như sau
vài câu hỏi của chúng tôi:
1. Ngày 8/7/1978, Humphrey và Trương Ðình
Hùng bị Tòa phạt mỗi người 15 năm tù ở về tội làm gián điệp.
Humphrey có vợ Việt khi y phục vụ tại VN. Hùng có vợ Mỹ và định cư
tại Âu châu sau ngày thụ án xong. ÐS Ðinh Bá Thi bị trục xuất khỏi
HK, chết trong một tai nạn xe hơi (hình như do CS bố trí vì nghi Thi
“chệch hướng”).
2. ÐS Ðặng Quang Minh là người của Trung ương đảng bộ gài trong
MTGPMN nên vẫn tại chức đến ngày qua đời tại Sài Gòn năm 1986, vì
bịnh đau tim. Chức vụ chót của đương sự là Cố vấn Bộ Ngoại Giao CS.
Có liên lạc với gia đình nhưng tuyệt nhiên không hề đề cập đến vụ
án.
3. Sau khi
Tòa HK tuyên xử, để đánh lạc hướng dư luận, báo chí CS viết rằng
“con của một đảng viên cao cấp CS bị CIA buộc gài bẫy ÐS Ðinh Bá Thi
và con trai của một luật sư trong vụ gián điệp”.
4. Tháng 6/1986, hai tháng trước khi cha
qua đời, Ðặng Văn Khôi, sau nhiều lần vượt biên thất bại, đến định
cư tại HK. Khôi hiện sinh sống tại New York bằng nghề dạy guitar.
5. Tháng 4/1986, thôi việc với CIA, tác
giả Yung Krall, với tư cách riêng, qua Bắc Kinh 2 tuần để viếng
Hoàng Văn Hoan, bạn nối khố của Hồ Chí Minh, tỵ nạn tại Trung cộng
và bị Lê Duẫn xử tử hình khiếm diện. Ðặng Quang Minh và Hoàng Văn
Hoan là hai con cờ được tín nhiệm của Ðiện Cẩm Linh và Bắc Kinh bên
cạnh Hồ Chí Minh. Ðặng Quang Minh trung thành với Hà Nội đến cùng,
còn Hoan thì đào thoát qua Trung cộng vì chống cánh Duẫn – Thọ. Yung
Krall sẽ viết bài tường thuật vụ tiếp xúc hi hữu này.
6. Một số tài liệu về vụ án Ðinh Bá Thi –
Trương Ðình Hùng đến nay chưa được giải mật nên không thể ghi vào
hồi ký MNGLR.
Hoa
kỳ lập bang giao và giao thương với Việt Nam là tạo cơ hội cho Hà
Nội mở rộng lưới gián điệp tình báo tại Mỹ trong mọi lãnh vực:
Yeltsin, một cựu thành viên CS biết quá
nhiều, đã khẳng định: “CS không bao giờ thay đổi Chúng chỉ có thể bị
thay thế”.
Học
giả Jean Francois Revel quả quyết dứt khoát hơn: “Cách duy nhứt để
cải lương chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ nó đi”.
Lâm Lễ Trinh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
NGÀN
GIỌT LỆ RƠI
Nghe đọc sách trực tiếp trên đài (online)
do Nhóm Hoài Hương
thực hiện
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Đoàn Hữu Định chuyển
Đăng ngày Thứ Hai,
March 9, 2020
Ban kỹ thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang