Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bình
Luận
Chủ đề:
Chiến tranh Việt–Mỹ
Tác giả:
Dương Thu Hương
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu: Dương Thu Hương đã giải thích thật chính xác về các
“Việt kiều yêu nước” trong bài này. Người đọc sẽ hiểu tại sao
Thích Nhất Hạnh có thể gặp Martin Luther King khi sang Mỹ, và tại
sao rất nhiều du học sinh thời đó theo phong trào chống chiến
tranh. Cái nhìn thiên tả về chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp diễn
với nhiều trí thức Việt kiều trẻ hơn cho đến tận hôm nay, với
cùng lý do sâu xa như vậy. Dương Thu Hương là một trong vài ngòi
bút can đảm và sắc sảo nhất của văn chương đương đại. Tôi trích
ra đây một đoạn, nhưng nên đọc toàn bài bên dưới.
Mỹ Lâm Hoàng
***
“Vào
thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư chống chiến tranh được hưởng
một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ cũng được thăm
hỏi, giúp đỡ, được coi là người của ‘một dân tộc anh hùng’. Và,
trên các diễn đàn chống chiến tranh, đại diện của ‘tổ chức Việt
kiều yêu nước’ được xuất hiện bên cạnh những nhân vật quan trọng
bản xứ mà nếu không nhờ ân sủng của cuộc chiến này, không bao giờ
họ có cơ hội và có tư thế tiếp xúc. Để ví von, có thể nói rằng:
Những con chim vốn nép mình trong bóng tối nhờ ánh đạn lửa mà
được nhô đầu ra và há mỏ cất tiếng kêu.
Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh
Việt–Mỹ.
Lòng
ích kỷ, cái kiêu ngã của con người quả là vô giới hạn. Những kẻ
sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở một phương
trời khác để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của chính mình.”
(Dương Thu Hương)
Vốn thích nhạc không lời nhưng đôi khi tôi vẫn nhớ
về một câu hát cũ, “Anh ở đầu sông, em cuối sông. Chung nhau dòng
nước Vàm Cỏ Đông...” Lãng mạn sao, những cặp tình nhân cùng uống
chung một dòng nước. Và hạnh phúc thay những kẻ có thể sống cả
đời bên một con sông êm đềm, qua những mùa lúa chín không tiếng
súng, những trưa hè có thể nép mình dưới bóng các rặng cây. Nhưng
đó là chuyện cổ tích.
Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã
diễn ra trong khói bom và tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh
Việt–Mỹ chia cắt đến tận lòng sâu của mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn,
cự bất khả tri không chỉ xảy ra giữa hai nền văn hoá Đông–Tây mà
còn xảy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt, giữa các thành viên trong
một gia đình, một dòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa bên
thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người
sống ngoài biên giới... Tóm lại, những người Việt cũng bị chia
cách bởi những con sông. Những con sông thiếu vắng những cây cầu.
Khoảng cách giữa người với người có thể
còn dài rộng hơn sông, sâu hơn vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt
văn chương, tôi coi Anbert Camus cao hơn hẳn Jean Paul Sartre,
tôi vẫn phải công nhận câu nói nổi tiếng của Sartre là một nghiệm
sinh có tính nhân loại, “Tha nhân là địa ngục của ta.”
Đây là kinh nghiệm của chính tôi.
Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được
một nhóm “Việt kiều yêu nước” đón tiếp. Có lẽ tên ấy được đặt ra
khi nhóm này tham gia vào phong trào chống chiến tranh và người
cầm đầu nhóm ấy đã từng là phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ trong
các hội nghị đàm phán hưu chiến ở Paris. Khoảng năm 1990, cũng
nhóm này đứng lên lấy chữ ký của Việt kiều trí thức ở Mỹ, Đức, Úc
và Pháp trong bản kiến nghị yêu cầu nhà nước và đảng cộng sản
Việt Nam mở rộng dân chủ. Sau bản kiến nghị ấy, họ bị cấm về nước
một thời gian khá dài, thậm chí còn bị gọi là “các phần tử phản
động”.
Như
thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều này với tôi có chung mục
đích tranh đấu cho quyền sống của người dân Việt Nam. Có lẽ cũng
vì lý do ấy, họ đón tôi, ít nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón
tiếp diễn ra nồng nhiệt, dường như mang màu sắc bạn hữu. Tuy
nhiên, chỉ một thời gian sau, tôi nhận thấy giữa họ với tôi có
rất nhiều điểm bất đồng, đặc biệt là sự nhìn nhận về cuộc chiến
tranh Việt–Mỹ.
Tôi tự nhủ,
“Người ta sống trên đời, thường tụ
thành bè, còn bạn là thứ quý hiếm, nó còn quý hiếm hơn tình yêu
vì không có bệ đỡ tình dục. Tình bạn đòi hỏi một sự cảm thông sâu
sắc, những phẩm chất tương đồng, và cơ duyên để có thể cùng nhìn
về một hướng, cùng đi theo một ngả. Vì lẽ đó, tình bạn không thể
có được một cách dễ dãi. Không có thứ tình cảm nào không cần thử
thách, cho dù là tình yêu, tình bạn hay tình đồng đội, tất thảy
đều cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau”.
Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng,
lảng tránh các cuộc tranh cãi, vì nếu không là bạn, hà tất phí
nước bọt để đôi co?
Tôi biết rõ rằng, đối với nhóm Việt
kiều này cuộc chiến tranh chống Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu
hãnh, là đài vinh quang của dân tộc Việt Nam. Đối với tôi, đó là
sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch sử, là cuộc chiến tranh ngu xuẩn
nhất, tàn khốc nhất đã xảy ra trong một tình thế đen trắng lẫn
lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia cuộc chiến ở phía
Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến ở phương Nam
bị cuốn vào dòng chảy của cuộc Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên
đều bị đặt vào thế đã rồi.
Cuộc
chiến tranh Việt–Mỹ
là bài học đau
đớn nhất, nhục nhã nhất cho dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu trách
nhiệm không chỉ là người Mỹ mà còn là chính những người lãnh đạo
cộng sản phía Bắc. Trong cuộc chiến tranh ấy, dân tộc Việt tự
biến mình thành vật đệm giữa hai toa tầu, là đám lính đánh thuê
cho hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang tiến hành cuộc chiến
tranh Lạnh. Trong suốt một thập kỷ, nước Việt Nam đã thực sự biến
thành cái cối xay thịt khổng lồ nhất trong lịch sử của toàn thể
loài người. Vì lẽ ấy, theo tôi, cả người thắng lẫn người thua
phải biết sám hối, và nếu muốn lật trang cho lịch sử đất nước,
trước hết kẻ thắng phải biết câm mồm lại đừng huyênh hoang nữa;
còn kẻ thua cũng phải biết câm mồm lại, thôi chửi rủa, cả hai
phía không nên tiếp tục đào bới cái thây ma lên mà ngửi. Nếu
không đủ can đảm nhìn nhận vấn đề như nó vốn thế, họ chỉ còn là
đám thú rừng bị lọt xuống một cái bẫy của lịch sử và không bao
giờ có thể nhảy lên khỏi hố sâu.
Năm 2005, tôi trở lại Pháp.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” chủ động mời
tôi đến ăn cơm tối với họ để trao đổi tình hình. Tôi nhận lời.
Bữa cơm ấy diễn ra ở một quán ăn thuộc quận 13. Trước khi đến
Paris, tôi đã ở Turin (Ý) một tuần. Trong tuần lễ đó, khá nhiều
báo Ý đã phỏng vấn tôi và đã đăng bài tức khắc. Một trong số các
bài báo ấy, có đề tựa “Mười triệu người chết trong cuộc chiến
Việt Nam”.
Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi đã kể lại hai điều:
– Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho
các ông tướng, tôi được nghe họ nói với nhau: Chúng ta chỉ công
bố con số thật sự khi người Mỹ bồi thường chiến tranh. Như thế,
con số phía Mỹ đưa ra (khoảng 5 triệu tử vong) lẫn con số chính
quyền Việt Nam đưa ra (hai triệu rưỡi) đều là số sai sự thật.
– Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới
biết lính các nước chết ra sao và nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới
biết thân phận người lính và người dân Việt Nam đau khổ đến mức
nào. Năm 2005, cuộc chiến tranh đang xảy ra ở Iraq. Báo mỗi ngày
đều đăng tin bao nhiêu lính Mỹ, bao nhiêu lính Iraq tử vong. Nếu
con số đó chạm tới năm chục đã khiến các nhà báo làm rộn lên,
chất vấn tổng thống. Khi số tử vong chạm đến số 100 thì sự căng
thẳng trong chính trường đã khiến Nhà Trắng điên đầu. Trong chiến
tranh Việt–Mỹ, mỗi lần B52 bay qua, chỉ hai ba phút, dân thường,
thanh niên xung phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm chí nơi
đông hơn sáu trăm người nhưng không có một dòng trên báo, không
một câu trên đài phát thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt
lẫn người nước ngoài.
Tôi nói với các nhà báo Ý:
“Tới tận năm nay, gần sáu mươi tuổi tôi
mới thấm thía sự khác biệt giữa kiếp người. Nhờ đọc báo phương
Tây, tôi mới biết là người Mỹ và người Iraq chết như người, chết
theo kiểu người. Chúng tôi, những người Việt Nam, chúng tôi chết
như kiến, chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi chết như lá khô
rụng, cái chết của chúng tôi hoà lẫn bùn đen, và tan trong câm
lặng.”
Vì ở
Turin có những Việt kiều liên hệ chặt chẽ với nhóm “Việt kiều yêu
nước” ở Paris và gửi báo cho họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi
bắt buộc phải bàn cãi với họ về chủ đề chiến tranh Việt–Mỹ. Tôi
đã thuật lại cho họ nghe sự tổn thất to lớn của dân tộc khi những
người lãnh đạo mắc chứng vĩ cuồng. Rất nhiều trận xảy ra khi lực
lượng trinh sát thăm dò địa hình địa vật không kỹ, bộ phận hậu
cần chuẩn bị khí tài chưa đủ nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích
nên cứ đẩy lính ra chiến trường, kết quả là đại bại. Trong khi ở
chiến trường xác lính chết ngập suối, nước không chảy được, chim
cắt chim kền kền ăn thịt no đến mức không bay lên nổi, lệnh ở Hà
Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là còn có những vị tướng
biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định rút quân và
làm báo cáo giả để gỡ tội.
Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là
Lê Duẩn, đã đưa ra khẩu hiệu:
“Dân tộc chúng ta là dân tộc anh hùng,
chỉ có thắng không có thua.
Quân đội
chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.”
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không
phòng thủ!
Xưa
nay, trong lịch sử ngàn năm chống ngoại xâm của dân tộc, bao giờ
chúng ta cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian mài mòn lòng kiêu
ngạo lẫn ý chí quân địch, cũng là để khí hậu nhiệt đới khắc
nghiệt quật ngã chúng, cũng là để củng cố quân đội rồi chờ thời
cơ thuận lợi mới huy động binh lính và dân chúng tổng tấn công.
Khẩu hiệu của ông Lê Duẩn đưa ra là một sự sáng tạo thuần tuý,
một ý thơ bay bổng, xuất phát từ tham vọng và lòng kiêu mạn cộng
sản. Nhưng thơ phú là thứ chỉ để ngâm ngợi khi gió mát trăng
thanh, thơ mà trà trộn với chiến tranh nó biến thành núi xương
sông máu.
Đám
tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng thừng, nhưng đều hiểu ngầm
rằng lãnh tụ của họ là một kẻ vĩ cuồng.
Nhóm “Việt kiều yêu nước” ở Paris nghe
tôi nói xong thì hai nhân vật chủ chốt phản ứng dữ dội. Ông X
bảo:
– Mục
tiêu biện minh cho phương pháp. Muốn thắng cuộc trong chiến tranh
thì phải chấp nhận tất cả.
Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:
– Con số đó không thật. Ở nước Pháp
chúng tôi có các biện pháp khoa học về dân số để chứng mình là
con số ấy sai. Làm sao chị có thể nghe theo mấy thằng tướng ngu
ấy được?
Tôi
im lặng không đáp. Nhưng hôm sau, tôi có nhờ ông Phan Huy Đường,
lúc đó còn dịch sách của tôi, nói lại với ông Y:
– Nhờ Đường nói với ông bạn của Đường
là về Việt Nam chớ mở mồm mà bảo mấy ông tướng là ngu. Bởi vì,
rất nhiều hạ sĩ quan thời đó (trung uý, đại uý, thiếu tá...) biết
rõ rằng sinh mạng họ được bảo tồn là nhờ những ông tướng thực sự
thương lính và không ham thành tích như tướng Vũ Lăng. Bây giờ,
nếu không giải ngũ họ cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu tướng.
Nếu ông Y mở mồm bảo tướng của họ là thằng ngu hẳn họ sẽ cho một
báng súng vào đầu, hiền hoà nhất họ cũng khạc vào mặt.
Đấy là phản ứng duy nhất của tôi. Trong
thâm tâm, tôi quyết định chia tay.
Tôi nghĩ, đám người này cần cuộc chiến
tranh chống Mỹ như người đàn bà cần son phấn. Giữa họ với ta
chẳng còn điều gì đáng nói. Một cuộc chia tay vĩnh viễn là điều
hợp lý hơn cả. Không cần kiệt xuất thông minh, chỉ cần chịu khó
quan sát sẽ thấy ngay rằng cộng đồng người Việt ở nước Pháp là
một cộng đồng không bản sắc, sống co cụm, một bầy thỏ ngoan ngoãn
đối với chính quyền. Họ không gây ra các vụ lộn xộn như người da
đen và người Arab theo đạo Hồi, nhưng họ cũng chẳng có tiếng nói,
chẳng có một gương mặt nào trên các diễn đàn quyền lực. Vì bản
chất nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó nên họ thành công ở mức
trung bình, trở thành kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, giáo viên đã là giấc
mơ tột đỉnh. Hội nhập vào xã hội Pháp chưa lâu, sự tự tin vào bản
thân chưa đủ, họ lại bị ám ảnh bởi thân phận lớp người Việt Nam
nhập cư trước họ, những người lính thợ bị thực dân cưỡng bức rời
quê hương sang Pháp phục vụ tại một số nhà máy làm thuốc súng để
thay thế cho các công nhân Pháp ra chiến trường.
Năm 1937, để dự phòng chiến tranh, bộ
trưởng Bộ Thuộc Địa và Quân Đội (ministre de la Colonie et de la
Défense) Georges Mandel dự tính tuyển 80,000 người Đông Dương.
Tháng 6 năm 1940 đám thanh niên Việt Nam được dẫn đến hải cảng
Pháp gồm: 10,750 người trung kỳ, 7,000 người miền Bắc, 2,000
người miền nam. Đám lính thợ này đã bị đối xử như những con vật,
bị dồn vào sống trong những khu nhà tồi tàn, không điện và thiếu
nước, không nơi vệ sinh, không lò sưởi và thức ăn không đủ nửa
khẩu phần. Mùa đông, những kẻ khốn khổ ngủ trên sàn, đại tiểu
tiện ngay bên ngoài cửa, người nọ giẵm vào phân người kia. Đói
khát, họ phải đào rễ củ và hái rau dại về ăn. Cái sự thật tàn
nhẫn này bị vùi trong câm lặng. Cho đến đầu thế kỷ XXI, mới có
vài nhà báo Pháp lên tiếng. Sau đó, Bernard Kouchner, vốn là một
ngôi sao cánh tả nhưng sau thất bại của Ségolen Royal trong cuộc
tranh cử 2007, đã nhận lời làm bộ trưởng bộ ngoại giao cho chính
phủ Sarkozy mới chính thức lên tiếng xin lỗi vì:
“Nước Pháp đã đối xử với những người
lính thợ Việt Nam như đối với súc vật.”
Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử
với đám lính thợ Việt Nam còn tệ hơn súc vật bởi khi cưỡng chế
thanh niên Việt Nam sang Pháp, họ dồn đám người này xuống hầm tầu
còn tầng trên, thoáng mát hơn thì để dành cho... những con bò.
Cái kinh nghiệm tồi tệ ấy được cấy trong tim như một quá khứ sầu
thảm, cộng đồng người Việt không thể tránh khỏi mặc cảm của những
kẻ vừa là dân nhập cư, vừa mang nhãn hiệu “Được lôi ra từ vùng
đất thuộc địa”. Thế nên, cuộc sống tinh thần của họ dường như đột
ngột khởi sắc, bừng bừng ánh sáng khi cuộc chiến tranh Việt–Mỹ
xảy ra. Tại sao?
Dễ hiểu thôi, tinh thần “Bài Mỹ” là
chất xi–măng gắn kết một số đông quốc gia trên thế giới, không
chỉ các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa nhưng ngay cả các nước
phương Tây. Hành vi của nước Mỹ không chỉ gợi lên lòng căm thù
nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ một nước nhược
tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến lượt các nước khác theo thành ngữ,
“Không bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ hai mà lại không có lần
thứ ba”.
Vả
chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không thể biện minh, “Không một
người Việt Nam nào mang bom sang giết người Mỹ.”
Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự
thực là không có một người Việt Nam nào cầm dao hoặc cầm súng
sang tận nước Mỹ để giết một người Mỹ, hoặc ngay đến một con bò
trong trang trại Mỹ cũng không.
Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức
tỉnh. Các vụ biểu tình phản đối chiến tranh trước toà Nhà Trắng
của Mỹ điệp với các cuộc biểu tình trước sứ quán Mỹ tại các nước
khác. Tiếng hát và ngọn lửa tự thiêu của trí thức Mỹ đốt nóng cả
châu Mỹ La–tinh và châu Âu.
Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập
cư chống chiến tranh được hưởng một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu.
Đi đến đâu họ cũng được thăm hỏi, giúp đỡ, được coi là người của
“một dân tộc anh hùng”. Và, trên các diễn đàn chống chiến tranh,
đại diện của “tổ chức Việt kiều yêu nước” được xuất hiện bên cạnh
những nhân vật quan trọng bản xứ mà nếu không nhờ ân sủng của
cuộc chiến này, không bao giờ họ có cơ hội và có tư thế tiếp xúc.
Để ví von, có thể nói rằng: Những con chim vốn nép mình trong
bóng tối nhờ ánh đạn lửa mà được nhô đầu ra và há mỏ cất tiếng
kêu.
Thế nên,
họ cần cuộc chiến tranh Việt–Mỹ.
Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người
quả là vô giới hạn. Những kẻ sống ở một phương trời, cần máu đồng
bào phải đổ ở một phương trời khác để tô điểm cho cuộc sống tinh
thần của chính mình.
Chiến tranh thật đẹp khi nó được tạo
bằng máu xương kẻ khác!
Từ đây, tôi nghi ngờ hai từ “yêu nước”.
Phía sau danh từ này có vô vàn tâm trạng, có vô số động cơ, hoặc
xác thực, hoặc ngầm ẩn, hoặc có ý thức, hoặc vô thức.
Danh từ nào cũng lập lờ và cũng có khả
năng phản lại nghĩa chính thống.
Như thế, giữa người Việt với người Việt
cũng bị chia cách bởi những con sông vô hình. Chắc chắn cũng còn
khá lâu mới bắc được cầu qua những con sông ấy.
Chiến tranh Việt–Mỹ đã qua, nhưng sau
đó không lâu cái tên Việt Nam lại dội lên trên các kênh thông tin
quốc tế. Lần này, là một thứ ồn ào dơ dáy. Chẳng còn là người anh
hùng bé nhỏ dám đương đầu với đế quốc Mỹ mà là tác giả của Khổ
nạn Thuyền nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt Nam không còn được
chào đón bằng cờ và hoa mà bằng cà chua và trứng thối. Tôi nhớ
rằng lần đi châu Âu, ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng
thối vào giữa mặt còn đến lượt ông Phan Văn Khải thì thoát nạn
nhờ sự bố trí, dàn cảnh công phu của cảnh sát Pháp. Sự đời vốn
đổi thay như các lớp tuồng. Điều khốn khổ cho người Việt Nam là
dường như họ chỉ được biết đến trong các tình huống đau khổ. Kể
từ khi làn sóng “Thuyền nhân” dịu đi, Việt Nam gần như chẳng còn
gì để nhớ. Cứ nghe đài phương Tây thì biết, người ta chỉ nhắc tới
hai từ Việt Nam khi nhắc tới cuộc chiến tranh Việt–Mỹ, bởi rất
nhiều trí thức phương Tây, đặc biệt là các văn nghệ sĩ đã tham
gia vào phong trào chống chiến tranh và tuổi trẻ của họ gắn bó
với những kỷ niệm của một thời sôi động. Tuy nhiên, ngay cả những
người kiên nhẫn nhất và hiểu biết Việt Nam nhiều nhất cũng chưa
dám quả quyết rằng họ nắm được sự thực về cuộc chiến tranh này.
Điều đó, quá khó khăn.
Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:
– Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày
trong cuộc chiến tranh Việt–Mỹ?
Tôi đáp:
– Một nửa là thói quen của hàng ngàn
năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.
Anh bạn chưng hửng:
– Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin
nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.
Tôi cười:
– Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây
lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý
thuyết quái gở” này.
Cuộc chiến tranh Việt–Mỹ được đảng cộng
sản phát động với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.
Năm 1964, tôi mười bảy tuổi. Vào tuổi
ấy, tất thảy thanh niên ở miền Bắc không có quyền nghe đài nước
ngoài, không có ti–vi, không có máy quay đĩa, không có bất cứ
nguồn thông tin nào ngoài báo chí cộng sản và đài phát thanh
trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài hát nước ngoài
là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là phiên
dịch tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ
thiết Tĩnh Túc ở Hà Nội. Ông bà ấy đón tiếp rất tử tế, ngoài việc
chiêu đãi bánh ngọt và nước trà chanh, còn mở máy quay đĩa cho
chúng tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc đó là choáng váng, như muốn
chết. Đó là cảm giác thật sự khi con người lạc vào một thế giới
mà họ vừa cảm thấy ngây ngất vừa cảm thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc
đó là của Roberto... (không nhớ họ), một giọng ca Ý tuyệt diệu
nhưng chết trẻ. Những bài hát tôi nghe là các bài nổi tiếng cổ
truyền: Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade, Histoire
d’amour, Besame Mucho...
Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ,
tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống
của chúng tôi là cuộc sống của những kẻ bị nhốt dưới hầm. Những
bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu tiên tôi được thấy.
Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài chúng
tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của chúng
tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ
chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật
trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp và tối
tăm.
Khi con
người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ dầy và
cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là người theo nghĩa
thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật
chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả
những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra sức mạnh
của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy sẵn chất
kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.
Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh
từ Xâm lăng dùng để chỉ: quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và
bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định, Mã Viện,
Thoát Hoan... Tóm lại, Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt
xanh, tóc vàng.
Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng
tôi không có điều kiện để tiếp cận với các nguồn thông tin khác,
các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên chúng tôi là đám tù binh ngoan
ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh rằng mình ra đi là để bảo
vệ non sông.
Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm để chống lại
những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng sẵn sàng ra
chiến trường chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách thức ấy.
Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ
nghĩa ngu dân”.
Sơn Diệu Mai
(Dương Thu Hương)
Nguồn:
https://vietbao.com/a223646/suc-manh-cua-chu-nghia-ngu-dan
Ý
KIẾN BẠN ĐỌC VỀ BÀI VIẾT
“SỨC MẠNH CỦA CHỦ NGHĨA NGU DÂN”
CỦA DƯƠNG THU HƯƠNG
Sau đây là ý kiến của bạn đọc về
bài viết của DTH trên:
***
Bạn đọc Chu Tất Tiến
Tuần lễ cuối tháng 11 năm 2023, khi
tiếng bom đạn đang dội lên từ phía Do Thái và dải Gaza, dư luận
trên các văn đàn Việt đột ngột bùng lên với những bài xã luận,
nhận định về bài viết của Dương Thu Hương: Sức Mạnh của Chủ Nghĩa
Ngu Dân, dù bài này đã đăng trên Việt Báo, Nam California từ ngày
3 tháng 7 năm 2014, với người ký tên là Sơn Diệu Mai (Dương Thu
Hương).
https://vietbao.com/a223646/suc-manh-cua-chu-nghia-ngu-dan
Đọc những lời nhận định phía dưới bài
báo và một số bài phản biện của các tác giả thuộc Cộng Đồng Việt
Di Tản trên hệ thống Email, người ta thấy hầu như tất cả đều
không chấp nhận lý luận của Dương Thu Hương, chỉ trừ một tiếng
nói lẻ loi cất tiếng hoan hô “lý lẽ sắc bén như dao cạo” của tác
giả.
Riêng
người viết bài này, sau khi đọc đi đọc lại vài lần bài viết của
Dương Thu Hương, đã nhìn thấy một số điểm quan trọng trong lý
luận của bà, từ những nhận định có tính trung thực, đến các suy
nghĩ còn lờ mờ, và trên hết là các tư duy hoàn toàn sai lịch sử,
có lẽ vì bà bị nhồi sọ từ nhỏ trong chế độ Cộng sản, nên cho dù
sau này có phản tỉnh, cũng không tránh khỏi những kẽ hở không sao
lấp đầy, những sai phạm không thể sửa chữa. Dĩ nhiên, đó là một
sự kiện “logic”, vì là một con người có tim óc, có tình cảm, có
suy tư, thì không thể một sớm một chiều, tẩy đen thành trắng
được.
Vì thế,
bài viết này mang theo một mong muốn là gửi đến một vài thông tin
trung thực cho tác giả, để tác giả tự suy nghĩ và điều chỉnh lại
những điểm còn lấn cấn trong suy tư của mình, hầu có được một chỗ
đứng vững vàng trong diễn đàn Văn Học của một người Việt công
chính. Với tâm tư của một người viết Văn nhìn vào lịch sử Việt
Nam bằng trái tim Quốc Gia chân chính, người viết bài này cố gắng
trình bày quan điểm một cách khách quan, không thiên vị, không
hận thù, không cay đắng cho dù là kẻ đã bại trận vì bị đồng minh
phản bội.
Bài
viết của Dương Thu Hương có những điểm nổi bật sau đây:
1. Chân thực: Phải công nhận rằng Dương
Thu Hương đã thẳng thắn phê bình cuộc chiến một cách mạnh bạo. Bà
cũng không tỏ ra một chút nào kiêng nể nhóm Việt Kiều Yêu Nước
cũng như giới lãnh đạo và tướng lãnh Cộng sản Việt Nam. Điều này
đã giải tỏa được một số câu hỏi của một số người Quốc Gia là có
thể bà được sang Pháp với nhiệm vụ “nằm vùng, gián điệp”.
– Tôi biết rõ rằng, đối với nhóm Việt
kiều này cuộc chiến tranh chống Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu
hãnh, là đài vinh quang của dân tộc Việt Nam. Đối với tôi, đó là
sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch sử, là cuộc chiến tranh ngu xuẩn
nhất, tàn khốc nhất đã xảy ra trong một tình thế đen trắng lẫn
lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia cuộc chiến ở phía
Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến ở phương Nam
bị cuốn vào dòng chảy của cuộc Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên
đều bị đặt vào thế đã rồi.
– Cuộc chiến tranh Việt–Mỹ là bài học
đau đớn nhất, nhục nhã nhất cho dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu
trách nhiệm không chỉ là người Mỹ mà còn là chính những người
lãnh đạo cộng sản phía Bắc. Trong cuộc chiến tranh ấy, dân tộc
Việt tự biến mình thành vật đệm giữa hai toa tầu, là đám lính
đánh thuê cho hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang tiến hành
cuộc chiến tranh Lạnh.
– Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố
thẳng thừng, nhưng đều hiểu ngầm rằng lãnh tụ của họ là một kẻ vĩ
cuồng. Nhờ Đường nói với ông bạn của Đường là về Việt Nam chớ mở
mồm mà bảo mấy ông tướng là ngu. Bởi vì, rất nhiều hạ sĩ quan
thời đó (trung uý, đại uý, thiếu tá...) biết rõ rằng sinh mạng họ
được bảo tồn là nhờ những ông tướng thực sự thương lính và không
ham thành tích như tướng Vũ Lăng. Bây giờ, nếu không giải ngũ họ
cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu tướng. Nếu ông Y mở mồm bảo
tướng của họ là thằng ngu hẳn họ sẽ cho một báng súng vào đầu,
hiền hoà nhất họ cũng khạc vào mặt.
– Chiến tranh Việt–Mỹ đã qua, nhưng sau
đó không lâu cái tên Việt Nam lại dội lên trên các kênh thông tin
quốc tế. Lần này, là một thứ ồn ào dơ dáy. Chẳng còn là người anh
hùng bé nhỏ dám đương đầu với đế quốc Mỹ mà là tác giả của Khổ
nạn Thuyền nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt Nam không còn được
chào đón bằng cờ và hoa mà bằng cà chua và trứng thối. Tôi nhớ
rằng lần đi châu Âu, ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng
thối vào giữa mặt còn đến lượt ông Phan Văn Khải thì thoát nạn
nhờ sự bố trí, dàn cảnh công phu của cảnh sát Pháp.
– Tôi đã thuật lại cho họ nghe sự tổn
thất to lớn của dân tộc khi những người lãnh đạo mắc chứng vĩ
cuồng. Rất nhiều trận xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm dò địa
hình địa vật không kỹ, bộ phận hậu cần chuẩn bị khí tài chưa đủ
nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích nên cứ đẩy lính ra chiến
trường, kết quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác lính
chết ngập suối, nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn
thịt no đến mức không bay lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục
giục tấn công.
– Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga
nọ, tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc
sống của chúng tôi là cuộc sống của những kẻ bị nhốt dưới hầm.
Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu tiên tôi được
thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài
chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của
chúng tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một
thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc
vật trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp và tối
tăm. Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo
của dạ dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là người
theo nghĩa thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để
con vật chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi
tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra
sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy
sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.
2. Rất tiếc, là văn phong của bà vẫn là
văn phong huyên hoang của những kẻ tự coi mình như “cái rốn của
vũ trụ”, coi thường tất cả mọi sự việc trên đời, muốn tư tưởng
của mình là Kim Chỉ Nam cho mọi thời đại:
– Vì lẽ ấy, theo tôi, cả người thắng
lẫn người thua phải biết sám hối, và nếu muốn lật trang cho lịch
sử đất nước, trước hết kẻ thắng phải biết câm mồm lại đừng huyênh
hoang nữa; còn kẻ thua cũng phải biết câm mồm lại, thôi chửi rủa,
cả hai phía không nên tiếp tục đào bới cái thây ma lên mà ngửi.
Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã
diễn ra trong khói bom và tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh
Việt–Mỹ chia cắt đến tận lòng sâu của mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn,
cự bất khả tri không chỉ xảy ra giữa hai nền văn hoá Đông–Tây mà
còn xảy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt, giữa các thành viên trong
một gia đình, một dòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa bên
thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người
sống ngoài biên giới...
Dù trên địa hạt văn chương, tôi coi
Anbert Camus cao hơn hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận
câu nói nổi tiếng của Sartre là một nghiệm sinh có tính nhân
loại, “Tha nhân là địa ngục của ta.”
Thứ ngôn ngữ ồn ào, khoa trương này
không hề có trong các tác phẩm của những Nhà Văn nổi tiếng trên
thế giới như Jean Paul Sartre, Maxim Gorki, Herman Hess, Ernest
Hemingway, Mart Twain, Leon Tolstoi. Các nhà văn nổi tiếng của
miền Nam cũng không hề có loại ngôn ngữ khoa trương này.
3. Sai lạc:
a) Sai lạc thứ nhất: Cũng trong câu
viết: “còn kẻ thua cũng phải biết câm mồm lại, thôi chửi rủa, cả
hai phía không nên tiếp tục đào bới cái thây ma lên mà ngửi.”,
Dương Thu Hương đã chứng tỏ là nhận thức của Bà yếu kém. Giữa
những nhận định trí thức, bà vẫn để lộ ra cái gốc “bần cố nông”,
từng vén quần lên tận bẹn, hướng sang hàng xóm mà chửi kiểu “mất
gà”, mong rằng những câu chửi thâm độc của mình phóng ra như
những mũi tên độc làm kẻ thù lăn đùng ra mà chết. Thế nào là “đào
bới cái thây ma lên mà ngửi”? Thây ma nào? Bà cho rằng chế độ
Miền Nam là một cái thây ma chăng? Bà quên rằng, chỉ có Việt Nam
Cộng Hòa mới là quốc gia được 92 nước thuộc đủ Năm Châu, đặt quan
hệ ngoại giao cấp Đại Sứ (kể cả Vatican), và 3 quốc gia đặt quan
hệ cấp Lãnh sự.
Châu Á: Ả Rập Xê Út, Ấn Độ (cấp lãnh
sự), Bahrain, Hàn Quốc, Indonesia (cấp lãnh sự), Iran, Israel,
Jordan, Cộng hòa Khmer, Kuwait, Lào, Liban, Malaysia, Miến Điện
(cấp lãnh sự), Nepal, Nhật Bản, Philippines, Qatar, Singapore,
Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, và Trung Hoa Dân Quốc.
Châu Âu: Cộng hòa Ireland, Vương quốc
Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Áo, Iceland, Bỉ, Bồ Đào Nha, Síp,
Đan Mạch, Tây Đức, Hà Lan, Hy Lạp, Luxembourg, Monaco, Na Uy,
Pháp, San Marino, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, và Ý.
Châu Mỹ: Argentina, Bolivia, Brasil,
Chile, Colombia, Costa Rica, Cộng hòa Dominica, Ecuador, El
Salvador, Canada, Grenada, Guatemala, Guyana, Haiti, Hoa Kỳ,
Honduras, Jamaica, Mexico, Nicaragua, Panama, Paraguay, Peru,
Trinida, Tobago, Uruguay, và Venezuela.
Châu Phi: Botswana, Tchad, Bờ Biển Ngà,
Ethiopia, Gambia, Ghana, Kenya, Lesotho, Liberia, Malawi, Maroc,
Cộng hòa Nam Phi, Niger, Nigeria, Rwanda, Sierra Leone,
Swaziland, Thượng Volta, Togo, Cộng hòa Trung Phi, Tunisia, và
Zaire.
Châu
Úc: Fiji, New Zealand, Tây Samoa, Tonga, Úc.
Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia Tự
Do, Dân Chủ, Độc Lập thực sự, có Tam Quyền Phân Lập minh bạch.
Dân chúng được tự do bầu các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa
phương, không có Đảng nào chỉ thị hoặc ép buộc. Tự do di chuyển
và cư trú, tự do tư tưởng, tự do phát biểu (trừ phát biểu tư
tưởng Cộng sản), tự do chọn lựa khuynh hướng chính trị. Nông dân
được hưởng chính sách “Người cầy có ruộng”, đời sống công nhân
được bảo đảm. Kinh tế vững vàng. Vì thế đồng bạc Việt Nam Cộng
Hòa được coi trọng trên khắp thế giới, một Đô La Mỹ chỉ ăn khoảng
40–50 đồng bạc Việt Nam mà thôi.
Ngược lại, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa miền Bắc của bà chỉ được Trung Cộng, Liên Xô và vài nước nô
lệ, chư hầu Cộng sản công nhận như CHDCND Triều Tiên, Đông Đức,
Tiệp Khắc, Romania, Ba Lan, Hungary, Bulgaria, Albania, Mông Cổ.
Ấn Độ cũng chỉ giao dịch cấp Lãnh Sự. Đồng bạc miền Bắc hoàn toàn
vô giá trị với thế giới, cho dù có đổi 1 triệu đồng lấy 1 đô la
Mỹ cũng không ai nhận.
Như thế, sao bà lại gọi chế độ Việt Nam
Cộng Hòa là “thây ma?”
b) Sai lạc thứ hai: Trong bài viết,
Dương Thu Hương luôn gọi cuộc chiến 1954–1975 là “Cuộc chiến
tranh Việt–Mỹ”. Điều này lại chứng tỏ là tác giả bị nhồi sọ từ
thuở mới sinh đến già, không thể tẩy não được.
Việt nào? Mỹ nào? Bà viết ù ù cạc cạc,
không dám nói thẳng ra là cuộc chiến xâm lăng do Cộng sản Việt
Nam tức Việt Cộng, được lệnh từ Trung Cộng và Liên Xô, tấn công
vào chính thể Việt Nam Cộng Hòa, được sự “yểm trợ giai đoạn” của
Mỹ và Đồng Minh. Nói là “yểm trợ giai đoạn” vì Mỹ chỉ yểm trợ
Việt Nam Cộng Hòa từ 1954 đến 1971, rồi từ từ ngưng viện trợ. Đến
1973, sau khi buộc miền Nam phải ký hiệp ước đầu hàng 1973, thì
hoàn toàn rút quân đội ra khỏi miền Nam và chấm dứt viện trợ. Sau
1973, không còn quân nhân Mỹ nào ở miền Nam, mà miền Bắc vẫn tiếp
tục tấn công, như vậy mà dám viết là “cuộc chiến tranh Việt–Mỹ”
thì kể ra Dương Thu Hương đã bị “tẩu hỏa nhập ma” khá nặng.
Với tình trạng “tẩu hỏa, nhập ma” này
thì cũng dễ hiểu khi Dương Thu Hương viết: chiến tranh Việt–Mỹ,
mỗi lần B52 bay qua, chỉ hai ba phút, dân thường, thanh niên xung
phong chết hai trăm, ba bốn trăm, thậm chí nơi đông hơn sáu trăm
người. Nếu mà chết nhiều như vậy chỉ trong hai, ba phút, thì với
hơn 17 năm Mỹ chiến đấu ở Việt Nam, có cả chục triệu người thanh
niên, nam nữ “Sinh Bắc, Tử Nam” chết tan nát. Miền Bắc trống
rỗng, hết dân.
Cuối cùng, điều lộ ra quá khứ đồng quê
của Dương Thu Hương là khi bà dịch các câu hỏi của một nhà văn
Pháp: “Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến
tranh Việt–Mỹ?”, “Mày không đùa đấy chứ?”
Thực tế, chỉ những người nhà quê, nhà
mùa mới dịch chữ “vous” là “mày”! Ngôn ngữ Việt chính thống có
thiếu gì chữ để dịch chữ này một cách văn hoa, lịch thiệp. Tội
nghiệp cho nhà văn lớn tuổi, viết lách tửng tửng.
Chu Tất Tiến
***
Ý kiến bạn
đọc Phạm Sĩ Việt
Thưa quý Vi hữu trong Diễn Đàn,
Nhân đọc bài “Sức Mạnh Của Chủ Nghĩa
Ngu Dân” của bà nhà văn Dương Thu Hương (DTH), đồng thời sau đó
đọc bài phản bác của Vi hữu Trần Hữu Sơn ký dưới bút hiệu
“katumtran”, tôi cũng muốn “ăn theo” để gọi là “lên giọng” góp ý
cùng bà con.
Tôi còn nhớ trong quyển “Đắc Nhân Tâm” của Dale Carnegie, ông cho
rằng “Con người hiếm khi suy xét đúng sai rõ ràng bằng lý trí.
Con người thường hay hành xử theo cảm xúc, thành kiến và nhất là
theo lòng kiêu hãnh vốn có của mình”.
Nổi tiếng qua Lễ hội Sách Paris
(Festival du Livre de Paris), vì được trao Giải Toàn cầu 2023
(Cino–Del–Duca 2023) tại Paris hồi 21/4/2023, qua tác phẩm “Terre
des oublis” (Chốn vắng). Có lẽ bị nhập thần, bà nhà văn như “tự
sướng” (nói theo lối VN ngày nay trong nước) lên đến đỉnh cao
chói lọi của mình.
Thông thường, đọc một áng thơ mà người
nghe thấy tối nghĩa, khá vụng về. Thế nhưng khi biết được áng thơ
đó được viết từ một thi sĩ nổi danh, từ một nhà văn lỗi lạc, thì
theo tâm lý hẳn nhiên sẽ được người đời cho là xuất sắc, có chiều
sâu. Đấy là thói tôn sùng theo cảm tính, cũng như lòng kiêu hãnh
tự thân.
Tôi
phải dông dài như thế để rút ra một kết luận, rằng: từ khi vào
miền Nam sau đại nạn Sài Gòn bức tử, người ta đã tìm thấy sự đồng
cảm sâu xa ở bà khi nghe bà kể lể: sau 1975, vô Sài Gòn, nhìn
thấy những đường phố, những tòa nhà và cuộc sống của người dân
Miền Nam, bà đã khóc và đau xót nhận ra, trong cuộc chiến tranh
Việt Nam, kẻ chiến thắng là những kẻ mọi rợ. Từ đó người ta, nhất
là người miền Nam đã thấy gần gũi bà trong tình tự ấy...
HỒ CHÍ MINH, THẦN TƯỢNG CỦA NHÀ VĂN
DƯƠNG THU HƯƠNG
Nhưng câu chuyện về áng thơ bên trên
phải cho phép chúng ta cần để tâm kiểm soát lại, có nên đặt lòng
tin quá độ hay không?
Kìa, hãy xem bên dưới đây, qua tiêu đề
bài viết: “Suy ngẫm về đất nước và Hồ Chí Minh” của DTH, bà ân
cần viết:
“...
Đặt Hồ Chí Minh vào những hoàn cảnh cụ thể như thế, tôi thấy ông
thật sự là nguời vĩ đại. Ông không thể làm gì hơn.
Nếu dân tộc Việt Nam đủ mạnh để nhìn
thẳng vào sự thật, họ sẽ thấy tự hào vì có ông, một con nguời
sáng suốt lỗi lạc, một nguời yêu nước chân thành đã cố gắng tối
đa để thay đổi số phận cho dân tộc.
Một dân tộc xứng đáng không cần một ông
thánh không ăn không ỉa không làm tình mà cần một nhà lãnh đạo
tài ba và có tư cách.
Nếu dân tộc Việt Nam đủ truởng thành để
nhận thức đuợc điều đó thì họ sẽ hãnh diện vì đã có ông, Hồ Chí
Minh...”
https://www.bbc.com/vietnamese/forum/2009/03/090301_duongthuhuong_commentary_tc2
Ở đây, mấy từ ngữ: “... một ông thánh
không ăn không ỉa...”. Thật là ngoa ngữ! Ý bà nhà văn cho rằng
tên HCM bị chứng táo bón quanh năm chăng? Và rồi: “không làm
tình...” cũng ý rằng ông dan díu với Nông Thị Xuân, với Nguyễn
Thị Minh Khai, với Tăng Tuyết Minh, với Nông Thị Ngát, với Lâm Y
Lan, với Đỗ Thị Lạc, v.v. và v.v. là chỉ dùng để gãi lưng thôi
sao, hay dùng làm “nữ hộ lý” cho các đại quan khác?
Đồng thời trong bài “NGƯỜI VIỆT NAM VĨ
ĐẠI NHẤT”, DTH đội HCM như sau:
“Nguời Việt Nam sẽ không thể duy trì
đuợc quốc gia nếu chỉ biết khấn vái vị thánh Hồ Chí Minh, nhưng
họ có thể làm được điều đó nếu biết nhìn nhận lại và suy ngẫm một
cách thấu đáo, khúc chiết về nhân vật này duới ánh sáng của lý
trí.
Bởi vì,
đó là nguời Việt Nam vĩ đại nhất thế kỷ 20, vĩ đại như một con
nguời với tất cả chiều kích nông sâu, nhầm nhỡ và lầm lạc.
Bởi vì, chính ông ta là nhân vật đầu
tiên thấu hiểu giá trị của nền dân chủ và tìm mọi cách du nhập
vào Việt Nam...”
https://vietluan.com.au/101693/duong-thu-huong-nghi-ve-ho-chi-minh
Ơ hay, là một nhà văn, nhà văn cũng như
nhà báo, cho đến lúc này DTH vẫn chưa nhận chân được HCM mang
dòng máu Lạc Hồng hay loại máu của Hán tặc hay sao? Đó là chưa
nói đến vụ Cải Cách Ruộng Đất do HCM tuân lệnh quan thầy giết hại
biết bao đồng bào vô tội. Cho dù “một con người với tất cả chiều
kích nông sâu” cách mấy cũng không tán tận lương tâm đến thế. Và
HCM đã “thấu hiểu giá trị của nền dân chủ...” (sic) thế nào khi
mà ác đảng CS luôn chủ trương dùng nòng súng để trị dân?
Và qua bài viết của tác giả Minh Võ,
ông thẳng thừng vạch mặt DTH rõ ràng là kẻ chống cộng cuội:
“Dương Thu Hương và Con Rối Hồ Chí Minh”:
“Đài Tiếng Nói VN Hải Ngoại vừa phỏng
vấn tôi về nhà văn nữ Dương Thu Hương nhân bài tiểu luận của bà
xuất hiện vào đầu tháng sáu vừa qua tại hải ngoại. (bài phỏng vấn
phát thanh tối chủ nhật, 13/6/2004). Nhà báo Lê Hồng Long muốn
biết tôi xếp cây bút ‘cứng cựa’ này vào loại nào? Thực sự chống
cộng hay cũng chỉ chống bọn cầm quyền tham nhũng hiện nay? Ông
dẫn chứng một nhà văn nữ khá nổi tiếng tại hải ngoại là bà Bùi
Bích Hà, cho rằng DTH tựu trung vẫn bênh cộng sản. Ông cũng nhắc
lại câu DTH viết cách nay gần chục năm rằng ‘Tôi không từ bỏ chế
độ CS để chạy sang hàng ngũ những người chống cộng.’ để hỏi có
phải đó là bằng chứng bà ta không chống cộng không?...”
https://www.diendangiaodan.com/Dien%20Dan%20So/DD33/Duong%20Thu%20Huong%20Va%20Con%20Roi%20.htm
CÁI LÝ LUẬN CHÀY: “SỨC MẠNH CỦA CHỦ
NGHĨA NGU DÂN” CỦA DƯƠNG THU HƯƠNG
Trong bài viết dài hơn 6 trang này, tôi
đếm có tất cả trên dưới 10 cụm từ “chiến tranh Việt–Mỹ”, 3 cụm từ
“chiến tranh chống Mỹ”, 1 cụm từ “tinh thần bài Mỹ” và 1 cụm từ
“quân xâm lược Mỹ”. Bấy nhiêu đó đủ để thẩm định rằng, DTH không
khác gì Bùi Tín trước kia.
Trong bài: “Tâm tình với tuổi trẻ Việt
Nam” của Bùi Tín, trích sau đây với các đoạn ông ca ngợi công đức
của HCM:
“...
Con người là ở giữa thần thánh và ma quỷ. Ông Hồ là con người.
Ông đã thành nhân vật lịch sử. Mặt tích cực của ông Hồ không phải
là nhỏ. Ông là người lãnh đạo của cuộc Cách mạng tháng Tám, được
toàn dân hưởng ứng, kết thúc thời kỳ thực dân và phong kiến, mở
ra thời kỳ mới cho đất nước...”
“... Chủ tịch Chính phủ kháng chiến Hồ
chí Minh còn lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, còn
gọi là cuộc chiến 9 năm, đến thắng lợi, với chiến thắng Điện Biên
Phủ và Hiệp định Geneva, thực dân Pháp phải từ bỏ Việt Nam...”
https://viet-europe.org/?p=63071
“... Bùi Tín vẫn ghi công cho ông Hồ:
Theo ông Bùi Tín, thật ra Hồ Chí Minh không phải là người chịu
trách nhiệm chính cho cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn mà ông
đã làm đủ mọi cách để tránh cho cuộc chiến này nổ ra...”
https://vietbao.com/p119a22556/3/bui-tin-khui-mat-that-ong-ho-chi-minh
Lướt qua hết các dòng ca ngợi HCM của
Bùi Tín thì chúng ta thấy rõ như ban ngày, rằng DTH cũng chẳng
khác gì BT, chỉ là các bộ mặt chống cộng bên ngoài nhưng thần
phục cộng bên trong mà thôi. Hoặc chống cộng vì khác đường lối
nhưng thần phục lãnh tụ CS không hơn không kém. Từ đấy chúng ta
thấy được dã tâm của tác giả “Sức Mạnh Của Chính Sách Ngu Dân”
nằm ở đâu. Sự việc này không khác gì mấy hiện tượng sư ông “ngày
chay đêm ngã mặn” Thích Nhất Hạnh phun nọc độc qua bài thuyết
pháp tại New York về vụ ném bom ở Bến Tre, sư thổi phồng thành
phố có 300,000 dân, như là lối tuyên truyền nhồi sọ những kẻ ngây
thơ nhẹ dạ.
https://thienlybuutoa.org/Misc/SuPhanBoi.htm
TIÊU ĐỀ CHÍNH: CHÍNH SÁCH NGU DÂN, THEO
Ý CỦA DƯƠNG THU HƯƠNG
Là người viết văn, biết đảo lộn từ ngữ,
biết chắt lọc từng câu, biết mánh khoé trong mỹ từ, như là cách
thổi vào buồng tim người đọc lối suy nghĩ theo ý bà, từ đó họ sẽ
nhập tâm với những gì bà viết, theo phương pháp “mưa dầm thấm
đất” vậy.
Trước tiên, chúng ta khởi từ trước tháng tư 1975 trở về trước.
Tại miền Nam với không gian và thời gian ấy, chưa từng có chính
sách gọi là “ngu dân” ở chính thể VNCH. Vì chính thể VNCH ai cũng
biết rồi đấy, luôn đề cao nhân vị, phong cách sống cho ra người,
xã hội miền Nam là một xã hội công bằng và đạo đức toàn diện, sự
học hành từ thành thị đến thôn quê được khuyến khích và hỗ trợ
tối đa. Cho nên nếu bảo rằng, như bà DTH trả lời trong “Sức Mạnh
Của Chính Sách Ngu Dân” khi được nhà văn Pháp đặt câu hỏi:
“– Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng
mày trong cuộc chiến tranh Việt–Mỹ?
Tôi đáp:
– Một nửa là thói quen của hàng ngàn
năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.”
Câu đáp như thế có vẻ hồ đồ, rất là
thiếu lương thiện của một nhà văn. Tại sao? Nên nhớ rằng, chủ
nghĩa ngu dân chỉ nảy mầm từ khi chủ nghĩa CS hình thành ở miền
Bắc VN, và hoàn toàn người dân bị làm cho ngu chỉ xảy ra tại miền
Bắc mà thôi. Câu trả lời phun ra từ cửa miệng của một nhà văn như
là bà DTH là vơ đũa cả nắm, vì người dân miền Nam trước ngày thủ
đô Sài Gòn bị bức tử thì họ/chúng tôi không bị chính quyền làm
cho ngu như bà nghĩ. Chỉ có chế độ VC tại miền Bắc và toàn lãnh
thổ VN sau tháng tư 1975 mới bị “chính sách ngu dân” cai trị mà
thôi.
Và cuối
bài bà DTH viết:
“... Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà
chúng tôi không có điều kiện để tiếp cận với các nguồn thông tin
khác, các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên chúng tôi là đám tù binh
ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh rằng mình ra đi là để
bảo vệ non sông...” và “Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết
hàng ngàn năm để chống lại những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần,
chúng tôi cũng sẵn sàng ra chiến trường chống quân xâm lược Mỹ
theo đúng cách thức ấy” và “Đó là lý do tôi nói, ‘sức mạnh của
chủ nghĩa ngu dân’”.
Đến đây có phải bà DTH rõ ràng vơ đũa
cả 2 miền Nam–Bắc không? Tinh ý sẽ nhận ra ngụ ý của bà ngay:
trước tháng tư 1975 dân miền Nam cũng bị ngu vì nhiễm virus
“Chính Sách Ngu Dân” dưới chế độ CS ở miền Bắc chăng?
Ở đây xin công minh mà suy diễn, cho
rằng “Chính Sách Ngu Dân” không phải tất cả mọi người dân ai ai
cũng đều “ngu” như bà DTH gom làm một. “Mười ngón tay có ngón
ngắn ngón dài”, trong số mấy chục triệu dân sống dưới sự cai trị
hà khắc của chủ nghĩa lai căng CS, cũng có số đông dân chúng họ
tỉnh thức, ý thức rằng họ không “ngu”, nhưng vì lưỡi lê và họng
súng buộc họ phải giả ngu trong cuộc sống. Nhìn lại cố lão ông Cù
Huy Cận, cố lão ông Xuân Diệu, v.v. đầu óc của các vị này không
ngu, nhưng vì miếng cơm manh áo, vì danh lợi địa vị dưới chế độ
này, buộc họ phải làm thằng ngu. Riết rồi sau đó, họ ngu thật, và
đến cuối cuộc đời họ trở thành những tên ngu! Minh chứng là những
áng thơ của Xuân Diệu trước và trong thời sống chung với CS là
hoàn toàn khác hẳn, hai hình ảnh trái ngược. Hùng hồn nhất là sau
tháng tư 1975 có một số người từ Bắc vào thăm thân nhân của họ
trong Nam, kể rằng họ luôn trông chờ quân đội miền Nam làm cuộc
“Bắc tiến” để giải phóng miền Bắc sớm càng tốt, là họ mừng vô
cùng.
Cho nên
tôi đồng cảm với những gì bạn Trần Hữu Sơn viết:
“... Thế nào gọi là chính sách ngu dân?
Người Miền Nam biết Việt cộng áp dụng
chủ thuyết độc tài của cộng sản. Và tôi tin rằng cũng có nhiều
người Bắc biết về con đường cai trị độc tài của Việt cộng. Từ đó
tôi không tin, đó là do chính sách ngu dân như bà DT Hương
viết...”
CHIẾN
TRANH VN THEO DTH LÀ: CUỘC CHIẾN CHỐNG MỸ XÂM LĂNG
Tôi cũng rất đồng cảm với Trần Hữu Sơn
qua cái nhìn bén nhạy:
“... Trong suốt bài viết, bà DT Hương
không đủ can đảm viết công khai, rằng đó là cuộc chiến do cộng
sản Bắc Việt, dưới sự viện trợ khổng lồ của khối cộng sản quốc
tế, tiến hành xâm chiếm miền Nam.
Bà DT Hương cứ lặp đi lặp lại đó là
cuộc chiến giữa Việt nam với Mỹ. Bà chỉ viết đi chống Mỹ, chống
Mỹ và chống Mỹ.
Không hề thấy bà viết quân miền Nam
chống trả quân Bắc cộng xâm lăng...”
Bấy nhiêu đó cũng lột tả được cái không
lương thiện của một nhà văn như bà DTH rồi. Bởi vì khi nhắc đến
chiến tranh giữa 2 miền Nam–Bắc, bà quên bẵng đi quân đội miền
Nam, khi mà họ/chúng ta là tiền đồn vững chắc bảo vệ miền Nam
dưới sự gây hấn và xâm lăng của Bắc phương. Lập luận này khiến
người ta nhớ đến cái lập luận vô cùng ấu trĩ của tên tậu bằng TS
Pháp quốc, Cù Huy Hà Vũ. Đúng là “đồng thanh tương ứng” vậy.
Ở đây chúng ta có thể đưa ra 3 lập luận
cho bà DTH:
Một là, sự suy nghĩ khá nông cạn của một nhà văn.
Hai là, bà giả bộ ngây thơ, gọi là
“ngây thơ cụ” để cố lấp liếm được chừng nào hay chừng nấy về sự
can trường của Quân lực VNCH.
Ba là, theo lệnh quan thầy CS tại Hà
Nội, càng tố cáo Mỹ xâm lăng VN nhiều càng tốt. Mục đích buộc đối
phương phải bồi thường tổn thất chiến tranh, điển hình qua vụ
“chất độc da cam”. Chứ một người khi đặt chân vào miền Nam đã
từng rơi nước mắt mà than rằng “kẻ chiến thắng là mọi rợ...” thì
không thể nào vội vàng đánh giá bà là con người chưa thức tỉnh.
KẾT LUẬN
Chúng tôi, cộng đồng gốc tị nạn VC đã
chán ngán quá mấy ông: Nguyễn Văn Đài, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn
Hải, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, v.v. đội lốt bằng lớp vỏ khá dày: “tù
nhân lương tâm”. Nhưng bây giờ họ đã lòi mặt chuột ra cả rồi, và
nay đối với chúng tôi, họ là những: “tù nhân tán tận lương tâm”
mà thôi. Cho nên ông Cố BT (Cố đây là đã quá vãng, chứ không là
Cha Cố) đã về gặp “bác” của ông ấy. Nay còn lại mấy người, trong
đó có DTH, thỉnh thoảng bà này vì cứ cho rằng thiên hạ còn trọng
vọng nên bà lại hướng dẫn dư luận theo cung cách CS của bà, thì
nó không còn hợp thời nữa, tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa CS nhưng vẫn
tôn thờ Hồ tặc. Vì vậy cho nên, trở lại câu kinh điển của Dale
Carnegie: “Con người hiếm khi suy xét đúng sai rõ ràng bằng lý
trí. Con người thường hay hành xử theo cảm xúc, thành kiến và
nhất là theo lòng kiêu hãnh vốn có của mình”.
Phải chăng tự trong thâm tâm, DTH có sự
kiêu hãnh, vì “Terre des oublis” của bà, và cả tinh thần “tự
sướng” trong tư tưởng bà. Cho nên bà đã gây phản cảm khi dùng cảm
xúc và thành kiến cá nhân xét đoán một vấn đề quan trọng qua ngòi
bút.
Một nhà
văn lương thiện đúng nghĩa thì chẳng nên vậy.
Phạm Sĩ Việt
***
Bạn đọc
TRẦN HỮU SƠN
Thế nào gọi là chính sách ngu dân?
Người Miền Nam biết Việt cộng áp dụng
chủ thuyết độc tài của cộng sản. Và tôi tin rằng cũng có nhiều
người Bắc biết về con đường cai trị độc tài của Việt cộng. Từ đó
tôi không tin, đó là do chính sách ngu dân như bà DT Hương viết.
Trong suốt bài viết, bà DT Hương không
đủ can đảm viết công khai, rằng đó là cuộc chiến do cộng sản Bắc
Việt, dưới sự viện trợ khổng lồ của khối cộng sản quốc tế, tiến
hành xâm chiếm miền Nam.
Bà DT Hương cứ lặp đi lặp lại đó là
cuộc chiến giữa Việt nam với Mỹ. Bà chỉ viết đi chống Mỹ, chống
Mỹ và chống Mỹ. Không hề thấy bà viết quân miền Nam chống trả
quân Bắc công xâm lăng.
Xin hãy thẳng thắn thừa nhận:
Quân Bắc cộng chỉ đụng độ trực tiếp một
phần với quân Đồng Minh từ 1965–1968. Sau đó quân Đồng Minh lần
lượt giảm dần. Đến cuối năm 1972, Bắc cộng chỉ đụng với quân miền
Nam mà thôi. Trong khi đó thời gian giao chiến giữa quân Bắc cộng
và quân miền Nam kéo dài suốt từ năm 1960 cho đến 1975.
Nếu tính theo con số quân tham chiến,
tử thương và bị thương... chúng ta cũng thấy là quân Bắc cộng và
binh sĩ miền Nam tham dự nhiều hơn, tử vong nhiều hơn mấy lần
quân Đồng minh.
Điều này chứng tỏ ai, quân bên nào giữ
vai trò chính trong chiến tranh. Đó là quân Bắc cộng và quân miền
Nam.
Thế thì
tại sao bà DT Hương cứ nói là bà đi đánh Mỹ? Chính bà cũng đã
theo đoàn quân Bắc cộng vào chiếm miền Nam và gặp quân miền Nam
chống lại. Tại sao bà không nói đó là cuộc chiến Nam–Bắc. Phải
chăng bà cố tình chạy tội cho Việt cộng – chạy tội một cách rất
khôn khéo – bằng cách cho độc giả miền Nam uống nước đường qua
mấy đoạn, chống lại nhóm Việt kiều yêu nước, chống lại Việt cộng
bằng tiêu đề... chính sách ngu dân???!!!
Nếu bà thật tình biết rõ dã tâm của
Việt cộng và muốn cho thế giới biết, xin bà đừng nhắc đi nhắc lại
câu tuyên truyền của Việt cộng, rằng đó là:
– CUỘC CHIẾN CHỐNG MỸ;
– CUỘC CHIẾN VIỆT NAM VỚI MỸ.
Mà bà phải (nếu bà thực lòng biết đó là
chính sách ngu dân), rằng đó là:
– CUỘC CHIẾN GIỮA MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM
– Miền Bắc xâm chiếm miền Nam
– Miền Nam
tự vệ
– Cộng sản yểm trợ miền Bắc
– Mỹ yểm trợ Miền Nam.
Vì dân Mỹ không muốn yểm trợ nữa, trong
khi khối cộng sản quốc tế vẫn tiếp tục yểm trợ cho nên miền Nam
thua và miền Bắc mới có cơ hội chiếm trọn miền Nam.
Dương Thu Hương, hãy đứng thẳng, soi
gương và xác nhận sự kiện lịch sử này.
Xin đừng có ma le!
katumtran
***
Bạn đọc
Hoài Minh Khoa TRẦN
Bọn CSBV dùng chính sách NGU DÂN, để dễ
dàng cai trị, dễ dàng tuyên truyền xảo trá, xuyên tạc dư luận 1
chiều, Đế quốc Mỹ xâm lược VN, chủ nghĩa thực dân mới... Nhưng
chính bọn cai trì Miền Bắc VN dùng chính sách NGU DÂN, dùng chế
độ quản lý Hộ khẩu, lương thực để chèn ép, thống trị người dân
trong sự ngu dốt, đần độn lệ thuộc.
Bản thân tôi còn biết chính xác 100%
trong suốt thời gian gọi là “chống Mỹ cứu quốc” bọn cai trị MB
XHCN dựa vào sự viện trợ hoàn toàn của Trung cộng và Liên xô, khu
nhà máy gang thép THÁI NGUYÊN mà họ luôn rêu rao là biểu tượng
tình hữu nghị anh em VIỆT–TRUNG, bọn Trung Nam Hải lợi dụng việc
viện trợ không hoàn lại khu công nghiệp nặng cho nước VNDCCH, họ
cho xây dụng khu công nghiệp này hoàn toàn do Trung cộng đảm
nhiệm từ kỹ sư, đến công nhân, phía VN có biết đâu họ ngầm chuẩn
bị cuộc chiến mai sau với VN, họ mang vũ khí sang chôn cất trong
những căn hầm được bê–tông kiên cố... khi cuộc chiến tranh biên
giới xảy ra năm 1979, bộ mặt thật của tình hữu nghị anh em mới
rớt xuống. Phía VN hoàn toàn câm nín vì họ đã bị 1 cú hố nặng, ấy
vậy mà vẫn chưa chừa với 16 chữ vàng:
“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”
3QQ
***
Bạn đọc
NMH
Bác Sơn
Trần gọi bà DTH là Ma le, bởi có ma le mới có bọn Cộng sản, không
ma le không thể nào trở thành CS, gọi MA LE cho có lịch sự chứ
thật ra là GIAN XẢO đúng hơn, gọi là chống Mỹ cứu nước, năm 1973
Mỹ đã rút hết về nước rồi còn Mỹ đâu nữa mà chống, ấy vậy mà Bác
và Đảng ta cứ thế mà đánh Mỹ, CSBV luôn gọi chính quyền hợp hiến,
hợp pháp do dân bầu ra là chính quyền tay sai Thực dân đế quốc
Mỹ, có ai thấy ở MNVN có nghĩa trang của quân đội Mỹ không nhỉ?
Hay của các QĐ “Chư hầu”??? Chắc chắn không có.
Thế mà ở miền Bắc nước VNDCCH trước năm
1975 độc lập, lại có nghĩa trang liệt sĩ Trung cộng các vị ạ, vậy
độc lập, tự chủ chỗ nào, nếu không có các chiến sĩ, Liên Xô,
Trung cộng và các nước chư hầu Liên xô viện trợ đến cả áo quần,
giầy cho QĐ Bắc Việt thì lấy đâu ra họ đi xâm lược VNCH.
Tôi xin trích 1 đoạn bài viết của: “...
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, theo phía Trung Quốc, nước
này ngoài viện trợ kinh tế còn đưa khoảng 320,000 lượt binh lính
vào giúp quân đội miền Bắc.
1,446 quân nhân Trung Quốc tử trận
trong thời kỳ này được chôn ở 40 nghĩa trang tại 22 tỉnh miền Bắc
và Trung Việt Nam. Một số tỉnh giáp biên
giới với Trung quốc như Cao Bằng, Yên Báy, Lạng Sơn, có nghĩa
trang dành riêng chôn cất tử sĩ Trung quốc.
Nghĩa trang Thịnh Hưng có 111 mộ tử sĩ
Trung Quốc, nghĩa trang Yên Bình có 131 mộ.”
Tài liệu lịch sử nước ngoài cho hay
binh lính Trung Quốc tham gia cuộc chiến Việt Nam chủ yếu trong
các binh chủng công binh và phòng không.
Một bài của tác giả Bob Seals trên
trang Military History năm 2008 nói theo tài liệu mật của CIA,
ngoài phòng không, Trung Quốc còn cung cấp tên lửa, đạn pháo, hậu
cần, đường xe lửa, xe phá mìn và các đơn vị công binh hàn gắn lại
cơ sở hạ tầng bị các đợt oanh kích của Hoa Kỳ phá hủy... Đỉnh
điểm của sự can dự từ phía Trung Quốc vào cuộc chiến Việt Nam là
năm 1967, khi tổng số lực lượng phòng không lên tới 17 sư đoàn,
với 150,000 lính.
Bài trên Military History cũng nói phía
Trung Quốc cho rằng họ đã bắn hạ 1,707 máy bay Mỹ trên vùng trời
Việt Nam...
NMH 1/12/2023
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Trung Tin Lý chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, November 30,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang