Gia Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút ký
Chủ đề:
tội ác cộng sản
Tác giả:
NgyThanh
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tác
phẩm mới nhất có đề cập tới 4 từ “Đại
Lộ Kinh Hoàng,”
là cuốn “Phóng Viên Chiến Trường” của 2 tác giả
Dương Phục & Vũ Thanh Thủy, do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương
vừa trình làng lần đầu hôm 15 tháng 5, 2016 tại Houston. Là
phóng viên chiến trường vào sinh ra tử, kinh nghiệm trận
mạc, Dương Phục là một trong ba sĩ quan Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa (VNCH) (cùng với Thiếu tá Đinh Công Chất và Thiếu
tá Phạm Huấn), được vinh dự đại diện chính phủ và nhân dân
miền Nam bay trên chiếc C–130 ra Hà Nội vào đầu năm 1973,
trong tư cách Ủy Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên
[Four–Party Joint
Military Commission; ghi chú của NgyThanh], để giám sát thủ
tục trao trả tù binh Hoa Kỳ từ phía Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa. Trong hồi ký của mình, ở phần nhắc lại “Đại Lộ Kinh
Hoàng,” ký giả Dương Phục viết:
“Cuộc di tản hàng
chục ngàn người tạo nên một đoàn rồng rắn suốt đoạn đường
dài trên Quốc lộ 1, và không ngờ đã biến họ thành mục tiêu
dễ nhắm của bom đạn Việt cộng.
Không điều gì gây phản
tác dụng cho một chiến thắng hơn là cảnh dân chúng lũ lượt
quang gánh, bồng bế nhau liều chết chạy trốn đoàn quân chiến
thắng. Cộng sản điên cuồng trước chuyện dân chúng bỏ đi nên
không ngần ngại làm bất cứ gì để ngăn cản. Với thói quen chỉ
biết dùng bạo lực như phương cách duy nhất để áp chế người
dân, họ đã dùng đạn pháo như mưa sa để đe dọa, hy vọng níu
kéo người dân Quảng Trị ở lại...
... Hành động bỏ
phiếu bằng chân đó đã như cái tát vào mặt đoàn quân Cộng sản
ở bất cứ cửa ngõ thành phố nào họ đặt chân tới. Cộng quân do
đó đã không ngần ngại xả đạn pháo kích thẳng vào đoàn người
di tản, từ đoạn Cầu Dài, Diên Sanh, kéo dài đến tận gần cầu
Mỹ Chánh. Quân nhân chỉ là thiếu số hướng dẫn đoàn di tản,
còn lại đa số là người dân thường, ông già, bà cả, phụ nữ,
trẻ em, và thương bệnh binh đang nằm điều trị tại các Quân Y
Viện.
... Khi Thủy và tôi đến được khu vực này, xác
người đã nằm phơi sương dãi nắng gần hai tháng trời. Mùi tử
khí vẫn nồng nặc trong cơn gió nóng hổi của vùng đất khô cằn
như sa mạc. Chúng tôi ngỡ ngàng không hiểu tại sao quá đông
người có thể chết gục cùng một lúc khắp nơi như thế. Quan
sát kỹ, tôi nhận ra đa số thi thể nạn nhân đều bị hàng ngàn
mảnh vụn li ti như đinh vụn từ đầu đạn pháo của Cộng quân.
Một viên đạn pháo kích bắn ra, những mẩu đinh vụn sắt lẻm
này tung bay mọi phía với tốc độ tàn khốc và xuyên thủng cả
những thành xe bằng sắt của đoàn quân xa miền Nam. Loại vũ
khí này đã hạ gục ngay lập tức mọi người, chết sững trong
cùng động tác mà họ đang hành xử đúng lúc đạn pháo bay tới.
Chưa bao giờ trong đời chúng tôi thấy nhiều người cùng
chết một nơi như vậy... Trái tim tôi quặn thắt trong lòng và
Thủy vội làm dấu thánh giá rồi quay mặt sang một bên nôn ọe.
Gần chỗ tôi đứng là thi thể một người mẹ tay ôm chặt đứa con
trong lòng, đứa nhỏ vẫn đang ngậm bầu vú mẹ. Cả hai mẹ con
nằm bất động bên bờ đường Quốc lộ như hai hình nộm xám đen
của một sân khấu quái đản.
Nếu không tận mắt chứng
kiến, khó ai có thể tưởng tượng được quang cảnh kinh khủng
như thế nào. Xác người nằm vất vưởng khắp nơi. Đồ đạc và
quần áo tung tóe phủ kín mặt đường. Xe hơi, gắn máy, xe đạp,
kể cả xe đò, nằm ngổn ngang, lăn lóc. Gồng gánh, bao túi,
tan nát tung tóe phơi bày hết mọi thứ bên trong. Tất cả mọi
xe cộ, từ quân xa, xe jeep, xe hồng thập tự, đến xe đò, xe
tư nhân, đều lởm chởm vết đạn xuyên lủng khắp trên các thành
xe.
Có những đoạn không còn một chỗ nào trống cho
nhóm báo chí chúng tôi đặt chân bước qua. Thủy, vừa gạt nước
mắt ứa ra trên má, vừa thận trọng lò mò dò từng bước chân
trên mỗi khúc đường. Chúng tôi phải tìm những cành cây làm
gậy chống và nhẹ gạt các mảnh quần áo cong queo sang một
bên, để biết chắc là mình đã không giẵm lên các xác người
khô khốc sau cả tháng phơi bày sương gió.
Đa số xác
người đã rữa nát thịt vì nắng mưa, chỉ còn da bọc lấy xương
khô lép kẹp đen sậm như những hình nộm ma quái trong các
loại phim kinh dị. Sâu bọ và côn trùng bay túa ra khi gậy
của chúng tôi lia trúng những xác người ngổn ngang trên
đường đi. Có cả một chiếc xe buýt bị pháo bắn nát đầy lỗ đạn
li ti khắp thành xe. Mọi hành khách dường như đều tử thương
tức khắc vì mọi người vẫn ngồi gục trong từng vị trí trên
băng ghế.”
Trách nhiệm về cuộc thảm sát
Trước
khi miền Nam Việt Nam thất thủ năm 1975, do sự tan rã của Sư
Đoàn 3 Bộ Binh, dẫn đến biến cố mất toàn bộ tỉnh Quảng Trị
vào ngày đầu tháng 5, 1972, dư luận và báo chí Sài Gòn có
khuynh hướng về hùa nhau, chê trách tài lãnh đạo của Tướng
Vũ Văn Giai, Tư lệnh Sư Đoàn xấu số này, và trút hết trách
nhiệm, kể cả về nhiều ngàn thường dân bị giết trên đường tản
cư, cho ông ấy.
Những ngày sau khi mất Quảng Trị,
toàn dân rúng động, dân chúng Huế cũng nhanh chân ùa vào Đà
Nẵng, Sài Gòn, kéo theo tâm lý sa sút, và tinh thần chiến
đấu khủng hoảng nơi thân nhân họ. Vào thời điểm ấy, việc cứu
vãn các tỉnh miền Trung không thể tựa vào các Sư Đoàn trừ bị
thiện chiến như Nhảy Dù, TQLC hay các Liên Đoàn Biệt Động
Quân – vì thực sự các quân số này đang vướng tay ở các chiến
trường khác trên khắp nước. Tổng tư lệnh Quân Đội VNCH chỉ
còn một thế cờ chót trước khi đầu hàng: một tên tuổi đủ tài
thao lược và sạch sẽ để dùng làm liều thuốc cuối cùng. Thật
may, ông đã tìm ra, và đã quyết định kịp thời. Ngày 4 tháng
5, 1972, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, đang là Tư lệnh Quân
Đoàn IV ở miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, nhận lệnh bay ra Đà
Nẵng nhận chức Tư lệnh Quân Đoàn I, thay Tướng Hoàng Xuân
Lãm.
Tướng Trưởng là người thanh liêm, ít nói, dám
làm. Bằng chứng là ông đã cứu nguy được tình hình, và còn
chỉ huy tái chiếm được Cổ thành Đinh Công Tráng, và tất cả
lãnh thổ tỉnh Quảng Trị nằm ở phía Nam sông Thạch Hãn, rồi
lầm lì im lặng. Mãi đến sau khi di tản sang Mỹ, vào thời
gian được Ban Quân Sử Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ mời, năm 1980 ông
mới viết quyển “The Easter Offensive of 1972,” sau đó được
Kiều Công Cự chuyển ngữ thành “Trận Chiến Trong Mùa Phục
Sinh Năm 1972” ấn hành vào năm 2007, sau khi ông Trưởng đã
qua đời.
Chính Tướng Trưởng lên tiếng bạch hóa vai
trò của Tướng Giai trong các diễn tiến mất Quảng Trị, dẫn
đến dân chết thảm trên
ĐLKH. Trong cuốn sách kể trên, tác
giả viết:
“... Tướng Lãm đã không quan tâm đến những
khó khăn mà Tướng Giai gặp phải. Thái độ của ông hoàn toàn
lạc quan... Thái độ lạc quan của Tướng Lãm lại được thể hiện
rõ nét qua biến cố ngày 9 tháng 4... Ở thời điểm này, trách
nhiệm và quyền hạn của Tướng Giai đã vượt xa hơn vị trí của
một vị Tư lệnh Sư Đoàn. Ông đã chỉ huy 2 Trung Đoàn BB Cơ
hữu (Trung Đoàn 2 và 57), điều động hành quân 2 LĐ/TQLC, 3
LĐ/BĐQ, 1 LĐ/Kỵ binh, và những Lực Lượng Diện Địa của tỉnh
Quảng Trị. Như vậy ông ta có đủ quyền hạn trên 9 LĐ bao gồm
khoảng 23 Tiểu Đoàn và những Lực Lượng Diện Địa... Nhưng có
một điều cần lưu ý ở đây là Tướng Lãm không tự cảm thấy vội
vàng đến thăm viếng những vị chỉ huy dưới quyền của ông ở
tại mặt trận hay những đơn vị tuyến đầu của Quân Đoàn I. Ông
chỉ nghe thuyết trình về những diễn biến của trận đánh qua
các bản báo cáo và ban hành những chỉ thị, những huấn lịnh
cho Ban Tham Mưu của ông. Tự bản thân ông không bao giờ đi
thị sát tuyến phòng thủ của SĐ3 để hiểu rõ những trở ngại mà
các đơn vị trưởng phải đối mặt...
... Căn cứ Ái Tử,
phía bắc sông Thạch Hãn, là một chọn lựa không thích hợp về
mặt chiến thuật. Trong suốt tháng 4, đây là điểm mà pháo
địch gửi đến hàng ngày đêm với một mức độ dữ dội. Cho nên Tư
lệnh Sư Đoàn 3 đã quyết định dời Bộ Tham Mưu về phía Nam của
con sông Thạch Hãn, trong Cổ thành Quảng Trị. Ông ta chỉ hỏi
ý kiến của vị Cố vấn Sư Đoàn. Tướng Giai sợ rằng những cấp
chỉ huy dưới quyền của ông biết được kế hoạch này, họ sẽ tìm
cách phá hỏng bằng những hành động vội vàng nào đó. Ông ta
cũng không thông báo kế hoạch này cho vị Tư lệnh Quân Đoàn
I. Đơn giản là ông ta muốn cẩn thận, muốn đặt mọi việc trước
một sự đã rồi. Nhưng đó là một hành động gây tức giận cho
Tướng Lãm và sự bất tin cậy bắt đầu lớn dần giữa họ, khoảng
cách càng lúc càng lớn cho đến những biến cố dồn dập xảy ra
dẫn đến sự thất thủ của thành phố Quảng Trị...
...
Trong vòng 4 giờ sau đó
[ngày 1 tháng 5, 1972, ghi chú của
NgyThanh] những phòng tuyến của Quân Đội miền Nam đã đổ vỡ
hoàn toàn... Sau cùng khi biết được những gì đã xảy ra,
Tướng Giai đã cùng Ban Tham Mưu lên 3 chiếc M113 trong cố
gắng bắt kịp đoàn người phía trước. Lúc đó những chiếc trực
thăng Mỹ đã đến để di tản những Toán cố vấn và những nhân
viên người Việt Nam của họ. Tư lệnh SĐ3 muốn nhập vào đoàn
người phía trước nhưng thất bại. Quốc lộ 1 đầy cứng những
người dân chạy loạn và những toán quân ô hợp và mọi loại xe
cộ, Quân Đội và Dân Sự. Tất cả hốt hoảng tìm đường về Huế
dưới những bức tường lửa dã man hung bạo của các loại pháo
địch. Tướng Giai bị bắt buộc phải quay lại Cổ thành và sau
đó ông ta và Ban Tham Mưu được trực thăng Mỹ bốc đi...
Trên Quốc lộ 1, cả một dòng thác người chạy loạn, dân sự
và binh lính tiếp tục xuôi nam. Con đường đã diễn ra một
cảnh tượng tàn sát không thể nào tưởng tượng nổi. Những
chiếc xe đủ các loại bốc cháy dữ dội. Những chiếc thiết
giáp, GMC, xe nhỏ của quân đội, và dân sự đầy cứng cả con
đường không tài nào lưu thông được. Trong khi đó pháo binh
địch mở ra một cuộc tàn sát đẫm máu không nương tay. Cho đến
xế trưa hôm sau, cuộc thảm sát mới chấm dứt. Hàng nhiều ngàn
người vô tội đã được tìm thấy trên đoạn đường dài của Quốc
lộ 1 và sau đó báo chí đã đặt cho cái tên là ‘Đại Lộ Kinh
Hoàng’. Sự khích động và sự thảm thương của cảnh này, cũng
giống như cuộc tàn sát tập thể tại Huế hồi Tết Mậu Thân 1968
đã ám ảnh người dân phía bắc của Vùng 1 Chiến thuật một
khoảng thời gian lâu dài.”
Người Mỹ biết gì về cuộc
thảm sát?
Đào bới núi sách báo viết về chiến tranh
Việt Nam để tìm hiểu thêm về số người từ Quảng Trị chạy về
Huế vào ngày 1 tháng 5, 1972, chúng tôi may mắn bắt gặp được
tấm ảnh duy nhất do Thiếu tá Robert Sheridan, TQLC Mỹ chứng
kiến và thu vào ống kính. Trong ảnh đăng kèm bài này, độc
giả thấy máy ảnh được đặt ở góc Tây–Bắc của cầu Bến Đá, ống
kính hướng ra phía quận lỵ Hải Lăng, nơi đặt bản doanh Lữ
Đoàn 369 TQLC trong cuộc hành quân tái chiếm QT vào tháng 7
và tháng 8, 1972.
Ảnh lấy từ trang 195 trong cuốn
“The Easter Offensive” (Trận Công kích Mùa Phục Sinh) của
tác giả Gerald Turley được nhà xuất bản Presidio in vào năm
1985. Ở chương 18, ông đại tá nhân chứng trong tư cách Cố
vấn trưởng của SĐ3BB tường thuật:
“Lúc 12 giờ trưa
[ngày 1 tháng 5, ghi chú của NgyThanh] Tướng Giai tuyên bố
tình hình kể như tuyệt vọng; thành phố không thể cầm cự dù
bất cứ tình huống nào. Ngay sau đó, hai chiếc thiết vận xa
chạy vào thành cổ. Tức khắc, Giai cùng khoảng 25 sĩ quan cao
cấp của ông trèo vào, hoặc ngồi bên trên các xe ấy để mở màn
nỗ lực tẩu thoát về phía sông Mỹ Chánh. Hành động này bỗng
dưng làm khoảng 18 quân nhân Mỹ bị bỏ rơi, phải trông chờ
trực thăng đến di tản một cách vô vọng. Dave Brookbank và
Glen Golden đã phải dùng kỹ năng của mình để lên kế hoạch
chia nhau tử thủ cổ thành. Đến 2 giờ, hai chiếc thiết vận xa
chở Giai và đoàn tùy tùng quay lại cổ thành. Hóa ra khi vừa
ra khỏi thành phố mới chỉ được lối 1.5km, xe của họ bị đối
phương phác giác và tấn công. Đường thoát bị khoá, họ chỉ
còn nước quay ngược về thành. Về tới, Giai tức thì gọi xin
trực thăng để di tản Ban Tham Mưu của mình... Bên trong cổ
thành, việc chuẩn bị di tản tiếp tục với tốc độ chớp nhoáng
trong khi các Cố vấn Mỹ đốt bỏ tài liệu mật càng nhiều càng
tốt song song với phá hủy tối đa các đồ quân cụ. Lúc 3 giờ
20, máy phát điện nổ. Vẫn chưa biết liệu có được di tản kịp
không, nhưng các Cố vấn đã bắt đầu nghe thấy tiếng súng nhỏ
ngay phía ngoài tường thành, mỗi lúc mỗi nhiều, và khu vực
cũ ngoài phố bắt đầu bốc cháy. Đến 4 giờ 30, chuyến trực
thăng đầu tiên sà xuống. Ông Giai và các sĩ quan thân cận
nhảy vội lên. 4 giờ 32, máy bay rướn lên, chở theo 37 hành
khách. Chiếc thứ nhì nhào xuống, trong vòng hai hoặc ba
phút, đã mang đi 47 người. Chiếc thứ ba xuống, bốc 45 người
còn lại, với Đại tá Murdock và Thiếu tá Golden, là 2 người
sau cùng. Đến lượt chiếc thứ tư xuống, nhưng chỉ sau 30
giây, đã cất tàu trống lên khi các phi công biết là tất cả
mọi người đã được cứu thoát. Cuộc di tản 129 quân nhân về Đà
Nẵng đã kết thúc thành công. Thành phố bị cô lập và bỏ
ngõ...
Trước đó, giữa sáng 29 tháng 4, hai Đại uý
George Philips và Bob Redlin lái xe Jeep tới Bộ Chỉ Huy Lữ
Đoàn 369 TQLC để bốc Thiếu tá Sheridan. Philips nói, ‘Chúa
Mẹ ơi, ông có thấy gì ngoài Quốc lộ không? Cả mấy ngàn người
dân đang chạy, bỏ Quảng Trị lại sau lưng. Ngoài đó, nhìn vào
phía Nam hay ngược ra Bắc đều thấy dầy kín dân tỵ nạn.’
Đoàn người cứ thế tiếp tục trong nhiều tiếng đồng hồ.
Khoảng giữa trưa 29 tháng 4, pháo binh Bắc quân lại bắt đầu
ào ào nhả đạn vào đoàn người ấy. Khi đêm xuống, người tỵ nạn
băng qua các vị trí bố phòng của TQLC. Đột nhiên, lúc 9 giờ
đúng, trừ những người chậm chân bị tụt hậu lại đàng sau,
đoàn ngươi bỗng dưng đứt đoạn. Đại tá mũ xanh Phạm Văn Chung
không lâu sau đó đã nhận được tin nguyên nhân sự đứt đoạn là
bởi Bắc quân đã thành công trong việc cắt đứt Quốc lộ 1 ở
phía Nam thành phố. Vậy rõ ràng là họ đã chiếm được cây cầu
qua sông Nhung
[cầu Dài, hoặc cầu Trường Phước, ghi chú của
NgyThanh] do một cánh quân Biệt Động trấn giữ. Và như thế,
nhiều bộ phận của Sư Đoàn 3BB đã bị nhốt cứng cách phòng
tuyến Mỹ chánh độ 8km về phía Bắc.”
Phóng viên Arnold
Issacs của tờ Baltimore Sun có dịp đi qua Đại Lộ Kinh Hoàng,
trông thấy tấn thảm kịch và ghi lại trong cuốn “Without
Honor: Defeat in Vietnam and Cambodia” (Chẳng danh giá gì:
Chiến bại ở Việt Nam và Cambodia):
“Ở phần
mở màn của trận phản công, binh sĩ Nhảy Dù VNCH đã chứng
kiến một trong những cảnh tượng khủng khiếp nhất trong toàn
bộ cuộc chiến tranh: những tàn dư của một đoàn công voa gồm
vừa lính tráng vừa thường dân bị đốt cháy và bị xé banh xác
do bị kẹt lại ở phía bên kia của cây cầu đã bị giật sập
[cầu Bến Đá, ghi chú của
NgyThanh]
để rồi bị tiêu diệt trên hành trình trốn chạy khỏi tỉnh.
Trên chiều dài của nhiều dặm đường, xe cộ bị xé toạc thành
từng miếng nằm nối đuôi nhau thành một hàng dài hầu như
không đứt lìa dọc cả hai bên lề đường. Trên chuyến xe Jeep
nhồi nhét đầy ắp nhà báo chạy về hướng Bắc một vài ngày sau
khi lính Nhảy Dù qua sông, tôi đếm được hơn 400 xác xe trong
3 cây số đầu tiên, và tôi thôi không đếm nữa trước khi tới
hết cái đuôi của sự tàn phá. Quân xa thì bạt che mui bị đốt
cháy hay đã bay mất, chỉ còn trơ các thanh đỡ mui trông
giống các que xương sườn của một bầy khủng long. Xen kẽ giữa
chúng là các xác xe tư nhân nằm lộn xuôi lộn ngược: xe đò
thì bên hông lăm dăm các lỗ thủng do mảnh lựu đạn hay đạn
súng trường, xe đạp xe gắn máy bị vặn cong hoặc gãy gọng
từng khúc, xe lam thì chiếc cháy chiếc bị xé từng mảnh, xe
hơi cháy đen, đèn pha bị hất tung ra ngoài chỉ còn các lỗ
trống như các hố mắt trên đầu lâu con người.”
Phần riêng Thiếu tá Sheridan, ông ghi nhận những gì mà
ông quan sát cảnh tượng vô bờ bến của tấn thảm kịch và sự
tàn phá:
“Đoàn người chạy giặc kéo dài hàng giờ và
tôi nghĩ không đời nào còn có thể chứng kiến một hình ảnh tệ
hại hơn khi mà vào sau giờ Ngọ, các pháo thủ của miền Bắc,
vì lý do gì thì tôi sẽ không bao giờ hiểu thấu, đã khai hỏa
các họng đại pháo trút đạn xuống đầu đoàn người. Hàng nghìn
người bị giết và bị thương, nhưng cái khối lúc nhúc người ấy
tiếp tục ùn về phía Nam. Chúng tôi không thể bắn trả vì tầm
bắn của pháo binh địch xa hơn pháo của chúng tôi. Tất cả sự
kính trọng tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh mất từ
hôm ấy. Các tiền sát viên của họ, những người chấm tọa độ và
chỉnh bắn trận mưa pháo đã đến đủ gần để khẳng định rằng đa
phần là dân thường và không thể là một lực lượng quân sự.”
Vòng tròn khép kín
44 năm trước, trong tuần lễ
này, Quốc lộ tử thần giữa cầu Bến Đá và cầu Trường Phước bốc
mùi tử khí. Thật là một trùng hợp lịch sử: Tháng 7 năm nay,
cuốn nhật ký chiến tranh Mùa Hè Cháy của tác giả Quý Hải,
nguyên là một Đại tá của Quân Đội Nhân Dân, được tái bản.
Sáng 1 tháng 7, 1972, khi tôi từ Huế theo chân phóng
viên chiến trường Đoàn Kế Tường đến cầu Bến Đá nằm ở phía
Bắc phòng tuyến Mỹ Chánh, thì cầu xe đã bị giật sập như các
nhân chứng khác đã tường thuật. Thấy khu vực hai đầu cầu
vắng lặng, không có lính Nhảy Dù phòng ngự trong các hố cá
nhân và giao thông hào, chúng tôi phán đoán là phía VNCH đã
đẩy được đối phương lùi lại một khoảng, nên rủ nhau bò qua
chiếc cầu sắt xe lửa cũng đã gãy gục thành hình chữ V xuống
nước, nhưng vẫn có thể bò qua được, nếu may mắn trên thành
cầu không bị cài mìn hay lựu đạn.
Với một chút liều
lĩnh và hiếu thắng của tuổi trẻ, chúng tôi đã bò qua dễ
dàng. Ngay đầu cầu phía bên kia của Quốc lộ, là một bãi mìn
dày đặc, do công binh VNCH cài một cách công khai, ngụ ý đe
dọa để ngăn chặn đối phương hơn là nhằm sát thương. Bắt đầu
từ bãi mìn hướng ra phía Bắc, là dãy xe nhà binh, xe Dân Sự,
xe đạp, xe gắn máy, và la liệt xác người như trong tấm hình
duy nhất mà tôi còn giữ lại được cho những sử gia nghiên cứu
về sau.
Sau nhiều năm tìm tòi, tôi thấy cần bảo lưu
tấm hình không đạt yêu cầu nghệ thuật của mình, vì ngoài một
tấm thứ nhì do Thiếu tá Cố vấn Robert Sheridan thuộc TQLC Mỹ
chụp, tất cả các hình ảnh “Đại Lộ Kinh Hoàng” còn lại đều
được chụp sau khi công binh chiến đấu của Trung tá Trần Đức
Vạn đã bắc xong cầu dã chiến qua sông Bến Đá, để mang xe ủi
qua sông, cào một dải khá rộng giữa lòng đường làm tuyến
tiếp viện binh sĩ, súng đạn, và thực phẩm cho tiền quân. Nhờ
có cầu dã chiến, các phóng viên khác đến sau chúng tôi không
phải bò qua cầu sắt, nhưng họ lỡ dịp may ghi vào ống kính
tình trạng nguyên vẹn của cảnh tượng mà tôi đặt tên là “Đại
Lộ Kinh Hoàng” trong cú điện thoại gọi về tòa soạn Sóng Thần
từ bưu điện Huế trong đêm 1 tháng 7, 1972.
Nhưng
Tường và tôi vẫn là những kẻ đến muộn những 2 tháng sau khi
xảy ra cảnh tượng kinh hoàng. Người biết về cảnh tượng rùng
rợn này trước chúng tôi chính là vị sĩ quan chỉ huy Tiểu
Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 38 Pháo Binh Bông Lau của miền Bắc,
người ra lệnh từ đài quan sát ở Cao điểm 132, và chịu trách
nhiệm trên từng viên đạn pháo tầm xa, trong cuộc chiến nhằm
“giải phóng nhân dân khỏi sự kềm kẹp của Mỹ–Ngụy.”
***
Trong cuốn Mùa Hè Cháy, tác
giả Quý Hải, bây giờ mang quân hàm Đại tá, đã chỉ viết đúng
một câu ngắn:
“Dọc đường số 1 hàng trăm xe ngổn
ngang, địch bỏ chạy. Máy bay địch thâm độc thả bom vào những
đoàn xe để phi tang, bất kể lính của chúng bị thương còn
ngổn ngang. Xe cháy nghi ngút.”
Là một trong hai
nhà báo đầu tiên đặt chân đến và đặt cho địa ngục trần gian
ấy cái tên “Đại Lộ Kinh Hoàng”, tôi thấy cái vòng tròn bao
quanh cánh đồng chết giữa 2 cây cầu Bến Đá và Trường Phước
nay đã có thể khép kín, nếu người đặt tên là tôi, và cha đẻ
của tác phẩm vấy máu chấp nhận ngồi đối diện nhau, cũng như
đối diện với các oan hồn đã bị thảm sát.
Khi ngồi
trước mặt nhau, tôi, một quân nhân mang cấp bậc Binh Nhất
của miền Nam, chỉ xin phép thưa với Thiếu tá Pháo Binh
Nguyễn Quý Hải vài điều thật giản dị.
Thứ nhất, hố
bom do máy bay thả xuống và hố đạn pháo binh sau khi bị kích
hỏa, tôi nghĩ là không thể trộn lẫn với nhau. Nhưng kiến
thức của một Binh Nhất miền Nam có thể rất hạn hẹp, hay lầm
lẫn; đề nghị Thiếu tá hỏi lại thủ trưởng của mình, Trung
đoàn trưởng Cao Sơn. Là người đi suốt chiều dài tử lộ từ
sông Bến Đá đến sông Nhung, tôi khẳng định với người anh
hùng Bông Lau [dám tấn phong liệt sĩ cho Khẩu đội trưởng
Nhúng, Trọng, và đồng đội đã hy sinh tại trận địa ngày 22
tháng 4, 1972 mà không cần chờ chính phủ ban hành nghị định
số 31/2013/NĐ–CP, ngày 1 tháng 6, 2013 quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp Lệnh Ưu Đãi người có
công với cách mạng] – rằng, trên mặt đường nhựa ấy, chỉ có
xác chết và xác xe, không có một hố bom, dù là loại bom nhỏ
nhất.
Thứ nhì, cây kim trong đống rơm còn có lúc phải
thò ra ánh sáng, nữa là đoạn từ lộ dài trên 5km, xác xe đan
vào nhau từ vệ đường bên này sang bên kia, bề ngang còn lớn
hơn cả đoạn Bát Đạt Lĩnh của Vạn Lý Trường Thành, hà tất từ
quỹ đạo địa cầu cũng có thể thấy Đại Lộ Kinh Hoàng. Hay là
ông Đại tá Bắc Việt chưa có đủ thông tin, hoặc giả thông tin
chưa chuẩn xác về những nạn nhân của Bông Lau, chủ yếu là
dân thường? đoạn văn mà nhà văn Đại tá dùng để kết án
“Mỹ–Ngụy thâm độc” dùng máy bay thả bom vào những đoàn xe để
phi tang, tôi không nghĩ là có cơ sở, sẽ có ai tin, mà tự nó
vạch trần cho người đọc thấy được một nỗ lực lấp liếm, tráo
trở kém trình độ. Muốn có người tin, e rằng trước tiên cần
thu hồi toàn bộ sách Mùa Hè Cháy đã in, để hiệu đính vô số
lỗi văn phạm, lỗi cú pháp, và cách hành văn tối nghĩa như
mõm chó, cũng như phải sửa lại đoạn vừa trích dẫn, vì chỉ
vỏn vẹn có 40 từ, mà nhà văn lớn đã vấp phải lỗi điệp ngữ vĩ
đại.
Thưa Đại tá Quý Hải:
Chiến tranh lùi lại
sau lưng chúng ta đã 41 năm. Chuyện chết chóc và đau thương
đã trở thành quá khứ. Nay người dân đang cần những tác phẩm
mang tính chính sử, chứ không là ngụy sử. Nếu những trách
nhiệm mà Tướng Thân Trọng Một gây cho người dân Huế có thân
nhân bị chôn sống hồi Mậu Thân đến nay vẫn trong diện ưu
tiên cần né tránh, thì chắc chắn việc Đại tá ra lệnh và xử
bắn, làm chết ít ra 1,841 người mà chính tay chúng tôi lượm
được xác ba tháng sau đó – cũng chưa cần phải đưa Đại tá ra
trước vành móng ngựa của Tòa An Hình Sự Quốc Tế ở Hà Lan, để
trả lời về tội ác chiến tranh, hay tội ác chống lại loài
người.
Mặc dù Thiếu tá Robert Sheridan viết:
“Tất
cả sự kính trọng tôi vẫn dành cho bộ đội Bắc Việt đã đánh
mất từ hôm ấy”,
nhưng là người Việt Nam với nhau, tôi sẽ sẵn sàng bày tỏ
lòng kính trọng của mình dành cho tập thể Quân Đội Nhân Dân,
trong đó có Đại tá – với điều kiện Đại tá nhận lời mời gọi
kính cẩn của tôi, để mang vòng hoa trắng, đến thăm đài tưởng
niệm các nạn nhân đã bị giết oan, và cầu cho oan hồn họ tiêu
diêu cõi vĩnh hằng. Nếu dám đến, với sự hối tiếc chân thành,
và với tư cách là người gây ra biến cố “Đại
Lộ Kinh Hoàng”,
tôi cho rằng Đại tá Nguyễn Quý Hải xứng đáng được tha bổng.
NgyThanh
1 tháng 7, 2016
(Nguồn tin: báo Người Việt)
thiên sứ micae – thánh bổn mạng sđnd qlvnch
|
hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
nguồn: internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ
Bảy, May 31, 2025
tkd. Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH