Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
Nhà Tù CSVN
Tác giả:
Mặc Lâm
MỤC
LỤC
Phần 1
– Đọc
Bài 01
Bài 02
Bài 03
Bài 04
Bài 05
Bài 06
Bài 07
Bài 08
Bài 09
Bài 10
Phần
2 – Nghe
Xem phim & nghe đọc
Phần
3:
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Phụ Lục: Hình ảnh Hà Giang
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Bài
1
Bài
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9, 10,
Mục Lục
Trại giam Cổng Trời có lẽ là một địa danh ít người Việt biết
đến trước khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc. Đây là nơi giam giữ
các trọng tội hình sự và các tù nhân tôn giáo trong đợt xóa sổ
năm 1959 và sau đó mở tung cánh cửa một lần nữa vào năm 1976 để
đón những tù nhân cải tạo từ miền Nam gửi ra. Trại giam Cổng Trời
dưới nhiều góc nhìn có thể nói không hề thua kém bất cứ trại giam
nào trong tác phẩm “Quần Đảo Ngục Tù” của văn hào người Nga
Alexandre Soljenitsyne. Ban Việt Ngữ đài Á Châu Tự Do trân trọng
giới thiệu loạt bài này do biên tập viên Mặc Lâm biên soạn sau
đây với mục đích dở lại hồ sơ những cái chết oan khuất, những
con người bị chà đạp và những tài liệu, nhân chứng cho biết trại
Cổng Trời đã tra tấn, ngược đãi tù nhân như thế nào. Loạt bài này
sẽ do chính nạn nhân của trại tù khắc nghiệt này kể lại mời thính
giả theo dõi, bắt đầu từ bài thứ nhất sau đây:
Giáng sinh năm 1959
Tiếng chuông Nhà Thờ Lớn Hà Nội giục
giã vang lên chỉ một ngày trước lễ Giáng Sinh năm 1959. Không
phải báo hiệu sự ra đời của Chúa Giê Su, mà tiếng chuông kêu cứu
với giáo dân vì Nhà Thờ Lớn đang bị một nhóm người đến phá rối.
Cha xứ Nhà Thờ Lớn lúc bấy giờ là linh
mục Trịnh Văn Căn, cũng chính là người ra lệnh giật chuông kêu
giáo dân đến cứu nhà thờ khi một nhóm người tự xưng là quần chúng
tự phát kéo đến giành phần trang trí nhà thờ trong dịp lễ Giáng
Sinh năm 1959.
Câu chuyện bắt đầu từ trước đó một năm,
chính quyền Hà Nội muốn chứng tỏ Việt Nam khuyến khích tự do tôn
giáo nên trong dịp Giáng sinh năm 1958 họ đã cho một đám đông đến
Nhà Thờ Lớn tự ý chăng đèn kết hoa trang trí bên ngoài nhà thờ và
sau đó đòi nhà thờ phải trả lại tiền công lẫn tiền mua vật liệu
với tổng số tiền không ai tin nổi.
Giáng Sinh năm 1959 nhóm người này lại
tiếp tục đến đòi trang trí nhà thờ nhưng gặp sự chống cự quyết
liệt của linh mục chánh xứ Trịnh Văn Căn và linh mục Nguyễn Văn
Vinh, còn được gọi là cha chính Vinh. Khi nghe tiếng chuông báo
động, giáo dân kéo tới và ẩu đả xảy ra.
Chiến dịch xóa sổ
Cổng Trời là một cái địa ngục nhốt cho
đến chết thì thôi, cùng với cha Lương Huy Hân. Cái chết của cha
chính Vinh là như thế. [Ô. Phùng Văn Tại]
Câu chuyện vỡ lở ra sau đó cho thấy
nhóm người đến phá nhà thờ do chủ trương quá khích của một nhóm
người và kết quả là linh mục Trịnh Văn Căn, linh mục Nguyễn Văn
Vinh cùng một số giáo dân bị quy tội phá rối trị an. Linh mục Căn
chịu 12 tháng tù treo, linh mục Nguyễn Văn Vinh chịu 18 tháng tù
giam vì tội “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an,
cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân”.
Sau phiên tòa, linh mục Nguyễn Văn Vinh
bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau đó bị chuyển đi nhiều trại giam khác
như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại giam “Cổng Trời” nơi
dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Ông Phùng Văn Tại, một giáo sư dạy môn
giáo sử văn chương trong chủng viện, người biết rõ vụ việc này kể
lại: “Ngày 24 tháng 12 năm 1959 tức là chiều hôm trước chuẩn bị
trang trí nhà thờ chính tòa để đón Noel, thì
Ủy ban Liên lạc Công
giáo, tức là Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo đến gây chuyện. Trong khi
trang trí nhà thờ Chính tòa để mừng Noel thì cha chính Vinh cùng
với một số hội Hát, mà sau này đi theo cha chính Vinh, nhiều ca
viên lên trại Cổng Trời. Thậm chí có nhiều anh chị em chỉ 15, 16
tuổi thôi. Hôm đó Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo vào tranh giành việc
trang trí nhà thờ. Quan điểm của Giáo hội miền Bắc lúc bấy giờ và
Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo như nước với lửa. Một là giữ đạo hai là
theo người ta. Tranh giành như thế cha chính Vinh cho kéo chuông.
Hai cái tháp nhà thờ Chính Tòa của Hà Nội có 6 quả chuông cha
chính Vinh cho ca đoàn lên kéo cùng một lúc, cứ như thể một cuộc
báo động lớn năm 1959 cho nên kinh khủng lắm, và họ hô nhau đến
bắt cha chính Vinh.”
Những nạn nhân đầu tiên
Có thể nói cha chính Vinh là nạn nhân
đầu tiên trong chính sách xóa sổ thầm lặng đạo Công giáo mà chính
quyền Hà Nội hướng tới. LM Nguyễn Văn Vinh do quá cương quyết và
không chịu khuất phục đã âm thầm chịu chết sau đó trong trại giam
Cổng Trời. Ông Phùng Văn Tại kể: “Bắt cha chính Vinh xong họ bắt
một số ca viên. Nó thành một cái mô–tif tức là cái mẫu chung của
những người bị bắt. Bắt vào đây trước tiên vì những cái gì? Và
cuối cùng là chết thế nào. Cha chính Vinh bị bắt và cuối cùng
ngài bị đày lên Cổng Trời. Cổng Trời là một cái địa ngục nhốt cho
đến chết thì thôi, cùng với cha Lương Huy Hân. Cái chết của cha
chính Vinh là như thế.”
Cổng Trời và Gulag
Trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù nổi
tiếng thế giới, văn hào Aleksander I. Soltzhenitsyn kể lại chế độ
Liên Xô lúc ấy đã tiêu diệt đạo công giáo một cách tỉ mỉ đến nỗi
nếu so sánh tình trạng bách hại tôn giáo dưới thời Stalin và cộng
sản Việt Nam thì người ta sẽ ngạc nhiên vì cách thức của chúng
giống nhau như hai giọt nước. Soltzhenitsyn viết: “Nguyên một hôm
các viên chức địa phương đột nhập Tu viện Zvengiorod, cho đòi Cha
Bề trên Ion. Ông này nổi danh trong Giáo hội Nga, nguyên là
Firguf, sĩ quan kỵ binh trong đội Ngự lâm quân Nga hoàng, được ơn
trên kêu gọi nên bỏ địa vị, phân phát hết của cải cho dân nghèo
rồi xin vô nhà tu kín. Họ bảo: ‘Mời quá bộ ra đây có chút việc’
và yêu cầu ông Cha Bề trên giao nạp cho họ bộ hài cốt của Thánh
tử đạo Savva. Mấy người Nhà nước vô giáo đường vẫn phì phèo hút
thuốc, ngay cả trước bàn thờ Chúa. Dĩ nhiên họ vẫn đội nón và một
ông còn nhấc xương sọ của ông thánh lên, thử nhổ bãi nước bọt để
coi Thánh có làm gì nổi. Họ còn xúc phạm nhiều nữa khiến các tu
sĩ phải kéo chuông báo động. Giáo dân đổ xô tới và sau một chầu
xung sát có 1 hay 2 ông thiệt mạng.”
Trong nhiều năm trời, các chủng viện
khắp miền Bắc Việt Nam bị đàn áp một cách có hệ thống. Linh mục,
tu sĩ cũng như chủng sinh và giáo dân đều là nạn nhân của chính
sách này. Cha Nguyễn Thanh Đương, linh mục chánh xứ Quy Hậu, Nghệ
An cho biết:
Họ bắt tất cả phần tử công giáo bị nghi ngờ. Một số anh em biệt
kích, những gia đình có người đi Nam, người thì địa chủ, phản
động khi tình nghi thì họ sẽ tập trung. [LM Nguyễn Thanh Đương]
“Tôi bị bắt vào tháng 5 năm 1964. Bị
bắt nhiều lần. Chủ trương của họ trong năm 60 khi quốc hội họp
bắt tất cả các phần tử họ sợ trong miền Nam tổ chức Bắc tiến. Họ
bắt tất cả phần tử công giáo bị nghi ngờ. Một số anh em biệt
kích, những gia đình có người đi Nam, người thì địa chủ, phản
động khi tình nghi thì họ sẽ tập trung. Trong lúc đó có chủ
trương dẹp tất cả các chủng viện dần dần bằng cách này cách khác
làm cho vấn đề đào tạo linh mục không còn nữa. Họ cũng có hướng
cho rằng 40 năm sau thì trên đất Bắc không còn công giáo nữa. Các
linh mục chết hết rồi. Ông linh mục nào vâng lời đi theo họ thì
họ để cho hoạt động còn những linh mục có thái độ không cộng tác
với họ thì nó bắt. Họ có ý tập trung một số linh mục nào nghe họ
thì họ để ở dưới xuôi, còn những cha không cộng tác thì họ tập
trung ở những xứ trên rừng. Còn các thầy ở các chủng viện anh nào
không về xây dựng gia đình thì họ sẽ tập trung cải tạo.”
Soltzhenitsyn kể lại trong Quần Đảo
Ngục Tù của ông nhiều đoạn như được trích lại từ Việt Nam mặc dù
ông không hề có một khái niệm nào về đất nước Việt Nam: “Không
địa phương nào không có một vụ án tôn giáo để ‘triệt hạ bằng hết
phản động’, nghĩa là tu sĩ, linh mục, con chiên hàng loạt bị đưa
ra toà. Trước vụ tu viện Zvengiorod bị xâm nhập, Đức Giáo chủ
Tikhon từng nhiều lần phản kháng Nhà nước cấm giảng đạo, bắt bớ
tu sĩ hoàn toàn với tội danh mơ hồ ‘phản Cách mạng’. Chỉ có một
thời gian công tác triệt hạ Giáo hội tạm lơi vì Nhà nước còn lo
lấy lòng tín đồ Chính thống giáo để rảnh tay thanh toán nội
chiến. Dẹp xong Denikin và Kolchak là những phiên tòa lại dồn dập
như sóng trào.”
Cán bộ Nhà nước tỏ ra không thua kém
Liên Xô về khoản bắt bớ. Không phải họ chỉ bắt linh mục, cả những
người giảng dạy tại chủng viện hay các chủng sinh, giáo dân cũng
đều chung số phận trong cuộc bách hại này. Ông Phùng Văn Tại là
một trong những giáo sư giảng dạy tại chủng viện kể lại: “Công
việc của tôi từ năm 1952 cho tới khi tan chủng viện năm 1967 là
dạy cho 6 lớp với 120 chủng sinh. Lớp tôi có 11 người, hai linh
mục. Mùng 5 tháng 6 năm 1960 thì tôi được mãn trường khi đang học
ở tiểu chủng viện. Đức Cha phát bài sai nó như một cái quyết định
phân công. Tôi ở lại dạy chủng viện với hai người cùng lớp nữa
cho đến 30 tháng 5 năm 1963 thì tôi bị bắt. Lý do là người ta
không muốn có chủng viện người ta muốn xóa sạch những người làm
việc Chúa thế thôi, không muốn chúng tôi làm linh mục.”
Không thể sống chung
Chúng tôi bị đưa lên cổng trời chỉ có
tôi và anh Đang là không làm dấu thánh giá và không theo đạo
Thiên chúa thì còn sống, còn tất cả 70 người đều chết hết cả. [Ô.
Kiều Duy Vĩnh]
Qua kinh nghiệm từ những nhân chứng khi
viết Quần Đảo Ngục Tù, văn hào Soltzhenitsyn xác định người cộng
sản không thể chung sống với tôn giáo, mà công giáo là tôn giáo
nguy hiểm hàng đầu cần phải để ý. Trong một chương nói về công
giáo ông viết: “Không cần giữ theo luật! Đây là lúc vô cùng thích
hợp để thanh toán cho xong vấn đề tôn giáo mấy năm nay vẫn phải
tạm gác lại vì nỗ lực chấm dứt nội chiến. Đây cũng là lúc người
Cộng sản phải minh định thế đứng trước người Công giáo, một thế
đứng bất khả dung hợp ngay từ quan điểm căn bản ‘nhà thờ là nhà
thờ và Nhà nước là Nhà nước’. Không được.”
Cách thức mà người cộng sản Việt Nam
theo đuổi lúc ấy không khác mấy với Liên bang Xô Viết trước đó.
Miền Bắc xóa sổ đạo công giáo như thế nào sau hiệp định Geneve?
Ông Trần Quốc Định tức nhà văn Đặng Chí Bình, một điệp viên nổi
tiếng miền Nam được gửi ra Bắc hoạt động bị giam giữ nhiều năm
trời tại miền Bắc, tác giả quyển Thép Đen viết về những người tù,
kể lại những điều được chứng kiến mặc dù ông không phải là một
tín hữu công giáo, ông kể: “Tôi lúc đấy đã hiểu, trước đấy tôi
cũng đã hiểu nhưng khi ra miền Bắc tiếp xúc với cán bộ và thỉnh
thoảng lên trại trung ương lại gặp rất nhiều chủng sinh ở trại E
này. Hội nghị Geneve 20 tháng 7 năm 1954 khi đến tay của họ, mặc
dù trong hiến pháp nói tự do tín ngưỡng tự do ngôn luận... nhưng
thực tế xã hội miền Bắc tất cả khi đến tay họ thì họ đóng kín
mít, nội bất xuất ngoại bất nhập, do đó tất cả các đại chủng viện
của Công giáo ngoài miền Bắc tất cả... xin mời các anh đi về nhà,
họ lấy lý do thế này: Anh phải đồng ý với tôi dưới chế độ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có ai ăn bám ai... anh phải đồng ý
thôi vì anh ở trong tay của họ! Lúc ấy họ cầm vạt áo của anh họ
hỏi: Anh có làm ra cái áo này không? Anh nói không. Họ chỉ xuống
đôi dép của anh họ hỏi: anh có làm ra cái này không? Anh bảo
không! Cái kính anh đeo trên mắt anh có làm không? Không thì vậy
chính là xã hội làm cho anh vậy thì anh phải trả lại xã hội vì
không ăn bám ai mà! Tóm lại anh vẫn phải đi nghĩa vụ quân sự, đi
kinh tế mới. Tất cả điều gì người công dân làm thì anh phải làm,
anh ăn nhờ xã hội thì anh không thể phây phây đi tu được nữa!”
Kiều Duy Vĩnh, chứng nhân Cổng Trời
Một người tù nổi tiếng của trại giam
Cổng Trời là đại úy Kiều Duy Vĩnh. Ông và Nguyễn Hữu Đang bị nhốt
chung với 70 người gồm linh mục, tu sĩ, chủng sinh, và có người
chỉ là giáo dân công giáo. Ông Vĩnh cho biết kinh nghiệm của mình
như sau: “Vì gia đình tôi không đi tôi ở lại, gia đình tôi là địa
chủ cường hào. Bố tôi bị giết tại Gia Lâm, bị tịch thu toàn bộ
tài sản. Vào năm 1959 tôi bị bắt cùng với anh Nguyễn Hữu Đang và
70 tu sĩ và các cha cố. Chúng tôi bị đưa lên cổng trời chỉ có tôi
và anh Đang là không làm dấu thánh giá và không theo đạo Thiên
chúa thì còn sống, còn tất cả 70 người đều chết hết cả. Có hai
linh mục, linh mục thứ nhất là linh mục Vinh thuộc địa phận Hà
Nội. Linh mục thứ hai là cha Quế ở địa phận Nghệ An. Chỉ có hai
linh mục còn tất cả là tu sĩ. Chúng giết anh em ở khu A khu H khu
O. Những lò thiêu xác không có mồ không có khói và không cần chất
đốt. Vào khu O là chết. Hai người đầu tiên vào đó chết là linh
mục Vinh và linh mục Quế, rồi lần lượt sau đó các tu sĩ đều chết
hết cả. Chỉ có tôi và Nguyễn Hữu Đang còn sống vì anh Đang là lão
thành cách mạng còn tôi thì không theo đạo Thiên Chúa. Họ chĩa
mũi dùi chuyên chính cách mạng vào các người Thiên Chúa Giáo,
những người tu sĩ và linh mục.”
Quý vị vừa theo dõi bài đầu tiên của
loạt bài “Trại giam Cổng Trời” do các nhân chứng kể lại cách mà
người cộng sản bách hại tôn giáo như thế nào. Tất cả chỉ là mới
bắt đầu cho một giai đoạn vô cùng khó khăn của người công giáo
Việt nam, mời quý vị đón theo dõi tiếp
bài thứ hai trong chương
trình kỳ tới để hiểu thêm một giai đoạn có nhiều người chết nhất
trong trại giam mang tên Cổng Trời tại Hà Giang Việt Nam.
Bài
2
Bài
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9, 10,
Mục Lục
Trong
loạt bài “Trại Giam Cổng Trời” hôm nay, Mặc Lâm tiếp tục trình
bày những uẩn khúc mà tín đồ cũng như tu sĩ công giáo Việt Nam
gặp phải trong giai đoạn từ năm 1959 cho đến 1964.
Trong bài này quý vị sẽ nghe thêm những
chi tiết mà nhân chứng kể lại về trại giam Cổng Trời trong những
ngày đầu họ bị bắt vào đây, mời quý vị theo dõi.
Năm 1959 đánh dấu một mùa Giáng Sinh
buồn bã tại miền Bắc khi linh mục Nguyễn Văn Vinh còn được gọi là
cha chính Vinh cùng với linh mục Lương Huy Hân và 68 người gồm tu
sĩ, chủng sinh thậm chí cả những người hát trong ca đoàn, tất cả
bị bắt và dẫn lên trại giam Cổng Trời giam giữ. Con số 70 người
này không ai sống sót trở về, họ chết âm thầm trong tay bạn tù và
mãi hàng chục năm sau thân nhân mới hay biết.
Những người tù miền Nam
Năm 1977 tức 18 năm sau đêm Giáng Sinh
bách hại, từ miền Nam xa xôi, linh mục Nguyễn Hữu Lễ tiếp bước LM
Nguyễn Văn Vinh vào trại Cổng Trời để làm chứng nhân của một trại
giam khắc nghiệt nhất thế giới. LM Nguyễn Hữu Lễ kể lại những kỷ
niệm mà chính trong đêm Giáng Sinh năm 1977 ông và những người
người tù miền Nam chịu đựng: “Chúng tôi bị đưa ra Bắc vào năm
1977 và trong đêm Giáng Sinh năm ấy. Trước ngày Giáng Sinh thì nó
có một cuộc tương đối là biến động, bởi một số tù miền Nam còn
trẻ ra đây thì người ta phản đối và bày tỏ thái độ phản kháng
trong tù, đặc biệt nhất là những anh em công giáo.
Cũng vì cái tội có vài lần vượt ngục
như vậy cho nên họ đã đưa tôi lên trại Cổng Trời cùng với 5 linh
mục tuyên úy khác là linh mục Cao Đức Thuận, linh mục Nguyễn
Thiện Thuật, linh mục Đinh Cao Thuấn, linh mục Nguyễn Văn Hùng
tất cả lên trại Cổng Trời kể từ tháng 12 năm 1977. [LM Nguyên
Thanh]
Đúng
vào đêm Giáng Sinh, chỉ có mình tôi là linh mục trong trại Nam Hà
thôi. Sau khi kẻng điểm danh rồi thì anh em các buồng khác hướng
về cái buồng của tôi, lúc đó tôi âm thầm dâng lễ. Tôi đã giấu được
bánh lễ và rượu lễ mang ra từ miền Nam, để rồi làm lễ âm thầm
trong mùng. Anh em hướng tâm hồn với tôi để dâng lễ trong đêm
Giáng Sinh. Khi tôi dâng lễ vừa xong thì cửa buồng mở ra và có
một cuộc đổi buồng rất lớn xảy ra. Hai mươi người trong số chúng
tôi bị còng tay đưa lên trại Cổng Trời.”
LM Nguyên Thanh, một nhạc sĩ viết thánh
nhạc nổi tiếng trong giáo hội Việt Nam cũng theo bước chân LM Lễ
lên trại Cổng Trời cùng thời gian mùa Giáng Sinh năm 1977. LM
Nguyên Thanh không đi một mình, ông cùng với 5 linh mục tuyên úy
khác bước chân vào trại trong một mùa đông giá rét, ông kể: “Khi
tôi bị bắt là ngày 19 tháng 6 năm 1976 cùng với anh Nguyễn Văn
Thanh là em ruột của Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cùng nhau vượt ngục
ở trại Suối Máu, sau đó bị bắt lại và bị đánh một trận gần chết,
bị còng tay đưa xuống tàu suốt hai tuần lễ ra Bắc và đưa vào trại
Sơn La. Tôi lại tham gia vào một vụ vượt ngục khác tại trại Sơn
La rồi cũng bị bắt lại và bị đánh một trận gần chết thứ hai, sau
đó bị cùm 6 tháng. Cũng vì cái tội có vài lần vượt ngục như vậy
cho nên họ đã đưa tôi lên trại Cổng Trời cùng với 5 linh mục
tuyên úy khác là linh mục Cao Đức Thuận, linh mục Nguyễn Thiện
Thuật, linh mục Đinh Cao Thuấn, linh mục Nguyễn Văn Hùng tất cả
lên trại Cổng Trời kể từ tháng 12 năm 1977.”
Những nhân chứng sống
Theo lời kể của người tù Kiều Duy Vĩnh
thì ông là người đã chứng kiến từng người tù ngã xuống trong trại
giam nghiệt ngã này. Ông xác định chỉ mình ông và Nguyễn Hữu Đang
là sống sót sau nhiều năm bị nhốt tại đây. 72 người đến trại giam
chỉ hai người trở lại. Bức tranh bi thảm này làm sao diễn tả nổi
sự kinh hoàng phía sau khung bố của nó? Người tù Kiều Duy Vĩnh
cho biết: “Không còn ai cả! Tại vì lúc bấy giờ tôi còn trẻ lắm,
tôi sinh năm 1931 mà. Tôi là người hầu như trẻ nhất trong 72
người. 70 người còn lại đều là tu sĩ cả. Những người như cha
Vinh, cha Quế. Chỉ còn tôi và anh Nguyễn Hữu Đang là người không
theo đạo.”
Qua
kinh nghiệm nhiều năm tù đày trong trại Cổng Trời, LM Nguyễn Hữu
Lễ nhận xét do đâu mà người cộng sản mong muốn tiêu diệt niềm tin
công giáo một cách nghiệt ngã như vậy, ông nói:
Không ai biết có bao nhiêu người đã bỏ
mình trong trại giam Cổng Trời ngoại trừ những người đi cùng toán
với nhau. [LM Nguyễn Hữu Lễ]
LM Nguyễn Thanh Đương, người bị giam
trong trại Cổng Trời 18 năm cho biết về những bạn tù của ông như
sau: “Tôi có ở cổng trời nhưng thời gian đó những người lên đó
coi như là được xếp vào loại chết. Nói về hình khổ trên ấy thì
nhiều lắm, mỗi người có một cái khổ riêng. Nhiều khi trong một
trại nhưng người kể thế này người kể thế khác. Tù thì nhiều nhà
tù, nhiều hình khổ khác nhau. Mình chứng kiến hoặc mình nghe anh
em đi tù kể lại cũng không thể biết hết được tội ác của họ đâu.
Mình bị 18 năm nhưng có cha 20 năm, 22 năm. Thầy Cao Ngân 22 năm
nhưng Ngài chết rồi.”
Tuyệt thực Cổng Trời: chống bạo lực
bằng im lặng
Những người tù công giáo đầu tiên trong đợt Giáng Sinh năm 1959
theo chân linh mục Nguyễn Văn Vinh đã tay không chống lại sự đàn
áp đức tin của họ trước cán bộ trưởng trại giam một cách bền bỉ
như thế nào được ông Kiều Duy Vĩnh kể lại trong bài viết mang tên
“Tuyệt Thực Cổng Trời” rất nổi tiếng. Trong phần mở đầu ông viết:
“Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi
sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm thù
những người theo đạo Thiên Chúa nên tất cả mũi nhọn của nền
chuyên chính đều chĩa vào những người con Chúa. Thứ nhất là các
vị Giáo sĩ trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. Trong
ngục tù Cộng sản, tôi đã gặp hai bà Sơ bị bắt vào xà–lim, rồi đến
các ông chánh trương, trùm trưởng, cả đến những người trong Hội
Trống, Hội Kèn Nhà Thờ cũng bị bắt đi tù hàng loạt. Tôi thấy đa
số họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng ra sao. Không biết họ mắc
tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào
Chúa Jê–Su. Thế thôi. Còn tôi, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó
đã cứu tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người Công
giáo đi tù đều chết hết. Có nhiều người còn sống sau cuộc tù đày,
những anh Thi, anh Thọ, chị Diệp, là những người trong vụ nổi
loạn ở Ba Làng, Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyên Công ‘Cửa’ tức
Nguyễn Công Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn, người
thôn Vạn Lộc, Nam Lộc Nam Đàn...”
Vì những người Cộng Sản căm thù những
người theo đạo Thiên Chúa nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên
chính đều chĩa vào những người con Chúa.
[Ông Kiều Duy Vĩnh]
Tác giả Kiều Duy Vĩnh hiện vẫn còn sống
tại Hà Nội, mặc dù đã hơn 80 nhưng tính tình vẫn còn lạc quan, và
đặc biệt là không bao giờ thỏa hiệp với chế độ mà ông đang sống
cùng. Ông đích thân kể lại cho chúng tôi câu chuyện bi tráng này
như sau: “Lên đến nơi việc đầu tiên của cán bộ quản lý trại giam
là: ‘Ai cho các anh ăn? Không có thằng Giê Su nào, con mẹ Maria
nào cho các anh ăn cả. Đảng và chính phủ cho các anh ăn vậy cấm
không được làm dấu trước khi ăn!’ Tất cả các tràng hạt, tất cả
cái gì thuộc về kinh bổn, chữ thập đều bị tịch thu hết và tôi trở
thành người tiến bộ. Các ông ấy không ăn, các ông ấy tuyệt thực
vì bị cấm làm dấu trước khi ăn. Tôi được ba bữa, ngày thứ nhất
đến trưa thứ hai thì tôi đói quá. Các tu sĩ thấy tôi đói quá bảo
thôi anh ăn đi, họ chỉ cấm những người công giáo không được đọc
kinh làm dấu trước khi ăn thì tôi và anh Đang là người không công
giáo. Thật tình tôi đói lắm, lúc bấy giờ tôi còn khỏe lắm. Tôi
cao 1 thước 76 nặng 72 cân. Tôi đói lắm. Cha sanh mẹ đẻ tôi không
đi nhà thờ và không làm dấu bao giờ cả. Trưởng trại giam bảo tôi
tiến bộ, tôi bảo tôi không phải là người công giáo nên không làm
dấu chứ chả có tiến bộ gì cả, đói phải ăn thôi. Vậy là tôi sống
còn bao nhiêu chết cả!”
Trong bài viết “Tuyệt Thực Cổng Trời”
tác giả Kiều Duy Vĩnh kể lại một điều quan trọng đó là người cộng
sản cố tìm cách giết những người tù công giáo này như thế nào,
ông viết: “Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như Cha
Vinh, cha Quế, Tu sĩ Đỗ Bá Lang, Tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức
Nhẫn, tôi là hạng bét so với các đấng Tù ấy nên mũi nhọn của cuộc
tàn sát không chĩa vào tôi. Ban giám thị trại đem so tôi với các
bậc Thánh đó thấy tôi là một phần tử tốt. Này nhé: Tôi không có
đạo, tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh, không ăn chay Lễ
Phục Sinh, không theo nghi lễ Giáng Sinh. Như thế là tôi chấp
hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban Giám thị quá rồi còn gì nữa.
Còn với các đấng Tù kia, nội qui trại
tù cấm tù cầu kinh, các vị cứ cầu kinh, cấm làm dấu thánh trước
trước khi ăn, các vị cứ làm dấu thánh. Ngày Lễ Giáng Sinh các vị
tự ý nghỉ, không chịu đi làm.” [Ông Kiều Duy Vĩnh]
Câu chuyện “Tuyệt Thực Cổng Trời” kết
thúc bởi sự rút lui của cán bộ trưởng trại giam vì không thể bắt
70 người tù này chết đói khi họ cương quyết không ăn uống nếu bị
cấm làm dấu thánh giá.
Những con người xem rất bình thường này
đã tranh đấu trước cái đói một cách phi thường và lần đầu tiên
tại Cổng Trời sức mạnh của quyền lực phải chịu thua sự im lặng
trong niềm tin. Nhưng 70 người được ông Vĩnh gọi là những “đấng
Tù”, những “bậc Thánh” ấy không một ai sống sót trở về với gia
đình, xã hội, với bàn dâng lễ ở nhà thờ....
Quý vị vừa nghe bài thứ hai trong loạt
bài Trại Giam Cổng Trời do các nhân chứng kể lại sự bách hại
người theo đạo công giáo trong trại giam này như thế nào. Xin mời
quý vị nghe tiếp bài thứ ba của câu chuyện sẽ được phát vào giờ
phát thanh kế tiếp cũng do Mặc Lâm cùng nhiều nhân chứng trình
bày.
Bài
3
Bài
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9, 10,
Mục Lục
Còn với các đấng Tù kia, nội qui trại
tù cấm tù cầu kinh, các vị cứ cầu kinh, cấm làm dấu thánh trước
trước khi ăn, các vị cứ làm dấu thánh. Ngày Lễ Giáng Sinh các vị
tự ý nghỉ, không chịu đi làm. [Ông Kiều Duy Vĩnh]
Câu chuyện “Tuyệt Thực Cổng Trời” kết
thúc bởi sự rút lui của cán bộ trưởng trại giam vì không thể bắt
70 người tù này chết đói khi họ cương quyết không ăn uống nếu bị
cấm làm dấu thánh giá.
Những con người xem rất bình thường này
đã tranh đấu trước cái đói một cách phi thường và lần đầu tiên
tại Cổng Trời sức mạnh của quyền lực phải chịu thua sự im lặng
trong niềm tin. Nhưng 70 người được ông Vĩnh gọi là những “đấng
Tù”, những “bậc Thánh” ấy không một ai sống sót trở về với gia
đình, xã hội, với bàn dâng lễ ở nhà thờ....
Lúc nhiều
lúc ít, lúc mạnh lúc yếu nhưng chưa bao giờ các cuộc đàn áp ngừng
lại hẳn. LM Nguyễn Thanh Đương chánh xứ Quy Hậu, Nghệ An, người
bị tù đày nhiều năm trong trại Cổng Trời, cũng là một chứng nhân
trong các cuộc bắt bớ này, kể lại việc chính quyền xé lẻ các vị
tu sĩ ra thành từng phần nhỏ để dễ cho công việc bắt bớ, ông kể:
“Tất nhiên cũng có dư luận quần chúng thành ra họ cứ làm lẻ dần
dần. Mỗi đợt mỗi thầy, mỗi đợt mỗi cha. Nói chung ở ngoài Bắc thì
các thầy, các cha đi vào Nam nhiều rồi thành ra nó bắt dần dần
cũng hết. Ở ngoài Bắc hầu như không còn chủng viện, từ Thanh Hóa
trở ra không còn. Cho đến khi nó lợi dụng việc trong Nam ra thả
bom ngoài ni thì nó dẹp luôn. Nó bắt tất cả các thầy, các cha.
Thầy nào không nghe nó thì nó bắt đi tù cho đến khi nào anh đầu
hàng về xây dựng gia đình không đi tu nữa thì nó cho về.”
Những trái bom từ miền Nam mang ra đánh
phá miền Bắc được cho là do sự chỉ
điểm của các tu sĩ hay giáo
dân miền Bắc nằm vùng làm gián điệp cho miền Nam. Những cáo buộc
vô lý này được cán bộ rỉ tai trong dân chúng khiến nhiều người
dân căm phẫn và quay trở lại chống đối những người láng giềng
hiền lành của mình.
Cán bộ cũng không bỏ lỡ cơ hội để áp
lực người công giáo bỏ đạo. Đối với các chủng sinh cũng vậy, một
là bỏ chủng viện về nhà lấy vợ, hai là bỏ thây trong trại giam.
LM Nguyễn Thanh Đương kể: “Thời kỳ đầu tiên năm 1962 họ tập trung
cho đến năm 1970 là thời kỳ họ bắt người công giáo. Họ bắt người
công giáo bỏ đạo. Các cha, các thầy họ cũng bắt bỏ đạo. Các thầy
lúc ấy đang còn là chủng sinh, họ bị giam riêng bởi vì không chịu
bỏ đạo. Họ bị bỏ vào xà lim, bị cùm bị kẹp ở trong ấy. Một số vì
yếu quá cũng phải đầu hàng. Một số giáo dân rất kiên quyết. Đặc
biệt giáo dân ở giáo phận Vinh là kiên cường hơn cả, họ không
chịu bỏ đạo và sau này trong nhà tù đấu tranh bằng cách đọc kinh,
cầu nguyện. Họ bắt đi cùm kẹp. Giáo dân ở Vinh thà chịu cùm không
chịu bỏ đạo nên nó mới mở dần dần cho.”
Nó bắt tất cả các thầy,
các cha. Thầy nào không nghe nó thì nó bắt đi tù cho đến khi nào
anh đầu hàng về xây dựng gia đình không đi tu nữa thì nó cho về.
[LM Nguyễn Thanh Đương]
LM Chu Quang Tòng, từng là chánh xứ Thọ Ninh nay đã về hưu tại
tòa Tổng giám mục Bắc Ninh, trong thời gian ấy đang là một chủng
sinh. Ông bị bắt ở tù trong nhiều năm, giải qua nhiều trại giam
và cuối cùng về trại Phong Quang, một trại giam khét tiếng sát
với biên giới Trung cộng, LM Chu Quang Tòng kể: “Ngày 11 tháng 7
năm 1964 thì họ gọi lên cho biết là đi tàu suốt! Tức là lên trại
giam Trung ương 2 Yên Bái, trại mà họ giam thiếu tướng De
Castries. Đến tháng Giêng năm 1965 sau khi Mỹ đưa máy bay ra đánh
phá vùng Quảng Ninh thì họ lại di chuyển từ trại Yên Bái ngược về
biên giới Trung cộng, về trại Tân Sơn thuộc Lạng Sơn trên vùng Na
Sầm, Thất Khê. Thế rồi họ cứ chuyển luôn như mèo tha chuột. Đến
năm 1972 thì lại từ đó chuyển lên Phong Quang Lào Cai, giáp biên
giới Trung cộng.”
Không phải chỉ một mình LM Chu Quang
Tòng trong trại giam, gần hai trăm người trong giáo phận mà ông
quen biết cũng có mặt tại đây khiến không khí càng thêm sôi nổi.
Những người tù đặc biệt này quây quần lại với nhau chứng kiến sự
bắt bớ các linh mục, tu sĩ, và giáo dân ngày một dày dặc hơn.
LM Chu Quang Tòng kể lại một giai đoạn
hết sức khó khăn do bị bách hại trong giáo hội miền Bắc: “Tôi
không được gặp tất cả anh em nhưng những người trong giáo phận
cho tôi biết thì lúc bấy giờ tất cả chúng tôi có thể nói rằng gần
hai trăm anh em, chính xác là 168 anh em bao gồm linh mục, tu sĩ,
chủng sinh mà đặc biệt là thành phần các chủng sinh. Sau khi sự
kiện Bùi Chu chịu chức một loạt gồm 29 linh mục thì người ta sợ
các giám mục miền Bắc cho phép truyền chức hết để đáp ứng nhu cầu
linh mục nên người ta bắt đi một loạt. Các chủng sinh lớp lớn như
chúng tôi, các chủng sinh dự bị mà người ta đoán là có thể truyền
chức nay mai thì họ gom góp trong vòng nửa tháng là họ bắt đi. Có
nơi hơn 50 anh em bị bắt, mục đích của các cuộc bắt bớ này là
chống đạo thôi. Ngày mùng 8 tháng 12 năm 1963 tại Bùi Chu, Đức
cha chánh Phạm Năng Kính đã truyền chức cho một loạt 28 linh mục
sau đó là lớp ngang với chúng tôi đều bị bắt hết.”
Lưu Nam, Nguyễn Quốc Anh cùng nhiều
người nữa...
Không riêng linh mục hay tu sĩ bị Nhà nước chú ý mà những người
có hoạt động trong những tổ chức của nhà thờ hay giáo hội cũng bị
trừng phạt. Ông Lưu Đức Tâm một giáo dân tại Nghệ An kể lại việc
cán bộ bắt cha ông là cụ Lưu Nam, với lý do ông cụ hoạt động cho
Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam.
Đây là một tổ chức công giáo mà Nhà
nước rất e ngại vì nó tập trung hầu hết trí thức công giáo của
miền Bắc và hoạt động của Liên Đoàn được Nhà nước xem là rất nguy
hiểm cho đảng. Ông Tâm kể lại việc bắt giữ thân phụ mình như sau:
“Ông cụ hoạt động cho Liên đoàn Công giáo Việt Nam. Liên đoàn này
chỉ mang tính chất tôn giáo thôi. Lúc ấy ông cụ làm chủ tịch Liên
đoàn và về mặt Nhà nước thì hợp pháp. Tuy mang tiếng là hợp pháp
nhưng đến một hôm thì người ta theo dõi và mời đi họp. Bởi vì ông
cụ là người rất giỏi về võ nghệ cho nên khi bắt ông cụ thì người
ta nghĩ rằng học trò của ông sẽ phản kháng và lúc ấy thì sẽ đổ
máu. Cho nên người ta mời đi họp rồi âm thầm bắt luôn. Người ta
bắt ông cụ tại địa danh tên là Cống Chi Lăng. Một thời gian sau
đó người ta đưa về xử án tại quê nhà với án lệnh là 20 năm tù khổ
sai.”
Ông vốn
là một người lương dân xuống đây để theo đạo công giáo. Đó là lý
do khiến ông bị bắt nhưng người ta không nói ra, người ta bảo là
không chịu cải tạo tốt. [Giáo dân Lưu Đức Tâm]
Cụ Lưu Nam là một người được hầu hết
các linh mục nể trọng vì chí khí quật cường và niềm tin mãnh
liệt. Ông bỏ thân trong trại Cổng Trời sau nhiều năm bị giam cầm,
bách hại. Sau cha ruột, người anh rể trong gia đình là ông Nguyễn
Quốc Anh cũng bị bắt vì theo đạo công giáo. Ông Lưu Đức Tâm kể về
người anh rể này: “Ông Nguyễn Quốc Anh là người anh rể. Ông bị 17
năm tù. Ông vốn là một người lương dân xuống đây để theo đạo công
giáo. Đó là lý do khiến ông bị bắt nhưng người ta không nói ra,
người ta bảo là không chịu cải tạo tốt. Trước đây ông Nguyễn Quốc
Anh cũng đã từng vượt tuyến một lần và bị cải tạo 3 năm. Ông Quốc
Anh là một người rất giỏi trong lĩnh vực toán học cho nên người
ta mời đi dạy ở nhà trường nhưng ông không đi và sau này về mở
trường dạy tư. Lý do ông muốn dạy ở đây vì ông theo công giáo vừa
dạy học vừa học đạo luôn. Người ta bắt vì lý do thế.”
Thông tư 1960
Linh mục Nguyễn Viết Cường thuộc giáo
xứ Vạn Phần, Nghệ An cho biết lịch sử của những cuộc bắt bớ này
mà theo ông thì chủ yếu từ một thông tư do ông Hồ Chí Minh ký vào
năm 1960, LM Cường kể lại: “Khi đó có chỉ thị của Trung ương Đảng
không cho những thành phần con cái địa chủ phản động đi tu làm
linh mục. Đó là thông tư 60 do Hồ Chí Minh ký. Tôi là nạn nhân
của thông tư đó. Ông nào cuới vợ thì thôi còn ông nào không chịu
cưới vợ thì nó đánh giá còn nuôi mộng làm linh mục và như vậy thì
nó tập trung đi hết. Không qua xét xử cũng không qua lấy cung, nó
chỉ tập trung cải tạo cái tội đi tu. Nếu về cưới vợ thì thôi.”
Giữa thập niên 70 lần lượt những người
tù này được trả về địa phương, người thì lấy vợ, người thì tiếp
tục con đường tu học, LM Nguyễn Viết Cường may mắn hơn cả khi
được về lại tòa giám mục để tiếp tục con đường tu hành, ông kể:
“Sau biến cố 75 đến năm 77 thì được tha nhưng tiếp tục
[bị] quản
chế 12 năm nữa. Đến năm 89 về tòa Giám mục và năm 90 mới được làm
linh mục, lúc đó đã 59–60 tuổi rồi. Trước khi làm linh mục trong
buổi gặp cuối cùng thì Ủy Ban nhân dân tỉnh Nghệ An có hỏi một
câu, bây giờ ông Cường còn ghét cộng sản lắm phải không? Tôi trả
lời là cộng sản nào? Cộng sản đúng hay cộng sản sai? Cộng sản
đúng là cộng sản nói rằng họ là đầy tớ nhân dân, trung thành với
nhân dân. Vui sau nhân dân lo trước nhân dân. Một lòng một dạ
phục vụ dân, làm đầy tớ dân Cộng sản đó thì tôi không ghét được.
Sau họ hỏi cộng sản bắt ông là cộng sản đúng hay sai, tôi nói
cộng sản đó thì sai quá đi chứ. Bây giờ các ông cho tôi đi học
làm linh mục là các ông đã nhận lỗi rồi.”
Nhưng không phải ai cũng may mắn như
vậy, LM Nguyễn Thanh Đương thuộc giáo xứ Quy Hậu, Nghệ An phải
chạy trốn vào Nam sau khi được thả rồi “tu chui” mới được truyền
chức linh mục, ông nói: Khi đó có chỉ thị của Trung ương Đảng
không cho những thành phần con cái địa chủ phản động đi tu làm
linh mục. Đó là thông tư 60 do Hồ Chí Minh ký.
Linh mục Nguyễn Viết Cường: “Họ có cho
về giáo xứ mô! Họ cho mình về nhà quê chịu quản chế ở đó 3 năm
rồi sau đó phải trốn vô trong Nam đi làm thuê làm mướn đi học.
Trong Nam có một số các cha dạy riêng kêu bằng học chui!”
Cũng là một tù nhân chính trị bất đồng
chính kiến trong nhiều năm tại nhà tù miền Bắc, học giả Nguyễn
Khắc Cần hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội cho biết cảm nghĩ
của ông về những tù nhân công giáo này, ông nói: “Số người Công
giáo có những người chỉ là giáo dân thôi, có những người là frère
hay chuẩn bị frère. Nói chung giáo dân họ có cái rất tốt là họ
giữ đạo của họ rất nghiêm túc. Mặc dầu bị cấm hay hạn chế vấn đề
cầu kinh nhưng họ vẫn làm. Đây là điều đáng tôn trọng. Khi vi
phạm những điều cấm này thì họ bị phạt rất nặng. Cái mức phạt rất
nặng nhọc có thể sẽ đi xà lim, có thể bị cắt khẩu phần ăn, rất
nhiều hình thức nó chả có quy luật gì cả.”
Có thực sự thay đổi?
Học giả Nguyễn Khắc Cần cũng cho biết
hồi gần đây, cán bộ thường nói là đã có sự thay đổi lớn lao trong
chính sách đối xử với tất cả tôn giáo trong nước, trong đó có
công giáo, tuy nhiên ông không tin đây là sự thành tâm của chính
quyền, chẳng qua chỉ là giai đoạn mà thôi. Ông nói:
Có thay đổi tạm thời cũng là chiến thuật mà thôi còn
chiến lược thì hai bên không thể cùng tồn tại được. Học giả
Nguyễn Khắc Cần.
“Rõ ràng bây giờ đã có thay đổi nhưng
tôi thường nói chuyện với những nhà chính sách ở đây tôi nói
thẳng, ông thay đổi hay không thay đổi thì không quan trọng vì
các ông là người vô thần mà họ là người hữu thần. Có thay đổi tạm
thời cũng là chiến thuật mà thôi còn chiến lược thì hai bên không
thể cùng tồn tại được.”
Chúng tôi xin mượn lời của học giả
Nguyễn Khắc Cần để làm kết luận bài viết sự bách hại người công
giáo trong những năm qua tại miền Bắc Việt Nam.
Kỳ tới là
bài thứ tư trong loạt bài
“Trại Giam Cổng Trời” mô tả hình ảnh đầu tiên mà người tù chạm
trán với nó ngay từ chân núi một vùng xa dân cư của tỉnh Hà
Giang. Đường lên Cổng Trời có gì đặc biệt so với các trại giam
khác mà nhiều người tù đã từng kinh qua? Mời quý vị đón theo dõi
trong kỳ tới.
Bài
4
Bài
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9, 10,
Mục Lục,
Người tù nào
mới lên tới Trại giam Cổng Trời đều có tâm trạng chung là cuộc
đời mình đến đây là chấm dứt.
Một phần bị cán bộ vệ binh áp giải hù
dọa, một phần hoàn cảnh thực tế trước mắt khiến người tù cảm thấy
một nỗi khiếp sợ đè nặng tâm trí mình. Mời quý vị nghe bài thứ tư
trong loạt bài Trại giam Cổng Trời để biết thêm hình ảnh thật của
trại giam khét tiếng này qua lời kể từ các nạn nhân của nó. Bài
vẫn do Mặc Lâm biên soạn và trình bày sau đây:
Từ quần đảo Gulag...
Trong bài tựa tác phẩm nổi tiếng thế giới mang tên “Quần Đảo
Ngục Tù” văn hào Nga, Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn đã viết:
“Đại lục ngục tù đó nằm trong lãnh thổ Liên
bang Xô viết, nằm rải rác như bày trên một bàn cờ khổng lồ, nằm
xen kẽ, nằm chen vào giữa các đô tỉnh thị. Chỗ nào cũng có nó,
vậy mà dân Nga tối đại đa số, mù tịt, rất nhiều người chỉ nghe
nói mù mờ... chỉ những thằng từng ở bên trong mới biết rõ sự
thực. Bọn họ biết hết nhưng dĩ nhiên họ phải câm nín, không hé
môi về sự thực bên trong GULAG”.
Tác phẩm mà Soltzhenitsyn viết lại theo
lời kể của các bạn tù cùng chính kinh nghiệm ở tù trong suốt 11
năm của ông. Tác phẩm này được chuẩn bị vào năm 1958 cũng là năm
Việt Nam bắt đầu áp dụng những chính sách theo sát những gì Liên
bang Xô viết làm. Đất nước Liên bang Xô Viết bao la và tập trung
nhiều sắc tộc cho nên dân số trội hơn Việt Nam nhiều lần và vì
vậy số tù nhân cũng cao hơn.
Tù nhân bị tập trung cải tạo trong một
chuỗi trại giam mà văn hào Soltzhenitsyn gọi là quần đảo Gulak.
Số trại giam này nhiều hơn các trại của Việt Nam nhưng khoảng
cách địa lý và phương pháp cai quản tù nhân thì không khác là
bao.
Soltzhenitsyn than thở rằng không mấy người Nga biết được tình
trạng nhà tù của Liên bang Xô Viết thì Việt Nam cũng nào có khác.
Ngoài những thân nhân người tù, có mấy ai được thông báo rằng
ngay bên cạnh nhà mình có một trại giam nhốt đầy những người tù
chính trị?
Các
nhà giam như Phan Đăng Lưu, Nam Hà, Thanh Cẩm, Hà Tây, Vĩnh
Quang, Quảng Ninh, Sơn La, hoặc có những cái tên nghe lạ hơn như
Gia Rai, Z30C, Z30D, An Khê, Kannack, Thu Thủy, Plateau, Suối
Máu, Long Giao... tất cả những cái tên này dù nghe quen hay không
thì ngay cả người dân địa phương khi được hỏi thăm cũng không
nhiều người biết nó được xây dựng từ bao giờ.
Còn nếu nhắc Hỏa Lò, Chợ Ngọc, Yên Bái,
Lào Cai, Da Thịnh, Tuyên Quang, Phong Quang, hay là Tân Lập, Phú
Thọ, Tân Sơn, Hà Giang, đường lên trại Cổng Trời, quanh năm sương
mù.
Vĩnh Phúc,
Lạng Sơn, Trần Nội, Quang Húc, Quyết Tiến... thì ngoại trừ Hỏa Lò
người dân miền Nam hoàn toàn xa lạ với những cái tên này mặc dù
trong những trại giam khắc nghiệt ấy biết bao người đã bị hành hạ
không thương xót.
Tất cả những trại giam này nằm rải rác
từ Nam ra Bắc và những trại tại miền Bắc gần như quây quần lại
với nhau trong một quần thể khép kín không khác gì quần đảo mang
tên Gulag mà văn hào Soltzhenitsyn diễn tả.
... đến trại giam Cổng Trời
Có một trại tù khác rất nhỏ bé và nằm
trên cao, xa thăm thẳm với đồng bằng, sở hữu một cái tên nghe rất
thơ mộng, đó là Trại giam Cổng Trời. Trại giam này rất hiếm người
biết tới, kể cả những người tù lâu năm nhất cũng chỉ nghe kể lại
vì muốn lên đó phải có bị kêu án 15 năm đối với tù hình sự, còn
đối với tù chính trị thì phải là gián điệp, biệt kích hay các
linh mục, tu sĩ. Điểm đặc biệt của trại giam Cổng Trời là độ cao
của nó. Không ai biết chính xác trại nằm ở độ cao bao nhiêu nhưng
từ 2,000 cho đến 2,500 mét là con số được nhiều tù nhân dùng để
diễn tả.
Theo
người tù Trần Nhật Kim mô tả trong tác phẩm “Cuộc chiến chưa tàn”
thì từ trại giam Cổng Trời đi đường bộ xuống Thị xã Hà Giang
chừng 36 cây số. Ngược lên phía Bắc là huyện Quản Bạ nằm sát biên
giới Việt–Trung, chỉ cách trại khoảng 10 cây số. Qua đỉnh núi,
phía bên kia là biên giới. Mặt trước của trại Cổng Trời hướng về
đường lộ, hai bên là vách núi thẳng đứng tiếp xúc với những cánh
rừng già trải rộng dưới chân. Phía sau trại dựa vào sườn đồi tiếp
nối với rặng núi cao. Một vùng đất rộng sau trại được dùng làm
nghĩa trang mang tên “đồi Bà Then” nơi vùi lấp những người xấu
số.
Cho tới
nay những điều mà người ngoài biết về trại giam Cổng Trời vẫn còn
rất hạn chế. Khi người tù Kiều Duy Vĩnh cùng với 70 tù nhân công
giáo bước vào đây vào năm 1959 thì trong đấy đã có sẵn một số tù
hình sự trọng tội.
Tôi lên cùng anh Nguyễn Hữu Đang người
cầm đầu Nhân Văn Giai Phẩm. Chỉ còn mỗi tôi và anh Đang còn sống,
còn 70 người còn lại chết cả trên trại cổng trời. [Người tù Kiều
Duy Vĩnh]
–
Tôi tên là Kiều Duy Vĩnh sinh năm 1931 tại Hà Nội. Tôi học trường
Chu Văn An, thế rồi giữa năm 1950 và 1951 tôi học ở trường sĩ
quan Đà Lạt khóa 4. Tôi ra trường và đến năm 1954 tôi là đại úy
tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 74D Việt Nam ở khu 9 Linh Trang thuộc
địa phận Hải Phòng.
Vào năm 1954 tôi là con một, tôi không
đi di cư và ở lại miền Bắc, tới năm 1959 tôi bị bắt đi tù. Tôi
tình nguyện thứ nhất 10 năm từ năm 1959 tới 1969 tại trại Cổng
Trời. Ở đó tôi gặp tất cả những người tử tù đặc biệt là 72 người
đầu tiên. Tôi lên cùng anh Nguyễn Hữu Đang người cầm đầu Nhân Văn
Giai Phẩm. Chỉ còn mỗi tôi và anh Đang còn sống, còn 70 người còn
lại chết cả trên trại cổng trời.
Cổng Trời, đi hoài không tới
Trại giam Cổng Trời chứa rất nhiều loại
tù nhân, hơn phân nửa là tù hình sự có án từ 15 năm trở lên, có
cả tử tù chờ ngày hành quyết. Tù chính trị chỉ bằng phân nửa của
tù hình sự nhưng cũng đủ để cho cán bộ quản lý phải lo âu vì họ
luôn tuyên bố rằng tù chính trị là loại tù nguy hiểm, chống phá
Nhà nước cách mạng cần phải loại trừ. LM Nguyễn Hữu Lễ cho biết
xuất xứ của biệt danh Cổng Trời như sau:
Cổng trời nó có hai ý nghĩa, một nghĩa
đen và một nghĩa bóng. Cái nghĩa đen là vị trí nó nằm trên vùng
núi cao khoảng chừng 2,500 thước trên mặt biển, gần như đụng trời
rồi. Còn nghĩa bóng thì cổng trời là nơi khi đến đó như vào nhà
chờ đợi để về trời mà thôi, không quay về trần gian nữa.
– Cái trại “cổng trời” là
nick name
thôi, tên thật sự của nó là trại Quyết Tiến. Cổng trời nó có hai
ý nghĩa, một nghĩa đen và một nghĩa bóng. Cái nghĩa đen là vị trí
nó nằm trên vùng núi cao khoảng chừng 2,500 thước trên mặt biển,
gần như đụng trời rồi. Còn nghĩa bóng thì cổng trời là nơi khi
đến đó như vào nhà chờ đợi để về trời mà thôi, không quay về trần
gian nữa nên được gọi là cổng trời. Nguyên cái chữ cổng trời thôi
thì người ta đã thấy hình tượng nó rất là ghê gớm rồi.
Cái tên mà LM Nguyễn Hữu Lễ cho là ghê
gớm ấy được nhiều người tù lý giải theo cách nghĩ của mình và đôi
khi rất thực tế và không kém khôi hài. Người tù binh Đỗ Lệnh Dũng
kể lại kinh nghiệm về cái tên Cổng Trời như sau: – Đoàn tù binh
chúng tôi được di chuyển tới rất nhiều trại, trong thời gian đi
các trại đó thì có một lần chúng tôi đến cái trại để làm lán. Khi
chúng tôi khiêng tre về thì cái trại ấy trên cao lắm cho nên
chúng tôi rất mệt, tôi than mệt thì người giữ chúng tôi mới nói,
các anh không biết chỗ này người ta gọi là cổng trời ơi à? Lên
tới đây thì phải kêu trời! Từ đó tôi biết địa danh đây là trại
Cổng Trời!
Cổng Trời chỉ có đường lên mà không có đường xuống. Một năm 12
tháng chỉ thấy mây mù phủ đầy chứ không thấy gì khác. Rất là đói
khổ, cán bộ rất nghiêm khắc, hở ra thì kỷ luật. Mà kỷ luật thì nó
tuyên bố rằng khôn thì sống mà dại thì chết. [Người
tù Hoàng Đình Mỹ]
Cái tiếng
kêu trời đứt ruột đó không biết người tù tại đây phải kêu lên bao
nhiêu lần trong suốt chiều dài ngày tháng ở tù của mình. Người tù
Hoàng Đình Mỹ, một biệt kích có số năm ở tù khó có ai sánh nổi:
32 năm trời trong nhiều trại giam mà trại Cổng Trời là một, ông
nói về Cổng Trời như sau: – Cổng Trời chỉ có đường lên mà không
có đường xuống. Một năm 12 tháng chỉ thấy mây mù phủ đầy chứ
không thấy gì khác. Rất là đói khổ, cán bộ rất nghiêm khắc, hở ra
thì kỷ luật. Mà kỷ luật thì nó tuyên bố rằng khôn thì sống mà dại
thì chết. Đã vào đây phải tuân theo lệnh của Nhà nước mà không
tuân theo thì chỉ có chết thôi.
Nguyễn Hữu Đang và Cổng Trời
Người tù nổi tiếng nhất miền Bắc là ông Nguyễn Hữu Đang, người
từng lãnh trọng trách tổ chức buổi lễ tuyên bố độc lập cho chính
phủ Hồ Chí Minh. Ông cũng là con chim đầu đàn của phong trào Nhân
Vân Giai Phẩm, bị bắt khi phong trào này đòi quyền tự do sáng
tác, nhưng đã phải chịu nhục hình trong nhiều năm tại Cổng Trời.
Trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo người Đức Heinz Schütte,
Nguyễn Hữu Đang cho biết: – Trại này có truyền thuyết là “vào thì
không ra”, đến đây là phải bỏ xác chớ không hy vọng gì để trở về
với gia đình. Trại Cổng Trời là một lò sát sinh đầy bí mật, tàn
bạo, và khoa học của Hà Nội. Trại này đã bí mật chôn vùi 300 anh
em tù biệt kích miền Nam và hàng ngàn tù chính trị, tu sĩ, và
linh mục Công giáo cũng như giới trí thức chống chủ nghĩa CS của
chính miền Bắc.
Trại này có truyền thuyết là “vào thì
không ra”, đến đây là phải bỏ xác chớ không hy vọng gì để trở về
với gia đình. Trại Cổng Trời là một lò sát sinh đầy bí mật, tàn
bạo và khoa học của Hà Nội.
Trại này đã bí mật chôn vùi 300 anh
em tù biệt kích miền Nam và hàng ngàn tù chính trị, tu sĩ và linh
mục Công giáo.
[Người tù Nguyễn Hữu Đang]
Những thông tin về trại giam Cổng Trời
từ chính những người trong cuộc có lẽ đã nói lên được phần nào
cái diện mạo của nó. Nếu ta muốn biết sâu hơn một chút thì ông
Kiều Duy Vĩnh, người bạn tù của Nguyễn Hữu Đang từ những ngày đầu
lên Cổng Trời có lẽ là người có đủ thẩm quyền nhất để mô tả nó ở
khía cạnh khác, khía cạnh quản lý nó từ công an trại giam, hay
còn gọi là trại lao cải. Người tù Kiều Duy Vĩnh miêu tả chính xác
cái địa danh này theo cách gọi của
Cục Lao Cải:
– Trại cổng trời là cái tên một địa
danh mà dân gian đặt ra vì ở đấy nó là một cái dốc cổng trời. Còn
địa danh do Bộ Công an, Cục Lao cải thì
tên chính thức của nó là
C65 HE công trường 75A Hà Nội. Không ai biết địa điểm của nó ở
đâu, người ta muốn hỏi trại Cổng trời ở đâu thì đến Hà Nội, hỏi
Bộ Công an, và Bộ công an thì... đấy địa chỉ đấy.... Trước năm
1959 tôi với anh Đang lên thì hầu như không có đường. Người ta
chở chúng tôi tới Hà Giang rồi đi một đoạn nữa, rồi đi một đoạn
nữa... cứ thế. Lúc ấy tôi đã là một sĩ quan rất biết địa hình lắm
mà vẫn không biết vị trí thật của nó ở chỗ nào!
Tôi ở đấy 10 năm từ 1959 cho tới 1969
thì tôi được thả về.
Họ là ai?
Ngoài đợt cải tạo 70 giáo dân, tu sĩ,
và linh mục, trại giam Cổng Trời còn là nơi giam giữ những tội
nhân mà chế độ xem là đặc biệt nguy hiểm. Họ là những tù binh
chiến tranh, là điệp viên,
và biệt kích nhảy toán ra miền Bắc
trước năm 1975 rồi những sĩ quan cao cấp, tù nhân chính trị ngay
cả những người sinh trưởng tại miền Bắc được cho là nguy hiểm
cũng bị bắt vào đây. Người tù biệt kích Hoàng Đình Mỹ cho biết
công tác chính của một biệt kích để ta có thể hình dung sự nguy
hiểm của họ đối với chế độ miền Bắc như thế nào, ông nói: – Gián
điệp, biệt kích ra ngoài ấy thám sát đường mòn Hồ Chí Minh, phá
các công trình, những kho tàng rồi báo trong này để ra oanh tạc.
Rồi bắt cóc rồi huấn luyện cán bộ những vùng mình hoạt động.
Tù binh Đỗ Lệnh Dũng kể lại việc ông và
những tù binh khác làm những cái lán trong trại giam Cổng Trời
cho người đến sau, những lán trại này hứa hẹn sẽ nhốt rất nhiều
tù nhân khi chiến tranh kết thúc, ông nói: Tôi bị bắt vào cuối
năm 1973 họ xếp vào dạng tù binh chiến tranh. Đến năm 76 trong
thời gian tôi ở Bắc thì cũng có khoảng 500 tù binh đa số là sĩ
quan họ tập trung hết lại. Cùng năm 76 khi miền Nam bị mất thì số
tù binh ấy được cho về miền Nam trên dưới 200 người, số còn lại
chúng tôi nhận được công tác, giao cho chúng tôi đi xây dựng
những cái lán để “chuẩn bị cho bạn bè của các anh từ miền Nam ra
đây học tập”. Họ nói chúng tôi làm xong công tác ấy thì họ trả
chúng tôi về vì hòa bình rồi giữ các anh làm chi! Sau đó chúng
tôi được đi các nơi để xây dựng chỗ ở cho anh em miền Nam. Chúng
tôi làm những cái lán rất đơn sơ, chỉ là những cái sạp nằm có mái
che tượng trưng rồi sau đó anh em ra sẽ tự củng cố lại chỗ ăn
ở....
Định
mệnh trùng hợp
Trong lời nói đầu của tác phẩm Quần Đảo
Ngục Tù, có một đoạn làm cho người Việt Nam nhiều thế hệ sau khi
nghe đến cái tên trại giam Cổng Trời cần phải để ý: Vì một tình
cờ trớ trêu của lịch sử, một phần sự thực được phép công bố, dù
chỉ một phần nhỏ nhoi, có nghĩa. Những bàn tay mới đây còn nắm
cứng tay chúng tôi để xiết còng cho chặt thêm... chính những bàn
tay ấy giờ đây chia ra hoà giải: “Thôi dĩ vãng đã qua để nó qua
luôn... gợi nhớ làm chi? Cứ nhìn về quá khứ hoài dám mất một
mắt!”. Đồng ý. Tuy nhiên tục ngữ đất nước chúng tôi lại có câu:
“Có quá khứ mà quên đi là mù cả hai mắt”.
Sự trớ trêu của lịch sử trong thời kỳ
Soltzhenitsyn sống có khác gì với tình trạng Việt Nam trong thời
gian qua? Công khai những điều mà chính nạn nhân của nó muốn giấu
đối với xã hội, với lịch sử thì người bị bách hại sẽ được những
gì?
Những tù
nhân này không còn sợ hãi nhưng bị ám ảnh bởi một ký ức đau
thương đã nghẹn lời họ. Và rồi sống chung với những lời ngọt ngào
khuyên rằng hãy quên đi quá khứ vì chính quá khứ sẽ làm đau đớn,
đã góp phần làm cho họ trầm tư hơn trước những kỷ niệm đầy máu và
nước mắt.
Trần
Nhật Kim, người bạn tù mệt mỏi
Bước vào trại Cổng Trời, người tù nào
cũng được chiếu cố kỹ lưỡng bởi các giám thị trước khi nhận lãnh
những hình phạt từ thiên nhiên, con người trong suốt nhiều năm
trời. Người tù biệt kích Trần Nhật Kim trải qua các trại giam như
Phan Đăng Lưu, Gia Rai, Nam Hà rồi Cổng Trời, Thanh Cẩm nhưng
không nơi nào để lại vết tích đau đớn như tại Cổng Trời. Những
ngày đầu tiên của ông khi bước chân vào trại vẫn còn ám ảnh ông
mãi đến bây giờ:
Các anh tha hồ trốn trại, nhưng báo cho
anh em biết là cái trại này chưa có một ai trốn ra mà thành công
cả. Các anh có hai con đường, một con đường các anh đã vào trại
thì các anh đã vào rồi. Còn con đường thứ hai các anh đi là cửa
sau để lên đồi Bà Then. Đồi Bà Then là cái nghĩa trang....
– Khi chúng tôi tới Cổng Trời sau một
đêm thì hôm sau tôi gặp một cán bộ. Anh cán bộ này bảo rằng đây
là chỗ ở cuối cùng của tôi, và tôi đừng nghĩ gì tới gia đình cũng
như đừng hy vọng gì trở về với gia đình nữa. Ngày hôm sau tôi gặp
Thiếu úy Tố là người coi về giáo dục. Thiếu úy Tố bảo với anh em
chúng tôi rằng các anh tha hồ trốn trại, nhưng báo cho anh em
biết là cái trại này chưa có một ai trốn ra mà thành công cả. Các
anh có hai con đường, một con đường các anh đã vào trại thì các
anh đã vào rồi. Còn con đường thứ hai các anh đi là cửa sau để
lên đồi Bà Then. Đồi Bà Then là cái nghĩa trang để chôn những
người tới trước chúng tôi. Đó là một đòn tâm lý đối với anh em tù
miền Nam.
Đồi
Bà Then mà người tù Trần Nhật Kim cho biết mở ra một câu chuyện
lớn hơn phía sau trại giam mang tên Cổng Trời mà lương tâm loài
người khó thể chịu nổi. Phải chăng nơi ấy chỉ là một nghĩa trang
cho tù nhân hay còn những gì khủng khiếp hơn cái chết nhưng chưa
được công bố? Mời quý thính giả tiếp tục theo dõi
bài kế tiếp với
những lời kể của những tù nhân thế kỷ về đời sống kinh hoàng của
họ trong nhà tù này.
Bài
5
Bài
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9, 10,
Mục Lục
Nhiều chi tiết về các vụ bắt giữ các tù
nhân cũng như hoàn cảnh của họ khi bị bắt vô Trại Giam Cổng Trời
đã được phơi bày.
Kỳ này là lời kể của nhân chứng về tất
cả nỗi khổ đau, giành giật sự sống cũng như chiến đấu chống lại
cái lạnh cái đói, cùng mọi thứ ở địa ngục trần gian Cổng Trời.
Lạnh...
Người tù tại Cổng Trời luôn nghĩ rằng
mình sẽ chết, không biết ngày nào thôi nhưng niềm tin vào cái
ngày cuối cùng ấy cứ đung đưa trong trí tưởng của hầu hết những
người tù tại đây. Họ không còn hy vọng, không còn lo âu cho ngày
ra trại và thậm chí không hề nghĩ rằng mình có thể sống sót để ra
khỏi nơi này trong một ngày đẹp trời nào đó. Người tù Cổng Trời
tận dụng hết mọi khả năng sinh tồn trong một cộng đồng nhỏ bé,
thiếu thốn mọi thứ nhưng lại dư dật hình phạt từ con người lẫn
thiên nhiên.
Những trang sách trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù của Aleksandr
Soltzhenitsyn diễn tả cái lạnh giá mà người tù nước Nga phải chịu
đựng suốt mùa đông đã đánh động con tim nhân loại bao nhiêu, thì
khi nghe người tù trại giam Cổng Trời kể lại chính bản thân họ
chịu đựng cái lạnh của đất trời Hà Giang sẽ khiến người nghe
chạnh lòng đến rơi lệ bấy nhiêu. Trại giam nằm trên độ cao hơn
hai ngàn mét và độ lạnh của nó luôn luôn ở 0 độ. Linh mục Nguyễn
Hữu Lễ kể lại những ngày khốn đốn vì lạnh giá tại đó như sau:
“Chúng tôi lên đó đúng vào đêm Giáng sinh 26 tháng 12 năm 1977 và
nhiệt độ trên đó lúc nào cũng ở độ âm tức là dưới 0 độ mà con
người ta chỉ được mang lên đó một chăn, một chiếu, một bộ quần áo
thì hãy tưởng tượng sự hành hạ của thiên nhiên đối với con người
như thế nào!
...nhiệt độ lúc nào cũng dưới 0 độ mà chỉ được mang lên một chăn,
một chiếu, một bộ quần áo thì hãy tưởng tượng sự hành hạ của
thiên nhiên đối với con người như thế nào! [LM Nguyễn Hữu Lễ]
Lúc đó tôi xung phong vào cái đội đóng
quan tài vì tôi không biết nghề nghiệp gì cả cho nên người ta đưa
tôi vào đội này để chôn những người tù. Có nhiều ngày chúng tôi
làm bở hơi tai mà không kịp cung cấp cho trại bởi vì người chết
quá đông, mỗi ngày có thể chết 5 người hay 3 người nhất là những
mùa đông nặng nề, tù nhân chỉ còn da và xương mà thôi. Tôi tin
chắc các linh mục miền Nam bị đưa lên đó, nhất là những linh mục
già nổi tiếng như cha tổng giám đốc tuyên úy công giáo ngày xưa
như cha Đinh Cao Thuấn, cha Cao Đức Thuận đương kim giám đốc
tuyên úy công giáo. Những cha già này cũng có mặt trên trại cổng
trời. Nói chung từ thiên nhiên đến con người tất cả đều đứng về
phía nghịch với chúng tôi.”
Thiên nhiên bị cáo buộc đã quá khắc
nghiệt nhưng không thể trả lời tại sao lại tiếp tay hành hạ người
tù như vậy. Câu trách cứ não lòng này sẽ không bao giờ người tù
nhận được sự giải thích từ bà mẹ trái đất.
...và đói
Cái lạnh đưa người tù vào chỗ chết, cái
đói thì đẩy họ vào địa ngục trần gian. Chỉ có địa ngục mới có
hình ảnh đói khủng khiếp đến như vậy. Người tù đói thâm niên, đói
mà không biết mình đói vì bao tử đã quen với cái thiếu thốn cùng
cực. Cái gì họ cũng có thể ăn được nhưng nào phải dễ kiếm cái để
ăn? Bốn bức tường ngăn họ với bên ngoài mà đâu phải là nhà dân,
chỉ có rừng núi u ám kéo dài và sương mù buốt giá quanh năm. Bữa
ăn của người tù trong các trại giam toàn miền Bắc đã ít nhưng so
với trại giam Cổng Trời thì nơi đây lại càng ít hơn. Đường xa
diệu vợi làm cán bộ rất ngại xuống núi. LM NguyênThanh kể lại
chuyện ăn uống trong trại:
“Ăn thì chỉ có khoai mì, và những loại
sắn đã chạy chỉ vàng tức là đã chảy mủ ra rồi, ăn rất độc. Bằng
chứng là Linh mục Nguyễn Hữu Lễ và nhiều người đã từng ngộ độc
khoai mì, tất cả đều ói mửa và gần như ngất xỉu. Chúng tôi chỉ
được ăn khoai mì với lại nước muối mà thôi.”
Chưa hết, nếu nghe người tù Trần Quốc
Định, tác giả tập truyện Thép Đen nổi tiếng kể về cái đói đã làm
cho người tù đau khổ như thế nào thì lương tâm con người không
thể không thức dậy: “Chúng tôi đói đến nỗi phải sàng phân mà ăn.
Là vì ăn hạt bo bo của Ấn Độ, mà bo bo thì cứng lắm thanh niên
như tôi mà nhai còn nhủng nhẳng thì huống chi mấy ông già, nhai
kỹ bao nhiêu thì vẫn còn phân nửa. Một nửa còn lại nguyên si nó
vào xong nó lại đi ra. Mà phân thì lại không có mắm muối, cá thịt
gì nên không hôi thối. Do đó các người đói quá sau khi những
người tù đi ngoài thì họ vào họ xúc phân đó. Những toán đi ra
ngoài đồng đem xuống suối rửa sạch rồi hầm lại và ăn lại cái bo
bo đó!”
Cái
đói làm cho con người mất nhân tính. Nó kinh khủng hơn hơn cái
lạnh một bậc vì khi lạnh người ta có khuynh hướng ngồi lại với
nhau để tìm hơi ấm, còn khi đói, con người trở thành thú dữ và
khi đã đói thì bao tử gầm rú đòi ăn khiến trí óc không còn minh
mẫn. Đã có biết bao nhiêu tù nhân trong các trại giam cộng sản
đánh mất cả lương tâm chỉ vì một mẩu bánh, một cọng rau. Người
cộng sản đầy kinh nghiệm biến tù nhân thành thú dữ qua việc kiểm
soát bao tử của họ. Người tù Nguyễn Chí Thiện kể lại cái đói
chung của tất cả trại giam miền Bắc, ông nói: “Ăn thì ăn đói
không có gì cả. Đói điên cuồng, đói quá hóa điên. Ai trải qua rồi
thì mới thấy nó khủng khiếp. Có những thanh niên không chịu được
đói đập đầu vào tường để tự tử. Có người dùng mảnh chai cắt veine
để cho máu chảy ra mà chết. Tôi chứng kiến nhiều trường hợp như
thế, đói một cách kinh khủng.”
Đói điên cuồng, đói quá hóa điên. Ai
trải qua rồi thì mới thấy nó khủng khiếp. Có những thanh niên
không chịu được đói đập đầu vào tường để tự tử. [Người tù Nguyễn
Chí Thiện]
Người tù thường được tự cải thiện bữa ăn bằng cách trồng rau hay
khoai nhưng khi thu hoạch thì gặp những điều cười ra nước mắt
khác. Người tù Nguyễn Chí Thiện với 27 năm trải qua nhiều trại
giam của miền Bắc, là chứng nhân của biết bao cái chết vì đói, kể
lại: “Chúng tôi trồng ra không biết bao nhiêu là su hào bắp cải,
nhưng nó đem ra Lào Cai Yên Bái nó bán. Có lần nó không bán được
nó chất mười mấy tấn bắp cải ở lối đi làm, mà chúng tôi không
được ăn. Không có rau ăn. Giám thị nó nói tiêu chuẩn của các anh
không được ăn, thế thôi. Cái đống rau mười mấy tấn đó để lâu nó
thối. Bao nhiêu công tù đem ủ thành phân mà tù không được ăn. Anh
tù nào đi ngang đống rau thối mà lấy thì báng súng nó đánh gục
ngay. Chính vì chính sách tiêu diệt con người như thế cho nên tỷ
số người tù miền Bắc chết trong trại rất nhiều.”
Bị cách ly
Người tù trại giam Cổng Trời đói trơ
xương nhưng không được thăm nuôi từ thân nhân của mình. Chính
sách cách ly tuyệt đối người tù với bên ngoài đã làm cho bộ mặt
nhà tù càng thêm rùng rợn. Không ai biết việc gì xảy ra bên trong
và người bên trong cũng không thể hay biết điều gì xảy ra bên
ngoài. Cả thế giới như ngưng lại trong trí nhớ người tù Cổng
Trời, họ chịu đựng âm thầm và kiên tâm đến kỳ lạ. Mọi thứ thực
phẩm nhỏ bé nhất cũng bị kiểm soát gắt gao đến nỗi ông Nguyễn Hữu
Đang, một cán bộ phụ trách ngày lễ tuyên ngôn Độc lập cho chủ
tịch Hồ Chí Minh bị bắt trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm trả lời phỏng
vấn của nhà báo người Đức Heinz Schütte cho biết: “Án bao nhiêu
năm chẳng quan trọng, chẳng đáng kể. Không một mối liên hệ với
bên ngoài, không thư từ, không thăm nom, không tiền hay quà hay
lương thực gửi tới – không, anh không nhận được chút gì của bạn
bè hay gia đình. Anh không có quyền nhận thăm nom, không tiếp xúc
với bên ngoài.
Không một mối liên hệ với bên ngoài,
không thư từ, không thăm nom, không tiền hay quà hay lương thực
gửi tới. [Ông Nguyễn Hữu Đang]
Anh chỉ sống chuyên giữa các anh với
nhau, những người tù, những tù nhân chính trị. Thế giới của anh,
nhân loại đối với anh là 200 người tù – không có những người đồng
tổ quốc, đồng công dân; với anh, không có gì hết, chỉ có 200
người đồng ngục cùng một số phận...”
Kiều Duy Vĩnh, người sống sót cùng với
Nguyễn Hữu Đang trong khi 70 bạn tù tại trại Cổng Trời đều đã bỏ
mình tại đây. Ông may mắn có được một người mẹ vừa liều lĩnh vừa
thông minh, và đầy kiên nhẫn. Bà đã lặn lội xuôi ngược không biết
bao nhiêu ngày tháng để tìm cho được nơi giam giữ con trai mình.
Bà đối diện thẳng với công an trại giam các cấp, hỏi và buộc họ
phải trả lời con trai bà bị họ nhốt ở đâu. Cuối cùng thì bà toại
nguyện, biết chỗ của con nhưng không tài nào thăm được, ông Vĩnh
viết: “Mẹ tôi đến Bộ Công An ở phố Trần Bình Trọng hỏi về anh con
bị tù. Gác cửa không cho vào. Nhưng từ nhà tôi ở chợ Hôm ra hồ
Thiền Quang chưa đến 1km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi đi
đâu là mẹ tôi lại tạt vào Bộ Công An quấy rầy họ. Đến nỗi người
thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp. Mẹ tôi
cứ đến hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ phải trả lời. Nhưng cũng mất hơn
3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ trại tù Cổng Trời: Công
Trường 75A Hà Nội. Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái công trường này
nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này? Họ bảo họ không biết. Mẹ tôi
đời nào chịu. Và cuối cùng họ phải trả lời là tôi đang ở nhà tù
Cổng Trời ở Hà Giang. Thế là mẹ tôi đi Hà Giang tìm nhà tù đang
nhốt tôi. Đi với 2 bàn tay trắng: không có mảnh giấy phép đi tiếp
tế cho tù.”
Vất vả như thế nhưng công an không cho bà lên Cổng Trời! Thế là
bà cụ đành quay trở lại! Còn gì bi đát hơn khi nhận được thư mẹ
nhưng không biết số phận mình sẽ bị định đoạt như thế nào. Ngày
về quá xa và thiếu thốn hàng ngày lại nằm sát bên hành hạ....
Không bao giờ trở lại
So với Kiều Duy Vĩnh thì người tù Lưu
Nam còn bi thảm hơn, ông không bao giờ được gặp mặt gia đình cho
tới khi chết mặc dù con cái hết lòng tìm kiếm. Con trai của ông
là ông Lưu Đức Tâm kể: “Ông bố ở trại giam Quyết Tiến ở Hà Giang,
còn gọi là trại giam Cổng Trời. Trong 10 năm đó gia đình không có
tin tức gì thì dẫu biết cũng không thể đi thăm được. Cho đến năm
1961 gia đình nhận được một bức thư của ông cụ gửi về nên mới
biết ở trại đó. Lúc bấy giờ gia đình cũng không có điều kiện để
ra đi thăm được bởi vì mẹ ở nhà ốm đau bệnh tật, con cái thì còn
nhỏ thành ra không đi thăm được, cho nên có gửi lên cho ông bố
một ít quà qua cái địa chỉ đó. Gửi bằng con đường bưu điện nhưng
không biết ông cụ có nhận được hay không, tới năm 1962 thì ông cụ
mất. Gia đình không hề được báo tin là chết, tức là không có giấy
báo tử. Mãi cho đến sau đó anh em đi ra ngoài Hà Nội mới hỏi Bộ
Nội Vụ, người ta mới bảo rằng ông đã mất. Sau đó gia đình tìm đến
Cục Lao Cải để xin cái giấy báo tử về. Sau khi xin được giấy báo
tử rồi sau đó lên đưa mộ của ông về. Hiện nay mộ của ông ở tại
quê nhà.”
Cách
ly người tù là biện pháp chống lại sự tuyên truyền những hình ảnh
đối xử không mấy nhân đạo của trại giam sẽ rò rỉ ra bên ngoài hữu
hiệu nhất. Sự im lặng khép kín này nhiều chục năm qua đã tránh
tiếng được cho chính quyền miền Bắc đối với dư luận thế giới, thế
nhưng dư luận trong giới tù nhân và thân nhân họ với nhau thì
sao?
Trong
bài
tới (6), những nhân chứng khác sẽ kể lại cuộc sống hàng ngày của họ
khi phải đối diện với những sự hành hạ từ cai tù, đầu gấu, và
nhất là cái chết rình rập từng giờ....
Bài
6
Bài
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9, 10,
Mục Lục
Một
góc khác của trại giam Cổng Trời là các vụ giết người của đầu gấu
mà cán bộ trại giam phải chào thua.
Những cái chết vô nghĩa của người tù
khiến đồng đội âm thầm gạt nước mắt chôn cất thi hài bạn bè, cũng
như các đau khổ khác mà người tù tại đây phải liên tục chịu đựng.
Người đạo tỳ mệt mỏi
Hoàn cảnh khắc nghiệt tại Cổng Trời
khiến tù nhân chết do bệnh tật, thiếu ăn, biệt giam hay lạnh giá
hầu như xảy ra hằng ngày.
Đồi Bà Then là cái tên mà người nào ở
Cổng Trời cũng biết. Nó là một mảnh đất nhỏ được dành làm nghĩa
trang mà cán bộ trại giam luôn lấy làm biểu tượng để cảnh cáo
những người tù cứng đầu nhất. Không ai thoát bàn tay tử thần
trong cõi đời này, nhưng thấy cái chết tiến về phía mình mà không
có cách gì thoát được thì thật là một bi kịch. Riêng với người tù
biệt kích Hoàng Đình Mỹ trong suốt thời gian hơn ba mươi năm trải
qua nhiều trại giam thì những kỷ niệm của ông còn sâu hơn, bởi
chính tay ông đã chôn không biết bao nhiêu là bạn tù. Riêng tại
Cổng Trời có lẽ là nơi khiến ông đau xót hơn cả vì tại
đồi Bà
Then ông đã chôn cất không biết bao nhiêu người đồng cảnh ngộ.
Những cái chết oan khuất này vẫn ám ảnh ông hằng đêm cho mãi tận
lúc này, sau nhiều chục năm thoát ra khỏi trại giam mang tên Cổng
Trời: “Những người bạn tôi chết rất cực khổ không được như ý muốn
của mình. Tôi là người đã được vuốt mắt rất nhiều người bạn.
Những người bạn của tôi không thể nào tôi quên được, đêm đêm tôi
nằm nhớ tới có khi tôi còn nhập tâm. Bạn bè tôi nhiều người bệnh
tật rồi chết trên tay tôi rất nhiều. Tôi là người săn sóc cho các
bạn tôi, nhiều nhất là bệnh lao nhưng tôi không bị bệnh, mà những
người kiêng thì lại bị bệnh.”
Những người bạn tôi chết không được như
ý muốn của mình. Tôi là người đã được vuốt mắt rất nhiều người
bạn, tôi không thể nào quên được. [Người tù Hoàng Đình Mỹ]
Những người tù này xuất thân từ nhiều
thành phần mà theo linh mục Chu Quang Tòng thì đa số họ bị bắt do
chống đối Nhà nước, trong đó có cả những người sắc dân thiểu số:
“Hầu hết ở các trại thì có 2 thành phần, một thành phần có tính
chất hình sự còn thành phần tập trung cải tạo thuôc thành phần
chính trị. Những người tập trung cải tạo thì hầu hết là những sĩ
quan, nhân viên chính quyền thời Pháp còn ở lại miền Bắc cho nên
năm 60–61–62 thì họ tập trung hết cùng với các tu sĩ bên công
giáo, các chủng sinh các linh mục mà họ cho là có tư tưởng không
thích chế độ. Sau khi xảy ra những sự kiện Liên Xô, Trung cộng
Việt Nam khi câu chuyện xét lại chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa bành
trướng của Trung cộng thì ngay các nhân vật đối lập trong chính
quyền, thậm chí cả những chuyên gia Trung cộng cũng cho vào hết.
Những thành phần người Campuchia người Lào, thành phần của phái
Sihanouk, tất cả những người này nếu không tán thành chính sách
của họ thì bị họ cho vào rọ hết.”
Họ sống như thế nào?
Người tù biệt kích Trần Nhật Kim kể về
hoàn cảnh của ông và đồng đội trong trại Cổng Trời như sau: “Chúng
tôi được giam trong một khu gọi là khu O. Nơi đây có thể nói là
một nhà tù trong một trại tù. Chúng tôi không thể bước chân ra
khỏi vòng rào đó. Chỉ có một phòng duy nhất để nhốt những người
tù đặc biệt, chẳng hạn như người tù miền Nam. Chúng tôi chỉ có 48
người cộng với khoảng 30 người biệt kích, còn đa phần anh em tù
miền Bắc. Anh em trong đó gồm tôi với cha Lễ và các cha nữa cùng
làm trong khuôn trại ấy mà thôi chúng tôi không có cơ hội đi ra
khỏi trại.”
Kinh nghiệm ngồi tù hơn 27 năm của người tù Nguyễn Chí Thiện, còn
có một biệt danh là ngục sĩ, cho biết không những lạnh, đói, mà
nước độc cũng là một nhân tố kinh khủng giết chết tù nhân, ông
kể: “Điều kiện khí hậu và nước độc giết rất nhiều người. Thí dụ
như khi tôi ở trại Mai Côi Cầu Lầy, Phú Thọ đây là nơi nước độc
kinh khủng. Ngày xưa trong kháng chiến chống Pháp người ta đã có
câu: ‘Ai đi Mai Côi thì thôi đường về. Yêu nhau cho thịt cho xôi,
ghét nhau đưa đến Mai Côi, Cầu Lầy’. Tôi ở đúng cái trại này,
nước giếng của nó lúc nào cũng xam xám màu chì. Không biết nó có
những chất độc gì nhưng rất nhiều vi khuẩn độc ở trong đó. Đói
rét, tắm rửa ăn uống trong cái trại đó và có rất nhiều người
chết.”
Bản
thân tôi thì đã chịu đựng tất cả những hình khổ đó nên tôi rất
hiểu thời bấy giờ những linh mục bị đưa lên Cổng Trời là một cái
trại tử hình. [LM Nguyên Thanh]
Văn hào Aleksandr Soltzhenitsyn từng bị
cho là cường điệu khi nói về chấy rận tại các trại giam Gulak
trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù như sau: “Hồi đó phát thức ăn là
phát cho tổ. Không phát từng cá nhân. Cứ mỗi tổ 10 người. Tổ nào
có một thằng chết dại gì khai báo vội. Hãy nhét đỡ nó xuống gầm
ổ, để tiếp tục chia nhau chỗ khẩu phần của nó. Nghĩa là 9 miệng
hưởng 10, chừng nào xác có mùi hẵng hay! Chen chúc khốn nạn vậy
mà nhà tù cứ nhét thêm và tù cứ rán chịu: bao nhiêu cũng vừa.
Phiền nhất là đông như vậy tù chỉ được phép 3 tháng tắm 1 lần.
Chấy rận nảy nở khỏi nói: Chúng hút máu đến nỗi chân cẳng thằng
tù nào cũng đầy nhọt áp xe. Bệnh chấy rận tệ hơn nhiều. Vì bệnh
dịch quái ác này mà cả khám bị cô lập đúng 40 ngày.”
Vài năm sau người tù Việt Nam đã sống
cùng với những ký sinh trùng này mà theo lời kể của Nguyễn Chí
Thiện thì văn hào Soltzhenitsyn không hề cường điệu tí nào: “Mùa
đông thì rận chấy mùa hè thì rệp. Sàn nứa ở trên rừng khi đốt lửa
lên để giết rệp thì không biết bao nhiêu là con rệp. Ba bốn người
ngồi giết không kịp nên nó sinh sôi như thế. Mùa đông thì rận
chấy. Có cái áo tù khi giũ ra thì hàng ngàn con rận! Kinh khủng
như vậy.”
Đầu
gấu, những kẻ máu lạnh
Bên cạnh cái đói, lạnh, người tù còn
thường xuyên phải canh chừng những kẻ đầu gấu trong trại. Họ có
thể giết người bất cứ lúc nào vì đối với những tử tù này không
còn một thứ kỷ luật nào có thể làm cho họ sợ hãi nữa, LM Nguyên
Thanh kể lại: “Bản thân tôi thì đã chịu đựng tất cả những hình
khổ đó nên tôi rất hiểu thời bấy giờ những linh mục bị đưa lên
Cổng Trời là một cái trại tử hình. Ở đó có thể nói những con
người có thể biến thành những con thú để sống bởi vì họ chỉ cần
tranh chấp nhau một miếng khoai mì to hay nhỏ thôi, chia không
đều mà họ có thể cầm dao cầm búa giết nhau tại chỗ. Thí dụ như
một tên tù tên là Nguyễn Văn Nhân là tù hình sự đã bị kết án tử
hình vì tội giết người, con một trung tá công an Hà Nội. Bị kết
án tử hình nhưng không thi hành án. Ngay trong tù tên Nhân này
lại giết một người bạn tù khác và lại bị tuyên án tử hình một lần
nữa.”
LM
Nguyễn Hữu Lễ nhận xét mức độ tàn ác của những đầu gấu trong tại
giam Cổng Trời: “Việc ác độc nhất của chế độ cộng sản đối với tù
chính trị miền Nam nói chung và các người công giáo nói riêng đặc
biệt là các linh mục là, cái trại đó giao cho những người đội
trưởng là tù hình sự. Đại đa số là những kẻ hiếp dâm, giết người
cướp của. Bị kết án từ 15 năm sắp lên cho tới tử hình. Nếu dưới
15 năm thì không được lên đó. Những đội trưởng đó được giao cho
cai trị người tù miền Nam, đặc biệt là các linh mục. Những đội
trưởng này được giao rất nhiều quyền hạn, ngay cả mỗi đội trưởng
đều có một cái còng số tám nữa. Họ có thể đánh hay còng bất cứ
một người nào và chính mắt tôi đã chứng kiến họ đánh tù miền Bắc
không thể nào tưởng tượng được.”
Những con người có thể biến thành những
con thú để sống bởi vì họ chỉ cần tranh chấp nhau một miếng khoai
mì là họ có thể cầm dao cầm búa giết nhau tại chỗ. [LM Nguyên
Thanh]
LM
Nguyên Thanh kể về trại của ông ở được gọi là khu O với những
thành phần mà ông gọi là cặn bã của miền Bắc: “Chúng tôi được ở
trong khu O tức là họ xây một vòng tròn tường cao kín cổng cao
tường, ở trong cái trại tù được gọi là trại tù tử hình vì trại
này nhốt tất cả thành phần cặn bã của miền Bắc. Những tù hình sự
can tội cướp của giết người chờ tử hình và chúng tôi bị nhốt
chung với những người này. Tôi lại được chiếu cố hơn cả là vì ở
khu O tức là tù trong tù.”
Người tù biệt kích Trần Nhật Kim xác
nhận lời kể của LM Nguyên Thanh bằng lời kể: “Ở trong trại đa
phần là tù hình sự. Những người bị chung thân khổ sai và một số
bị án tử hình. Họ là những thành phần người ta gọi là đầu gấu gom
từ các trại để mang lên Cổng Trời. Trại Cổng Trời có điểm đặc
biệt nó cao gần hai ngàn thước sát biên giới Trung cộng, chỉ cách
5 cây số đường chim bay. Với khí hậu mùa đông là 0 độ C mà chúng
tôi chỉ có một bộ bà ba, một chăn một chiếu một cái mền mỏng. Nó
có điểm đặc biệt nữa là chỉ bắt đi kỷ luật vào mùa đông vì mùa hè
nó cần tù nhân tăng gia sản xuất. Mùa đông thì thời gian ở trong
phòng kỷ luật thì phương tiện không có, ăn uống thì kém. Một
tháng chúng tôi được 11 ký nhưng người bị kỷ luật thì chỉ có 9 ký
thôi. 9 ký này toàn chất bột như ngô, khoai, sắn, đa phần là ngô
xay. Vì vậy chúng tôi bị xuống sức khỏe rất nhanh. Vấn đề hành hạ
tôi nghĩ không gì hành hạ bằng thời tiết. Cái đói và ý tưởng mình
không được trở về gia đình nữa. Nhưng chúng tôi thường đối diện
một sự thật là đói quá. Những người tù hình sự thì họ có thể ăn
cắp ăn trộm hoa màu trong khi đi làm, nhưng chúng tôi thì không.”
Trốn trại khó hơn lên trời
Tuy nghiêm ngặt và khó khăn như vậy
nhưng nỗi thèm sống đã thôi thúc người tù khiến họ nghĩ đến con
đường đào thoát, dù biết rằng cơ hội tự do chỉ là một phần trăm.
Người tù Hoàng Đình Mỹ kể lại sự chuẩn bị trốn trại của ông và
đồng đội: “Thời gian nó cho chúng tôi về công trường Hồng Thắng
lao động, rồi nó chuyển về Đầm Đùn Thanh Hóa. Ở đây nó cho ra
ngoài làm tự do nhưng trong một vùng thôi không đi quá phạm vi.
Chúng tôi mới tìm đường do mấy cái ông dân tộc đi mua hàng ngoài
Thanh Hóa về bán cho chúng tôi, thuốc lá hay hộp quẹt. Nghe người
ta nói chuyện đi đường như thế nào rồi tôi mới nghĩ tới chuyện
trốn trại tôi mới bắt đầu đi. Sáng hôm đó tôi đi làm sớm, tôi xin
cán bộ cho tôi đi đốt lò vôi. Vào tổ lò vôi được mấy ngày khi đi
ra ngoài làm lán tôi kiếm cớ tôi đi thật sớm thì tới tối tôi đã
ra tới Thanh Hóa.”
Ra tới Thanh Hóa nhưng không thể trốn
xa hơn, thế là họ lại bị bắt.
Người tù Trần Nhật Kim kể về trường hợp
trốn trại khác mà ông được biết: “Khi các anh em tù vào phòng mỗi
buổi chiều. Thí dụ như hôm nay có 40 người cán bộ thì họ trực gác
các phòng. Anh em xếp hàng ở ngoài cửa và người ta gọi tên từng
người để mấy chục cán bộ nhận diện trước khi người đó bước vào
phòng. Thành thử ra họ thuộc lòng từng người và biết rõ từng tên.
Mỗi phòng đều có quyển sổ có hình ảnh đàng hoàng, ghi tên tuổi rõ
ràng thành thử anh em có thoát ra ngoài cũng khó. Trường hợp anh
Khoan, anh này là biệt kích ra Bắc trước năm 1970 anh ấy bị bắt
và trốn trại. Anh vừa thoát ra khỏi cổng trại thì bị tù hình sự
nó phát hiện nó báo cán bộ liền. Anh bị bắt và bị đánh trước mặt
chúng tôi. Họ mang vào trong một chỗ mà chúng tôi nhìn qua khe
cửa đều thấy được. Bốn người vừa đánh vừa đấm khi anh ấy bất tỉnh
thì nó khiêng bỏ vào phòng kỷ luật. Anh Khoan hiện nay đang ở
tiểu bang Ohio.”
Trong
bài tiếp (7), những nhân chứng sống
kể lại các phương thức hành hạ người tù như thế nào trong cái
trại giam khủng khiếp này. Từ cùm cánh tiên, cho tới nhà đá biệt
giam, lấy đi sinh mạng biết bao người, trong đó có tính mạng của
cha chính Vinh người mở đầu cho câu chuyện Trại Giam Cổng Trời
này....
Bài
7
Bài
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9, 10,
Mục Lục
Tiếp tục loạt bài Trại Giam Cổng Trời,
trong bài thứ bảy hôm nay, nhân chứng sẽ kể cho quý vị nghe những
hình ảnh mà các trại giam khác trong lãnh thổ Việt Nam không có
được: đó là hầm đá kiên giam, nơi dành để gián tiếp giết tù nhân
vì chỉ cần vào đây 10 ngày là sẽ vĩnh viễn ra đi, LM Nguyễn Văn
Vinh là một trong những người chết từ hầm đá này. Mặc Lâm trình
bày cùng với các nhân chứng sau đây mời quý vị theo dõi.
Ám ảnh bệnh tật
Tù nhân trong tất cả các trại giam của
người Cộng sản luôn giống nhau về nỗi ám ảnh bệnh tật hầu như bất
tận. Những viên thuốc nhỏ nhoi mà thân nhân có dịp mang vào trại
giam cho họ chỉ có thể chữa trị những cơn bệnh nhẹ như nhức đầu,
cảm sốt thông thường, nhưng khi người tù gặp các chứng như sốt
rét rừng, kiết lỵ hay tiêu chảy thì mạng sống kể như chỉ còn biết
trông chờ vào Thượng Đế.
Các loại thuốc dân gian được người tù
tận dụng tối đa và trong nhiều trường hợp các chứng bệnh nguy
hiểm đã được khống chế một cách kỳ diệu. Có lẽ do quen dần với sự
khắc nghiệt của thiên nhiên khiến người tù trở nên miễn nhiễm
trong một giai đoạn nào đó. Nhiều loại vi trùng mà bên ngoài bất
cứ ai cũng lo sợ lại tránh xa những con người khốn khổ này.
Cưa chân như thời tiền sử
Khi người tù gặp tai nạn hay chấn
thương thì sự thể lại khác, nhất là trong trường hợp bị nhiễm
trùng do vết thương thì hậu quả thật khó lường. Linh mục Nguyễn
Văn Lý, người tù nổi tiếng vì tranh đấu cho nhân quyền kể lại
những kinh nghiệm mà ông từng chứng kiến như sau:
Khi bị thương tích đau bệnh gì đó mà
cần phải cưa tay hoặc cưa chân, điều kiện không có nên họ cưa
sống như vậy chứ không có thuốc tê thuốc mê gì cả. Họ cột chặt
anh em của mình vào giường, rồi họ dùng cưa tay, họ cưa luôn cái
khúc chân nào mà đang đau như vậy. [LM. Nguyễn Văn Lý]
– Khi bị thương tích đau bệnh gì đó mà
cần phải cưa tay hoặc cưa chân, điều kiện không có nên họ cưa
sống như vậy chứ không có thuốc tê thuốc mê gì cả. Họ cột chặt
anh em của mình vào giường, rồi họ dùng cưa tay, họ cưa luôn cái
khúc chân nào mà đang đau như vậy. Người đó bị buộc chặt vào rồi
nhét giẻ vào miệng, để khỏi la hét gì được. Họ cũng muốn cứu mình
để mình sống nhưng rất kinh hoàng. Tôi biết một linh mục tên là
Hùng đã bị cưa sống như vậy năm 81 hay 82 gì đó.
Bệnh tật không có thuốc men là tình
trạng chung của tất cả các trại tù trên toàn cõi Việt Nam. Riêng
tại trại giam CổngTrời thì tình trạng này lại càng bi đát hơn vì
chính sách cô lập tù nhân hoàn toàn với bên ngoài của nó. Trong
suốt nhiều năm, những người tù Cổng Trời không hề gặp mặt thân
nhân của mình cho đến khi tất cả âm thầm ra đi trong vòng tay của
bạn tù. Một trong những người kiên cường nhất trong tổng số 70 tù
nhân này là linh mục Nguyễn Văn Vinh, cuối cùng thì ông bỏ mình
trong hầm đá của trại giam Cổng Trời vì không tuân theo những quy
định mà cán bộ trại giam đưa ra.
Hầm đá: nấm mồ buốt giá
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ kể lại điều mà
ông cho là kỳ diệu khi phát hiện ra dấu tích của LM Vinh để lại
trong hầm đá trước khi ông chết nhiều năm về trước: Cái hầm đá đó
tức là nhà kiên giam trên Cổng Trời. Trên đó có một nhà xây bằng
đá rất tối. Nó có hai cái xập hai bên, mỗi bên là cái xập bằng
ván, khi người tù người ta lên đó nằm thì người ta khắc cái tên
của người ta lên đó. Người ta dùng đinh hay là đầu đinh để khắc
tên dưới miếng ván mình nằm. Có một bữa tôi vô tình tôi nằm và mò
mò phía dưới thì phát hiện ra những cái tên, một hàng dài rất
nhiều. Có những cái tên khó đọc, có những tên đọc được tôi thấy
có tên của cha Vinh. Tôi không biết nhiều về cha Vinh ngài bị bắt
năm nào tôi không biết. Tôi cũng khắc tên tôi theo. Sự kiện đó nó
nói lên nơi đây đã từng giam giữ một số người trong đó nhiều
người đã chết.
Cái hầm đá đó tức là nhà kiên giam trên
Cổng Trời. Trên đó có một nhà xây bằng đá rất tối. Nó có hai cái
xập hai bên, mỗi bên là cái xập bằng ván, khi người tù người ta
lên đó nằm thì người ta khắc cái tên của người ta lên đó.
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện thì kể rõ hơn
cách thức mà người tù tại trại Cổng Trời bị nhốt trong hầm đá như
thế nào qua lời tường thuật của Nguyễn Hữu Đang và Kiều Duy Vĩnh:
Ở Hà Giang thì thực sự không khác gì nơi chúng tôi ở, nó chỉ rét
hơn thôi. Nhưng nó là trại thủ tiêu. Nó không để chết lần chết
mòn tự chết mà những người công giáo thì bị nó giết chết. Nó cho
mặc quần đùi dẫn vào hang đá nó cùm ở trong đó. Theo như Nguyễn
Hữu Đang và Kiều Duy Vĩnh kể lại cho tôi biết thì không ai sống
quá 10 hôm. Người tù được cho mỗi ngày một nắm cơm bằng quả
trứng. Nó bắt mặc như thế mà ngoài trời lạnh như thế, ban đêm
trời mùa đông nó toàn chờ dịp Noel để nó cùm. Rất nhiều người
công giáo bị thủ tiêu theo lối đó.
Trong tác phẩm “Cuộc Chiến Chưa Tàn”
người tù biệt kích Trần Nhật Kim viết lại: “Còn một loại phòng
giam khác là những hầm đá chìm dưới đất, vào mùa đông hầm càng
lạnh hơn. Khẩu phần ăn quá ít, mỗi bữa cơm nắm lại chỉ lớn bằng
trái trứng vịt với muối. Không có lấy một chút chất ngọt, chất
béo. Trong hoàn cảnh ngược đãi, thể xác sẽ bị hao mòn theo thời
gian. Có nhiều người đã qua đời ở đây.
Khi cùm, tù nhân để cổ chân trên nửa
vòng sắt dưới, cán bộ úp nửa vòng sắt trên xuống không vào khớp
vì thịt cổ chân thừa ra ngoài. Cai ngục dùng gót giầy đạp xuống
phần sắt trên để vòng sắt vào ngàm. Họ làm như một thói quen
trong khi tù nhân đau đớn. Phần thịt nơi cổ chân đã dập nát, vết
thương chảy máu dễ làm độc.
Chính tại căn hầm đặc biệt này, cùm
xích và cai ngục cũng khác thường. Vòng sắt dẹp ôm cổ chân lâu
ngày sét rỉ, đường kính khoảng 4 phân tây, nhỏ hơn cổ chân bình
thường. Khi cùm, tù nhân để cổ chân trên nửa vòng sắt dưới, cán
bộ úp nửa vòng sắt trên xuống không vào khớp vì thịt cổ chân thừa
ra ngoài. Cai ngục dùng gót giầy đạp xuống phần sắt trên để vòng
sắt vào ngàm. Họ làm như một thói quen trong khi tù nhân đau đớn.
Phần thịt nơi cổ chân đã dập nát, vết thương chảy máu dễ làm độc
vì vòng sắt xét rỉ, dơ bẩn. Không được chữa trị kịp thời và hình
phạt kỷ luật vẫn tiếp diễn trong nhiều ngày, vết thương lở loét
sau mỗi cử động. Cổ chân sưng lên khiến vòng sắt như nhỏ lại lún
sâu vào thịt, vòng sắt nhám như mặt dũa cọ vào vết thương. Cái
đau nơi cổ chân bóp thắt trái tim, các bộ phận trong người như bị
cắt ra từng mảnh. Tù nhân có cảm giác vết thương ngứa ngáy khó
chịu, như đang bị những giòi bọ gậm nhấm. Muốn cử động cho bớt
ngứa lại sợ vòng sắt làm vết thương chảy máu. Lâu ngày nằm một
chỗ, bàn chân như nặng hơn, mất dần cảm giác nơi gan bàn chân.
Cảm giác nặng nề lên dần tới hông, như không còn chịu sự điều
khiển của trí óc.”
Tàn nhẫn bao nhiêu mới trở thành độc
ác?
LM Nguyễn
Viết Cường cho biết những người tù tại Cổng Trời bị cùm thường
vào mùa đông, cụ thể là trước lễ Giáng Sinh hằng năm như một lời
nhắc nhở cho các giáo dân, tu sĩ, linh mục biết rằng Lễ Giáng
Sinh sẽ là niềm đau khổ cho họ hơn là niềm tin hy vọng được mang
xuống từ trời:
Ông Trần Nhật Kim một người lính biệt
kích bị giải giam từ Nam ra kể lại trại giam Cổng Trời hành hạ tù
nhân trong mùa đông như thế nào: “Với khí hậu mùa đông là 0 độ C
mà chúng tôi chỉ có một bộ bà ba, một chăn một chiếu một cái mền
mỏng. Nó có điểm đặc biệt nữa là chỉ bắt đi kỷ luật vào mùa đông
vì mùa hè nó cần tù nhân tăng gia sản xuất. Mùa đông thì thời
gian ở trong phòng kỷ luật thì phương tiện không có, ăn uống thì
kém. Một tháng chúng tôi được 11 ký nhưng người bị kỷ luật thì
chỉ có 9 ký thôi. 9 ký này toàn chất bột như ngô, khoai, sắn, đa
phần là ngô xay. Vì vậy chúng tôi bị xuống sức khỏe rất nhanh.”
Cái lạnh đồng lõa với những vết thương
hành hạ người tù bị cùm trong trại khiến họ muốn chết không được
mà muốn sống cũng không xong. Đau đớn dày vò họ ngày này qua ngày
khác trong mùa đông khắc nghiệt, nhiệt độ luôn ở dưới 0 độ thì da
thịt có bằng thép cũng phải nhũn ra. [Người tù Trần Nhật Kim]
Chờ đến mùa đông mới bắt đầu tra tấn
hay cùm kẹp người tù là kinh nghiệm mà cán bộ trại giam tích lũy
trong nhiều năm, để khi đem ra áp dụng cho người tù CổngTrời thì
mức tác hại của nó ghê gớm không bút mực nào tả xiết. Cái lạnh
đồng lõa với những vết thương hành hạ người tù bị cùm trong trại
khiến họ muốn chết không được mà muốn sống cũng không xong. Đau
đớn dày vò họ ngày này qua ngày khác trong mùa đông khắc nghiệt,
nhiệt độ luôn ở dưới 0 độ thì da thịt có bằng thép cũng phải nhũn
ra huống gì là cơ thể của những người tù quanh năm ốm đói.
Biệt giam, một cách tra tấn âm thầm
khác
Hình thức
biệt giam được dùng để hành hạ tinh thần người tù và cách ly họ
một lần nữa trong cái thế giới vốn đã nhỏ hẹp và tăm tối. Rất
nhiều hình thức biệt giam, từ nặng tới nhẹ mà cách gọi nó sẽ khác
nhau. Kiên giam là cái tên dùng để chỉ mức độ biệt giam nặng
nhất. Cát sô, trại kỷ luật, trại kiên giam đều có cùng một hình
thức: cực nhỏ, tối tuyệt đối, bị cùm chân, và cách biệt với mọi
tù nhân khác. Những nơi này dành cho việc giam giữ các phạm nhân
mà cán bộ trại giam cho là bất trị, hay kỷ luật những người vi
phạm nội quy trại. Nhục hình trong những phòng tối này có thể làm
cho người tù phát điên lên vì những sự tra tấn âm thầm nhưng hết
sức hiệu quả. Không phải giam giữ suông mà người tù luôn luôn bị
cùm bằng nhiều cách khác nhau tùy theo trại giam.
Biệt giam một lần đã là một nhục hình
khó quên nhưng bị biệt giam nhiều lần thì nhục hình ấy sẽ ra sao?
Người tù lương tâm LM Nguyễn Văn Lý cho biết trường hợp của chính
bản thân ông: Tôi đã ở tù 4 lần tổng cộng 17 năm và bị quản chế
hơn 7 lần, án của tôi vẫn còn 5 năm tù và 5 năm quản chế nữa.
Thường thời gian đầu lúc nào tôi cũng bị biệt giam cả. Đầu tiên
năm 77 tôi bị hoàn toàn biệt giam một mình. Rồi đến đợt tù năm
83, ba năm đầu tiên hoàn toàn biệt giam. Không phải mình làm gì
cả nhưng họ muốn khống chế như vậy để tạo điều kiện cho mình theo
kiểu nói của họ là để ăn năn sám hối!
Mọi kỹ thuật hành hạ con người từ thời
trung cổ cho đến cận đại đều được cán bộ trại giam Cổng Trời áp
dụng triệt để. Các kiểu gông cùm làm người tù sợ hãi suốt cả cuộc
đời được họ vắt óc nặn ra và đem áp dụng vào những con người khốn
khổ này.
Đó là
hình thức tẩy não mình đi. Trong điều kiện mình không có sách báo
thông tin gì mà cứ ở một mình như vậy, người thiếu bản lãnh thì
rất dễ bị khủng hoảng tư tưởng đi đến chỗ một loại đầu hàng nào
đó, một sự khuất phục nào đó. Phòng kỷ luật của trại giam Cổng
Trời lại càng kinh khủng hơn, LM Nguyên Thanh kể lại những hình
khổ mà người tù phải chịu khi bị giam trong trại kỷ luật này:
Riêng tại trại Cổng Trời thì phòng kỷ luật họ có một loại cùm nó
đặc biệt hơn những trại khác. Tôi cũng đã bị ba bốn năm cùm liên
tục ở chân. Riêng tại trại Cổng Trời thì nó dùng một loại cây gọi
là cây gỗ nghiến tức là nó rất cứng giống như cây cẩm lai ở miền
Nam. Họ xẻ đôi ra và họ khoét hai cái vòng bán nguyệt ở trên và ở
dưới. Khi đặt ống chân vào đó thì nửa thân cây phía trên dập
xuống nếu không lựa chiều cho vào chỗ nhỏ nhất của ống chân thì
cái cây dập xuống nó có chiều rộng khá rộng cho nên nó có thể dập
lên xương ống chân làm nát cả xương. Nhiều người khi vào nhà kỷ
luật đó khi ra thì chỉ còn xương bọc da và chân bị hư rồi.
Cái cùm bằng gỗ cẩm lai mà linh mục
Nguyên Thanh kể lại chỉ là một trong nhiều thứ dụng cụ mà Cổng
Trời dành cho tù nhân. Mọi kỹ thuật hành hạ con người từ thời
trung cổ cho đến cận đại đều được cán bộ trại giam Cổng Trời áp
dụng triệt để. Các kiểu gông cùm làm người tù sợ hãi suốt cả cuộc
đời được họ vắt óc nặn ra và đem áp dụng vào những con người khốn
khổ này.
Máu
và nước mắt của những tù nhân đổ xuống trong các lần tra tấn hay
cùm kẹp xảy ra trong các trại giam trên khắp lãnh thổ Việt Nam
như thế nào, mời quý thính giả đón theo dõi những lời kể từ các
nhân chứng sống trong loạt bài Trại giam Cổng Trời
kỳ tới (8).
Bài
8
Bài
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9, 10,
Mục Lục
Những
công cụ tra tấn mà Cổng Trời tận dụng là các loại cùm từ thời
trung cổ còn sót lại đã khiến người tù hoảng loạn và kinh khiếp.
Gulag may mắn hơn Cổng Trời?
Trong suốt 12 chương sách trong tác
phẩm “Quần Đảo Ngục Tù”, văn hào
Soltzhenitsyn hoàn toàn không
nhắc gì tới các loại gông cùm được sử dụng trong những trại giam
được xem là địa ngục trần gian này. Nếu vì lẽ gì đó mà
Soltzhenitsyn quên không nhắc đến các loại dụng cụ dùng để trừng
phạt người tù qua hình thức tra tấn này thì quả thật là một thiếu
sót lớn. Ngược lại, nếu các nhà giam trong Quần Đảo Ngục Tù không
có loại gông cùm nào đáng để ý thì quả thật nhà tù Xô Viết vẫn
còn là thiên đường nếu so sánh với các trại giam của Việt Nam,
đặc biệt là trại giam Cổng Trời. Trại giam trên toàn đất nước
Việt Nam không nơi nào là không có phòng biệt giam, cát sô hay
trại kỷ luật. Những nơi này luôn luôn đi kèm với các loại cùm mà
người tù nào khi bước chân vào một lần sẽ vĩnh viễn ghi vào ký ức
suốt đời không tài nào xóa bỏ.
Chế độ giam giữ đặc biệt này vừa có mục
đích tẩy não những tư tưởng chống đối của người tù mà vừa là hình
thức trừng phạt hữu hiệu nhất đối với những ai không tuân theo
các luật lệ của trại.
Khi người tù bước chân vào trại giam
Cổng Trời thì trước hết anh ta sẽ được nghe một loại huấn thị sắt
máu từ trưởng trại giam, để suốt những năm tháng sau đó ghi đậm
trong tâm trí anh ta rằng nơi này là nơi sẽ trả thù những việc
anh ta làm. Việc trả thù đa dạng với những nhục hình nào mà cán
bộ trại giam có thể nghĩ ra. Nguyễn Hữu Đang, người tù nổi tiếng
trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm trả lời trong một bài phỏng
vấn như sau:
Các anh phải nhớ rằng một khi vào đây là các anh sẽ không có ngày
trở lại, các anh sẽ ở đây cho đến lúc chết.
[Ông Nguyễn Hữu Đang]
“Ngay khi chúng tôi đến nhà tù, người
ta đã tuyên bố: Các anh phải nhớ rằng một khi vào đây là các anh
sẽ không có ngày trở lại, các anh sẽ ở đây cho đến lúc chết.
Người ta đã tuyên bố thế – tổng giám thị nhà tù tuyên bố chính
thức, công khai trước tất cả các tù nhân chính trị. Đã vào đây là
không có ngày trở lại, không bao giờ ra khỏi nơi này. Cho dù án
của anh là 5 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm – các anh cũng sẽ ở đây
đến lúc chết. Vì sao? Vì các anh, lũ phản động, phản bội tổ quốc,
phản bội cách mạng, các anh đáng chết. Vì lòng khoan dung, độ
lượng, nhân đạo, mà chính phủ để cho các anh được sống, nhưng trả
tự do cho các anh, không bao giờ! Trả tự do cho các anh là trả tự
do cho hùm beo, các anh sẽ ở đây cho đến chết.”
Các loại cùm
Trong suốt bao nhiêu năm hiện hữu, trại
giam Cổng Trời chưa hề trả tự do cho một người tù chính trị nào.
Chẳng những thế họ còn bị vô số hình phạt và một trong những hình
phạt thông thường nhưng đau đớn nhất cho họ là các loại cùm được
dùng như hình thức tra tấn. LM Nguyễn Viết Cường cho biết: “Nhiều
kiểu cùm lắm. Nhiều kiểu cùm và nhiều kiểu xiềng lắm. Đơn giản
nhưng mà nó rất ác. Nhất là khi nó khóa còng số 8. Nó khóa cánh
tiên ác lắm. Nó không đánh nhưng nó khóa như thế còn hơn đánh.
Cùm lâu nhất là 8 tháng.”
Theo lời kể của nhiều tù nhân thì ở
trại Phong Quang có một loại cùm mà người ta gọi là cùm chữ V,
đây là một loại cùm bằng sắt đóng chữ V vào chân. Người tù nào bị
cùm loại cùm này thì chân coi như bỏ đi. Cán bộ đưa cùm vào chân
người tù sau đó lấy búa gõ vào cho khít. Khi cán bộ lau cái tút
sắt ở bên dưới thì da, thịt, gân tuột theo hết và người tù rú lên
một tiếng và ngất đi. Cùm như thế chỉ trong vòng một hai ngày thì
cán bộ phải bỏ ra thay cái cùm khác. Cái chân hư phải thuốc men
rất lâu mới khỏi nổi. Ai bị cùm chữ V một lần thì có vết sẹo ở
đàng sau cổ chân. Nhiều người tù kể lại có lúc tại trại Phong
Quang hàng mấy chục người nằm dài chân băng bó vì bị cùm.
Thế nhưng tại trại giam Hỏa Lò còn có
một loại cùm khác còn kinh khủng hơn loại cùm chữ V của trại
Phong Quang. Đây là một loại cùm hộp bằng xi măng mà mỗi lần nhắc
tới những ai từng ở Hỏa Lò đều không khỏi rùng mình. Người tù bị
nhốt trong cát sô mà cái cát sô này nằm trên một bể phân bên dưới
là cống rãnh. Cát sô có hai lần tường bao bọc nên tiếng la khóc
của người tù không vang ra phía ngoài được.
Cùm hộp được đúc bằng bê tông, hai chân
người tù bị cán bộ nắm đè vào cái đũa cùm có lỗ tương tự như con
số 8. Sau khi người tù đưa chân vào thì cán bộ dập phần hộp xi
măng còn lại xuống cho khớp với phần hộp bên dưới. Đau đớn làm
người bị cùm chỉ rú lên được một tiếng rồi ngất đi, xương chân
coi như vỡ. Cùm này chỉ để 12 tiếng là phải mở ra để thay cùm
khác.
Một kiểu
còng khác không kém đau đớn được mang cái tên rất mỹ miều: “khóa
cánh tiên” đây là loại còng được dùng hầu hết trong các trại giam
mà trại Cổng Trời hầu như sử dụng nhiều nhất nhằm khống chế những
người tù hình sự hay những kẻ to con cứng đầu. Người tù Nguyễn
Chí Thiện kể lại những gì mà tù nhân bị loại khóa tàn ác này hành
hạ như sau: “Nó có cái khóa gọi là khóa cánh tiên mà cái này
không cần phải vi phạm đâu nhé, anh đun trộm ấm trà anh cũng bị
khóa. Nó ghét là nó khóa. Lấy trộm sắn hay mẩu khoai ngoài ruộng
cũng đủ khóa như thế rồi. Khóa cánh tiên là cái khóa số 8, khóa
vòng hai tay ra phía sau lưng và phải 3 người mới khóa nổi. Hai
tay người tù cứ mở rộng ra và khép lại đàng sau lưng, hai người
mới khép nổi như thế. Khi bị như thế anh càng to, thì lồng ngực
anh càng như muốn vỡ. Rồi người thứ ba là anh tù tự giác nó đưa
cái khóa vào và khóa lại. Khóa lại như thế thì sức người không
chịu nổi 15 phút vì đa phần bị đau đớn điên cuồng, chỉ trong vòng
15 phút là ngất đi. Đau đến mức những anh dũng sĩ diệt Mỹ cũng bị
tù và khóa như thế, hay là trùm lưu manh bị khóa như thế thì nó
hóa điên. Khi hóa điên thì nó lạy van xin tha lúc thì nó lôi cả
đảng ra nó chửi. Hình thức khóa cánh tiên làm cho người ta ai
cũng sợ vì nó đau không thể tưởng tượng được. Tôi là người bị
khóa mấy lần nên tôi có thể tả như vầy: trong thời tiết 0 độ mà
nó cởi áo hết khóa ngoài giữa sân, mồ hôi trên trán chảy đầm đìa.
Nó đau ở hai thái dương điên cuồng lên. Lúc bấy giờ thành tâm mà
nói tôi chỉ muốn chết mà thôi.”
Hành hạ tù nhân nữ
Đối với tù nhân nữ thì mức độ tận hưởng
của cán bộ quản giáo có khác hơn đối với tù nhân nam, bệnh hoạn
và ác độc hơn. LM Nguyễn Văn Lý kể lại những phương cách mà mới
nghe qua không ai có thể tin được vào tai của mình, ông kể:
“Những hình khổ khác thì tôi đã tường thuật khá rõ ở trong 54
nhục hình. Những nhục hình đối xử ở bên các bạn nữ, hình thức mà
xúc phạm nhân phẩm của họ rất kinh hoàng. Ví dụ như lột trần
truồng tập thể 25 cô, bà một lúc mà xâm phạm vào chỗ kín của họ
như vậy thì thấy không còn chi ra con người nữa. Tôi đang kể với
anh mà tôi chảy nước mắt đây. Trong buồng giam thì nó có hai dãy
sàn xi măng cao vừa với tầm của người nằm. Một loại giường tập
thể chính giữa có lối đi. Chúng bắt những người tù nữ này, xin
lỗi, chổng mông lên ở dưới cái sàn đó, rồi một cán bộ mang găng
tay loại găng tay lao động chứ không phải găng tay vệ sinh của y
tế đâu. Găng tay thô nhám lao động. Nó thọc vào cái chỗ kín của
các bà đó để họ tìm các vật dụng như thư từ tiền bạc mà họ nghi
là giấu giếm. Họ thọc như vậy, chẳng có vệ sinh gì cả. Bà nào có
HIV/AIDS thì sẽ lây qua các bà khác dễ dàng lắm. Các bà không đề
kháng lại được cho nên chỉ đứng khóc với nhau. Mỗi bà chịu nhục
hình một lúc, tất cả đều trần truồng như nhộng vậy. Một hình khổ
nữa là họ lấy những vật dụng cứng họ thọc vào nơi chỗ kín của phụ
nữ. Họ lấy dùi điện rà vào những chỗ đó để đốt cháy. Nó vừa làm
đau khổ vừa xúc phạm nhân phẩm người phụ nữ.”
Làm sao LM Nguyễn Văn Lý nghe lại được
những lời kể lể mà bất cứ ai có nhân tính cũng đều phải quay mặt
đi như thế, ông nói: “Họ cấm không cho nói lại nên đâu dám nói.
Mãi đến khi hồi gần đây họ cho tù hình sự nhốt chung với một số
tù chính trị, chính các bạn tù chính trị này khi ở chung, được
các bà các cô hình sự kể lại. Vì trên thân thể có những dấu tích
do những lần tắm chung thì họ thấy dấu tích, họ hỏi thì các bà kể
lại.”
Khổ nạn của
người tù hầu như vô tận. Mỗi trại giam có một cách hành hạ người
tù tùy theo sự tưởng tượng phong phú của cán bộ trại giam đó.
Người tù chỉ biết chờ tới phiên mình. Họ là những tù nhân ngơ
ngác sống trong vòng vây địa ngục trần gian mà bên ngoài bị cách
ly với bên trong như hai thế giới. Chỉ khi nào may mắn thoát được
cái trại giam này thì lúc đó nỗi ám ảnh mới có cơ may ngày một
phai nhạt đi.
Hy vọng ló dạng
Cái may mắn ấy cuối cùng rồi cũng tới.
Trong một ngày bình thường như mọi
ngày, người tù Cổng Trời cảm thấy có điều gì đấy rất khác lạ
trong cách đối xử của cán bộ trại giam. Họ hối hả thu xếp những
thứ cần thiết, tập họp nhau lại thầm thì, và mắt láo liên như sợ
người tù theo dõi.... Những lo lắng này làm sao qua mắt được vành
tai, khóe mắt của những người tù lâu năm trong trại. Người tù
đoán mò với nhau: Hay là Mỹ trở lại? Cộng sản sụp đổ? Sắp chuyển
trại hay là gì khác? Những câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong những
lần gặp nhau ít ỏi của người tù và họ hy vọng, họ mong chờ điều
gì đó kinh khủng sẽ xảy ra thay đổi số phận của mình....
Bài sau (9) sẽ nói rõ những gì sắp xảy đến
tại nơi mà cán bộ trại giam từng nói: “Khi đã vào đây thì các anh
đừng hòng sẽ có ngày ra khỏi trại.” liệu biến cố này có thay đổi
được cuộc đời của những người tù trong tại giam Cổng Trời hay
không?
Bài
9
Bài
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9, 10,
Mục Lục
Tiếng súng đầu tiên từ bên kia biên
giới phía Bắc đã thay đổi nhiều số phận của những người tù trong
trại giam Cổng trời.
Ít ra thì nhờ nó mà họ bớt lạnh hơn,
đường trở lại gia đình ngắn hơn, và nhất là được sống gần với con
người hơn tại các trại giam dưới đồng bằng Bắc Bộ. Về gần với đời
sống hơn khiến người ta có khuynh hướng ôn lại chuyện cũ và những
người tù thế kỷ này nghĩ gì về những ngày đầu tiên bị bắt của họ?
Bài thứ 9 của Trại Giam Cổng Trời mang
đến quý vị những hình ảnh cuối cùng của một trại giam đã đi vào
lịch sử. Đối với những người đã ở lâu trong trại giam Cổng Trời
thì ý tưởng trại giam này sẽ giải thể hay bị phá tan là một điều
hoàn toàn không tưởng. Ngoài vị trí quá cao không thể tấn công
hay phá hoại, trại Cổng Trời còn là nơi gần như bất khả xâm phạm
vì quanh năm mây mù che phủ, việc phòng bị rất chắc chắn khó thể
xâm nhập.
Điều
không tưởng đã xảy ra
Cái ngày nó bị xóa sổ đến rất bất ngờ
và những tù nhân trong trại chào đón tin này với một niềm hân
hoan tột độ. Người tù biết rằng mặc dù họ không được trả tự do
nhưng sẽ không phải tiếp tục sống trong cái địa ngục trần gian
này. Hy vọng đó đã làm cho hầu hết tù nhân thắp lại niềm tin sống
sót mà bao nhiêu năm qua đã tắt ngúm trong lòng họ.
Cái ngày đó là ngày 20 tháng 8 năm
1978. Lý do: Trung cộng đánh Việt Nam. Người tù Trần Nhật Kim nhớ
lại: “20 tháng 8 năm 1978 chúng tôi được di chuyển từ trại Cổng
Trời về trại Thanh Cẩm vì khi đó quân đội Việt Nam và Trung cộng
đang đánh ở các tỉnh miền Bắc rồi. Chúng tôi được di chuyển khỏi
trại Cổng Trời trước đó 1 tháng. Chúng tôi gồm 48 người miền Nam
và 70 anh em biệt kích. 30 người ở Cổng Trời và 40 người ở trại
Tuyên Quang dồn lên trên CổngTrời và sau đó chúng tôi đi cùng một
chuyến về trại Thanh Cẩm. Các anh em biệt kích về trại Lam Sơn
trong đó có anh Nguyễn Hữu Luyện. Sở dĩ tôi biết nó đánh tan trại
Cổng Trời là vì một nửa tù hình sự chạy thoát được còn một nửa
thì bị bắt lại mang xuống trại Thanh Cẩm. Tôi gặp những người này
kể lại tôi mới biết là trại Cổng Trời đã bị đánh tan và không còn
ai ở đó nữa.”
LM Nguyên Thanh kể lại ông và một số người khác rời trại trước
nhóm của ông Trần Nhật Kim 5 ngày, và cũng về Thanh Cẩm sau đó:
“Cho đến 15 tháng 8 năm 1978 thì chúng tôi, tất cả là 32 người
biệt kích và 38 tù nhân miền Nam được sơ tán về trại Thanh Cẩm
bởi vì Trung cộng lúc ấy sắp sửa đánh 6 tỉnh miền Bắc. Trước khi
được đưa về trại Thanh Cẩm Thanh Hóa thì chúng tôi đã bị bắt buộc
phải làm ngày làm đêm đào hào ở các vùng chân núi.”
Ngày 20 tháng 8 năm 1978,
chúng tôi
được di chuyển từ trại Cổng Trời về trại Thanh Cẩm vì khi đó quân
đội Việt Nam và Trung cộng đang đánh ở các tỉnh miền Bắc rồi.
[Ông Trần Nhật Kim]
Trung cộng đánh Việt Nam khiến trại
Cổng Trời đóng cửa là điều mừng cho người tù nhưng đối với những
tù nhân đã được thả trước đó thì chính biến cố này lại đem phiền
toái dồn dập đến với họ. Người tù Nguyễn Chí Thiện kể về trường
hợp của ông: “Khi Trung cộng đánh miền Bắc vào tháng 2 năm 79 thì
công an bắt đầu gọi tôi lên sở lên đồn liên tục, viết kiểm điểm
đe dọa bắt bớ đủ thứ. Đến nước này tôi thấy nguy cơ nếu mà nó bắt
lần nữa thì khó sống. Thế nên tôi quyết định phải gửi tất cả thơ
tôi làm được trong vòng 15 năm ra ngoại quốc. Tôi vào tòa đại sứ
Anh ngày 16 tháng 7 năm 1979 lúc 9 giờ sáng để gửi tập thơ ra
ngoài. Sự thực tôi làm thơ để mong gửi vào miền Nam cho dân chúng
biết chế độ miền Bắc để thêm tinh thần chiến đấu. Có ai làm thơ
để gửi ra ngoại quốc bao giờ?”
Bị bắt, bị bắt và bị bắt
Người cộng sản vốn đa nghi nên mỗi khi
có sự cố nào xảy ra thì những người tù lại được lôi ra chiếu cố
một cách cẩn thận. Cũng tương tự như nhà thơ Nguyễn Chí Thiện,
ông Kiều Duy Vĩnh, một đại úy thời Pháp ở lại miền Bắc vì hoàn
cảnh gia đình đã gần bỏ thây trong trại giam CổngTrời, mãi đến
khi trại này không còn thì ông mới được thả về nhà. Tưởng được
yên thân, nhưng khi Mỹ tấn công miền Bắc thì người được chiếu cố
đầu tiên vẫn là ông, một tù nhân bị xem là nguy hiểm, ông kể:
“Tôi được thả về Hà Nội đến năm 1972, khi Mỹ lại bỏ bom tại miền
Bắc thì tôi lại bị bắt! Bị bắt từ năm 1972 cho tới sau năm 1975
sau khi họ chiếm Sài Gòn thì năm 1976 tôi được về. Cả trước sau
tôi tù 15 năm.”
Khi được hỏi tại sao họ lại nghi nan
một cách vô lý như vậy, trong khi ông bị cách ly hoàn toàn với
bên ngoài thì đâu còn cơ hội nào để làm gián điệp cho dịch nữa?
Ông Vĩnh bức xúc: “Đấy! cộng sản họ hay vô cùng là ở chỗ ấy. Tôi
làm gì? Tay không một tấc sắt? Đi tù 10 năm về không còn một tí
gì kể cả kinh tế không còn gì hết. Tôi đi làm thợ mộc làm cu li
kiếm ăn. Tại sao lại thế nhỉ? Họ bảo, anh phải biết anh chứ! Anh
là cái ngòi nổ thì tôi cứ cất đi là yên tâm hơn cả.
Mới vừa gần đây, vào tháng 8, sở công
an Hà nội cử người hỏi thăm tôi, tôi bảo thẳng, ông bỏ trò lịch
sự khôi hài ấy đi. Tôi 80 tuổi còn làm được gì mà hỏi thăm sức
khỏe? [Ông Kiều Duy Vĩnh]
Cái ấy là cảnh giác cách mạng mà lỵ!
Tôi mới hỏi tội trạng gì? Tội phản cách mạng! Mãi năm 1976 chiếm
được Sài Gòn xong tôi mới sống yên ổn. Cho đến thế kỷ 21 này thì
tôi mới không bị gọi lên công an chứ còn lúc nào cũng bị gọi ra
sở để hỏi thăm sức khỏe.”
Ngay cả hồi gần đây, tức là năm 2010
khi đã gần 80 ông Kiều Duy Vĩnh vẫn không được buông tha, ông kể:
“Mới vừa gần đây, vào tháng 8, sở công an Hà nội cử người hỏi
thăm tôi, tôi bảo thẳng, ông bỏ trò lịch sự khôi hài ấy đi. Tôi
80 tuổi còn làm được gì mà hỏi thăm sức khỏe? Sự chuyên chính vô
sản đến cực độ. Một anh già 80 thở không ra hơi vẫn bị hỏi thăm
xem thế nào?”
Họ đã làm gì?
Thử lần về quá khứ xem những con người này mang tội gì mà đáng bị
đối xử như vậy? Trước tiên là ông Phùng Văn Tại, một giáo sư dạy
trong đại chủng viện hoàn toàn không có một hành động nào chống
phá cách mạng hay tuyên truyền gây nguy hiểm cho chế dộ. Tội của
ông là dạy cho chủng sinh theo tài liệu của Giáo Sư Dương Quảng
Hàm, ông kể: “Tôi dạy về giáo sử văn chương. Một trong những tội
là dám dùng tài liệu cũ là dùng bộ sách Việt Nam Văn Học Sử Yếu
của giáo sư Dương Quảng Hàm để dạy cho học sinh chủng sinh cho
nên đấy là một cái cớ. Thêm nữa là tôi ra một bài văn, con hãy
bình luận câu nói sau đây: Lao động là vinh quang theo quan điểm
giáo hội công giáo. Bài đó tôi cho học sinh 7 điểm và đó là cái
cớ. Trong những ý gạch đầu dòng trên bảng mà tôi cho học sinh làm
bài.”
Nhà thơ
Nguyễn Chí Thiện cũng không khác với ông Phùng Văn Tại là mấy,
ông dạy học sinh theo sự thật lịch sử mà cả thế giới biết, tuy
nhiên đối với người Cộng sản thì việc này là cố tình phản tuyên
truyền, nhà thơ kể: “Khi bị bắt, sự thực mà nói thì tôi không làm
gì cả. Hôm ấy một ông bạn ông ấy là giáo viên dạy sử. Ông ấy ốm
nhờ tôi dạy hộ một lớp bổ túc văn hóa mà lớp ấy ở trước nhà tôi ở
phố Ga Hải Phòng. Tôi cũng tình cờ vào dạy giúp ông ấy có hai
tiếng thôi. Tôi giảng về đại chiến thứ hai rằng sở dĩ Nhật đầu
hàng là do hai quả bom nguyên tử của Mỹ nó bỏ xuống Hiroshima và
Nagasaki. Thế nhưng bài giảng đó nó sai với sách giáo khoa. Sách
giáo khoa nói do Liên Xô đánh tan quân Nhật ở Mãn Châu thì Nhật
phải đầu hàng chứ không phải do Mỹ. Tôi chỉ giảng như thế thôi.
Mình cũng vô tình nhưng nó theo dõi mãi đến đầu năm 1961 nó bắt
tôi ra tòa với tội là phản tuyên truyền. Khi ra tòa thì tôi cũng
nói tôi giảng theo đúng lịch sử thôi. Lúc bấy giờ họ xử tôi hai
năm tù nhưng tôi phải ở 3 năm rưỡi.”
Dĩ nhiên trường hợp của ông Phùng Văn
Tại và Nguyễn Chí Thiện không thể đại diện cho tất cả, nhưng với
cách làm này chính quyền đã tạo ấn tượng không tốt cho các vụ bắt
bớ khác, nhất là trong những vụ án chính trị vì bất đồng chính
kiến.
Những
lời hứa
Năm
1975 sau khi kiểm soát toàn bộ miền Nam, sĩ quan chế độ Sài Gòn
được lệnh mang theo lương thực 10 ngày hoặc 30 ngày cùng các thứ
cần dùng để đi học tập. Lời hứa 30 ngày đó đã trở thành kỷ niệm
khó quên cho cả miền Nam khi không một người nào có cái may mắn
được Nhà nước giữ lời hứa. Thật ra, trước đó hơn 10 năm, ngay tại
miền Bắc lời hứa tương tự đã được áp dụng với nhiều tu sĩ công
giáo khi họ được lệnh đem theo quần áo cho mấy ngày đi học tập
thôi…. LM Chu Quang Tòng nhớ lại: “Họ gọi họ bảo mình đem quần áo
cho mấy ngày thôi. Trại giam lúc bấy giờ là Ty công an Hà Bắc tại
Bắc Giang. Ngày 11 tháng 7 năm 1964 thì họ gọi lên cho biết là đi
tàu suốt! Tức là lên trại giam Trung ương 2 Yên Bái, trại mà họ
giam thiếu tướng De Castries.”
Ông Đặng Chí Bình, một điệp viên bị
giam nhiều năm trong các nhà tù miền Bắc kể lại những lệnh tập
trung mà ông biết chế độ thường áp dụng: “Mỗi lệnh tập trung là 3
năm, anh tốt thì về nhưng thực tế cái cách quỷ quái của họ làm
thế nào mà biết tốt hay không tốt. Thường thường sau này tôi gặp
rất nhiều người, có người 7 lệnh, mỗi lệnh 3 năm nên ở tù 21 năm!
Rồi 5 lệnh, 4 lệnh chứ không có ai được về trong 3 năm cả.”
Một nhân chứng khác cho biết giá trị
lời hứa của các cán bộ trại giam như thế nào, tù binh Đỗ Lệnh
Dũng cho biết kinh nghiệm của ông còn cay đắng hơn, ông nói:
“Chúng tôi có gặp một số tù binh ngày xưa. Điều làm chúng tôi
sửng sốt nhất là có một vài anh viết đằng sau lưng áo bằng sơn.
Tôi nhớ kỹ ảnh viết 1962. Sau đó tiếp xúc tôi mới biết đó là
những anh em biệt kích bị bắt từ thời Ngô Đình Diệm khi các anh
ấy xâm nhập ra Bắc. Chúng tôi ở đó một thời gian rất ngắn, lại
tiếp tục chuyển tới một trại khác làm công tác chuẩn bị đón tiếp
anh em miền Nam ra. Xong công tác đó chúng tôi nghĩ sẽ được về
như cán bộ trại giam đã hứa nhưng thực tế mãi tới năm 1985 tôi
mới được thả, tức là tôi ở gần 11 năm. Thậm chí còn sau anh em
học tập cải tạo nữa. Đối với chính quyền miền Bắc tôi không có
một sự tin tưởng nào vào những lời hứa của họ.”
Đối với chính quyền miền Bắc tôi không
có một sự tin tưởng nào vào những lời hứa của họ.
[Ông Đỗ Lệnh Dũng]
Còn
không biết bao nhiêu người nữa là nạn nhân các lời hứa mây bay
này. Mặc dù đã nhiều chục năm trôi qua, những người tù chính trị
và gia đình họ vẫn còn ám ảnh bởi những gì mà các trại giam đã
gây ra. Họ không phải là tù binh nên công ước Geneve không thể
bảo vệ. Họ bị bắt và chịu đủ thứ hình phạt chỉ vì tư tưởng và
niềm tin tôn giáo khác biệt với chế độ.
Sau khi Liên bang Xô Viết sụp đổ, nhiều
nạn nhân trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù của Aleksandr I.
Soltzhenitsyn đã được phục hồi quyền công dân và xã hội buộc phải
nhìn họ với đôi mắt khác với thời cộng sản. Những con người đó
tuy mất mát tất cả sau bao nhiêu năm tù tội nhưng dù sao thì cuối
cùng họ vẫn được đối xử công bằng hơn những nạn nhân Việt Nam,
những con người tội nghiệp vẫn sống trong âm thầm không ai biết
đến sau nhiều năm đất nước hoàn toàn thống nhất. Trong lòng những
nạn nhân này nghĩ gì và nếu được công khai trước dư luận thì họ
sẽ nói gì?
Câu
hỏi này sẽ được giải đáp trong
bài thứ 10, cũng là bài cuối cùng
trong loạt bài Trại Giam Cổng Trời.
Bài
10
Bài
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8,
9, 10,
Mục Lục
Trại
giam Cổng Trời tại Hà Giang có thể so sánh với bất cứ trại giam
khắc nghiệt nào trên thế giới đã được nhiều nhân chứng kể lại qua
9 bài liên tiếp mà quý vị đã nghe qua.
Bài này tổng hợp tất cả ý kiến của
những người trực tiếp liên quan đến trại giam Cổng Trời, hầu tìm
ra câu trả lời thỏa đáng cho các nạn nhân mà tâm trí họ chưa bao
giờ nguôi nỗi ám ảnh bao nhiêu năm qua.
Vết thương
không thể lành
Đã bao nhiêu năm trôi qua rồi nhưng vết
thương của những người còn sống từ trại giam Cổng Trời trở về vẫn
không hề lành lại được. Họ chiêm bao hàng đêm về cuộc sống quá
lâu và quá tàn bạo trong trại giam mang tên Cổng Trời. Các loại
gông cùm kinh khủng nhất đã được mang ra hành hạ họ.
Những cái
chết câm nín được chôn sau đồi Bà Then làm sao người tù có thể
quên khi chính họ là người đào những nhát cuốc đầu tiên chôn
những bạn tù bất hạnh?
Những con người hiền hòa như các vị
linh mục, tu sĩ, giáo dân chưa bao giờ có ý tưởng chống lại Nhà
nước cách mạng trong buổi bình minh của chủ nghĩa xã hội trên
khắp đất nước Việt Nam. Họ là nạn nhân của một ý thức hệ, một
chính sách cai trị chuyên chính, và một tư tưởng duy ý chí đến
cuồng tín. Những nạn nhân mà các bức tường của trại giam Cổng
Trời bao vây nhiều chục năm cho đến ngày nay vẫn đêm đêm mơ thấy
gông cùm và trái tim họ vẫn luôn nhói đau bởi hậu quả của nhiều
lần xiềng xích.
Hai nhà tù, hai cách ứng xử
Người tù Liên bang Xô Viết trong các
trại giam Gulag đã trở về đời sống bình thường
nhưng người tù
Việt Nam vẫn chưa thoát ra được cái bóng đen quá khứ. Sổ hộ khẩu
của họ tuy không đóng dấu sự khác biệt nhưng trong cuốn sổ thành
kiến của từng cán bộ địa phương thì họ và gia đình vĩnh viễn
không bao giờ được trắng án.
Những người bị giam giữ vì chiến đấu
trực diện với quân đội miền Bắc tuy thua trận, bị tù đày nhưng họ
đáng được đối xử với quy chế tù binh. Trong ý nghĩa nào đó họ có
quyền được kính trọng sau khi trở về gia đình. Những chiếc thang
xã hội không thể đạp họ và gia đình họ ra khỏi các nấc tiến thân
và nhất là bản án nào cũng phải có ngày chấm dứt kể cả bản án tử
hình.
Kéo dài
thời gian giam giữ những người tù chính trị này là một cách trả
thù không lương thiện. Sau bao nhiêu năm, những tưởng thời gian
đã đủ chín muồi để những bản án này có thể được đem ra công khai
để trả lại những gì mà các thế lực cuồng tín đã vượt qua cả lương
tâm dân tộc để hành hạ những nạn nhân này trong quá khứ.
Qua những sự chịu đựng gian khổ ấy
chúng tôi có cảm tưởng một cách thực tế là Giáo hội miền Bắc lớn
mạnh lên bằng những đau khổ và sự bắt bớ. [LM Chu Quang Tòng]
Đối với những người công giáo bị bắt,
bị giam cầm tra tấn đến chết, nói theo người công giáo thì họ đã
được Chúa trả công, còn những người may mắn sống sót thì sao? Ai
sẽ trả công cho họ, và liệu họ có xứng đáng hưởng quyền tự do tín
ngưỡng như bao văn bản mà Nhà nước đã không ngớt tuyên truyền cổ
động hay không?
Lý tưởng truyền giáo, làm sao tiêu
diệt?
Bởi lý tưởng
tự do truyền đạo, khi được thả ra điều mà người linh mục quan tâm
nhất vẫn là đàn chiên của mình. LM Nguyễn Hữu Lễ kể lại ngày ông
ra trại đã chứng kiến những hình ảnh nhiều làng mạc công giáo của
miền Bắc ngày xưa bây giờ ảm đạm và hoang phế chứng tỏ rằng sự sa
sút của giáo hội công giáo trong nhiều họ đạo. Tuy nhiên khi nhìn
lại kết quả giữ đạo của giáo dân, LM Lễ nhận ra rằng cơ sở tôn
giáo dù có bị xuống cấp do bị cấm đoán nhưng lòng sùng đạo của họ
không hề suy giảm và điều này chứng tỏ chính sách tiêu diệt công
giáo đã thất bại, LM Lễ nói: “Sau khi tôi ra khỏi tù tôi ở lại
miền Bắc thăm viếng nhiều nơi trong các giáo phận thì thấy nhiều
nhà thờ bị phá tan hoang. Các chủng viện ngày xưa bây giờ chỉ còn
cái nóc không thôi. Những nhà dạy giáo lý hồi xưa bây giờ trở
thành hợp tác xã. Có chỗ thì nhốt bò, nhốt trâu có chỗ chứa lúa
thóc. Nói chung các cơ sở tôn giáo người ta đã cố gắng triệt phá.
Nhưng điều tôi thấy rất rõ trong khi người ta cố gắng triệt hạ
những cơ sở tôn giáo ấy thì niềm tin của người công giáo lại càng
mạnh hơn.”
Khi
bị bắt là một chủng sinh, lúc được thả ra thì LM Chu Quang Tòng
ngay lập tức tìm mọi cách để tiếp tục con đường tu hành, ông nhận
xét cộng đồng công giáo trong những năm sau này: “Tôi có thể
khẳng định giáo hội miền Bắc lúc bấy giờ sau khi bị bách hại tinh
thần lại càng cao. Cái hướng của linh mục và anh em tu sĩ bị bắt
được người ta đánh giá là niềm hy vọng về người công giáo. Người
ta vui mừng lắm. Chúng tôi cũng khẳng định là hầu hết anh em
chúng tôi đã đi tù. Anh em nào chưa chịu chức thì khi ra tù cũng
chịu chức. Qua những sự chịu đựng gian khổ ấy chúng tôi có cảm
tưởng một cách thực tế là Giáo hội miền Bắc lớn mạnh lên bằng
những đau khổ và sự bắt bớ. Đây là niềm tin mà thật sự ra khi kể
chuyện thì Nguyễn Chí Thiện, Vũ Thư Hiên... những người này chúng
tôi đã ở chung với nhau cả rồi. Chúng ta phải khẳng định những
bài thơ của Nguyễn Chí Thiện hay truyện ‘Đêm giữa ban ngày’ của
Vũ Thư Hiên đều trăm phần trăm đúng cả.”
Đàn áp hay không?
Niềm tin mà người công giáo miền Bắc
theo đuổi hàng trăm năm nay vẫn cứng cáp trước các thế lực muốn
tiêu diệt nó. Những hoạt động tôn giáo nói chung hồi gần đây cho
thấy sức sống của nhiều tín ngưỡng vẫn tiềm tàng trong lòng người
dân, không thế lực nào có khả năng xoay chiều đời sống tâm linh
bằng cách bách hại hay đàn áp.
LM Nguyễn Hữu Lễ nhận xét về điều này
như sau: “Tôi phải khẳng định nếu ai nói rằng chế độ cộng sản đàn
áp tôn giáo thì câu đó chưa đúng. Họ chỉ đàn áp những tôn giáo
nào phản kháng lại họ mà thôi. Còn những người trong tôn giáo nào
hợp tác, đồng ý hoặc im lặng trước những sự bất công, tội ác của
họ thì chẳng những họ không đàn áp, mà họ lại còn cho nhiều ân
huệ hơn nữa”.
Hà Nội chưa bao giờ từ bỏ ý tưởng khống chế tôn giáo bằng bất cứ
phương tiện nào có thể. Vô thần và hữu thần chính là lò thuốc
súng sẵn sàng bốc cháy bất cứ lúc nào nếu một trong hai phía mất
kềm chế. Nếu không tiêu diệt được tôn giáo thì người cộng sản sẽ
tìm cách vô hiệu hóa nó.
Giành quyền duyệt xét phong chức là một
ví dụ. Đối với hội thánh công giáo, mọi việc phong chức và bổ
nhiệm đều phải qua Vatican duyệt xét thì mới được giáo hội thừa
nhận. Việt Nam đã làm ngược lại và hội thánh từ nhiều chục năm
nay vẫn buộc lòng phải chấp nhận, đó là:
Ủy ban Tôn Giáo Nhà nước
duyệt xét trước khi Vatican phong chức hay bổ nhiệm một vị trí
nào đó trong giáo hội Việt Nam.
Đối với những trình tự ngược này không
phải ai cũng nhận ra mục đích vô hiệu hóa của nhà nước đối với
giáo hội, nhưng trong vai trò và hoàn cảnh như từ xưa đến nay,
Vatican không thể làm gì hơn là thỏa hiệp trong một chừng mực có
thể để hội thánh Việt Nam tiếp tục hoạt động.
Họ cần câu trả lời
Còn những nạn nhân của các vụ giết hại,
đàn áp thì sao? Chưa từng có người nào đứng ra đòi công lý khi
chính họ hoặc thân nhân của họ bị cầm giữ trong các trại tù mà
không qua xét xử. Nhà nước dửng dưng như không phải chính mình ra
lệnh đàn áp và vì vậy chưa có bất cứ một động thái nào có thể nói
là làm dịu bớt nỗi đau của những nạn nhân này.
Người dân luôn luôn có nhu cầu được
lắng nghe và nếu chính quyền muốn giải tỏa những trở ngại giữa
hai phía để đất nước có thể sống chung hòa thuận thì không lý gì
người dân lại từ chối. Bởi đây là một phần thưởng cho họ,
với
điều kiện duy nhất là phía đối diện phải thật tâm. Tất cả các vấn
đề còn lại đều có thể chia sẻ. Một sự đền bù nào đó bù đắp cho
những lầm than khốn khổ mà gia đình nạn nhân phải chịu đựng trong
bao năm chăng?
Đối với gia đình ông Lưu Đức Tâm, một
gia đình nạn nhân Cổng Trời từ những
ngày đầu thì họ chỉ mong
được yên thân đừng bị chính quyền nghi hoặc hay đố kỵ đã là hạnh
phúc cho họ. Tất cả mọi chuyện hầu như còn nằm trên bàn thờ của
cụ thân sinh nhưng một lời xin lỗi, thậm chí an ủi từ chính quyền
xem ra còn quá xa vời, ông Tâm cho biết: “Nhà nước thì người ta
bảo người ta đúng. Dựa trên cơ sở nào, pháp lý nào mà mình có thể
làm được? Về phía người sống gia đình thấy vô vọng trong vấn đề
này cho nên lực bất tòng tâm, cũng rán chịu thế thôi chứ chẳng
biết làm gì cả. Còn nói để xin được hay làm được một cái gì đấy
thì thực tế mình chưa bao giờ nghĩ tới bởi vì nó vượt quá tầm tay
của mình.”
Đối
với LM Nguyễn Hữu Lễ thì lời xin lỗi khan không đem lại được gì
cho nạn nhân và ông không tin vào sự thành thật của giới chức cầm
quyền: “Thứ nhất nếu nói về một lời xin lỗi, xin lỗi khan thì rất
dễ vì lời xin lỗi đó nó được thực hiện đến mức độ nào hay chỉ xin
lỗi để trôi qua cái gân gà đang mắc trong cổ, không có giá trị gì
cả. Điều thứ hai giả sử chọn điều cho được tự do hành đạo thì tôi
xin thưa thế này. Cái bản chất của chế độ đối với các tôn giáo tự
nó đã nghịch với nhau. Chế độ chủ trương vô thần, còn các tôn
giáo chủ trương hữu thần, tự bản chất của sự vô thần hữu thần đã
không ngồi được với nhau. Có ngồi với nhau chăng là một cuộc hôn
nhân gượng ép để cho người ngoài thấy rằng cái cặp này có thể
sống chung một mái nhà với nhau nhưng không thể nào nói rằng đây
là một cuộc hôn nhân hạnh phúc được.”
Cuộc hôn nhân mà LM Nguyễn Hữu Lễ gọi
là gượng ép này dù sao cũng đã tồn tại trong nhiều chục năm qua.
Lúc chua lúc đắng. Lúc máu chảy lúc lành lặn kéo da, thì tại sao
không giữ lại và tìm giải pháp sống cùng như sống chung với lũ?
Trong khi chuẩn bị cho bài viết này
chúng tôi đã phỏng vấn rất nhiều người, nói chuyện với những nạn
nhân và gia đình họ trong và ngoài nước. Đã sử dụng hàng trăm
trang tài liệu chỉ với mục đích duy nhất là trả lại sự thật cho
một giai đoạn lịch sử. Giai đoạn mà người cộng sản Việt nam bị
trượt theo đà tiến của cơn lốc cách mạng Xô Viết đến từ nước Nga
xa xôi. Cơn lốc này phá vỡ mọi tường lũy nhân bản của dân tộc để
chiến thắng cho bằng được kẻ thù xâm lược và, tiếc thay sau đó
lại trở thành kẻ thù của một số nạn nhân bị chính sách chuyên
chính làm cho mù quáng.
Mặc Lâm
Nguồn:
https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/the–heaven–gate–prison–part–1–mlam–12242010115316.html
Bấm vào đây để in ra giấy (Print)
Nghe đọc
Trại Giam Cổng Trời
– 1
Trại Giam Cổng Trời – 2
Trại Giam Cổng Trời – 3
Trại Giam Cổng Trời – 4
Trại Giam Cổng Trời – 5
Trại Giam Cổng Trời – 6
Trại Giam Cổng Trời – 7
Trại Giam Cổng Trời – 8
Trại Giam Cổng Trời – 9
Trại Giam Cổng Trời – 10
Phụ Lục: Hình ảnh Hà Giang–VN
&
Đường lên TRẠI GIAM CỔNG TRỜI
Vị trí địa dư của tỉnh Hà
Giang
trên bản đồ thế giới
Vị trí Trại Giam CỔNG TRỜI trên Bản đồ VN
Lời mở đầu:
Trại Giam CỔNG TRỜI
nằm trong địa phận tỉnh Hà
Giang, kính mời quý vị theo dõi một số hình ảnh về thị xã Hà Giang,
và đường đi đến Trại giam CỔNG TRỜI từ Hà Giang.
Đa số quý vị
đang viếng trang hình ảnh này hẳn đã đọc xong tập tài liệu 10 chương
của Mặc Lâm, phóng viên Đài Tự Do Á Châu (Radio Free Asia – RFA) về
Trại giam CỔNG TRỜI bên trên. Phần phụ lục hình ảnh này sẽ giới
thiệu độc giả đến vùng cực bắc của nước Việt Nam, nơi có Trại giam
CỔNG TRỜI.
Trại giam CỔNG TRỜI là một ĐỊA NGỤC của trần thế
theo lời kể của các nhân
chứng đã bị CSBV giam giữ tại đây còn sống
sót trở về. Thật vậy, ta không thể không thán phục thị xã Hà Giang
tuyệt đẹp với núi non hùng vĩ và thật quyến rũ vô cùng. Nhưng song
song với cái đẹp thiên nhiên đó, nó cũng mang một “vết nhơ” ngàn thu
không sao gột rửa sạch được.
Vết nhơ này là
Trại giam CỔNG TRỜI, còn
có tên là Trại Quyết Tiến, nơi chế độ Cộng sản Việt Nam do ông
Hồ
Chí Minh lãnh đạo đã xây dựng nhà tù này để giam giữ, hành hạ, và
giết chết bao nhiêu con dân Việt Nam vô tội. Nơi đây đã thi hành
cuộc bách hại đạo (Công
Giáo) nổi tiếng trên thế giới kể từ ngày
cộng sản cướp chính quyền. Những kẻ hy sinh suốt cuộc đời họ để phục
vụ cho tha nhân như các tu sĩ Công Giáo, v.v. đều bị người Cộng sản
vô thần hành hạ thật dã man đến chết ở nơi trại giam này. Thật không
thể tưởng tượng được trong thời đại văn minh này còn có những con
người sẵn sàng phát minh ra những phương pháp vô cùng độc ác để
chống lại loài người!
Nói về tội ác của
đảng Cộng sản Quốc tế
nói chung, và của đảng
Cộng sản Việt Nam nói
riêng thì không bao giờ hết được. Để hiểu thêm về tội ác của
CNCS, những trang điện tử sau đây hiện đang tàng trữ rất nhiều
tài liệu nói về những “TỘI ÁC TÀY
ĐÌNH CHỐNG LẠI CON NGƯỜI” của CNCS:
1.
Những Nạn nhân của các
chế độ Cộng sản khắp năm châu
2.
Bảo tàng viện Toàn Cầu về Tội Ác
của chủ nghĩa Cộng sản
PHẦN 1: phần này chỉ dành riêng cho
những quý vị nào muốn đi thăm cho biết TGCT như thế nào. Đường đi
đến Trại giam CỔNG TRỜI (TGCT) bắt đầu từ bến xe đò Hà Nội, Việt Nam
như sau:
1. Bạn mua vé xe đò đi lên thị xã Hà Giang tại một
trong những bến xe đò sau đây ở thành phố Hà Nội: Gia Lâm, Mỹ Đình,
Hà Đông, Giáp Bát, hay Lương Yên. Chuyến xe đò đầu tiên khởi hành từ
Hà Nội đi Hà Giang là khoảng 3:00g sáng, và chuyến cuối cùng sẽ rời
Hà Nội khoảng 5:30g sáng. Giá mỗi vé khoảng 60,000đ đến 80,000đ.
Kinh nghiệm cho biết bạn nên đi chuyến đầu tiên 3:00g sáng thì tới
thị xã Hà Giang khoảng 13:00g chiều. Từ Hà Nội lên Hà Giang mất
khoảng 318km, tương đương với 198 miles.
2. Từ bến xe Hà
Giang, lấy vé xe đò (nếu có) hay đi bằng xe gắn máy (motocycle) lên
huyện Quản Bạ. Từ Hà Giang lên Quản Bạ mất khoảng 40km, tương đương
với 25 miles. Chú ý: 25 miles đối với xa lộ ở đất Mỹ thì mất khoảng
trên dưới 20 phút lái xe hơi (ô–tô), nhưng đây là một huyện ở VN,
đèo heo hút gió, một vùng quê hẻo lánh (remote) với núi non trùng
điệp, đường sá nhiều nơi không tốt, lại toàn là đường đèo (pass),
bạn nên tính toán kỹ trước giờ khởi hành.
3. Đến Quản Bạ thì
hỏi thăm về con đường lên Trại Giam CỔNG TRỜI hay Trại Quyết Tiến.
4. Tài liệu hướng dẫn đường đi từ Hà Nội lên Hà Giang, VN được
tham khảo ở
trang điện tử này.
Hoặc
cách đi mới nhất ở URL Link này.
PHẦN 2:
Sơ lược về Thị xã Hà
Giang.
Hà Giang là một tỉnh lỵ tọa lạc trên lãnh thổ miền bắc
nước Việt Nam. Nằm phía Đông Bắc. Diện tích 7,884.3km² (3,044
mile²). Hà Giang gồm 1 thành phố & 9 huyện. Mật độ: 92
người/km²(0.39mile²): Nông thôn: 640.199%; Thành thị: 84.338%. Dân
số 724,537 người, gồm các chủng tộc: Dao, Mông, Nùng, Tày, và
Việt.... (Chú ý: Mông chiếm 32% tổng dân số toàn tỉnh, Tày 23.3%,
Dao 15.1%, Việt 13.3%, và Nùng 9.9%).
Số điện thoại vùng
(area code): 219
Số bưu chính (Zip/Postal code): 29
Số đăng bộ
xe: 23
ISO 3166–2 VN–03
Website:
Hà Giang
ĐỊA LÝ HÀ GIANG: Hà Giang nằm ở cực Bắc của Việt Nam, tỉnh này
có đường biên giới chung với nước Tầu qua trạm Thuế quan biên giới
(còn gọi là Cửa khẩu) mang tên Thanh Thủy. Ngoài ra Hà Giang còn có
nhiều ngọn núi đá cao, sông, và suối đan vào nhau chằng chịt. Chú ý:
Hà Giang là đầu nguồn của Sông Lô, Sông Lô nhận nước từ sông Vân Nam
bên Tầu chảy xuống. Địa thế của tỉnh Hà Giang rất hiểm trở, được
chia thành 3 vùng:
1.
Vùng cao nguyên phía cực bắc gồm núi đá
có triền dốc rất cao, thung lũng và sông suối bị chia cắt nhiều, khí
hậu ôn hòa với 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.
2.
Vùng cao
nguyên phía tây gồm núi đất thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy.
Nơi đây sườn núi rất dốc, đèo cao, thung lũng và lòng suối hẹp.
3. Vùng thấp trong tỉnh gồm vùng đồi núi, thung lũng Sông Lô, và
Thành phố Hà Giang.
Phong cảnh: Hà Giang có nhiều núi non
hùng vĩ. Hai ngọn núi cao nhất là đỉnh Tây Côn Lĩnh cao 2,419m
(7,936ft) và ngọn Kiều Liêu Ti cao 2,402m (7,881ft).
Thực
vật: Hà Giang có nhiều khu rừng nguyên sinh, nhiều gỗ quý, và có tới
1,000 loại cây dược thảo.
Động vật: Hà Giang có Hổ
[Cọp], chim Công, chim Trĩ, Tê tê, và nhiều loại chim muông cầm thú
khác.
Hành chánh: Tỉnh Hà Giang gồm 1 thành phố và 10 huyện.
Ban Kỹ Thuật chỉ ghi chép lại Huyện Đồng Văn vì huyện này có xã Lũng
Cú là địa điểm cực bắc của VN, và huyện Quản Bạ vì huyện này có
“Trại Giam CỔNG TRỜI” hay còn gọi là Trại Quyết Tiến, nơi giam giữ
nhiều tù nhân tôn giáo và chính trị, cùng những tù nhân hình sự.
Thành phố Hà Giang có Phường Minh Khai, Nguyễn Trãi, Quang
Trung, Trần Phú, và phường Ngọc Hà. Có các xã Phương Thiện, Ngọc
Đường, và xã Phương Độ.
Huyện Đồng Văn có các thị trấn Đồng
Văn và Phó Bảng. Các xã Hố Quáng Phìn, Lũng Cú, Lũng Phìn, Lũng Táo,
Lũng Thầu, Má Lé, Phố Cáo, Phố Là, Sảng Tủng, Sính Lủng, Sủng Là,
Sủng Trái, Tả Lủng, Tả Phìn, Thài Phìn Tủng, Vần Chải, và xã Xà
Phìn.
Huyện Quản Bạ có thị trấn Tam Sơn. Các xã Bát Đại Sơn,
Cán Tỷ, Cao Mã Pờ, Đông Hà, Lùng Tám, Nghĩa Thuận, Quản Bạ, xã Quyết
Tiến (xã này có Trại giam Cổng Trời), Tả Ván, Thái An, Thanh Vân, và
xã Tùng Vài.
Lịch sử: Đất Hà Giang xưa thuộc bộ Tân Hưng, một
trong 15 bộ của nước Văn Lang. Về sau, Hà Giang nằm trong phạm vi
thế lực của ba Tộc tướng xứ Thái. Trong giai đoạn nhà Minh thuộc đầu
thế kỷ 15, được gọi là huyện Bình Nguyên, đổi thành châu Bình Nguyên
từ năm 1473, sau lại đổi tên thành châu Vị Xuyên. Vào cuối thế kỷ
17, tộc trưởng người Thái dâng đất cho Tầu, đến năm 1728, Tầu trả
lại cho Đại Việt một phần đất từ vùng mỏ Tụ Long đến Sông Lô. Năm
1895, ranh giới Hà Giang được ấn định lại như trên bản đồ ngày nay.
Trước năm 1975, Hà Giang có các huyện Đồng Văn, Vị Xuyên, Xín
Mần, Yên Minh, Hoàng Su Phì, Bắc Quang, Thanh Thủy, và huyện Quản
Bạ.
Thắng
cảnh và Di tích
Hoang sơ cao nguyên
đá Đồng Văn
(Núi đá Mèo Vạc, Đèo Mã Pì Lèng, nối Mèo Vạc với Đồng
Văn)
Hang Phương Thiện: cách thành phố Hà Giang 7 cây
số/km (4.38 dặm/miles) xuôi về phía nam. Đây là nơi có nhiều phong
cảnh, nhiều hang động thiên nhiên. Các loại quả đặc sản như mận, lê,
cam, táo, và các loại chè tuyết san cổ thụ mọc trên độ cao 900m
(2,953ft).
Hang Chui: cách thành phố Hà Giang 7km về
phía nam. Hang ăn sâu vào lòng núi khoảng 100m (328ft). Cửa hang hẹp
phải lách người mới qua được. Vào trong lòng hang mở rộng, vòm hang
cao vút, nhiều thạch nhũ rũ xuống tạo nên đủ mọi hình thù. Đặc biệt
hang có nhiều dơi, có dòng suối dâng cao đổ xuống thành thác.
Động Tiên và Suối Tiên: Động cách thành phố Hà Giang 2km
(1.24 dặm). Động có Suối Tiên rất đẹp. Tương truyền rằng các Tiên nữ
vẫn thường xuống động này để tắm vào dịp Tết nên được đặt tên là
Động Tiên. Nhân dân quanh vùng vẫn thường đến Động Tiên lấy nước và
cầu may mắn vào lúc giao thừa.
Động Én: Động cách
thành phố Hà Giang 60km (37 dặm) thuộc địa phận huyện Yên Minh. Từ
thành phố Hà Giang qua Cổng trời Quản Bạ, qua những cánh rừng thông
sẽ tới động Én. Hang động còn mang nhiều nét hoang sơ nhưng đẹp.
Đồng Văn – “Cổng Trời”: Là một huyện nằm trong vùng cao
nguyên (1) biên giới của Hà Giang. Độ cao vùng này khoảng 1,000m
(3,281ft) so với mặt biển, địa hình gồm rất nhiều núi đá. Huyện lỵ
cách thành phố Hà Giang 146km (91dặm), giao thông rất khó khăn. Chín
trong 19 xã thuộc huyện Đồng Văn có đường biên giới với nước Tầu.
Mùa đông lạnh nhất là 1°C, mùa hè không cao hơn 24°C. Bầu trời quanh
năm mây mù và mưa nên ở đây người dân có câu: “Thấy nhau trong tầm
mắt, Gặp nhau mất nửa ngày” và “Đất không ba bước bằng, Trời không
ba ngày nắng”.
Xã
Lũng Cú của huyện Đồng Văn là điểm cực bắc
của Việt Nam. Người ta nói rằng nếu chưa lên Lũng Cú thì coi như
chưa đến Đồng Văn, vì Lũng Cú là “nóc nhà của Việt Nam” nơi mà “Cúi
mặt sát đất, Ngẩng mặt đụng trời”.
Đồng Văn nổi tiếng về trái
ngon quả ngọt như đào, mận, lê, táo, hồng, v.v. Về dược thảo có tam
thất, thục địa, hồi, quế, v.v. Đồng Văn còn nổi tiếng về phong cảnh
như núi non, hang động, rừng rú với hoa muôn sắc...
Thung lũng Quản Bạ
Thị trấn Tam Sơn nhìn từ trên
đèo Quản Bạ
Huyện Đồng Văn là một trong nhiều huyện
bị thiệt hại nặng trong 2 cuộc chiến tranh biên giới giữa Việt Nam
và Trung cộng.
Núi Đôi
(hai quả núi nằm song song như “cặp vú”): ở
thị trấn Tam Sơn, xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ có 2 ngọn núi thấp,
chúng có hình dáng giống như chiếc nón lá bài thơ của thiếu nữ VN
thường hay đội, 2 con đồi này nằm kề bên nhau và xít soát bằng
nhau... Nếu đứng từ trên cao nhìn xuống 2 con đồi này thì chúng nó
giống như bộ vú của người phụ nữ, rất đẹp, rất quý phái, và thật mê
ly hấp dẫn! Ta phải khen Thượng Đế
[Thiên Nhiên] đã rất khéo tay nắn
bóp 2 ngọn núi này nên hình tượng bộ ngực tuyệt đẹp của một Mỹ nhân
VN. Đó là về cái nhìn rất trần thế!
...Và cũng một
cái nhìn khác, nghệ thuật và khoa học hơn thì: “Núi Đôi cách thành
phố Hà Giang 46km (29 dặm) về phía Bắc. Khi vượt qua Cổng Trời Quản
Bạ, du khách có dịp dừng chân chiêm ngưỡng Núi Đôi Quản Bạ, với ‘đôi
gò bồng đào’ do thiên tạo thật cân đối, quyến rũ. Đây thực sự là một
thắng cảnh Karst độc đáo của thị trấn Tam Sơn, huyện Quản Bạ, và của
cả khu vực cao nguyên đá Đồng Văn, Mèo Vạc. Cũng bắt đầu từ đây là
cánh đồng Quản Bạ thấp, phẳng, vì thế càng tạo không gian rất thoáng
cho ‘đôi gò’ nhô cao, bay bổng. Theo đánh giá của các nhà khoa học
địa chất thì Núi Đôi được cấu tạo bằng đá đô–lô–mít. Do quá trình
phong hóa, đá lăn đồng đều theo sườn núi làm lùi dần sườn và hạ thấp
dần đỉnh núi. Cuối cùng tạo nên hình nón như hiện nay. Đá đô–lô–mít
bị phong hóa (do quá trình tự vỡ) thành các hạt sạn và cát rất dễ
dàng di chuyển theo sườn xuống dưới chân do trọng lực và nước chảy
tràn trong mùa mưa. Đặc biệt còn đóng vai trò [quan] trọng trong
việc hình thành hình nón của Núi Đôi nói riêng và của các ngọn núi
có hình chóp nón nói chung là có sự đan xen của các đứt gãy, hướng
khác nhau làm đá bị phá hủy dễ dàng hơn. Núi Đôi thuộc kỷ Đệ Tứ – có
niên đại cách ngày nay khoảng 1.6 triệu đến 2 triệu năm trở lại đây.
Ngoài Núi Đôi ra còn có một mực cao hơn gồm các đồi dạng nón được
hình thành theo con đường tương tự nhưng ở giai đoạn cổ hơn, thể
hiện rõ nhất là ba ngọn núi đang tồn tại ở khu vực thị trấn Tam Sơn
hiện nay. Danh thắng Núi Đôi Quản Bạ xếp hạng quốc gia ngày
16/11/2009.”
Núi Đôi trong sương mờ ảo
... dưới bầu trời
quang đãng
Núi Đôi nhìn từ xa xa
Nói tóm lại, thành phố Hà Giang là một thành phố đẹp nằm
trong một thung lũng, bốn bên là núi, có dòng sông Lô chảy qua thành
phố. Thành phố Hà Giang là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của
tỉnh. Thành phố có khu di chỉ khảo cổ học Đồi Thông nằm ngay trong
lòng thành phố, nơi đây đã tìm thấy hàng ngàn di vật từ thời tiền sử
và được xác định là một trong những vùng văn hóa sớm nhất của Việt
Nam.
Các bạn có thể bấm vào các link sau đây để
biết thêm chi tiết về tỉnh Hà Giang:
Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_Giang
Sông Lô
PHẦN 3:
Hình ảnh Trại Giam CỔNG TRỜI, thị xã Hà Giang, và các vùng phụ cận
do Ban Kỹ Thuật sưu tầm. Đa số hình ảnh được BKT ủi về đây từ Hệ
thống Map Google.
Bản đồ Bắc phần, Việt Nam, nơi
có tỉnh Hà Giang
(đinh cắm trên bản đồ mang mẫu tự “A”)
Quốc lộ số 2 – Hà Giang
Đường Nguyễn Trãi
– Downtown Hà Giang
Ruộng lúa Tam cấp – Hà Giang
Ngoại ô – Hà Giang
Đầu nguồn Sông
Lô – Hà Giang
Trạm Thuế quan (còn gọi là Cửa
khẩu) Thanh Thủy,
biên giới Việt–Trung – Hà Giang
Minh Tân, Đồng Văn – Hà Giang
Trường Trung
Học Minh Tân – Hà Giang
Nhà giữ trẻ Minh Tân,
Đồng Văn – Hà Giang
Quang cảnh xã Minh Tân, Đồng
Văn – Hà Giang
Đường lên Huyện Quản Bạ – Hà Giang
Một đoạn đường “đèo” lên Huyện Quản Bạ – Hà Giang
Địa thế Huyện Quản Bạ – Hà Giang
Vùng rừng núi phía bắc Hà Giang
Núi Đôi trong sương mù – Hà Giang
Núi Đôi
vào mùa khô – Hà Giang
Quang cảnh Xã Quyết Tiến,
Quản Bạ – Hà Giang
Chợ Quyết Tiến, Quản Bạ – Hà
Giang
Đài quan sát huyện Quản Bạ – Hà Giang
Lối vào Cổng Trời
Địa thế vùng lên
Trại giam CỔNG TRỜI
Trại giam CỔNG TRỜI (còn gọi là
Trại Quyết Tiến)
Địa chỉ:
C65 HE công trường 75A Hà Nội
Cổng vào Trại Giam Quyết Tiến hôm nay
PHẦN 4:
Hình ảnh vùng phụ cận Hà
Giang.
Khúc Sông
Lô chảy ngang Phú Thọ
Khúc Sông Lô chảy ngang Tuyên
Quang
Khúc Sông Lô chảy ngang cầu Việt Trì – Phú Thọ
Bến đò Việt Trì – Phú Thọ
Bến đò Tuyên Quang – 1
Bến đò Tuyên Quang – 2
Bến đò Tuyên Quang – 3
Bến đò Tuyên Quang – 4
Doanh trại lính Pháp tại Bến đò Tuyên Quang
Sông Lô qua Hà Giang – Cầu Yên Biên
Cảnh mùa mưa
Dinh Vua Mèo
CANH TÁC NÔNG NGHIỆP Ở VÙNG
CAO NGUYÊN NÚI NON HIỂM TRỞ
Ruộng Tam cấp – Cao
nguyên Sapa
Ruộng Tam cấp – Cao nguyên
Sapa – Lào
Cay
Ruộng Tam cấp – Cao nguyên Sapa
Ruộng Tam cấp – Cao nguyên Đắc Lắc
Bản đồ Tỉnh Hà Giang–Việt Nam
(với nền là một khu rừng thông & núi đôi)
HẾT
Trang
Bài Viết
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by bkt sưu tầm & MĐ Anthony Huynh chuyển Video
Đăng ngày Thứ Ba (LHCCS/HTĐ&PC),
January 4, 2011
Cập nhật ngày Thứ
Bảy, October 1, 2022 – Thêm âm thanh/Audio
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang