Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút Ký
Chủ đề:
chiến trận quảng
trị/mhđl–1972
Tác giả:
Lâm Vĩnh Thế
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Ngày
30/3/1972, 3 Sư Đoàn Cộng sản Bắc Việt (CSBV) vượt Khu Phi
Quân Sự (tiếng Anh gọi là DeMilitarized Zone, viết tắt là
DMZ), tấn công vào các Căn cứ phòng thủ của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa (QLVNCH) ở phía Bắc và phía Tây của tỉnh Quảng
Trị thuộc Vùng I. Cuộc Tổng Tấn Công 1972, mà giới truyền
thông Hoa Kỳ gọi là The Easter Offensive thật sự bắt đầu. Ba
ngày sau, 3 Sư Đoàn khác của CSBV tấn công vào An Lộc, tỉnh
lỵ của tỉnh Bình Long ở Vùng III, cách Sài Gòn 60km về hướng
Bắc.
Ngày 14/4/1972, tỉnh Kontum thuộc Vùng II cũng
bị 2 Sư Đoàn CSBV tấn công.
Tại vùng I, ngày
2/5/1972, tỉnh Quảng Trị lọt vào tay quân CSBV sau khi Chuẩn
tướng Vũ Văn Giai, Tư lệnh Sư Ðoàn 3 Bộ Binh của QLVNCH,
quyết định rút khỏi Căn cứ Cổ thành Quảng Trị (có tên là Cổ
thành Ðinh Công Tráng). Phía Bắc tỉnh Thừa Thiên và thành
phố Huế bị đe dọa nặng nề. Ngày hôm sau, 3/5/1972, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm Trung tướng Ngô Quang Trưởng
[1], đang là Tư lệnh Quân Ðoàn IV, thay thế Trung tướng
Hoàng Xuân Lãm trong chức vụ Tư lệnh Quân Ðoàn I. Ngay chiều
hôm đó, cùng với một số sĩ quan thân cận trong bộ tham mưu
của mình, Tướng Trưởng bay ngay ra Huế. Từ phi trường Phú
Bài, tin “Tướng Trưởng đã về” loan truyền đi nhanh chóng và
thành phố Huế như được hồi sinh. Sau một thời gian cấp tốc
ổn định tình hình tại Huế, Tướng Trưởng tổ chức cuộc hành
quân lấy tên là Chiến Dịch Lam Sơn 72 nhằm phản công để tái
chiếm Quảng Trị. Chiến Dịch Lam Sơn 72 chính thức kết thúc
khi QLVNCH đã toàn thắng và chiếm lại được Cổ thành Quảng
Trị vào ngày 15/9/1972. Bài viết này cố gắng ghi lại phần
nào diễn tiến của trận đánh này: trận đánh đẫm máu nhứt
trong suốt thời gian kéo dài 20 năm của Chiến Tranh Việt
Nam.
Tầm Quan Trọng về Chính Trị của Trận Ðánh
Khi ông Richard M. Nixon nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ vào
tháng 1/1969, Hoa Kỳ đang có trên nửa triệu quân tại VNCH,
với 31,000 quân đã tử trận, và Chiến Tranh Việt Nam đã trở
thành mối chia rẽ trầm trọng nhứt trong dân chúng Mỹ kể từ
khi cuộc Nội Chiến (Civil War, 1861–1865) chấm dứt cách đó
hơn một trăm năm. Tổng thống Nixon phải tìm cách làm thế nào
để Hoa Kỳ có thể rút ra khỏi cuộc chiến mà không mang tiếng
là bỏ rơi Đồng minh VNCH. Giải pháp ông tìm ra được gọi là
chính sách Việt–Nam–Hóa chiến tranh (Vietnamization of the
War): rút quân Mỹ ra khỏi Miền Nam từ từ, theo từng đợt, có
kế hoạch, song song với việc chuẩn bị cho QLVNCH có thể tự
đảm nhận hoàn toàn trách nhiệm trong cuộc chiến tự vệ này.
Cuộc thử lửa đầu tiên của chính sách này là cuộc Hành Quân
Lam Sơn 719 (tháng 2 và 3/1971) của QLVNCH tấn công sang
Lào, nhắm phá hủy các Căn cứ hậu cần trên đường mòn Hồ Chí
Minh của CSBV. QLVNCH có đạt được một số mục tiêu của cuộc
hành quân này nhưng cũng đã phải trả một giá khá đắt với
nhiều tổn thất nặng nề. Miền Bắc thì cho rằng họ đã đánh bại
QLVNCH và, như vậy, chính sách Việt–Nam–Hóa chiến tranh của
Nixon đã thất bại. Cuộc Tổng Tấn Công Mùa Hè 1972 lần này
của Bắc Việt là để cho cả thế giới thấy rõ sự thất bại hoàn
toàn, không thể chối cãi được, của chính sách Việt–Nam–Hóa
chiến tranh của Mỹ.
Từ giữa năm 1968, sau cuộc Tổng
Tấn Công Tết Mậu Thân, Mỹ và Bắc Việt, và sau đó cả VNCH và
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đã bắt đầu hòa đàm tại Paris.
Cuộc thương thuyết đã kéo dài 4 năm và đang đi đến giai đoạn
phải kết thúc. Cả 2 phe lâm chiến đều muốn chiếm thế thượng
phong trên mặt trận quân sự để có lợi thế trong mặt trận
ngoại giao. Trận Quảng Trị trở thành một ván bài hết sức
quan trọng mà cả hai phe đều muốn thắng.
Về phía VNCH
và Hoa Kỳ, bằng mọi giá, phải tái chiếm Quảng Trị. Trung
tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân Ðoàn I, đã được giao
cho sử dụng những đơn vị thiện chiến nhứt của QLVNCH. Hoa Kỳ
cũng muốn thấy QLVNCH tái chiếm Quảng Trị, nên đã cố gắng
hết sức hỗ trợ phi pháo cho QLVNCH trên chiến trường. Chưa
bao giờ sự yểm trợ phi pháo của Hoa Kỳ được thực hiện với
một cường độ ác liệt như vậy. Ngoài việc yểm trợ tối đa bằng
đại pháo cũng như phi cơ oanh kích từ các chiến hạm của Hạm
Ðội Thái Bình Dương ở ngoài khơi Biển Ðông còn có cả những
phi vụ “trải thảm” liên tục bằng phi cơ chiến lược B52 xuất
phát từ Căn cứ Andersen ở đảo Guam và Căn cứ U–Tapao ở Thái
Lan. Thống kê của Không Quân Mỹ cho thấy, chỉ nội trong 3
tháng 4, 5, và 6/1972, tại mặt trận Quảng Trị, đã có tất cả
2,700 phi vụ B52, với tổng số bom đã trải thảm là 57,000 tấn
[2].
Về Hải Quân Hoa Kỳ, lực lượng tham chiến lúc đó là Hải Ðoàn
Ðặc Nhiệm 77 (Task Force 77) thuộc Ðệ Thất Hạm Ðội, với 2
hàng không mẫu hạm Hancock và Coral Sea (về sau tăng cường
thêm 4 hàng không mẫu hạm nữa là Kitty Hawk, Constellation,
Midway, và Saratoga) và rất nhiều khu trục hạm và tuần dương
hạm. Mỗi hàng không mẫu hạm đều có 1 Không Đoàn (air wing)
với khoảng 90 phi cơ phản lực thuộc các loại F4 (Phantom),
A7 (Corsair), và A6 (Intruder)
[3].
Dĩ nhiên, số thương vong của quân Bắc Việt do những vụ yểm
trợ phi pháo này của Hoa Kỳ lên đến mức kinh hoàng.
Về phía Bắc Việt,
để chứng tỏ là chính sách Việt–Nam–Hóa hoàn toàn thất bại,
bằng mọi giá, phải giữ cho được Quảng Trị; lệnh tử thủ Quảng
Trị được Hà Nội áp đặt lên các cấp chỉ huy các lực lượng
đang chiếm giữ Quảng Trị. Khi Tướng Trưởng ra lệnh bắt đầu
Chiến Dịch Lam Sơn 72 để phản công nhằm tái chiếm Quảng Trị
vào ngày 28/6/1972 thì thị xã Quảng Trị và Cổ thành Ðinh
Công Tráng đã nằm trong tay địch gần 2 tháng trời. Các lực
lượng Bắc Viêt đã có quá dư thì giờ để thực hiện và tổ chức
các công sự cần thiết cho việc tử thủ này, từ hầm hố, giao
thông hào, chướng ngại vật cho đến việc bố trí các trận địa
pháo, hỏa tiễn, phòng không, v.v. Các đơn vị của Sư Ðoàn
Nhảy Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) của QLVNCH
phải trả giá bằng máu cho từng thước đất, từng con đường,
từng ngôi nhà mà họ chiếm lại. Chưa bao giờ hai Lực Lương
Tổng Trừ Bị thiện chiến nhứt của QLVNCH đã có số thương vong
cao như vậy trong suốt thời gian gần 20 năm của Chiến Tranh
Việt Nam.
Tương Quan Lực Lượng Hai Bên
Các lực
lượng CSBV bảo vệ Quảng Trị gồm các đơn vị sau đây:
–
2 Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 320B: Trung Ðoàn 48 và Trung Ðoàn
Triệu Hải.
– 1 Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 325: Trung Ðoàn
95.
– 1 Trung Ðoàn của Sư Ðoàn 308: Trung Ðoàn 88.
– 2 Tiểu Đoàn địa phương của Quảng Trị.
– Về sau,
khi trận đánh đã diễn ra ác liệt, còn có thêm sự chi viện
của các đơn vị còn lại của Sư Ðoàn 325 và Sư Ðoàn 312.
Về phía QLVNCH, lực lượng tấn công tái chiếm Quảng Trị
gồm có các đơn vị sau đây:
– 2 Lữ Ðoàn của Sư Ðoàn
Dù: các Lữ Ðoàn II và III.
– 3 Lữ Ðoàn của Sư Ðoàn
TQLC: các Lữ Ðoàn 147, 258, và 369.
– Liên Ðoàn 81
Biệt Cách Dù.
– 2 Thiết Ðoàn 7 và 18 của Binh Chủng
Thiết Giáp.
– Các Tiểu Đoàn Pháo Binh của hai Sư Ðoàn
Dù và TQLC.
Về phía Hoa Kỳ, hoàn toàn không có sự
tham dự của các lực lượng bộ chiến (ground combat troops)
nhưng có sự yểm trợ rất lớn về phi pháo, kể cả B52.
Kế Hoạch Phản Công của Tướng Trưởng
Kế hoạch phản
công để tái chiếm Quảng Trị của Trung tướng Ngô Quang
Trưởng, Tân Tư lệnh Quân Ðoàn I, gồm 2 phần chánh:
–
Phần I: ổn định tình hình tại Huế.
–
Phần II: tấn
công lên phía Bắc để tái chiếm Quảng Trị.
Giữ vững
Huế
Sau khi Quảng Trị thất thủ, cùng với việc
CSBV truy kích các đơn vị của QLVNCH triệt thoái giữa Quảng
Trị và Thừa Thiên, tạo ra Ðại Lộ Kinh Hoàng trên Quốc lộ 1,
thành phố Huế vừa phải gánh chịu áp lực rất nặng của địch từ
bên ngoài vừa phải đối phó với tình hình khó khăn bên trong
thành phố do việc hàng vạn dân tỵ nạn từ Quảng Trị kéo vào,
và các tệ nạn do binh sĩ vô kỷ luật của các đơn vị triệt
thoái gây nên.
Ðể ổn định tình hình và lòng dân tại
thành phố Huế, hành động đầu tiên của Tướng Trưởng là ban ra
2 lệnh hết sức quan trọng:
1. Thiết lập Bộ Tư Lệnh
Tiền Phương của Quân Ðoàn I tại phía Bắc thành phố Huế với
nhiệm vụ chặn đứng tất cả các cuộc tấn công của quân CSBV;
và,
2. Ra lệnh cho tất cả các quân nhân đã bỏ đơn vi,
hay lạc đơn vị, hoặc không còn đơn vị, phải lập tức trình
diện với các cấp thẩm quyền quân sự trong thành phố; những
quân nhân không tuân theo lệnh này sẽ bị bắn bỏ ngay tại
chỗ. Chỉ trong vài ngày tình hình an ninh và lòng dân của
thành phố Huế được ổn định ngay.
Tướng Trưởng quyết
định giao việc phòng thủ phía Bắc của tỉnh Thừa Thiên và
thành phố Huế cho 2 đơn vị thiện chiến của Bộ Tư Lệnh Tiền
Phương của Quân Ðoàn I. Sư Ðoàn TQLC, với Tư lệnh mới là Ðại
tá Bùi Thế Lân [4],
được giao nhiệm vụ phòng thủ phía Bắc và phía Tây–Bắc của
Huế. Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, với Tư lệnh là Thiếu tướng Phạm Văn
Phú [5], chịu trách nhiệm phòng thủ
hướng Nam và Tây–Nam của Huế, ngăn chận tấn công của quân
CSBV từ thung lũng A Shau
[6].
Về phía Bắc của Huế,
tuyến phòng thủ của TQLC chạy dài theo bờ Nam của sông Mỹ
Chánh với Lữ Ðoàn 147 bên tả và Lữ Ðoàn 369 bên hữu. Lữ Ðoàn
147, với Lữ đoàn trưởng là Trung tá Nguyễn Năng Bảo, gồm 3
Tiểu Đoàn tác chiến là các Tiểu Ðoàn 1 (Quái Ðiểu), Tiểu
Ðoàn 4 (Kình Ngư), Tiểu Ðoàn 7 (Hùm Xám), và Tiểu Ðoàn 1
Pháo Binh TQLC (Lôi Hỏa). Lữ Ðoàn 369, với Lữ đoàn trưởng là
Trung tá Nguyễn Thế Lương, gồm 3 Tiểu Đoàn tác chiến là các
Tiểu Ðoàn 3 (Sói Biển), Tiểu Ðoàn 6 (Thần Ưng), Tiểu Ðoàn 9
(Mãnh Hổ), và Tiểu Ðoàn 3 Pháo Binh TQLC (Nỏ Thần). Hai Lữ
Đoàn TQLC này có nhiệm vụ ngăn chận tất cả các cuộc tấn công
xuống phía Nam của các đơn vị thuộc 3 Sư Đoàn CSBV là các Sư
Ðoàn 304, Sư Ðoàn 325, và Sư Ðoàn 308.
Về phía Tây và
Tây–Nam của Huế, các đơn vị của Sư Ðoàn 1 BB của Tướng Phú
có nhiệm vụ chặn đứng tất cả các cuộc tấn công của các đơn
vị của Sư Ðoàn 324B của CSBV từ Thung lũng A Shau.
Sau gần 2 tháng tổ chức phòng thủ và ổn định hoàn
toàn tình hình mặt trận Huế, Tướng Trưởng chuyển sang thế
phản công với mục tiêu tái chiếm Quảng Trị.
Phản công
tái chiếm Quảng Trị
Các chuẩn bị trước khi Lam Sơn 72
bắt đầu
Cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị mang tên
là Chiến Dịch Lam Sơn 72, chính thức khởi sự vào ngày
28/6/1972, và chấm dứt vào ngày 16/9/1972 sau khi TQLC của
QLVNCH đã cắm cờ VNCH trên Cổ thành Quảng Trị.
Vì tầm
quan trọng rất lớn của cuộc hành quân phản công này, các
cuộc chuẩn bị cho chiến Dịch này được thực hiện rất kỹ
lưỡng, bao gồm tất cả 3 giai đoạn
[7]:
– 10 ngày đầu
của tháng 6/1972: tất cả các đơn vị được rà soát, sắp xếp
lại trên toàn mặt trận.
– Từ ngày 11 đến ngày
18/2/1972: ở phía Tây, Sư Ðoàn 1 BB mở một cuộc tấn công về
hướng Căn cứ hỏa lực Veghel; về phía Bắc, các đơn vị Dù và
TQLC mở những cuộc hành quân phía Bắc sông Mỹ Chánh để thăm
dò lực lượng địch.
– Từ ngày 19 đến 27/6/1972: mở 2
cuộc hành quân nhằm mục tiêu đánh lừa địch, quân Dù tấn công
vào Cam Lộ, và TQLC đổ bộ vào Cửa Việt.
Hai ngày
trước khi Chiến Dịch Lam Sơn 72 bắt đầu, Tướng Trưởng ra
lệnh phát động một cuộc oanh kích rất dữ dội vào các địa
điểm đóng quân, các vị trí pháo, cũng như các khu vực hậu
cần của địch. Ngoài các đơn vị phi pháo cơ hữu của QLVNCH,
còn có sự tham dự tích cực của các đơn vị phi pháo của Hoa
Kỳ, bao gồm cả các pháo hạm ngoài khơi và oanh tạc cơ chiến
lược B52 xuất phát từ Thái Lan (Căn cứ U–Tapao) và đảo Guam,
như chúng ta thấy trong bản đồ bên dưới đây:
Chiến Dịch Lam Sơn 72 thật sự bắt đầu
Ngày 28/6/1972
Chiến Dịch Lam Sơn 72 chính thức bắt đầu, với 2 mũi tấn công
chính về hướng Bắc, phối hợp với một mũi phụ về hướng
Tây–Nam Huế. Vì xuất thân là một sĩ quan Nhảy Dù (chức vụ
đầu tiên trong binh nghiệp của ông, vào tháng 7/1954, là một
Thiếu uý Trung đội trưởng của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù
[8]),
Tướng Trưởng quyết định giao cho Sư Ðoàn Nhảy Dù làm mũi tấn
công chính trong cuộc hành quân quan trọng này. Hướng tấn
công của Sư Ðoàn Dù là phía Tây–Nam Quốc lộ 1, tiến về phía
La Vang. Mũi tấn công thứ nhì ở phía Bắc được giao cho Sư
Ðoàn TQLC, dọc theo Hương lộ 555, tiến về phía Triệu Phong.
Mũi tấn công phía Tây–Nam Huế là trách nhiệm của Sư Ðoàn 1
BB. Phía Nam đèo Hải Vân, trách nhiệm bảo vệ Ðà Nẵng được
giao cho Sư Ðoàn 3 BB đang được tái thiết và tái huấn luyện
dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh mới là Chuẩn tướng Nguyễn Duy
Hinh [9].
Cuộc phản công hướng về phía Bắc với hai Sư
Ðoàn Dù và TQLC, với mục tiêu là chiếm lại cho được Quảng
Trị, có thể được xem như gồm 2 đợt:
– Đợt 1: từ ngày
28/6/1972 đến ngày 27/7/1972 với Sư Ðoàn Dù là lực lượng
chính.
– Ðợt 2: từ ngày 27/7/1972 đến ngày 16/9/1972
khi toàn thắng, chiếm lại được Cổ thành Ðinh Công Tráng
(Quảng Trị), với Sư Ðoàn TQLC là lực lượng chính.
Ðợt
1 của cuộc tấn công với Sư Ðoàn Dù
Sau khi
nhận nhiệm vụ tại Quân Ðoàn I, Tướng Trưởng đã yêu cầu Bộ
Tổng Tham Mưu tăng viện cho ông để trám vào sự mất mát của
Sư Ðoàn 3 BB, và đã được tăng viện 2 Lữ Ðoàn của Sư Ðoàn Dù.
Lữ Ðoàn II, với Lữ đoàn trưởng là Ðại tá Trần Quốc Lịch (về
sau thăng lên chuẩn tướng, làm Tư lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh
[10]),
đến Huế vào ngày 8/5/1972 và được Tướng Trưởng điều động lên
ngay mặt trận phía Bắc, trấn giữ phòng tuyến dọc bờ Nam của
sông Mỹ Chánh, cùng với Lữ Ðoàn 258 (với Lữ đoàn trưởng là
Ðại tá Ngô Văn Ðịnh) của Sư Ðoàn TQLC. Lữ Ðoàn III, với Lữ
đoàn trưởng là Ðại tá Trương Vĩnh Phước, cũng được tăng viện
cho Vùng I vào ngày 22/5/1972. Ngay sau đó, Bộ Chỉ Huy của
Sư Ðoàn Dù, với Tư lệnh là Trung tướng Dư Quốc Ðống, cũng
bay ra Vùng I, và đặt tại Bãi Ðổ Quân Sally (Landing Zone
(LZ) Sally) ở phía Nam Sông Bồ, ngay bên cạnh Quốc lộ 1
[11].
3:00g sáng ngày 28/6/1972, Ðại tá Trần
Quốc Lịch điều động 3 Tiểu Đoàn của Lữ Ðoàn vượt sông Mỹ
Chánh tấn công lên phía Bắc: Tiểu Ðoàn 2 do Thiếu tá Nguyễn
Ðình Ngọc làm Tiểu đoàn trưởng đi cánh trái, Tiểu Ðoàn 1 do
Thiếu tá Lê Hồng làm Tiểu đoàn trưởng đi giữa, và Tiểu Ðoàn
3 do Thiếu tá Trần Văn Sơn làm Tiểu đoàn trưởng đi cánh
phải. Nhờ yếu tố bất ngờ, các Tiểu Đoàn Dù này đã đạt được
những kết quả rất khích lệ, phá được phòng tuyến của quân
Bắc Việt, tấn công thẳng vào Bộ Chỉ Huy của Trung Ðoàn chiến
xa 203 của địch, tịch thu được nhiều vũ khí nặng (như súng
cối 61 và 82ly, súng phòng không 37 và 57ly), và luôn cả 3
chiến xa T54 của địch. Các lực lượng Dù tiếp tục tiến lên
phía Bắc, và sau đó Tiểu Ðoàn 3 mở mũi dùi tấn công về phía
Ðông nhằm tái chiếm quận Hải Lăng.
Rạng sáng cùng
ngày, thêm hai Tiểu Ðoàn Dù nữa là Tiểu Ðoàn 9 (với Tiểu
đoàn trưởng là Trung tá Trần Hữu Phú) và Tiểu Ðoàn 11 (với
Tiểu Đoàn trưởng là Thiếu tá Lê Văn Mễ) được trực thăng vận
đổ xuống phía Bắc sông Nhung. Hai Tiểu Đoàn này cùng đi song
song, tiến lên phía Bắc và nhổ hết tất cả các chốt của địch.
Chắc chắn đã đoán được mục tiêu của cuộc phản công này của
QLVNCH là nhắm vào việc chiếm lại Quảng Trị, địch quân đã
chống cự rất mãnh liệt, với những cuộc pháo kích liên tục
bằng đại pháo 122ly và 130ly cũng như hỏa tiễn 107ly, gây
thương vọng rất nặng nề cho các Tiểu Đoàn Dù. Một thí dụ
điển hình là trận Tân Lê Phước Môn, tất cả 4 Đại Đội trưởng
của Tiều Ðoàn 9 đều bị thương, với Ðại uý Ngưu, Ðại đội
trưởng của Ðại Ðội 94 bị tử thương.
Sau nhiều trận
kịch chiến với quân Bắc Việt trong khoảng 10 ngày, Tiểu Ðoàn
3 Dù chiếm lại được quận Hải Lăng vào 4:00g chiều ngày
7/7/1972. Trong trận này, Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Trần Văn
Sơn bị thương nặng và được thay thế bởi Thiếu tá Võ Thanh
Ðồng, Tiểu đoàn phó của Tiểu Ðoàn 9 Dù
[12]. Với Hải Lăng
được tái chiếm, con đường tiến lên phía Bắc hướng về Cổ
thành Quảng Trị của các đơn vị QLVNCH đã được rút ngắn rất
nhiều nhưng việc tiến quân hoàn toàn không dễ dàng hơn một
chút nào hết. Còn ngược lại nữa là khác. Lý do thật đơn
giản: các lực lượng địch chiếm giữ Quảng Trị đã nhận được
lệnh tử thủ. Trọn 3 tuần lễ, từ ngày 7/7 đến ngày 27/7/1972,
các Tiểu Đoàn Dù (tăng cường thêm với Tiểu Ðoàn 5 vừa giải
tỏa xong An Lộc) đã tiến rất chậm trong phần đất rất ngắn
giữa sông Nhung và sông Thạch Hãn vì sự chống trả mãnh liệt
của địch. Chỉ sau khi phi cơ B52 trải thảm dọc bờ Bắc sông
Thạch Hãn, Tiểu Ðoàn 5 mới vượt được sông Thạch Hãn, tiến
vào đóng quân tại khu vực của thôn An Thái, chỉ còn cách Cổ
thành Ðinh Công Tráng độ 3km về phía Tây–Nam. Trận đánh tái
chiếm thị xã Quảng Trị và Cổ thành Ðinh Công Tráng của các
Tiểu Đoàn Dù thật sự bắt đầu vào ngày 17/7/1972 với các cánh
quân được bố trí như sau:
– Tiểu Ðoàn 7 phía Tây thị
xã.
– Tiểu Ðoàn 11 từ bờ sông Thạch Hãn đến Ngã ba
Long Hưng.
– Tiểu Ðoàn 9 phía Nam thị xã.
–
Tiểu Ðoàn 6 phía Ðông thị xã.
– Tiểu Ðoàn 5 là lực
lượng chính tấn công vào Cổ thành Ðinh Công Tráng.
Trung tá Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 5 Dù,
quyết định ngày hôm sau, 18/7/1972, toàn bộ Tiểu Đoàn sẽ
đồng loạt tấn công vào Cổ thành, với mục tiêu là nội trong 2
ngày phải chiếm cho được ít nhứt là phân nửa chu vi bờ
thành.
Cổ thành Đinh Công Tráng được xây dựng vào năm
1823 thời vua Minh Mạng. Lúc mới xây, thành làm bằng đất;
đến năm 1838 thì mới được xây lại bằng gạch. Thành hình
vuông, mỗi cạnh dài khoảng 500m, nên chu vi của thành gần
2000m. Tường thành cao 9.4m, dưới chân dày 12m. Bao quanh
thành có hào rộng 4m, sâu 8m, bốn góc thành là 4 pháo đài
cao nhô hẳn ra ngoài. Khi trận Quảng Trị bắt đầu vào ngày
30/3/1972 thì trong Cổ thành là bản doanh của Tiểu Khu Quảng
Trị và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh của QLVNCH (Bộ Chỉ Huy
Tiền phương của Sư Ðoàn 3 thì đóng ở Căn cứ Ái Tử)
[13].
Với quy mô kiên cố của thành như vậy, với quyết
tâm tử thủ của các lực lượng địch chống giữ thành, cùng với
sự yểm trợ tối đa của các đơn vị chiến xa, pháo binh, và
phòng không của địch, các cánh quân Dù đã bị tổn thất rất
nặng nề với những số thương vong rất lớn. Nhưng ngược lại
với các đợt oanh kích phi pháo của Hải Quân và Không Quân
Hoa Kỳ (máy bay B52 trải thảm), quân Bắc Việt cũng phải trả
giá rất đắt trong việc chống giữ Cổ thành Ðinh Công Tráng.
Trung tá Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 5
Dù, lực lượng tấn công chính, chỉ định Ðại Ðội 51, với Ðại
uý Trương Ðăng Sỹ làm Ðại đội trưởng, và Ðại Ðội 52, với
Trung uý Hồ Tường làm Ðại đội trưởng, cùng song song tiến
lên trước. Cuộc tiến quân vô cùng khó khăn vì sự chống trả
quyết liệt của địch. Ta hãy nghe lời kể lại cuộc tiến quân
của chính Ðại uý Sỹ (về sau thăng cấp lên thiếu tá) như sau
[14]:
“Từ làng Trí Bưu, về hướng Tây–Bắc, mục tiêu kế
tiếp là Nhà Thờ Trí Bưu. Tôi và Hồ Tường song song bung đội
hình từng bước tiến lên, nhường làng Trí Bưu lại cho Bộ Chỉ
Huy Tiểu Đoàn. Đoạn đường từ đây đến Nhà Thờ Trí Bưu khoảng
vài trăm thước cũng không phải dễ đi...
Tôi đã sử
dụng tất cả hỏa lực yểm trợ: 18 khẩu 105ly, cơ hữu Nhảy Dù,
4 khẩu 155ly, 2 khẩu 175ly của Quân Đoàn I...
Ngày
nào cũng có ít nhất hai phi tuần oanh tạc. Ban đêm, thỉnh
thoảng còn được hải pháo từ Đệ thất hạm đội bắn yểm trợ. Nếu
cần thiết, còn được 18 khẩu 105ly của Thủy quân Lục chiến
tăng cường. Ngày nào ít lắm cũng có một hay hai lần bắn
‘T.O.T’.
Có lúc chúng tôi phải tiến quân trong mưa
bụi của Pháo Binh, mục đích không cho địch quân ngóc đầu
khỏi hố. Tôi áp dụng chiến thuật từng bước nhảy vọt. Hồ
Tường tiến tới từ 50 đến 100m thì dừng lại bố trí, 51 tiến
lên qua mặt 52, rồi lại tiến lên 50m đến 100m dừng lại hầm
hố bố trí, cứ thế tiến dần...
Nhưng sức kháng cự của
địch quân còn quá mạnh, nhất là bên cánh phải còn khu làng
nhỏ sát bờ sông Thạch Hãn, địch bắn qua quá rát. Ban đêm đôi
lúc chúng tôi còn nghe cả tiếng chiến xa địch.”
Trước
thực tế chiến trường như vậy, nhiều đơn vị đã được tăng phái
cho mũi dùi tấn công của hai Ðại Ðội 51 và 52 của Tiểu Ðoàn
5 Dù:
– Ðại Ðội 2 Trinh Sát của Sư Ðoàn Dù.
–
1 Đại Đội của Tiểu Ðoàn 11 Dù (Tiểu Ðoàn “Song Kiếm Trấn
Ải”).
– 2 Đại Đội của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù (vừa
giải vây An Lộc xong, nổi tiếng với 2 câu thơ ca tụng của
người dân An Lộc như sau:
“An Lộc địa sử ghi chiến
tích, Biệt Kích Dù vị quốc vong thân”.
Mặc dù đã được
tăng viện như thế, mũi dùi tấn công Cổ thành Ðinh Công Tráng
của các đơn vị Nhảy Dù vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn vì
sức chống trả điên cuồng của địch. Ðại uý Sỹ đã 2 lần cố
gắng tạo cơ hội cho đơn vị của mình dựng quốc kỳ VNCH trên
Cổ thành nhưng cả 2 lần đều không kéo dài được lâu.
Lần thứ nhứt, ông sử dụng một toán cảm tử gồm 8 binh sĩ, với
Hạ sĩ nhứt Trần Tâm làm trưởng toán, và Binh nhứt Hồ Khang,
một người sinh trưởng và lớn lên tại Quảng Trị, sẽ có nhiệm
vụ dựng cờ. Toán cảm tử xuất phát lúc nửa đêm, và đến sáng
sớm thì họ thành công dựng được quốc kỳ VNCH, nhưng lập tức
địch tập trung pháo dữ dội vào địa điểm dựng cờ. Hai Ðại Ðội
51 và 52 tiến lên ngay để tiếp cứu toán cảm tử. Khi đến gần
bờ thành, họ không thể tiến được nữa vì bị hào thành rộng
gần 10m ngăn chận. Ðêm hôm đó, Ðại uý Sỹ được trinh sát báo
cho biết 4 binh sĩ trong toán cảm tử đã bị tử thương, số còn
lại bị mất tích. Sáng hôm sau, ông cho gọi một phi tuần máy
bay khu trục A1 Skyraider của Không Quân VNCH đến dội bom,
đánh sập được một góc tường thành, lấp được khoảng hào thành
đó. Các đơn vị Dù vượt qua hào, tiến vào chiếm và bám chặt
góc tường thành đã bị đánh sập đó.
Ðại uý Sỹ cho dựng
cờ VNCH lần thứ hai, nhưng ngay lúc đó một phi tuần phản lực
cơ A37 oanh kích lầm vào các đơn vị Dù gây thương vong cho
hơn phân nửa các đơn vị Dù. Cuộc tấn công của Tiểu Ðoàn 5 Dù
vào Cổ thành Ðinh Công Tráng phải tạm ngưng. Ngày hôm sau,
26/7/1972, có lệnh từ Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho Sư
Ðoàn Dù bàn giao việc tấn công Cổ thành lại cho Sư Ðoàn TQLC
[15].
Ðợt 1 của cuộc tấn công với Sư Ðoàn TQLC
Trở lại thời gian đầu tháng 5/1972, sau khi cử Trung
tướng Ngô Quang Trưởng thay Trung tướng Hoàng Xuân Lãm làm
Tư lệnh Quân Ðoàn I vào ngày 2/5/1972, thì 2 ngày sau, vào
ngày 4/5/1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng cử Ðại tá
Bùi Thế Lân, lúc đó đang là Tư lệnh phó lên thay Trung tướng
Lê Nguyên Khang làm Tư lệnh Sư Ðoàn TQLC. Ðến cuối tháng,
vào ngày 28/5/1972, Ðại tá Lân vinh thăng chuẩn tướng nhiệm
chức, do chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân gắn sao
cho ông ngay Bộ Chỉ Huy của Sư Ðoàn TQLC tại Huế.
Ngay từ ngày đầu của Chiến Dịch Lam Sơn 72, 28/6/1972, thi
hành lệnh của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Chuẩn tướng Bùi
Thế Lân, tân Tư lệnh của Sư Ðoàn TQLC, đã điều động ngay 4
Tiểu Đoàn tác chiến là các Tiểu Ðoàn 3, 5, 7, và 8 tiến lên
phía Bắc, dọc theo bờ biển, bên phía Ðông của Quốc lộ 1,
song song với Sư Ðoàn Dù. Các Tiểu Đoàn TQLC đã gặp sự kháng
cự mãnh liệt của các đơn vị của Sư Ðoàn 304 Bắc Việt đóng
chốt trong hàng loạt các công sự bê tông vững chắc
(bunkers).
Ngày 29/6/1972, 2 Tiểu
Ðoàn 1 và 4, với tổng số 1,450 quân, được trực thăng vận
(bằng các trực thăng CH46 và CH53 của TQLC Hoa Kỳ) đổ xuống
phía Ðông–Bắc thị xã Quảng Trị, dọc theo Hương lộ 555 tại 2
Bãi Ðổ Quân (LZ = Landing Zone) Flamingo và Hawk. Nhờ các
oanh kích bằng phi pháo, kể cả B52 trải thảm, các Tiểu Đoàn
TQLC không gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch tại các LZ. Tuy
nhiên, sau đó, địch quân đã nhiều lần sử dụng bộ binh có
chiến xa yểm trợ tìm cách bao vây các đơn vị TQLC nhưng đều
bị tiêu diệt bằng hải pháo từ các chiến hạm Hoa Kỳ ở ngoài
khơi, cách bờ biển khoảng 4km. Tổng kết vào cuối tháng 6,
riêng các Tiểu Đoàn TQLC đã gây tổn thất đáng kể cho địch
quân như sau: 1,515 chết, 15 bị bắt làm tù binh, và 18 chiến
xa bị phá hủy [16].
Trong hai tuần lễ đầu của tháng 7/1972, các Tiểu
Đoàn TQLC được lệnh cũng cố các vị trí đã chiếm được của
địch. Tướng Lân thấy cần phải thực hiện thêm một cuộc hành
quân nữa, nhằm đưa một Tiểu Đoàn lên xa hơn phía Bắc để ngăn
chận viện quân của địch. Mục tiêu của cuộc hành quân này là
cắt đứt Hương lộ 560, dài khoảng 17km, từ Căn cứ Cửa Việt
(một Căn cứ cũ của QLVNCH) cho đến thị xã Quảng Trị, con
đường huyết mạch tiếp tế cho các lực lượng của địch cố thủ
trong thị xã Quảng Trị và Cổ thành Ðinh Công Tráng.
Ngày 11/7, Tướng Lân ra lệnh bắt đầu một cuộc hành quân trực
thăng vận mới này, đưa Tiểu Ðoàn 1 (danh hiệu Quái Ðiểu, với
Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Nguyễn Ðăng Hòa) đổ xuống Triệu
Phong, tại các Bãi Ðổ Quân Blue Jay và Crow. Ðây cũng là một
cuộc đổ quân vô cùng nguy hiểm vì là nhảy thẳng vào lòng
địch, và chắc chắn sẽ gặp sự kháng cự mạnh mẽ của địch. Do
đó, đích thân Tướng Trưởng và Tướng Lân đã đến tận nơi xuất
phát, bắt tay tiễn đưa trước khi Thiếu tá Hòa bước lên trực
thăng. Mặc dù các bãi đáp đã được “dọn cỏ” trước bằng phi
pháo và B52, đoàn trực thăng 32 chiếc (cũng của TQLC Hoa Kỳ,
gồm 17 chiếc CH53, mỗi chíếc chở được 60 binh sĩ, và 15
chiếc CH46, mỗi chiếc chở được 20 binh sĩ) của cuộc hành
quân đã được địch quân dàn chào thật kỹ bằng các giàn phòng
không 23 và 37ly.
Chiếc trực thăng của Thiếu tá Hòa
bị trúng dạn phòng không nhưng may mắn không bị rớt, nhưng
khi vừa nhảy ra khỏi trực thăng, Thiếu tá Hòa đã bị trúng
ngay một mảnh đạn pháo 57ly của địch và bị thương ở đùi
phải. Sau khi được băng bó vết thương, ông vẫn ở lại mặt
trận và tiếp tục chỉ huy Tiểu Đoàn. Một chiếc trực thăng
CH53 bị trúng phòng không và nổ tung trên trời, 60 người
trên máy bay chỉ còn 12 người sống sót. Sau khi cuộc đổ quân
hoàn tất, Tiểu Ðoàn 1 có số tổn thất là trên 100 người, vừa
chết vừa bị thương.
Sau 3 ngày giao tranh liên tục và
ác liệt với các đơn vị địch luôn luôn có chiến xa yểm trợ,
Tiểu Đoàn 1, đã chận đứng tất cả các cuộc phản công, bắn
cháy nhiều chiến xa của địch bằng súng M72, và giữ vững được
phòng tuyến, hoàn thành tốt đẹp mục tiêu của cuộc hành quân.
Sau đó, Tiểu Ðoàn 1 được Tiểu Ðoàn 2 (danh hiệu Trâu Ðiên,
với Tiểu đoàn trưởng là Thiếu tá Trần Văn Hợp) tiến lên thay
thế, mở rộng phòng tuyến ra đến cầu Ba Bến, giúp cho Công
Binh TQLC bắc được cầu phao qua sông Vĩnh Ðịnh để cho các
chiến xa M48 đầu tiên của Thiết Ðoàn 20 tiến vào phòng thủ
các vùng lãnh thổ mà trước đó Tiểu Ðoàn 1 đã chiếm giữ được.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ngày 14/7/1972, Tiểu Ðoàn 1
được lệnh rút về Huế để dưỡng quân và bổ sung quân số
[17].
Ngày 22/7/1972, Tướng Lân lại cho mở một cuộc hành quân
mới ở phía Bắc và phía Ðông của thị xã Quảng Trị, nhằm cắt
đứt toàn bộ các đường tiếp tế và truyền tin của địch. Ðây là
một cuộc hành quân hỗn hợp giữa hai Tiểu Đoàn của Lữ Ðoàn
147 TQLC với các đơn vị thiết ky và bộ binh. Các Đại Đội của
Tiểu Ðoàn 5 được trực thăng vận đổ xuống hai Bãi Ðổ Quân
Lima và Victor (xem bàn đồ bên dưới), cách thị xã khoảng 3km
về phía Ðông–Bắc, chỉ gặp kháng cự tương đối yếu ớt của
địch, nhưng, ngược lại, các đơn vị bộ binh và thiết kỵ thì
bị địch chống cự mãnh liệt trước khi kết nối được với các
đơn vị TQLC. Ðến giữa trưa thì cả hai Tiểu Đoàn của Lữ Ðoàn
147 đã bắt tay được với nhau và địch quân bị đẩy lùi về phía
sông Cửa Việt.
Trong các cuộc giao tranh trong hai
ngày kế tiếp, các đơn vị TQLC đã thanh toán xong tất cả các
chốt của địch, với 133 địch quân tử trận, 5 chiến xa bị bắn
cháy, và một bệnh viện dã chiến với 100 giường của địch đã
bị san bằng [18].
Cuộc hành quân này kết thúc Ðợt 1 của Chiến Dịch Lam Sơn 72
mà Sư Ðoàn TQLC chỉ giữ vai trò phụ. Theo quyết định của
Tướng Trưởng, từ ngày 27/7/1972, Sư Ðoàn Dù bàn giao lại cho
Sư Ðoàn TQLC vai trò lực lượng tấn công chính với mục tiêu
là, bằng mọi giá, phải chiếm cho bằng được thị xã Quảng Trị
với biểu tượng là Cổ thành Ðinh Công Tráng.
Ðợt 2 của cuộc tấn công với Sư Ðoàn
TQLC
Ngày 27/7/1972, Chuẩn tướng Bùi Thế Lân đưa ra
kế hoạch hành quân tấn công tái chiếm Cổ thành Ðinh Công
Tráng như sau:
– Lữ Ðoàn 258, với Lữ đoàn trưởng là
Ðại tá Ngô Văn Ðịnh, trước sau đã sử dụng tất cả 7 Tiểu Đoàn
tác chiến của TQLC là các Tiểu Ðoàn 1, 2, 3, 5, 6, 8, 9,
Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh 105ly của Sư Ðoàn TQLC, Thiết Ðoàn 17
(thuộc Lữ Ðoàn 1 Kỵ Binh, với các thiết vận xa M113, Chỉ huy
trưởng là Trung tá Nguyễn Viết Thạnh), và 1 Chi Đoàn chiến
xa M48, chịu trách nhiệm khu vực phía Tây–Nam của Cổ thành,
sẽ là lực lượng tấn công chính vào Cổ thành; ngoài ra, tại
Bộ Chỉ Huy của Lữ Ðoàn 258 TQLC lúc nào cũng có sự hiện diện
của một toán gồm 10 Cố vấn Hoa Kỳ, dưới quyền chỉ huy của
Thiếu tá Gordon Keiser, TQLC Hoa Kỳ, Cố vấn Trưởng của Lữ
Ðoàn 258, “chuyên đảm nhiệm thiết lập kế hoạch hoả lực yểm
trợ của Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ từ Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm
77 của Hạm Ðội 7 ngoài Thái Bình Dương và các phi vụ phi cơ
chiến lược B52 từ Guam và Thái Lan.”
[19]
–
Lữ Ðoàn
147, với Lữ đoàn trưởng là Trung tá Nguyễn Năng Bảo, sử dụng
3 Tiểu Đoàn tác chiến và Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh của TQLC, phụ
trách khu vực phía Ðông–Bắc của Cổ thành, là lực lương tấn
công phụ vào Cổ Thanh và ngăn chận viện quân của địch từ phí
Bắc kéo xuống.
– Lữ Ðoàn 369, với tân Lữ đoàn trưởng
là Ðại tá Nguyễn Thế Lương (thay thế Ðại tá Phạm Văn Chung
lên làm Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn TQLC), làm lực lượng trừ bị.
Về mặt chiến thuật, Tướng Lân quyết định áp dụng
xa luân chiến. “Các Tiểu Ðoàn TQLC từ 1 đến 9 thay phiên
nhau trực thuộc Lữ Ðoàn lên tuyến đầu chiến đấu, rồi lui về
sau bổ sung nghỉ ngơi. Nhờ vậy các Tiểu Ðoàn TQLC đều được
bổ sung đều đặn, khả năng chiến đấu không quá suy giảm vì
tổn thất.” [20]
Cuộc hành quân phản công tái chiếm
Quảng Trị của Lữ Ðoàn 258 TQLC được chia ra làm 3 giai đoạn:
– Giai đoạn 1: từ ngày 27/7/1972 đến ngày 29/8/1972.
– Giai đoạn 2: từ ngày 29/8/1972 đến ngày 9/9/1972.
– Giai đoạn 3: từ ngày 9/9/1972 đến ngày 16/9/1972.
Giai đoạn 1: từ 27/7 đến 29/8
Trong giai đoạn
này, Lữ Ðoàn 258 sử dụng 3 Tiểu Ðoàn 3, 5, và 9. Ðại tá Ngô
Văn Ðịnh quyết định dàn quân như sau:
– Tiểu Ðoàn 3
của Thiếu tá Nguyễn Văn Cảnh phụ trách phía Ðông–Nam Cổ
thành, tại khu vực Nhà thờ Trí Bưu.
– Tiểu Ðoàn 9 của
Trung tá Nguyễn Kim Ðể phụ trách phía Nam thị xã Quảng Trị,
tại khu vực Ngã ba Long Hưng.
– Tiểu Ðoàn 5 của Thiếu
tá Hồ Quang Lịch làm trừ bị cho Lữ Ðoàn, cũng đóng tại Ngã
ba Long Hưng.
Sáng ngày 27/7/1972, Tiểu Ðoàn 3 TQLC
tiến vào thay thế các đơn vị của Tiểu Ðoàn 5 Dù ở phía Nam
Cổ thành, cách bờ thành vào khoảng 200m. Khi các đơn vị của
Tiểu Ðoàn 3 TQLC tiến lên thì cũng bị địch chống trả mãnh
liệt như đối với Tiểu Ðoàn 5 Dù trước đây. Sau 2 tuần lễ
giao tranh, với tỹ lệ thương vong gần 50% (400/700), Tiểu
Ðoàn 3 được lệnh rút về gần Bộ Chỉ Huy của Lữ Ðoàn 258 ở Cù
Hoan để dưỡng quân và bổ sung quân số. Tiểu Ðoàn 8 tiến vào
thay thế Tiểu Ðoàn 3. Sau hơn 2 tuần giao tranh với địch,
Tiểu Ðoàn 8 cũng bị tổn thất rất nặng, lại phải rút ra và
Tiểu Ðoàn 3, sau khi đã được bổ sung, lại tiến lên thay thế
Tiểu Ðoàn 8, cố gắng nhổ các chốt còn lại của địch và mở
rộng khu vực kiểm soát của Tiểu Ðoàn 3 tới sát bờ thành.
Trong thời gian của giai đoạn 1 này, các Đại Đội của
Tiểu Ðoàn 9 thay phiên nhau tấn công, nhổ các chốt của địch
tại khu vực Ngã ba Long Hưng, khu Bệnh viện, và trường Bồ
Ðề, sát bờ sông Thạch Hãn, dọc theo đường Trần Hưng Ðạo dẫn
vào thị xã Quảng Trị. Tổn thất của Tiểu Ðoàn 9 cũng rất nặng
với số thương vong lên đến khoảng 300. Sau đó, Tiểu Ðoàn 9
rút về khu vực Gia Ðằng để dưỡng quân và bổ sung quân số vũ
khí, và được Tiểu Ðoàn 1 tiến lên thay thế.
Với các
thành quả đạt được bằng xương máu này của Tiểu Ðoàn 3 và
Tiểu Ðoàn 9, đường vào thị xã Quảng Trị và Cổ thành Ðinh
Công Tráng đã được mở toang ra cho các đơn vị của TQLC.
Nhưng trận chiến vẫn chưa chấm dứt và máu của các chiến sĩ
TQLC còn phải đổ thêm nhiều nữa.
Giai đoạn 2: từ 29/8
đến 9/9
Trong giai đoạn 2 này, Lữ Ðoàn 258 đã được
tăng cường và sử dụng đến 5 Tiểu Đoàn tác chiến là các Tiểu
Ðoàn 1, 3, 5, 6, và 8.
Cuộc chiến đấu đầy cam go với
tổn thất không kém trong giai đoạn 1 của các Tiểu Đoàn TQLC
lần này diễn ra ngay bên trong thị xã Quảng Trị. Mục tiêu
của các Tiểu Đoàn TQLC là diệt tất cả các chốt của địch,
chiếm giữ các cơ sở hành chánh trong thị xã, chuẩn bị cho
trận đánh cuối cùng: Tấn công và chiếm lại Cổ thành Ðinh
Công Tráng.
Ðại tá Ðịnh phân công cho các Tiểu Đoàn
như sau:
– Tiều Ðoàn 1, thay thế Tiểu Ðoàn 9, sẽ từ
khu Bệnh Viện tấn công lên phía Bắc, chiếm lại Ty Cảnh Sát,
nhà máy điện, trường nữ tiểu học, và doanh trại của Cảnh Sát
Dã Chiến.
– Tiểu Ðoàn 3, thay thế Tiểu Ðoàn 8, tiếp
tục chiếm giữ phía Ðông–Nam Cổ thành.
– Tiểu Ðoàn 5
chịu trách nhiệm khu Ðông–Nam của Ngã ba Long Hưng.
–
Tiểu Ðoàn 6 (với Trung tá Ðỗ Hữu Tùng là Tiểu đoàn trưởng)
chịu trách nhiệm càn quét địch ở phía Bắc Ngã ba Long Hưng
và tiến về phía Tây–Nam Cổ thành.
– Tiểu Ðoàn 8 (với
Thiếu tá Nguyễn Văn Phán là Tiểu đoàn trưởng), sau khi bàn
giao khu vực cho Tiểu Ðoàn 3, được lệnh rút về phía sau làm
trừ bị.
Trong suốt 2 tuần lễ của giai đoạn 2 này, các
Tiểu Đoàn TQLC đã luôn luôn gặp sự kháng cự rất mãnh liệt
của địch. Chiến thuật tác chiến trong thành phố (đã từng
được các đơn vị TQLC áp dụng nhuần nhuyễn tại Huế và Sài Gòn
trong Trận Tết Mậu Thân 1968) đã lại được 4 Tiểu Ðoàn TQLC
1, 3, 5, và 6 đem ra sử dụng một lần nữa. Họ đánh cận chiến
với địch để giành lại từng khu phố, từng con đường, từng
ngôi nhà. Thêm vào đó, các đơn vị pháo binh của địch đóng
bên ngoài thị xã, vẫn tiếp tục pháo vào, gây khó khăn và tổn
thất khá nặng cho các đơn vị TQLC. Tuy vậy, sau cùng, các
Tiểu Đoàn TQLC cũng đã hoàn thành nhiệm vụ, tiến sát vào các
bờ thành của Cổ thành Ðinh Công Tráng.
Giai đoạn 3:
từ 9/9 đến 16/9
Ðây là giai đoạn cuối cùng của Chiến
Dịch Lam Sơn 72, với mục tiêu là tái chiếm Cổ thành Ðinh
Công Tráng. Tướng Lân quyết định dùng 2 Lữ Ðoàn, 147 ở phía
Ðông–Bắc (với 2 Tiểu Ðoàn 3 và 7; Lữ đoàn trưởng 147 là
Trung tá Nguyễn Năng Bảo và Lữ đoàn phó là Trung tá Nguyễn
Xuân Phúc) và 258 ở phía Tây–Nam (với 4 Tiểu Ðoàn 1, 2, 5,
và 6), cùng một lúc tấn công vào Cổ thành.
Mục tiêu
chính của Lữ Ðoàn 258, là Dinh Tỉnh Trưởng Quảng Trị (MT 90;
MT = Mục Tiêu) và Tòa Hành Chánh Tỉnh Quảng Trị (MT 28),
được giao cho Tiểu Ðoàn 2, với Thiếu tá Trần Văn Hợp là Tiểu
đoàn trưởng và Ðại uý Phạm Văn Tiền là Tiểu đoàn phó, có Bộ
Chỉ Huy đóng ở Ngã ba Long Hưng, tại góc đường Lê Huấn và
Quốc lộ 1.
Việc tấn công và chiếm giữ hai Mục Tiêu 28
và 90 này được Thiếu tá Hợp giao cho Ðại Ðội 4 với Đại uý Lê
Quang Liễn là Đại Đội trưởng, và Ðại Ðội 5 với Trung uý
Huỳnh Văn Trọn là Ðại đội trưởng. Chắc chắn cũng đã biết
được ý đồ của các đơn vị TQLC đã có mặt trong thị xã nên từ
sáng sớm ngày 14/9/1972, địch đã “dàn chào” 2 Ðại Ðội 4 và 5
của Tiểu Ðoàn 2 bằng một trận pháo 130ly rất dữ dội nhưng
không gây được tổn thất gì nghiêm trọng. Sau khi trận pháo
chấm dứt, Ðại Ðội 4 tiến chiếm mục tiêu đầu tiên là Trường
Phước Môn, và sau đó là Trường Trung học Teresa, và bắt được
một số tù binh. Khai thác các tù binh, Ðại uý Liễn biết được
họ thuộc một một đơn vị của Sư Ðoàn 320B vừa vượt sông Thạch
Hãn tối hôm trước để tăng viện cho các đơn vị của địch còn
đang cố thủ trong thị xã. Ðêm hôm đó, cùng với Ðại đội phó
là Trung uý Nguyễn Hữu Hào và Ðại đội trưởng Ðại Ðội 5 là
Trung uý Trọn, Ðại uý Liễn thảo luận và lên kế hoạch thật tỉ
mỉ cho cuộc tấn công vào MT 28 vào sáng hôm sau, 15/9/1972.
Với sự yểm trợ của 2 chiến xa M48 và 2 thiết vận xa M113,
hai Ðại Ðội 4 và 5 của Tiểu Ðoàn 2 TQLC, tuy gặp sự chống
trả mãnh liệt của các chốt địch, đã hoàn thành nhiệm vụ,
chiếm lại được Tòa Hành Chánh Tỉnh Quảng Trị (tức MT 28) vào
lúc 8:30g sáng ngày 15/9/1972, với kết quả vô cùng rực rỡ
như sau:
“Riêng Ðại Ðội 4 đã tịch thu được một số lớn
chiến lợi phẩm và một kho tiếp liệu gồm:
– 412 súng
cá nhân.
– 102 súng cộng đồng.
– 40 thùng
lương khô do Trung cộng sản xuất.
– 23 máy truyền tin
của Trung cộng.
– 18 tù binh.
– Nhiều hố chôn
tập thể và xác quanh khu vực Tòa Hành Chánh và khu hầm ngầm
bên trái Tòa Hành Chánh, khoảng 30 xác.
Bộ Chỉ Huy
Tiểu Ðoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến phải dùng 6 đợt thiết vận xa
M113 để chuyển tù binh và chiến lợi phẩm về Bộ Chỉ Huy.”
[21]
Về phần Lữ Ðoàn 147, phụ trách tấn công từ hướng
Ðông–Bắc, mục tiêu chính là thanh toán nốt các chốt của địch
còn cố tử thủ trong tòa Cổ thành Ðinh Công Tráng đã đổ nát
vì bom đạn trong hơn hai tháng đã qua. Nhiệm vụ chính này
được Lữ Ðoàn 147 giao cho Tiểu Ðoàn 3, với Thiếu tá Nguyễn
Văn Cảnh làm Tiểu đoàn trưởng và Thiếu tá Trần Kim Ðệ là
Tiểu đoàn phó.
Thiếu tá Cảnh phân công cho 2 Đại Đội
của Tiểu Ðoàn 3 là Ðại Ðội 2 của Ðại uý Giang Văn Nhân và
Ðại Ðội 3 của Ðại uý Nguyễn Văn Thạch nhiệm vụ nhổ chốt này.
Sáng sớm ngày 15/9/1972, Ðại Ðội 3 tiến lên trước, phá vỡ
được phòng tuyến của địch nơi cửa Hữu của Cổ thành, các
Trung Ðội của Ðại Ðội 2 lập tức tràn lên bờ thành, tỏa ra
tấn công vào tất cả các cửa thành. Trung Ðội 22 chiếm cổng
chính cửa Tiền đường Lê Văn Duyệt. Các chốt của địch quân
kháng cự yếu ớt, rút về cố thủ ở cửa Tả đường Phan Ðình
Phùng, nhưng đã quá trễ. Tất cả các cánh quân của cả hai Ðại
Ðội 2 và 3 của Tiểu Ðoàn 3 đồng loạt xung phong, tràn vào
tất cả các ngõ ngách của khu vực này của Cổ thành. Tiếng
súng kháng cự của địch thưa dần và sau cùng tắt hẳn. Tiểu
Ðoàn 3 TQLC đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Cổ
thành Ðinh Công Tráng trong phạm vi của thị xã Quảng Trị đã
hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của các đơn vị TQLC của
QLVNCH. Cổ thành với tường thành cao 9.4m, dưới chân dày đến
12m, đã bị các trận phi pháo kinh khủng của QLVNCH và Hoa Kỳ
phá tan nát, chỉ còn là đống gạch vụn, giống như một phế
tích, như trong hình bên dưới đây:
“Sau gần 24 giờ chiến đấu không nghỉ, những người lính của Ðại Ðội 2 Tiểu Ðoàn 3 TQLC đã dựng ngọn cờ trên cổng thành cửa Tả vào mờ sáng ngày 15 tháng 9 năm 1972.” [22]
Lễ
thượng cờ VNCH được cử hành chính thức ngày hôm sau, lúc
12:45g trưa ngày 16/9/1972. Chiến Dịch Lam Sơn 72, khởi sự
ngày 28/6/1972, đã chấm dứt với chiến công rực rỡ của Sư
Ðoàn TQLC, QLVNCH, chiếm lại được tỉnh Quảng Trị đã lọt vào
tay quân địch từ ngày 1/5/1972.
Thay Lời Kết
Trong trận đánh quyết liệt và đẫm máu này, “bên thắng
cuộc,” tức Miền Bắc Cộng sản (theo cách gọi của nhà văn Huy
Ðức của Miền Bắc trong tác phẩm có cùng tên), đã thua đậm,
và “bên thua cuộc,” tức Miền Nam Tự do, lại thắng lớn, nhưng
cả 2 bên đều phải chịu những tổn thất rất lớn. Thống kê
chính thức về tổng số thương vong của cả hai phe trong trận
đánh tái chiếm Quảng Trị, từ ngày 28/6/1972 cho đến ngày
16/9/1972, rất khó có thể biết một cách thật chính xác, nhứt
là đối với quân Bắc Việt đã tử thủ và bị chôn vùi trong
những đổ nát của thị xã Quảng Trị và Cổ thành Ðinh Công
Tráng do các trận oanh kích của phi cơ và hải pháo từ Hạm
Ðội 7, của Không Lực VNCH cũng như các phi vụ trải thảm của
B52.
Về phía QLVNCH, chỉ riêng đối với Lữ Ðoàn 258
TQLC, từ ngày 29/3 đến ngày 16/9/1972, tổng số thương vong
chính thức là 3,911 gồm 637 tử thương và 3,274 bị thương:
Dĩ nhiên, các con số này không
bao gồm thương vong của 2 Lữ Ðoàn 147 và 369 của Sư Ðoàn
TQLC, cũng như của các đơn vị của Sư Ðoàn Dù, và các binh
chủng khác của QLVNCH đã có tham gia trận đánh (Biệt Ðộng
Quân, Biệt Cách Dù, Thiết Giáp, v.v.). Trong tác phẩm của
mình, tác giả Dale Andradé (Ghi chú số 17; tr. 196), đã viết
như sau:
“... the South Vietnamese marines
suffered more than 5,000 casualties since June 3,658 of them
during the seven–week battle to recapture the citadel.
Almost one out of every four marines in the entire division
was wounded or killed.” (tr. 196; xin tạm Dịch sang
Việt ngữ như sau:
“... Thủy Quân Lục Chiến của
Nam Việt Nam đã có tổng số thương vong hơn 5,000 từ tháng 6,
trong đó có 3,658 là trong thời gian trận đánh 7 tuần lễ tái
chiếm Cổ thành. Gần như là một phần tư binh sĩ của Sư Đoàn
đã bị thương hoặc tử trận”).
Về phía quân Bắc
Việt, tổng số thương vong chính thức cũng khó có thể biết
chính xác được. Một điều gần như chắc chắn là 2 Trung Ðoàn
48 và Triệu Hải của Sư Ðoàn 320B, đã tử thủ trong thị xã và
Cổ thành, đã bị tổn thất rất nặng, gần như đã bị xóa sổ.
Trong tài liệu chính thức của Việt Nam Cộng sản gần đây,
“công bố tại mít–tinh kỷ niệm 40 năm” của trận đánh, Miền
Bắc công nhận họ đã tổn thất 36,000 quân, và quả thật, 2
Trung Ðoàn 48 và Triệu Hải đã bị xóa sổ. Trung Ðoàn Triệu
Hải từ 1,500 quân chỉ còn lại không tới 1 tiểu đội (khoảng
12 người), và Trung Ðoàn 48 đã bị tổn thất hơn 80% quân số
[23].
Về hồi ức cá nhân, Ðại tá Vũ Trung Thướng, trong trận Quảng
Trị năm 1972 là Chính Trị Viên của Ðại Ðội 5, Tiểu Ðoàn 2,
Trung Ðoàn 48, Sư Ðoàn 320 quân Bắc Việt, đã kể lại như sau:
“... từ ngày 28/6 đến ngày 16/9/1972, Đại Đội 5 của
tôi từ 120 quân, nhưng sau đó chỉ còn 17 người sống sót.”
[24]
Mới đây nhứt, ngày 16/1/2018, Đội Quy Tập Hài Cốt Liệt Sĩ
584 của Bộ Chỉ Huy Quân Sự tỉnh Quảng Trị đã cho biết vừa
tìm thấy thêm 12 hài cốt tại thôn Tân Mỹ, xã Hải Lệ, thị xã
Quảng Trị [25].
Chắc chắn, trong tương lai, sẽ còn có thêm nhiều, rất nhiều,
những vụ tìm thấy và khai quật được hài cốt của các binh sĩ
Bắc Việt đã bị chôn vùi tại khu vực thị xã Quảng Trị và Cổ
thành Ðinh Công Tráng trong trận đánh đẫm máu nhứt trong
Chiến Tranh Việt Nam này.
Lâm Vĩnh Thế
nguồn:
hồn việt–p1;
p2
Tác giả ghi chú:
[1]. Trung tướng
Ngô Quang Trưởng là vị tướng lỗi lạc nhứt của QLVNCH. Ông
sinh ngày 13/12/1929 tại tỉnh Bến Tre (sau đổi tên là Kiến
Hòa), theo học Khoá 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, mãn
khoá ngày 1/6/1954 với cấp bậc thiếu uý, tình nguyện vào
Binh chủng Nhảy Dù, và là một Trung đội trưởng của Tiểu Ðoàn
5 Nhảy Dù. Ông đã lần lượt thăng cấp như sau: thăng cấp
Trung uý ngày 1/12/1955, đại uý năm 1961, thiếu tá năm 1964,
trung tá tháng 4/1965, đại tá nhiệm chức ngày 19/6/1966,
chuẩn tướng nhiệm chức ngày 4/2/1967, Thiếu tướng nhiệm chức
ngày 3/6/1968, Trung tướng nhiệm chức ngày 1/11/1971. Ông
nổi tiếng là một tướng lãnh rất gương mẫu về quân phong,
quân kỷ, rất tận tụy với trách nhiệm, và luôn luôn có mặt
tại những điểm nóng trong khu vực thuộc trách nhiệm của
mình. Ông cũng nổi tiếng là một tướng lãnh trong sạch, thanh
liêm, và không dung túng cho cấp dưới làm bậy, xâm phạm tài
sản của dân chúng. Ông cũng là một trong số rất ít các tướng
lãnh hoàn toàn không có tham vọng chính trị và không bao giờ
dính líu vào các âm mưu, biến cố chính trị. Ông dành toàn
thời gian cho quân vụ. Tướng Trưởng là một trong số ít các
vị tướng lãnh của QLVNCH đã chỉ huy các đơn vị tác chiến từ
cấp thấp nhứt đến cấp cao nhứt: Trung đội trưởng: tháng
7/1954 (một trung đội của Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù); Ðại đội
trưởng: đầu năm 1955 (Ðại Ðội 1, Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù); Tiểu
đoàn trưởng: năm 1961 (Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù); Tư lệnh sư
đoàn: năm 1966 (Sư Ðoàn 1 Bộ Binh); Tư lệnh quân đoàn: Quân
Ðoàn IV (1970-1972) và Quân Ðoàn I (1972-1975). Sau ngày
30/4/1975, ông định cư tại thành phố Springfield, tiểu bang
Virginia, Hoa Kỳ. Ông mất tại đây vào ngày 22/1/2007, thọ 78
tuổi. Theo lời dặn dò của ông, tro hài cốt của ông đã được
gia đình ông mang về Việt Nam và rải trên đèo Hải Vân.
[2].
Lavalle, A.J.C., editor. Airpower and the 1972 spring
invasion. Washington, D.C.: United States Air Force, Office
of Air Force History, 1985. (U.S.A.F. Southeast Asia
monograph series; v. 2, monograph 3). Tr. 58.
[3].
Brand, Matthew C. Airpower and the 1972 Easter Offensive.
Fort Leavenworth, Kansas: U.S. Army Command and General
Staff College, 2007. (Luận văn Master of Military Art and
Science của Trung tá Không Quân Hoa Kỳ Matthew C. Brand).
Tr. 83.
[4].
Thiếu tướng Bùi Thế Lân là 1 trong những sĩ quan TQLC kỳ cựu
nhứt của QLVNCH. Ông sinh tháng 11/1932 tại Hà Nội, tốt
nghiệp Thiếu uý Khoá 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức ngày
1/6/1954, và gia nhập ngay binh chủng TQLC, giữ chức vụ Ðại
đội trưởng, Tiểu Ðoàn 1 TQLC. Năm 1960, ông thăng cấp trung
uý và làm Tham Mưu Trưởng của Liên Ðoàn TQLC. Ngày 1/6/1961,
ông thăng cấp đại uý và làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 4
TQLC. Năm 1963, ông được gởi đi du học Khoá Chỉ Huy và Tham
Mưu TQLC tại Quantico, Virginia, Hoa Kỳ. Sau khi tồt nghiệp,
trở về nước, ông thăng thiếu tá và được bổ nhiệm làm Tham
Mưu Trưởng Lữ Ðoàn TQLC. Sau đó ông lần lượt thăng cấp lên
trung tá (1963) và đại tá (1964), và năm 1971, ông kiêm
nhiệm luôn chức vụ Tư Lệnh Phó TQLC. Ngày 4/5/1972, ông được
bổ nhiệm làm Tư Lệnh TQLC, và ngày 24/5/1972 ông vinh thăng
chuẩn tướng. Ðầu tháng 4/1975, ông thăng thiếu tướng. Sau
năm 1975, ông sống tại Hoa Kỳ và mất ngày 14/1/2014 tại San
Jose, tiểu bang California, hưởng thọ 82 tuổi.
[5]. Thiếu
tướng Phạm Văn Phú sinh ngày 16/10/1928 tại Hà Ðông, tốt
nghiệp Thiếu uý Khoá 8 Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt năm
1953, gia nhập Binh chủng Nhảy Dù, là một Trung đội trưởng
của Tiểu Ðoàn 5. Năm 1954 ông thăng cấp trung uý, chỉ huy
một Đại Đội của Tiểu Ðoàn 5 Dù, tham dự trận Ðiện Biên Phủ,
đặc cách thăng cấp đại uý tại mặt trận. Khi Ðiện Biên Phủ
thất thủ, ông bị bắt làm tù binh, đến tháng 7/1955 mới được
trao trả về cho Quân Ðội Quốc Gia. Ông lần lượt thăng cấp
như sau: Thiếu tá năm 1960, trung tá năm 1964, đại tá năm
1965, chuẩn tướng năm 1969, và thiếu tướng năm 1971. Ngày
5/11/1974, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân Ðoàn II. Thiếu
tướng Phạm Văn Phú là 1 trong 5 tướng lãnh của QLVNCH đã
tuẩn tiết vào ngày 30/4/1975.
[6]. Ngô
Quang Trưởng. The Easter Offensive of 1972. Washington,
D.C.: US Army Center of Military History, 1980. Tr. 54.
[7].
Ngô Quang Trưởng, sđd, tr. 65.
[8]. Trần
Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa. San Jose, Calif.: Hương Quê, 2011. Tr. 235.
[9].
Hòa Khánh. Sư Ðoàn 3 Bộ Binh trở lại chiến trường, tài liệu
trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau
đây:
https://dongsongcu.wordpress.com/2016/03/10/su-doan/3/bo-binh-tro-lai-chien-truong.
Việc Sư Ðoàn 3 phục hồi nhanh chóng và có thể trở lại chiến
trường, và chỉ sau một năm, năm 1973, đã được Bộ Tổng Tham
Mưu QLVNCH đánh giá là một Sư Đoàn có khả năng chiến đấu rất
tốt, là công đầu của tướng tư lệnh, Chuẩn tướng Nguyễn Duy
Dinh, thăng cấp thiếu tướng ngày 1/7/1973.
[10]. Trần
Ngọc Thống, Hồ Ðắc Huân, Lê Ðình Thụy, sđd, tr. 400.
[11]. Ngô
Quang Trưởng, sđd, tr. 56.
[12]. Hành Quân Lam Sơn 72, tái
chiếm Quảng Trị, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn
tại địa chỉ Internet sau đây:
https://bienxua.wordpress.com/2017/08/09/hanh-quan-lam-son-72-tai-chiem-quang-tri
[13].
Cổ Thành Quảng Trị và Ðại Lộ Kinh Hoàng, tài liệu trực
tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
https://vi-vn.facebook.com/quanlucvnch/photos/a.287209888044351.59269.275596229205717/605102579588412
[14].
Trương Ðăng Sỹ. Nhảy Dù và Cổ thành Ðinh Công Tráng, tài
liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet
sau đây:
https://dongsongcu.wordpress.com/2016/09/21/nhay-du-va-co-thanh-dinh-cong-trang-2
[15].
Trương Ðăng Sỹ, tài liệu vừa dẫn bên trên.
[16].
Melson, Charles D. và Curtis G. Arnold. U.S. Marines in
Vietnam: the war that would not end, 1971-1973. Washington,
D.C.: U.S. Marines Corps Headquarters, History and Museums
Division, 1991. Tr. 110. Tài liệu trực tuyến, có thể đọc
toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
http://www.marines.mil/Portals/59/Publications/U.S.%20Marines%20in%20Vietnam%20The%20war%20that%20would%20not%20end%201971-1973%20PCN%2019000311200_1.pdf
[17].
Nguyễn Ðăng Hòa. “Trận đổ bộ Triệu Phong, 11/7/1972,” trong
Tuyển tập 2: Hai mươi mốt năm chiến trận của binh chủng Thủy
Quân Lục Chiến Việt Nam (1954-1975). Santa Ana, Calif.: Tổng
Hội TQLC/VN tại Hoa Kỳ, 2005. Tr. 404-414.
[18].
Andradé, Dale. America’s last Vietnam battle: halting
Hanoi’s 1972 Easter Offensive. Lawrence, Kansas: University
Press of Kansas, 2001. Tr. 189-190.
[19]. Ngô
Văn Ðịnh. Trận Quảng Trị năm 1972 của Lữ Đoàn 258 TQLC, tài
liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet
sau đây: http://tqlcvn.org/hoiky/hk-tranQT72-ld258-tqlc.htm
[20].
Phạm Văn Chung. Cờ bay trên Cổ Thành Quảng Trị, tài liệu
trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau
đây:
https://www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/ccb-co-bay-tren-co-thanh-quang-tri
[21].
Lê Quang Liễn. “Ðại Đội 4/TÐ2/TQLC và trận tái chiếm tòa
hành chánh Quảng Trị (14/9/72),” trong Tuyển tập 2: Hai mươi
mốt năm chiến trận của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến Việt
Nam (1954-1975). Santa Ana, Calif.: Tổng Hội TQLC/VN tại Hoa
Kỳ, 2005. Tr. 416-423.
[22]. Giang Văn Nhân. “Tiểu đoàn
3/TQLC dựng cờ trên Cổ thành Quảng Trị 15/9/1972,” trong
Tuyển tập 2: Hai mươi mốt năm chiến trận của binh chủng Thủy
Quân Lục Chiến Việt Nam (1954-1975). Santa Ana, Calif.: Tổng
Hội TQLC/VN tại Hoa Kỳ, 2005. Tr. 438-450.
[23]. Ích
Duệ. Vài nét về chiến trường Quảng Trị 1971, tài liệu trực
tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây:
https://hieuminh.org/2012/07/26/vai-net-ve-chien-truong-quang-tri-1972
[24].
Xuân Hải. Ðại Đội 120 người, hết trận đánh chỉ còn 17, tài
liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet
sau đây:
http://infonet.vn/dai-doi-120-nguoi-het-tran-danh-chi-con-17-post128750.info
[25].
Ngọc Lan – Lệ Truyền. Khai quật thêm được 12 hài cốt liệt sỹ
tại thôn Tân Mỹ, xã Hải Lệ, thị xã Quảng Trị, tài liệu trực
tuyến.
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ Tư, June
4, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH