Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
hải chiến hoàng sa
Tác giả:
Vương Văn Bắc
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
LTS: Sau khi Ngoại Trưởng VNCH Vương Văn Bắc từ trần, ông Võ Long Triều, cựu Tổng Trưởng Thanh Niên và Thể Thao VNCH, đã cung cấp cho nhật báo Viễn Đông một số bài viết của Luật sư Vương Văn Bắc để phổ biến. Trong số đó có bài "Nhớ lại và suy ngẫm về vụ hải chiến Hoàng Sa (1974)" ông viết xong tại Paris ngày 2/04/2007 và gửi tặng ông Triều. Trong bối cảnh thời sự hiện nay tại Biển Đông, nhật báo Viễn Đông xin kính gửi đến quý độc giả để rộng đường dư luận.
Tuy
biến cố lịch sử này xảy ra cách đây đã trên ba mươi năm, trận hải
chiến Hoàng Sa (19/01/1974) vẫn còn để lại trong đầu óc tôi một
ấn tượng đậm nét. Điều này dễ hiểu vì ai còn tha thiết đến vận
mệnh của tổ quốc quê hương mà không đau buồn, chừng nào còn một
mảnh đất của ông cha để lại, dù nhỏ bé hay xa xôi đến đâu, vẫn bị
ngoại bang chiếm cứ trái phép mà mình chưa giành lại được. Riêng
đối với tôi, cảm xúc ấy càng sâu đậm hơn vì vụ Trung cộng cưỡng
chiếm Hoàng Sa xảy ra ngay sau khi tôi được giao phó trách nhiệm
điều khiển Bộ Ngoại Giao chưa đầy ba tháng (ngày 08/11/1973), nên
vụ ấy đã là thử thách đầu tiên mà tôi phải đối phó trong chức vụ
ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Sau đây tôi sẽ ghi lại sơ lược những
chuyện tôi còn nhớ và những điều tôi suy ngẫm về biến cố Hoàng
Sa. Làm công việc ấy, tôi sẽ cố gắng hoàn toàn tôn trọng sự thật.
Thảng hoặc có điều gì thiếu sót hoặc sai lạc ít nhiều về chi tiết
thì cũng chỉ là vì thiếu tài liệu tra cứu (tôi không đem theo
mình bản chính hay bản sao các văn kiện lưu trữ tại Bộ về vấn đề
này), hoặc vì trí nhớ đã suy giảm theo thời gian (tôi đã đến tuổi
tám mươi).
1.
Phần đóng góp của Bộ Ngoại Giao
Trong thời kỳ sôi động đã chứng kiến vụ
hải chiến Hoàng Sa, Bộ Ngoại Giao VNCH có đóng góp vào nỗ lực bảo
vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của toàn quân toàn
dân miền Nam hay không, và nếu có thì dưới hình thức nào?
Để trả lời cho câu hỏi này, trước hết
tôi cần minh xác là Bộ Ngoại Giao cũng như cá nhân tôi không hề
được Tổng Thống hay quý vị Tổng Trưởng Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu
Trưởng, Tư Lệnh binh chủng hoặc Tư Lệnh vùng tham khảo ý kiến hay
thông báo diễn tiến về các vấn đề quân sự, các cuộc hành quân...
Đây cũng là một điều tự nhiên và hợp lý vì các nhân viên Bộ Ngoại
Giao cũng như cá nhân tôi không có thẩm quyền pháp định hay kiến
thức chuyên môn trong lãnh vực này. Ngược lại, dĩ nhiên chúng tôi
được tham khảo ý kiến và trình bày đề nghị của mình về khía cạnh
quốc tế mà các vấn đề hay các hành động ấy có thể đặt ra. Chẳng
hạn, trong vụ Hoàng Sa, Bộ Ngoại Giao đã đề nghị và dự thảo bản
Tuyên Cáo ngày 14/02/1974 của Chính Phủ VNCH nhằm khẳng định chủ
quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau
vụ xâm lược của Trung cộng.
Tôi không nhớ có một phiên họp của Nội
Các VNCH vào ngày 17/01/1974 hay không, nếu có thì phiên họp ấy
đã đề cập tới những vấn đề gì và đưa ra những quyết định nào liên
quan đến vụ Hoàng Sa. Trái lại, tôi còn nhớ có tham dự một cuộc
họp cấp cao ở miền duyên hải Trung Phần để thảo luận về vụ Hoàng
Sa, sau khi quần đảo này đã bị Trung cộng cưỡng đoạt. Tôi nhớ
trong buổi họp này có mặt Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại tướng
Cao Văn Viên và mấy vị khác mà ngày nay tôi không còn nhớ rõ tính
danh và chức vụ. Tôi còn nhớ một chi tiết qua phần trình bày của
Đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng: vì khoảng cách quá xa giữa Đà
Nẵng và quần đảo Hoàng Sa, máy bay của ta dù có trang bị thêm
những bầu chứa nhiên liệu cũng chỉ có thể tác chiến trên vùng
trời Hoàng Sa khoảng mười lăm phút mà thôi, do đó ta không thể
cung cấp cho quân đổ bộ hay quân đồn trú của ta trên đảo một sự
yểm trợ không lực hữu hiệu. Tuy không có sự hiểu biết chuyên môn
về vấn đề, tôi cũng ý thức được là trong một cuộc chiến hiện đại,
nếu không đem lại cho các lực lượng đổ bộ không yểm đầy đủ thì
toan tính cho quân đổ bộ chiếm lại quần đảo Hoàng Sa sẽ chỉ là
một hành động phiêu lưu vô vọng.
Trong phạm vi nhiệm vụ của mình, Bộ
Ngoại Giao đã góp phần vào cuộc tranh đấu của toàn dân Miền Nam
Việt Nam để bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc
gia. Sự đóng góp ấy đã thể hiện dưới nhiều hình thức, trước cũng
như sau ngày Trung cộng cưỡng chiếm Hoàng Sa.
(a) Trước ngày 19/01/1974
– Ngày 11/01/1974, người phát ngôn Bộ
Ngoại Giao Trung cộng đột nhiên tuyên bố rằng quần đảo Tây Sa
(chỉ quần đảo Hoàng Sa của ta) và quần đảo Nam Sa (chỉ quần đạo
Trường Sa của ta) thuộc lãnh thổ Trung cộng.
Lời tuyên bố ngang ngược này không phải
chỉ là một lời phát biểu bừa bãi trong lúc bốc đồng mà chính là
khởi điểm của mưu đồ thôn tính bằng vũ lực một phần lãnh thổ của
Việt Nam. Quả vậy, sau đó Trung cộng đã cho một số tầu đánh cá có
vũ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa và đổ bộ lên những hòn đảo
không có quân lực VNCH đồn trú.
– Ngay ngày hôm sau, 12/01/1974, với tư
cách Ngoại Trưởng VNCH, tôi đã chính thức và cương quyết lên
tiếng bác bỏ lời tuyên bố vô căn cứ của Bộ Ngoại Giao Trung cộng
và lên án hành động gây hấn của nước này.
– Ngày 16/01/1974, cũng với tư cách
Ngoại Trưởng VNCH, tôi đã gửi công điệp cho ông Chủ Tịch Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc để lưu ý Hội Đồng Bảo An tới tình hình căng
thẳng nghiêm trọng gây ra bởi lời tuyên bố ngang ngược và những
hành vi trái phép của Trung cộng trong vùng Hoàng Sa, có khả năng
đe dọa hòa bình và an ninh tại vùng này. Chính phủ VNCH yêu cầu
Hội Đồng Bảo An LHQ ban bố mọi biện pháp thích nghi để cải thiện
tình hình.
(b)
Sau ngày 19/01/1974
– Ngày 19/01/1974, khi trận hải chiến
Hoàng Sa khởi diễn, dựa trên những tin tức đầu tiên nhận được, Bộ
Ngoại Giao đã đưa ra tuyên cáo lên án “chánh sách bành trướng đế
quốc mà Trung cộng liên tục theo đuổi, đã được biểu lộ qua cuộc
thôn tính Tây Tạng, cuộc xâm lăng Đại Hàn, và Ấn Độ trước kia” và
“kêu gọi toàn thể các dân tộc yêu chuộng công lý và hòa bình hãy
cương quyết lên án các hành vi chiến tranh thô bạo... buộc Trung
cộng phải tức khắc chấm dứt các hành động nguy hiểm đó”. Bản
tuyên cáo kết luận: “Trong suốt lịch sử, dân tộc Việt Nam đã đánh
bại nhiều cuộc ngoại xâm. Ngày nay Chánh phủ và nhân dân Việt Nam
Cộng Hòa cũng nhất định bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh tổ quốc gia”
(1).
– Ngày
20/01/1974, khi chiến sự còn tiếp diễn trong vùng Hoàng Sa, tôi
đã gửi công hàm cho ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc để yêu cầu vị
này, chiếu điều 99 Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, lưu ý Hội Đồng Bảo
An về tình hình nghiêm trọng gây ra bởi hành động xâm lược của
Trung cộng.
–
Ngày 21/01/1974, Bộ Ngoại Giao VNCH đã gửi văn thư cho các quốc
gia thành viên của Hội Nghị Quốc Tế Paris về Việt Nam, trong đó
có Trung cộng (Hội Nghị này được dự liệu ở điều 19 của hiệp định
Paris ngày 27/01/1974 về Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Hòa Bình
ở Việt Nam), để cảnh báo về hiểm họa gây ra bởi việc Trung cộng
dùng vũ lực xâm lược quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
– Cũng ngày 21/01/1974, tôi đã triệu tập một
buổi họp các trưởng nhiệm sở của tất cả các sứ quán nước bạn ở
Sài Gòn tại trụ sở Bộ Ngoại Giao, để tố cáo hành động xâm lược
của Trung cộng và yêu cầu các nước bạn của VNCH lên tiếng bày tỏ
thái độ và ban hành những biện pháp thích hợp trước biến cố này.
(2)
–
Ngày 14/02/1974, Chính Phủ VNCH công bố một bản Tuyên Cáo, long
trọng xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, khẳng định Việt Nam Cộng Hòa sẽ tiếp tục đấu tranh
để tái lập và bảo vệ chủ quyền của mình trên những hải đảo ấy.
Tuy vẫn sẵn sàng giải quyết mọi tranh chấp quốc tế bằng đường lối
ôn hòa, điều này không có nghĩa là Việt Nam chấp nhận từ bỏ chủ
quyền của mình trên một phần nào của lãnh thổ quốc gia. Bản tuyên
cáo này do Bộ Ngoại Giao đề xướng và dự thảo.
– Ngày 22/03/1974, với tư cách Ngoại
Trưởng VNCH, tôi đã đến New York hội kiến với Tổng Thư Ký Liên
Hiệp Quốc Kurt Waldheim tại trụ sở Liên Hiệp Quốc để tái xác định
lập trường của VNCH về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa.
– Tháng 6/1974, nhân dịp Liên Hiệp Quốc
triệu tập Hội Nghị Quốc Tế về Luật Biển tại Caracas, thủ đô
Venezuela (Nam Mỹ), tôi đã đích thân hướng dẫn phái đoàn VNCH đến
tham dự hội nghị này, với chủ đích là xác định, trước một hội
nghị quốc tế quan trọng, rằng Hoàng Sa và Trường Sa là phần bất
khả phân ly của lãnh thổ Việt Nam. Có lẽ họ cũng dự đoán được ý
định của ta nên phái đoàn Trung cộng đã rời bỏ phòng hội nghị ra
ngoài khi tôi bước lên diễn đàn để phát biểu, nhưng sự cố này
cũng không ngăn cản được phái đoàn VNCH chính thức trình bày lập
trường của mình trước hội nghị luật biển Caracas.
– Giữa năm 1974, tôi đã cho lập tại Bộ
Ngoại Giao một nhóm đặc trách soạn thảo Bạch Thư về Hoàng Sa –
Trường Sa (White Paper on the Hoang Sa and Truong Sa islands) với
nhiệm vụ thu thập và trình bày những chứng liệu chắc chắn để
chứng minh chủ quyền không thể chối cãi được của Việt Nam trên
hai quần đảo này. Ấn bản Việt ngữ và Anh ngữ của công trình này
đã được Bộ Ngoại Giao phổ biến rộng rãi để giúp các quốc gia và
công luận trong thế giới biết rõ hơn những cơ sở chính đáng và
đầy đủ tín lực chứng tỏ chủ quyền của ta trên các quần đảo này.
Cuốn Bạch Thư này cũng sẽ là một tài liệu hữu ích và tiện dụng
nhằm bênh vực lập trường của Việt Nam trong mọi thủ tục tố tụng
hay trọng tài quốc tế mai hậu, về vấn đề chủ quyền trên các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
– Trong cấp thời, ngay sau khi trận hải
chiến Hoàng Sa chấm dứt, Bộ Ngoại Giao VNCH đã tiến hành một cuộc
vận động ngoại giao rộng rãi trên trường quốc tế để gây áp lực
buộc Trung cộng trả lại tự do cho những binh sĩ hải quân, địa
phương quân, và những nhân viên dân chính của ta bị địch bắt giữ
trái phép trong cuộc cưỡng chiếm Hoàng Sa. Cuộc vận động này đã
đem lại kết quả mau chóng: ngày 17/02/1974, chưa đầy một tháng
sau ngày bị chiếm cứ, Trung cộng đã phải trao trả toàn thể bốn
mươi tám tù binh VNCH cho Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế để trả về Việt
Nam Cộng Hòa. Vụ bàn giao này đã diễn ra trên cầu biên giới giữa
nhượng địa Hồng Kông và Hoa Lục. Vị trưởng nhiệm sở ngoại giao
của Việt Nam Cộng Hòa ở Hồng Kông đã có mặt để chào đón các chiến
sĩ anh dũng khi họ vừa được trả tự do và sắp hồi hương.
Cũng nên nhận xét là những bản tuyên
cáo, những văn thư, công hàm, những bài phát biểu để tố cáo xâm
lược, xác định chủ quyền, nêu rõ quyết tâm giành lại phần lãnh
thổ quốc gia bị cưỡng đoạt phi pháp... không phải chỉ là những cử
chỉ trống rỗng, những lời nói suông nhằm che đậy thất bại thực
sự. Đó là những hành vi cần thiết, có giá trị, và có hiệu lực bảo
lưu chủ quyền của nước ta trên các hải đảo tranh chấp. Đó là
những chứng tích không thể phủ nhận được, cho thấy rõ là khi
Trung cộng kéo quân đến chiếm Hoàng Sa, họ đã không phát hiện
được một mảnh đất vô chủ, hoặc đã được Việt Nam ưng thuận nhượng
giữ chủ quyền. Nếu các chiến sĩ của ta đã không chiến đấu can
trường chống những kẻ đã ngang ngược xâm phạm bờ cõi của nước ta,
nếu chính phủ ta đã lẳng lặng cam chịu thì sau này chúng ta dựa
vào đâu để chống lại lời biện bác của địch là chính Nhà Nước và
nhân dân Việt Nam cũng không tin chắc mình có chủ quyền thực sự
trên quần đảo tranh chấp, và dẫu sao thì cũng đã mặc nhiên chấp
nhận sự kiện Trung cộng tự nhận là chủ phần đất này.
Suy ngẫm về sự đóng góp của Bộ Ngoại
Giao VNCH, tôi cũng đã có những nỗi băn khoăn, những cảm xúc trái
ngược mà một vài vị sĩ quan Hải Quân VNCH đã biểu lộ khi bàn về
trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Một mặt các vị ấy tỏ ra tự hào
(phản ứng này thực chính đáng) về cuộc chiến đấu dũng cảm và tinh
thần phục vụ cao của đồng đội trong trận này, chứng tỏ họ xứng
đáng là thừa kế của những bậc anh hùng đã từng “đoạt sáo Chương
Dương độ, cầm hồ Hàm Tử quan”. Nhưng mặt khác, các vị ấy cũng cảm
thấy bùi ngùi vì nhận xét là rốt cuộc, quần đảo Hoàng Sa đã mất,
nhiệm vụ bảo vệ Hoàng Sa đã không chu toàn.
Cũng như vậy, một mặt tôi cảm thấy phấn
khởi và tự hào vì thấy rằng, trong thời kỳ sôi động ấy, các anh
chị em nhân viên Bộ Ngoại Giao, từ cấp chỉ huy đến cấp thừa hành,
đã tận tụy phục vụ để hỗ trợ đắc lực và kịp thời cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhưng mặt khác,
tôi không khỏi đau buồn khi nhận thấy là mục đích tối hậu của
cuộc vận động ngoại giao lớn rộng của ta đã không đạt được, mục
đích ấy là dấy lên được trên chính trường và trong dư luận quốc
tế một làn sóng chống đối và lên án Trung cộng cưỡng chiếm Hoàng
Sa, khiến cho họ phải chùn bước rút quân, trả lại quần đảo ấy cho
chân chính sở hữu chủ là Việt Nam. Có thể cuộc vận động ngoại
giao của chúng ta đã gặt được một vài kết quả cục bộ, như là làm
cho Trung cộng phải sớm trả lại tự do cho những người Việt bị họ
giữ trái phép, đồng thời phải tạm ngưng bước chân xâm lăng trên
Biển Đông. Nhưng sự thật chua chát vẫn là Hoàng Sa bị cướp mất
năm 1974 và chưa được trả lại.
Sự trạng này gợi lên một câu hỏi: thất
bại ấy vì đâu? Vì thời thế quá bất lợi cho ta đến nỗi sức người
không vượt nổi trợ lực, hay chỉ vì chúng ta thua tài kém trí?
2. Thời thế bất lợi
Bàn về những khó khăn gặp phải trong
công cuộc bảo vệ và khôi phục chủ quyền của nước ta trên quần đảo
Hoàng Sa, hầu hết mọi người đều đồng ý là bối cảnh quốc tế đã trở
nên bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa, chủ yếu là do sự xích lại gần
nhau giữa Trung cộng và Hoa Kỳ sau chuyến viếng thăm Trung Hoa
của Tổng Thống Nixon năm 1972. Điều này đúng nhưng chưa đủ. Ta
cần phân tích sâu xa hơn tình hình thế giới và Việt Nam vào thời
kỳ đầu thập kỷ 1970, nhiên hậu mới có được một ý niệm chính xác
hơn về mức độ của những trở lực mà VNCH gặp phải trên đường đi
đòi công lý về vụ Hoàng Sa.
(a) Bối cảnh quốc tế
Một sự kiện đáng để ý là, ba tháng
trước khi cuộc tranh chấp Hoàng Sa bùng nổ (19/01/1974), một cuộc
chiến tranh ngắn ngủi nhưng ác liệt đã xảy ra ở vùng Trung Đông.
Đó là cuộc chiến tranh Yom Kippour, khởi đầu với vụ quân đội Ai
Cập (Egypte) bất thần tấn công quân đội Israel ở vùng kênh đào
Suez, ngày 06/10/1973, trong lúc Do Thái đang cử hành lễ Yom
Kippour. Ba ngày sau đó, liên quân Syrie, Irak, và Jordanie tấn
công Israel trên mặt trận đồi Golan. Tình hình trở nên cực kỳ
nghiêm trọng sau khi Liên Xô tiếp tế nhiều vũ khí hiện đại cho
các nước Ả Rập tham chiến và Hoa Kỳ hỏa tốc tiếp tế võ khí cho
Israel. Như đổ dầu vào lửa, các quốc gia Ả Rập có chân trong tổ
chức các quốc gia xuất cảng dầu lửa (O.P.E.C hay O.P.E.P) nhóm
họp tại Koweit ngày 17/10/1973 quyết định giảm đáng kể mức khai
thác dầu hỏa, đồng thời giảm số lượng dầu xuất cảng sang các
nước Tây Âu và Hoa Kỳ. Cuộc khủng hoảng gây ra bởi cuộc chiến
tranh Yom Kippour trầm trọng đến mức tổng thống Hoa Kỳ Nixon đã
phải đặt các lực lượng vũ trang nguyên tử của Mỹ vào tình trạng
báo động. Nhờ có thương thuyết trực tiếp giữa Liên Xô và Hoa Kỳ,
một quyết nghị hưu chiến đã được biểu quyết tại Hội Đồng Bảo An
Liên Hiệp Quốc vào cuối tháng 10/1974, rồi một lực lượng mũ xanh
do Liên Hiệp Quốc tập hợp đã được gửi tới chiến địa để kiểm soát
tình hình vẫn căng thẳng và chiến sự có thể bùng lên bất cứ lúc
nào. Hơn nữa, quyết định của các nước Ả Rập trong O.P.E.C hạn chế
sản xuất và xuất cảng dầu lửa đã đẩy thế giới đi vào một cuộc
khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Trong tình trạng dầu sôi lửa
bỏng ấy, thử hỏi làm sao có thể thuyết phục các nước Tây Phương
và các nước trong thế giới đệ tam chú mục đến một cuộc tranh chấp
về một quần đảo nhỏ ở Biển Đông và kiên quyết đòi kẻ xâm lăng
phải rút khỏi nơi đó, nhất là khi kẻ xâm lăng này lại là một nước
lớn mạnh?
(b)
Bối cảnh quốc nội
Theo thiển ý của tôi, một trở lực còn
to tát hơn cả trở lực gây ra bởi tình trạng thế giới bất ổn định
sau cuộc chiến tranh Yom Kippour ở Trung Đông, đó là tình trạng
chia rẽ ở Việt Nam vào thời kỳ hải chiến Hoàng Sa.
Thực vậy, lịch sử nước ta cho thấy rằng
tuy luôn luôn có xu thế bành trướng lãnh thổ và ảnh hưởng về phía
Nam, Trung cộng vẫn phải ngưng chân hay lui bước khi dân tộc ta
đoàn kết chặt chẽ. Trong quá khứ, sau khi Thoát Hoan trốn chạy về
Tàu hay sau khi Tôn Sĩ Nghị lội sông tháo lui, khởi thủy triều
đình Trung Hoa cũng dự tính xua quân sang xâm lược Việt Nam lần
nữa, nhưng sau lại bỏ ý định đó và nhận lời cầu hòa vì ngại phải
đụng độ một lần nữa với khí thế Diên Hồng, với khối đoàn kết keo
sơn của toàn dân Việt Nam. Từ những kinh nghiệm ấy, ta có thể suy
ra rằng muốn làm nản lòng hay đánh bại một cuộc xâm lăng lãnh thổ
Việt Nam phát xuất từ phương Bắc, điều kiện cần thiết đầu tiên là
dân tộc Việt Nam phải tạo thành một khối rắn chắc, phát huy một ý
chí chung là đồng lòng chống ngoại xâm.
Điều kiện thiết yếu này đã vắng bóng
một cách tuyệt vọng khi xảy ra vụ Hoàng Sa. Chính quyền cộng sản
Hà Nội đã hoàn toàn giữ im lặng và bất động khi Trung cộng tung
ra huyền thoại về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa cũng
như khi Trung cộng ngang nhiên dùng vũ lực cướp đoạt quần đảo. Hà
Nội đã không nói một lời ủng hộ nào, hay phác họa một cử chỉ nào
để yểm trợ Việt Nam Cộng Hòa trong nỗ lực phải đối, chống trả bọn
xâm lăng nước ngoài và yêu sách chúng phải hoàn trả Hoàng Sa cho
Việt Nam. Thái độ bàng quan tiêu cực ấy dĩ nhiên đã làm cho bọn
xâm lược vững lòng hơn để tiếp tục hành động trái phép, cũng như
đã triệt tiêu phần lớn tín lực và hiệu quả của những điều khẳng
quyết của Việt Nam Cộng Hòa, theo đó quần đảo Hoàng Sa chính thức
thuộc chủ quyền của mình và toàn dân Việt Nam kiên quyết bảo vệ
chủ quyền này.
Không phải chúng ta không ý thức được
nhược điểm ấy, hay không hiểu rằng tiếng nói của chúng ta trên
trường quốc tế sẽ được để ý nhiều hơn nếu ta chứng minh được là,
bất luận những trục trặc khó khăn còn gặp phải trong quá trình
thi hành Hiệp Định Paris 27/01/1973 về Chấm Dứt Chiến Tranh và
Tái Lập Hòa Bình ở Việt Nam, hai miền Nam Bắc vẫn có thể ngồi với
nhau thương nghị để cùng lo liệu về những quyền lợi cơ bản của
đất nước Việt Nam. Quả vậy, đã ba lần trong năm 1974, với tư cách
Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa, tôi đã đề nghị đến gặp Bộ Trưởng
Ngoại Giao của chính quyền Hà Nội để cùng thảo luận về những vấn
đề đất nước, trong cuộc họp báo ngày 26/02/1974 tại Trụ sở Bộ
Ngoại Giao ở Sài Gòn, trong một cuộc họp báo ngày 16/05/1974 cũng
ở Sài Gòn, và sau hết vào ngày 20/07/1974, nhân dịp đưa ra bản
tuyên cáo kỷ niệm ngày chia đôi đất nước. Cả ba lần đó, Hà Nội
đều làm ngơ không đáp ứng tích cực, chắc vì họ tin vào đường lối
chinh phục miền Nam bằng bạo lực, không kể gì đến Hiệp Định
Paris. Trong hoàn cảnh ấy, Trung cộng không có cớ gì để e ngại và
thế giới không có lý do gì để tin chắc là nhân dân Việt Nam, muôn
người như một, cương quyết đứng lên chống lại những kẻ dòm ngó
các quần đảo trong Biển Đông thuộc lãnh thổ của Việt Nam.
(c) Cơ chế quốc tế bất lợi cho ta
Một trở lực đáng kể khác cho sự thỏa
mãn nguyện vọng chính đáng của Việt Nam về vấn đề Hoàng Sa là,
trong hiện trạng của các cơ quan quốc tế có thẩm quyền và nhiệm
vụ giải quyết những vụ tranh chấp lãnh thổ, đơn khiếu nại của
Việt Nam Cộng Hòa chống Trung cộng về vụ Hoàng Sa rất ít hy vọng
thụ lý và phán xét.
Cơ quan đầu tiên được mọi người nghĩ
đến là Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Thực vậy Hội Đồng Bảo An
là cơ quan Liên Hiệp Quốc có trách nhiệm duy trì an ninh và hòa
bình quốc tế, mà vụ Trung cộng xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa có thể
được xem như một hành động đe dọa an ninh và hòa bình trên thế
giới. Do đó, Hội Đồng Bảo An có thẩm quyền biểu quyết những biện
pháp chế tài (sanctions) và đòi các quốc gia hội viên Liên Hiệp
Quốc thi hành những biện pháp ấy chống với quốc gia bị xác định
là đe dọa hòa bình hoặc đã có hành vi xâm lược (điều 39 Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc). Tuy nhiên, vì Trung cộng là một trong năm
quốc gia hội viên thường trực có quyền phủ quyết tại Hội Đồng Bảo
An nên không có triển vọng là cơ quan này biểu quyết như vậy
chống Trung cộng.
Cũng không có triển vọng là Tòa Án Quốc Tế (International
Court of Justice) sẽ thụ lý đơn kiện của Việt Nam Cộng Hòa chống
Trung cộng. Điều này không liên quan gì đến sự kiện VNCH chỉ là
“quan sát viên” chứ không phải “thành viên thực thụ” của Liên
Hiệp Quốc, mà chỉ vì thủ tục được áp dụng trước Tòa Án Quốc Tế,
theo đó Tòa này chỉ thụ lý vụ tranh chấp nếu quốc gia bị cáo minh
thị chấp thuận sự xét xử ấy. (3)
Ngay cả trong trường hợp vạn nhất hồ sơ
vụ tranh chấp Hoàng Sa được chuyển sang Đại Hội Đồng Liên Hiệp
Quốc để biểu quyết, ta cũng rất ít có hy vọng tìm thấy ở đó một
đa số áp đảo để lên án Trung cộng xâm lăng, căn cứ trên những
thực tại ghi trong phần “Bối Cảnh Quốc Tế” ở trên, căn cứ trên sự
kiện là theo kết quả cuộc biểu quyết tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp
Quốc chấp nhận cho Trung cộng gia nhập Liên Hiệp Quốc thay thế
cho Trung Hoa Quốc Gia với 76 phiếu thuận, 36 phiếu chống, và 17
phiếu trắng ngày 26/10/1971, mới khoảng hơn hai năm trước ngày
hải chiến Hoàng Sa. Với vị thế thuận lợi ấy, Trung cộng không có
lý do lo sợ là họ sẽ bị Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc biểu quyết,
với đa số cần thiết, lên án và trừng phạt họ về vụ Hoàng Sa.
3. Thái độ của Hoa Kỳ về vụ Hoàng Sa
Như đã trình bày trên đây, trong phần
viết về sự đóng góp của Bộ Ngoại Giao, sau khi Trung cộng xâm
nhập hải phận Hoàng Sa và có hành động gây hấn để xâm phạm chủ
quyền của ta trong vùng này, chúng ta đã tố cáo những hành vi phi
pháp ấy và kêu gọi sự hỗ trợ để chống lại cuộc xâm lược ấy với
Liên Hiệp Quốc và các quốc gia thân hữu, trong đó có Hoa Kỳ nhưng
không phải chỉ có Hoa Kỳ.
Phản ứng của Hoa Kỳ đã rõ ràng. Trước
hết qua đường lối liên lạc ngoại giao, sau đó qua những lời tuyên
bố chính thức của Bộ Ngoại Giao Mỹ, Hoa Kỳ cho hay rằng họ không
muốn dính dáng vào một vụ tranh chấp có nguồn gốc khá phức tạp
trong lịch sử; họ cầu mong giữa đôi bên có được sự dàn xếp hòa
bình. Nói rõ hơn, Hoa Kỳ không muốn can thiệp vào vụ này, không
muốn đứng hẳn vào một bên để chống lại bên kia.
Những lý do đã thúc đẩy Hoa Kỳ chọn lựa
thái độ ấy, theo ý tôi, là những lý do sau đây:
– Khi ký kết Hiệp Định Paris ngày
27/01/1973 về Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Hòa Bình ở Việt
Nam, chính phủ Hoa Kỳ đã dứt khoát lựa chọn đường lối giải kết ở
Việt Nam nên không muốn vì vụ Hoàng Sa mà lại phải can thiệp trở
lại ở đây. Một vụ đảo ngược chính sách bất thần như vậy có khả
năng làm cho chính quyền gặp nhiều khó khăn tại Quốc Hội, trong
dư luận quần chúng và với các nước đồng minh.
– Sau chuyến công du của Tổng Thống
Nixon sang Trung cộng năm 1972, Trung cộng đã trở thành “đồng
minh khách quan” của Hoa Kỳ để kìm chân và chống lại Liên Xô. Hoa
Kỳ không muốn mối quan hệ chiến lược hệ trọng này bị rạn nứt hay
bị đứt đoạn vì vụ Hoàng Sa.
– Như đã trình bày trong phần “Bối Cảnh
Quốc Tế”, cuộc chiến tranh Yom Kippour hồi tháng 10 năm 1973 đã
gây ra một tình trạng căng thẳng rất nguy hiểm tại Trung Đông và
một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng trên thế giới. Chúng ta
đều biết tầm quan trọng hàng đầu của vùng Trung Đông đối với Hoa
Kỳ, về các mặt kinh tế, chính trị, chiến lược. Bởi vậy, trong
thời kỳ hậu Yom Kippour, Hoa Kỳ không thể tự cho phép mình phân
tán mỏng lực lượng quân sự của mình trên nhiều điểm nóng trên thế
giới. Do đó, họ muốn tránh một cuộc đương đầu với Trung cộng
trong vùng Thái Bình Dương về vụ Hoàng Sa.
Tôi thấy mấy lý do quan trọng ấy cũng
đủ làm ta hiểu tại sao Hoa Kỳ đã lựa chọn thái độ bàng quan trước
vụ tranh chấp Hoàng Sa giữa Trung cộng và ta, khỏi cần phải đề
cập đến giả thuyết là đã có một thỏa ước ngầm giữa Hoa Kỳ và
Trung cộng để nước này mặc sức làm mưa làm gió trong vùng Biển
Đông. Cũng cần xác minh rằng trên đây là một cố gắng phân tích
khách quan để hiểu tại sao Hoa Kỳ có thái độ “người dưng” trong
vụ Hoàng Sa, chứ không hàm ý bênh vực hoặc chê bai. Nếu có nghĩ
ngợi thì cũng chỉ là nhớ đến một câu nói bất hủ của một chính
khách Pháp: “Một nước lớn không có bạn thân mà chỉ có những quyền
lợi”.
4. Về
câu chuyện nổ súng mà mất đảo
Có dư luận cho rằng, mặc dù bị Trung
cộng khiêu khích, nếu chúng ta không đánh thì tình hình Hoàng Sa
vẫn chưa ngã ngũ và Trung cộng vẫn không chiếm trọn quần đảo
Hoàng Sa.
Bản
tính tôi ưa bàn về những chuyện có thực, những lý luận có căn cứ
trên những sự kiện có thực, chứ không muốn luận bàn về những giả
thuyết và những phỏng đoán vô bằng. Tôi có bị ảnh hưởng của câu
châm biếm phổ thông của dân Pháp: “Với những chữ ‘nếu’ người ta
có thể bỏ thủ đô Paris vào trong một cái lọ”.
Tuy nhiên, tôi thiển nghĩ giả thuyết
nhắc lại trên đây không đứng vững nếu ta để ý đến mấy nhận xét
theo lương tri thông thường sau đây:
– Không phải vì con đà điểu chúi đầu
xuống cát để khỏi trông thấy, nghe thấy nữa mà nguy hiểm sẽ tan
biến đi. Như lời một chính khách Mỹ mà đời sống bị đe dọa đã nói:
“Làm gì có an ninh trong sự lủi trốn?”. Nếu hồi tháng 1 năm 1974,
Hải Quân của ta không nổ súng trước sự xâm lăng trắng trợn của
đối phương mà lại lẳng lặng rút đi thì điều đó chắc sẽ có hậu quả
khuyến khích Trung cộng xúc tiến việc thôn tính các hải đảo còn
lại của ta ở Biển Đông vì không gặp chống đối, hơn là thúc giục
họ giữ nguyên hiện trạng.
– Trung cộng đánh chiếm Hoàng Sa (rồi
Trường Sa về sau này) hẳn là theo một kế hoạch đã soạn thảo từ
lâu và ở cấp cao nhất, nhằm biến vùng Biển Đông thành một thứ
“biển nhà, ao nhà” (Mare Nostrum), chứ không thể là kết quả của
một phút bốc đồng, trong một cơn phẫn nộ nhất thời. Giả thuyết
sau trái với những nhận xét kinh nghiệm của ta về bản tính của
người Hán tộc: họ thường mưu trí, tính toán, chứ không phải là
thứ người nông nổi, bốc đồng.
– Nếu quả thực Trung cộng giận dữ vì
Hải Quân ta nổ súng sáng ngày 19/01/1974 đến mức xâm chiếm ngay,
không nghĩ ngợi, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa thì trong cơn giận dữ
ấy, họ đã hạ sát ngay những người Việt bị bắt làm tù binh, hay ít
ra cũng giam cầm họ lâu ngày và mở ra những vụ án để hài tội chứ
không đời nào lại phóng thích ngay sau vài ba tuần lễ.
– Không thể nói rằng chính quyền cộng sản Hà Nội đã có thái
độ khiêu khích Trung cộng hay đã luôn biểu lộ thái độ đối kháng
với Trung cộng. Không ai nói là chiến hạm của chính quyền Hà Nội
đã nổ súng trước, bắn vào hạm đội Trung cộng. Vậy mà thái độ hòa
hoãn, nhường nhịn ấy không ngăn cản Trung cộng đầu năm 1988 đưa
hải quân xuống chiếm cứ một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa.
(4)
Những nhận xét trên đây cho ta nghĩ là
sự kiện Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã khai hỏa ở Hoàng Sa ngày
19/01/1974 không phải là nguồn gốc của vụ Trung cộng quyết định
chiếm trọn quần đảo này.
5. Có hy vọng khôi phục chủ quyền trên
đảo Hoàng Sa không?
Bài học mà chúng ta có thể rút ra từ
kinh nghiệm Hoàng Sa 1974, theo thiển ý của tôi, gồm hai mặt, như
mặt phải mặt trái của một đồng tiền:
– Trong công cuộc bảo vệ những quyền
lợi sống còn của đất nước, chúng ta không thể trông cậy ở người
ngoài mà chỉ có thể trông chờ ở chính mình. Thế giới biến chuyển
không ngừng, các cuộc liên minh quốc tế luôn đổi thay theo quyền
lợi riêng ở mỗi quốc gia. Vì thế ta không thể ỷ lại vào bên ngoài
mà chỉ nên trông cậy ở mình. Như lời của một vị cách mệnh lão
thành đã nói: “Trông chờ ở người ngoài là chết” (vọng ngoại tắc
tử).
– Nói về
chuyện trông cậy ở chính mình, chúng ta nên nhớ là nước ta không
có đất rộng mênh mông, không có tài nguyên vô tận, không có biên
thùy hiểm trở chẳng thể vượt qua. Sức mạnh của chúng ta chỉ tìm
thấy ở bàn tay và khối óc của người dân. Vì vậy chúng ta chỉ mạnh
khi dân chúng ta hợp thành một khối đoàn kết vững vàng, tuy bao
gồm nhiều sắc thái khác nhau nhưng tất cả cùng chung một ý chí
sắt đá bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Điều này
giả thiết một chính quyền thực sự của dân, do dân, vì dân, không
để chỗ cho chuyên quyền độc đoán.
Vận nước nào cũng có khi thăng khi
trầm, quốc gia nào cũng có lúc suy lúc thịnh. Khi thời cơ đã trở
nên thuận lợi cho Việt Nam, chúng ta có thể đặt lại vấn đề chủ
quyền trên quần đảo Hoàng Sa với Trung cộng và đòi họ trả lại
quần đảo này cho Việt Nam, hoặc qua thương thuyết tay đôi, hoặc
qua một phán quyết trọng tài hay tài phán quốc tế, hoặc do sự
tranh đấu can trường và bền bỉ của quân dân Việt Nam.
Ngày 15/05/1974, trong dịp điều trần về
chính sách ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa trước Ủy Ban Ngoại Giao
và Thông Tin, Thượng Viện VNCH, về vấn đề Hoàng Sa, tôi đã kết
luận: “Vụ Hoàng Sa nhất định chưa là chấm dứt”.
Ba mươi ba năm sau, khi viết những dòng
này, tôi vẫn nghĩ như vậy.
Paris, ngày 02/04/2007
Vương Văn Bắc
Tác giả Chú
thích:
(1) Toàn văn bản Tuyên Cáo
015/BNG/TTBC/TT có được đăng trong sách của Ô. Vũ Hữu San – Trần
Đỗ Cẩm, “Tài Liệu Hải Chiến Hoàng Sa”, tr. 160, 161.
(2)
Xin xem Vũ Hữu San – Trần Đỗ Cẩm,
sách đã viện dẫn, tr. 214–216.
(3)
Xin xem “Encyclopedia Britannica”,
“International Court of Justice”: States which have not accepted
compulsory jurisdiction may not be sued without their consent.
(4) Xin xem sách
“Cộng Sản Trên Đất
Việt” quyển II, tr. 356, tác giả GS Nguyễn Văn Canh, Kiến Quốc
Phát Hành 2002.nguồn: VienDongDaily.Com
2. TƯ LIỆU: TUYÊN CÁO CỦA CHÍNH PHỦ VÀ
BỘ NGOẠI GIAO VIỆT NAM CỘNG HÒA
TUYÊN CÁO CỦA BỘ TRƯỞNG NGOẠI GIAO VIỆT
NAM CỘNG HÒA VỀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG GÂY HẤN CỦA TRUNG CỘNG TRONG KHU
VỰC ĐẢO HOÀNG SA (NGÀY 19/01/1974)
Nguyên văn:
Sau khi mạo nhận ngày 11/01/1974
chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
Cộng Hòa, Trung Cộng đã đưa Hải Quân tới khu vực Hoàng Sa, và đổ
bộ quân lính lên các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa và Duy Mộng. Lực
lượng Hải quân Trung Cộng gồm 11 chiến đỉnh thuộc nhiều loại và
trọng lượng khác nhau, kể cả một tàu loại Komar có trang bị hỏa
tiễn. Để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền an ninh quốc gia
trước cuộc xâm lăng quân sự này, các lực lượng Hải quân Việt Nam
Cộng Hòa trấn đóng trong khu vực này đã ra lệnh cho bọn xâm nhập
phải rời khỏi khu vực. Thay vì tuân lệnh, các tàu Trung Cộng, kể
từ 18/01/1974, lại có những hành động khiêu khích như đâm thẳng
vào các chiến đỉnh Việt Nam.
Sáng ngày nay, 19/01/1974 hồi
10h20, một hộ tống hạm Trung Cộng thuộc loại Kronstadt đã khai
hỏa bắn vào khu vực hạm “Trần Khánh Dư” mang số HQ–04 của Việt
Nam Cộng Hòa. Để tự vệ, các chiến hạm Việt Nam đã phản pháo và
gây hư hại cho hộ tống hạm Trung Cộng. Cuộc giao tranh hiện còn
tiếp diễn và đang gây thiệt hại về nhân mạng và vật chất cho cả
đôi bên.
Các hành động quân sự của Trung Cộng là hành vi
xâm phạm trắng trợn vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, và một lần
nữa vạch trần chánh sách bành trướng đế quốc mà Trung Cộng liên
tục theo đuổi, đã được biểu lộ qua cuộc thôn tính Tây Tạng, cuộc
xâm lăng Đại Hàn và Ấn Độ trước kia.
Việc Trung Cộng ngày
nay xâm phạm lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa không những chỉ đe dọa
chủ quyền an ninh của Việt Nam Cộng Hòa mà còn là một hiểm họa
đối với nền hòa bình và ổn cố của Đông Nam Á và toàn thế giới.
Với tư cách một nước nhỏ bị một cường quốc vô cớ tấn công.
Việt Nam Cộng Hòa kêu gọi toàn thể các dân tộc yêu chuộng công lý
và hòa bình trên thế giới hãy cương quyết lên án các hành vi
chiến tranh thô bạo của Trung Cộng nhằm vào một quốc gia độc lập
và có chủ quyền để buộc Trung Cộng phải tức khắc chấm dứt các
hành động nguy hiểm đó.
Làm ngơ để cho Trung Cộng tự do
tiến hành cuộc xâm lấn trắng trợn này là khuyến khích kẻ gây hấn
tiếp tục theo đuổi chánh sách bành trướng của chúng và sự kiện
này đe dọa sự sống còn của những nước nhỏ đặc biệt là những nước
ở Á Châu.
Trong suốt lịch sử, dân tộc Việt Nam đã đánh bại
nhiều cuộc ngoại xâm. Ngày nay, Chánh phủ và nhân dân Việt Nam
Cộng Hòa cũng nhất định bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia.
(Tài liệu ronéo của Bộ Ngoại Giao, Sài Gòn, Số
015/BNG/TTBC/TT)
TUYÊN CÁO CỦA CHÍNH
PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
TRÊN NHỮNG ĐẢO Ở NGOÀI KHƠI BỜ BIỂN VIỆT NAM CỘNG HÒA
Nguyên văn:
Nghĩa vụ cao cả và cấp thiết
của một chánh phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và sự vẹn toàn
lãnh thổ của quốc gia. Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết
làm tròn nghĩa vụ này, bất luận những khó khăn trở ngại có thể
gặp phải và bất chấp những sự phản đối không căn cứ dầu phát xuất
từ đâu. Trước việc Trung Cộng trắng trợn xâm chiếm bằng vũ lực
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa, Chánh phủ Việt Nam Cộng
Hòa thấy cần phải tuyên cáo long trọng trước công luận thế giới
cho bạn cũng như thù biết rõ rằng: Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa là những phần bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam Cộng
Hòa. Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ chịu
khuất phục trước bạo lực mà từ bỏ tất cả hay một phần chủ quyền
của mình trên những quần đảo ấy. Chừng nào còn một hòn đảo thuộc
lãnh thổ ấy của Việt Nam Cộng Hòa bị nước ngoài chiếm giữ bằng
bạo lực thì chừng ấy Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa còn
đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình.
Kẻ xâm chiếm phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi tình
trạng căng thẳng có thể do đó mà có.
Trong dịp này, Chánh
phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của
Việt Nam Cộng Hòa trên những hải đảo nằm ở ngoài khơi bờ biển
Trung Phần và bờ biển Nam Phần Việt Nam, từ trước tới nay vẫn
được coi là một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa căn cứ trên
những dữ kiện địa lý, lịch sử, pháp lý và thực tại không chối cãi
được.
Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ
quyền quốc gia trên những đảo ấy bằng mọi cách.
Trung
thành với chánh sách hòa bình cố hữu của mình, Chánh phủ Việt Nam
Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết bằng đường lối thương lượng những vụ
tranh chấp quốc tế có thể xảy ra về những hải đảo ấy, nhưng nhất
định không vì thế mà từ bỏ chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên
những phần đất này.
Làm tại Sài
Gòn, ngày 14 tháng 2 năm 1974.
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, February 1, 2025
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang