Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
Chiến trận tại Cổ Thành Đinh
Công Tráng
Tác giả:
Kiều–Mỹ–Duyên
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mỹ Chánh là con sông nhỏ chảy vắt ngang Quốc Lộ 1, làm
thành một ranh giới thiên nhiên của hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng
Trị. Khoảng giữa tháng 5 của mùa hè năm 1972, phòng tuyến Mỹ
Chánh đã thật sự vững chắc trên hai phương diện: về mặt bài binh,
bố trận của Quân lực miền Nam và cả về mặt tinh thần quyết chiến
của toàn quân, toàn dân sau khi thành phố Quảng Trị lọt vào tay
Cộng quân.
Những ngày đầu của tháng 5, các lực lượng Nhảy Dù và Thủy Quân
Lục Chiến (TQLC) của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bắt đầu tung ra
những đợt phản công bất ngờ, thật sấm sét, đẩy lui quân địch,
chiếm lại dần dần những phần đất đã mất. Nếu lấy Quốc Lộ 1 và
sông Mỹ Chánh làm hai trục tọa độ, thì những đơn vị Thủy Quân Lục
Chiến có nhiệm vụ quét địch bên phần Đông Bắc, những đơn vị Nhảy
Dù bên phần Tây Bắc. Cứ theo hướng Quốc Lộ 1 mà tiến quân, và nơi
hẹn bắt tay nhau là thành phố Quảng Trị.
Từ phòng tuyến Mỹ Chánh tiến ra, hai
đạo quân Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đụng phải những chốt của
Cộng quân bám chặt như Hải Lăng, La Vang, Mai Lĩnh. Đương đầu với
một lực lượng gồm 6 sư đoàn nòng cốt của Cộng quân, trong một
vùng mà họ đã chiếm đóng gần 3 tháng trời, với những công sự
phòng thủ có sẵn, nay được tu bổ thêm, khiến cho hai mũi tiến
quân của lực lượng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến như chạm vào
một khối đá xanh. Nhưng những người chiến sĩ của miền Nam, khi
vượt qua sông Mỹ Chánh, trong thâm tâm họ đã có một lời thề:
không lấy lại Cổ Thành, không trở về qua con sông này. Sự quyết
tâm đã được thể hiện: một lá cờ vàng ba sọc đỏ xếp sẵn trong ba
lô của một anh lính Nhảy Dù để chuẩn bị treo trên Cổ Thành. Và
người ta còn đồn rằng, có một chai champagne cũng nằm sẵn trong
ba lô của một anh lính Nhảy Dù khác, dành để mừng chiến thắng.
Cái chốt đầu tiên mà lực lượng Nhảy Dù
phải nhổ trên đường tiến ra Quảng Trị là Hải Lăng. Muốn vào Hải
Lăng, lực lượng Nhảy Dù tiến dọc theo Quốc Lộ 1 và qua một đoạn
đường mà những phóng viên chiến trường mệnh danh là “con đường
của tử thần.” Để mở đường cho cánh quân của Nhảy Dù tiến tới,
Liên Đoàn 10 Công Binh Chiến Đấu phải dùng xe ủi để ủi những xác
xe cộ và người chết trên mặt đường. Phóng viên của Reuter đã mô
tả quang cảnh đoạn đường này như sau:
“Trên một đoạn đường ngắn của Quốc Lộ
1, cách phòng tuyến Mỹ Chánh 8 cây số về phía Bắc, có khoảng 300
chiếc vừa là xe vận tải, vừa là xe jeep nhà binh, chiến xa và cả
xe hơi của tư nhân, xe Honda... bị phá huỷ nằm ngổn ngang với
hàng trăm xác người đã rữa nát. Cảnh khủng khiếp này nằm dọc hai
bên Quốc Lộ 1 phía Nam của Hải Lăng. Một chiếc xe cứu thương của
quân đội bị trúng đạn, 10 xác thương binh còn nằm trên xe. Có
những cánh tay được treo lên để chữa thương, thì nay chỉ còn trơ
xương và những ngón tay vẫn còn trong tư thế chỉ lên trời. Những
xương cánh tay, ống chân và đầu lâu nằm lăn lóc trên mặt đường.
Một xe vận tải bị lật nghiêng trên bãi cát bên đường, xác người
còn treo tòng teng. Cách mặt đường vài thước, 3 xe tăng T–54 và
một xe lội nước PT–76 của Bắc Việt bị phá hủy...”
Gần đến Hải Lăng, người ta thấy những
xe gắn máy, xe đạp nhiều hơn nằm ngổn ngang trên mặt đường và đã
bắt đầu rỉ sét. Những đoạn có nhà cửa hai bên đường, nhiều bộ
xương ở trong những tư thế khác nhau: nằm vắt trên xe, nằm sấp
giữa mặt đường, ngồi dựa bên tường. Mùi tử khí xông lên nồng nặc.
Những toán Công Binh Chiến Đấu dọn dẹp đoạn đường này phải dùng
vải để bịt mũi và miệng lại. Một số cũng bị tan xác bởi mìn, đạn
chưa nổ và cả pháo của Cộng quân. Trên đoạn đường tử thần này,
máu của những người chiến sĩ Công Binh đã đổ ra khá nhiều.
Vào Hải Lăng, quân Nhảy Dù đụng ngay
với Tiểu Đoàn Đặc Công K8 của Cộng quân đang trấn đóng ở thôn Mai
Hằng. Trận đánh kéo dài cả 8 tiếng đồng hồ. Và cuối cùng, lúc
15:45g ngày Chủ Nhật, mồng 3 tháng 7 năm 1972, quốc kỳ của Việt
Nam Cộng Hoà lại tung bay phấp phới tại quận Hải Lăng sau 93 ngày
lọt vào tay quân địch.
Sau chốt Hải Lăng đến chốt La Vang. La
Vang là một địa danh nổi tiếng về mặt tôn giáo, La Vang gồm có La
Vang Thượng và La Vang Hạ, là một làng thuộc quận Mai Lĩnh. Theo
truyền khẩu của nhân gian, La Vang do tên của một cây mọc hoang
rất nhiều ở đây, người địa phương gọi là “lá vang.”
Truyền thuyết rằng, vào khoảng năm
1789, khi một số giáo dân bị nhà Tây Sơn lùng bắt vì nghi họ theo
Linh Mục Bá Đa Lộc giúp Chúa Nguyễn Ánh, họ trốn trong nhà thờ La
Vang, bị đói khổ và bệnh tật. Những giáo dân này chỉ biết cầu
nguyện và Đức Mẹ hiện ra, dạy hái “lá vang” nấu nước mà uống sẽ
hết bệnh. Từ đó về sau, La Vang được xem là một thánh địa của
người Công Giáo và được truyền tụng là nơi có nhiều phép lạ xuất
hiện.
Nhảy Dù
vào nhà thờ La Vang
Đường vào La Vang, chỉ qua một đoạn
đường ngắn, nhưng đó là đoạn đường của tử thần. Đoạn đường này có
một cây cầu nhỏ, cầu Trường Phước. Cái tên Trường Phước có nghĩa
là phước đức lâu dài, nhưng hôm nay Mai Lĩnh là quận châu thành
của Quảng Trị. Vào đến Mai Lĩnh coi như đã đứng trước cửa ngõ của
thành phố này. Mai Lĩnh nằm giữa hai đồi cát trắng, có những lô
cốt bê tông xây sẵn từ đời nào, nay trở thành chỗ bố phòng quá
tốt của Cộng quân để chờ quân đội VNCH tiến vào.
Gõ cửa Mai Lĩnh là hai trung đội Trinh
Sát Nhảy Dù và Biệt Cách Nhảy Dù thuộc Liên Ðoàn 81. Hai trung
đội này phải di chuyển một cách thận trọng, có đoạn phải trườn
mình theo những rãnh cát, để vượt qua một vùng trống trải dài hơn
cây số mà không có một chỗ nào để ẩn nấp dưới những trận pháo
chận đường của Cộng quân. Đến trước Chi Khu Mai Lĩnh, lực lượng
này bị Cộng quân từ các lô cốt bắn B–40 và súng AK làm thành một
màn lưới lửa chận ngay tại đây. Những chiến sĩ Trinh Sát và Biệt
Cách Nhảy Dù phải đợi đến tối mới đánh đặc công và chiếm lại Mai
Lĩnh vào đêm ngày 5 tháng 7. Tiểu Đoàn 7 và Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù
cũng vừa kéo đến. Như vậy lực lượng của Nhảy Dù chỉ còn cách thị
xã Quảng Trị có 800 thước nữa thôi. Cùng lúc đó, một toán 30 binh
sĩ Biệt Cách Nhảy Dù được trực thăng đổ xuống ngay giữa thành phố
Quảng Trị để thăm dò tình hình địch và đồng thời lập một đầu cầu
cho đại quân của Nhảy Dù tiến vào.
Lữ Đoàn II Nhảy Dù dưới quyền chỉ huy
của Đại tá Trần Quốc Lịch, đang trên đường tiến vào cửa ngõ của
thành phố Quảng Trị. Lực lượng này gồm có Tiểu Đoàn 5 (... thiếu
một đoạn...) nhà ga và khu phố Thạch Hãn. Họ phải cận chiến với
địch quân để chiếm từng căn nhà, giành từng công sự, từng cao ốc,
diệt từng ổ kháng cự và tiến vào kiểm soát sân vận động của thành
phố để lập một đầu cầu. Khoảng 2 giờ chiều ngày 11 tháng 7, Tiểu
Đoàn 7 Nhảy Dù được yểm trợ bởi Thiết Đoàn 17 đã tiến vào theo
hướng này và chỉ còn cách trung tâm thành phố chừng vài trăm
thước nữa.
Cùng lúc đó về hướng Đông của Quảng Trị, một cánh quân của Thủy
Quân Lục Chiến với sự yểm trợ của Thiết Đoàn 15 đã tiến qua thôn
Giao Đằng và đang trên đường vào thành phố Quảng Trị. Lực lượng
Thủy Quân Lục Chiến đã dàn quân tạo thành một hành lang dọc bờ
biển, canh chừng nhất là Cửa Việt, ngăn chận đường tiếp tế lương
thực và vũ khí từ miền Bắc vào cho các lực lượng của Cộng quân
đang chiếm đóng ở vùng này.
Vào khoảng giữa tháng 7, hai đạo quân
Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đã bao vây ba mặt thành phố Quảng
Trị, chỉ bỏ ngỏ một mặt tiếp giáp với sông Thạch Hãn. Lực lượng
của Cộng quân đang tử thủ trong các công sự kiên cố trong thành
phố Quảng Trị ước lượng chừng 2,000 người thuộc Sư Đoàn 320 Bắc
Việt, thường được gọi là Sư Đoàn Thép.
Để ngăn chận những mũi tiến quân của
Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, Cộng quân đã dùng trọng pháo để
ngăn chận những mũi tiến quân của Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến.
Họ cũng mang luôn cả xe tăng để nghinh chiến. Vào đêm ngày 2
tháng 7, Cộng quân tung một lực lượng chiến xa hùng hậu tấn công
vào một cánh quân của Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Đoàn 18. Trận
đánh kéo dài qua ngày hôm sau, có 5 chiếc T–54 và 2 chiếc PTR–85
bị hạ. Một chiếc T–54 khác bị lính Thủy Quân Lục Chiến bắt sống.
Hồi 10:00g sáng ngày 3 tháng 7, trong
khi trận chiến vẫn còn tiếp diễn, Trung tá Lộc, Thiết Đoàn Trưởng
Thiết Đoàn 18 trả lời cuộc phỏng vấn của các phóng viên chiến
trường cho biết quân đội Việt Nam Cộng Hòa chỉ tổn thất nhẹ. Ông
cũng nhận xét rằng, chiến xa của địch thiếu kinh nghiệm chiến
đấu, tiến quân không có đội hình, cứ xếp hàng dọc mà tiến tới, vì
vậy, không đến 30 phút, họ đã bị hạ ngay 5 chiếc T–54.
Thành phố Quảng Trị chỉ còn là những
đống tro tàn và gạch vụn, hôm nay lại một lần nữa rung chuyển vì
những tiếng súng nổ không ngừng khi quân Nhảy Dù tiến vào hai mặt
Bắc và Nam của thành phố. Họ tiến vào từng bước một, nhích lên
từng tấc đất, thận trọng đẩy từng cánh cửa của những căn nhà
không chủ, bám vào từng gốc cây bên đường phố. Người ta ước lượng
còn khoảng chừng 1,000 thường dân bị kẹt lại trong thị xã này kể
từ ngày Cộng quân chiếm đóng. Từ dưới những hầm trú ẩn, một số
liều lĩnh chui lên tại các đường phố mà quân Nhảy Dù đã kiểm soát
được. Người nào mặt mày cũng hốc hác và gầy ốm vì chỉ ăn uống cầm
hơi trong mấy tháng qua.
Những trận giao tranh kịch liệt diễn ra
trong thành phố. Cộng quân được lệnh tử thủ. Có nhiều bằng chứng
cho thấy viện binh của họ đang được điều động từ Lào đến. Và quân
đội chánh phủ nhất quyết chiếm lại thành phố bằng bất cứ giá nào.
Và buổi trưa ngày 16 tháng 7, Tiểu Đoàn 6 và Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù
đã hiên ngang tiến vào trên đại lộ Lê Hanh như đi diễn hành. Một
chiến sĩ Nhảy Dù dẫn đầu với lá quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ, có
hai chiếc xe tăng M–48 gầm gừ hộ tống đằng sau. Đến 13:30g, anh
lính Nhảy Dù mang cờ trèo lên một cao ốc còn đứng vững giữa trung
tâm thị xã, đó là trụ sở của đảng Cách Mạng Đại Việt trước đây,
để treo lá quốc kỳ. Lá cờ đã tung bay trên bầu trời Quảng Trị sau
2 tháng 17 ngày vắng bóng vì địch chiếm.
Những chiến sĩ Nhảy Dù đã đổ nhiều máu
và hy sinh nhiều mạng sống để tái chiếm thành phố Quảng Trị,
thành phố ở vùng địa đầu giới tuyến, nhưng thực sự vẫn còn một
phần đất ngay trong thành phố này nằm trong tay Cộng quân: đó là
Cổ Thành. Một vài sử liệu cho rằng, Cổ Thành được xây lên từ thời
vua Gia Long, thành xây bằng đất, chung quanh có hào sâu. Qua
triều vua Minh Mạng, năm 1838, thành được phá đi và xây lại bằng
gạch cao 5 mét, dày 5 mét.
Người ta ước lượng có chừng một trung
đoàn Cộng quân với lương thực và vũ khí, đạn dược đầy đủ đang ẩn
sâu dưới những hầm hố, công sự rất kiên cố trong Cổ Thành. Và
chung quanh tường thành, một lực lượng khác đang mai phục để ngăn
chận bất cứ một sự xâm nhập nào của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Tái chiếm thành phố Quảng Trị, nhưng chưa chiếm được Cổ Thành thì
chưa kể là một sự chiến thắng hoàn toàn, vì ngoài mặt tâm lý còn
là một sự thử thách. Cộng quân đã huênh hoang qua máy truyền tin
cho rằng Cổ Thành ở trong tay chúng là nơi bất khả xâm phạm. Các
chiến sĩ Nhảy Dù đang háo hức nhìn về Cổ Thành chờ lệnh.
Và cuối cùng, họ đã đối diện với Cổ
Thành. Một cái thành hoang phế, nhưng màu máu vẫn còn tươi thắm.
Một cái thành đã đổ nát, nhưng trong những giờ phút sắp tới, họ
sẽ đổ thêm máu nữa để chiếm lại với bất cứ giá nào, vì đó là một
phần đất của miền Nam, vì đó là danh dự của một quân đội, là niềm
tin của cả trăm ngàn người dân đã bỏ nhà cửa ruộng vườn thân yêu
đang chờ ngày trở lại, vì đó là một cuộc so tài cho biết tay cao
thấp.
Theo
phóng viên Chad Huntley của UPI, các vị tư lệnh của chiến trường
Trị–Thiên đang cứu xét 3 kế hoạch khác nhau để tái chiếm Cổ
Thành. Kế hoạch thứ nhất là các lực lượng Nhảy Dù và Thủy Quân
Lục Chiến sẽ tấn công và tràn ngập Cổ Thành. Kế hoạch thứ hai là
để cho Không Quân san bằng Cổ Thành ra bình địa. Kế hoạch thứ ba
là các lực lượng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến sẽ bao vây Cổ
Thành cho đến khi địch quân chết đói ở trong đó.
Cuối cùng, kế hoạch thứ nhất được chọn.
Đôi bên sẽ mặt đối mặt phân tài cao thấp và thử gan anh hùng.
Dưới con mắt của hàng chục phóng viên tại chiến trường từ khắp
nơi trên thế giới đang có mặt tại đây sẽ cho hàng triệu người
khác nhìn thấy trận thử lửa đá vàng này, để một lần nữa đánh giá
rõ rệt khả năng và tinh thần chiến đấu giữa những người lính Quốc
Gia và Cộng sản.
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù là đơn vị được vinh
dự nhận trách nhiệm công phá cổ thành Đinh Công Tráng. Trung tá
Nguyễn Chí Hiếu, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, xuất thân
khóa 14 Võ Bị Đà Lạt, một trong những sĩ quan xuất sắc và giàu
kinh nghiệm chiến trường của binh chủng Nhảy Dù. Ông đã trải qua
bao nhiêu trận mạc, từ Mậu Thân phản công diệt địch, đến vượt
biên nhảy vào Cao Miên truy lùng Cục R, rồi Hạ Lào với Lam Sơn
719. Bây giờ trên chiến trường Trị–Thiên, ông và Tiểu Đoàn 5 Nhảy
Dù đang trên đường tiến tới Cổ Thành. Một trung đoàn Cộng quân đã
mai phục sẵn để chào đón những người mới đến. Trung tá Hiếu xử
dụng tất cả những lực lượng pháo binh nào có thể yểm trợ được,
nhưng đánh vào là dội ra. Tiểu Ðoàn 5 bị địch cắt ra làm ba, mỗi
đại đội phải chiến đấu riêng rẽ.
Để đảo ngược tình thế, Trung tá Hiếu
chấp nhận một phương cách rất mạo hiểm, thiên địa đồng ư quy tận:
địch và ta cùng chết một lần. Ông ra lệnh cho binh sĩ vừa chiến
đấu vừa đào hầm trú ẩn, loại hầm chữ A, rồi gọi Pháo Binh pháo
ngay trên đầu mình vì địch và ta, hai bên đang ở trong thế cài
răng lược. Pháo Binh không dám bắn. Trung tá Hiếu gọi máy trình
bày với Đại tá Lịch. Đại tá Lịch đồng ý và cho lệnh Pháo Binh
bắn. Cộng quân không ngờ, tổn thất khá nặng, đành phải bỏ ngỏ cho
Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù tiến tới Cổ Thành.
Bây giờ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù đã đối diện
Cổ Thành. Trung tá Hiếu lặng lẽ đứng nhìn mục tiêu của mình và
nói đùa với các sĩ quan của ông:
– Mình công thành như thời La Mã, nhưng
với những khí giới của thế kỷ 20.
Và cái thành đã làm cho ông mất ăn mất
ngủ là một ngôi thành cổ hình vuông, mỗi bề dài 500 thước, chung
quanh có hào sâu rộng chừng 10 thước. Cổ Thành nguyên là doanh
trại của Tiểu Khu Quảng Trị, tháng 4 vừa qua, Bộ Tư Lệnh của Sư
Đoàn 3 từ căn cứ Ái Tử dời về đây, Tướng Vũ Văn Giai đã cho tu bổ
và xây dựng thêm nhiều hệ thống phòng thủ kiên cố mới. Bởi vậy,
khi Cổ Thành lọt vào tay địch quân, nơi đây đã trở thành một khối
thép được bao bọc bởi màn lửa đạn sơn pháo 130ly, hỏa tiễn 122ly
từ bên kia sông Thạch Hãn và từ những họng đại bác 57ly, 75ly,
B–40 và thượng liên đặt trên bờ thành mà những xạ thủ đã bị xích
chân vào đế súng.
Những chiến sĩ Nhảy Dù lấy máu đổi từng
tấc đất. Có những ngày tiến lên được mấy chục thước, đến chiều
lại phải lui về vị trí cũ. Khi những chiến sĩ Nhảy Dù tiến lên
thì bị pháo của địch như mưa trút xuống mà không có chỗ để ẩn
nấp. Còn địch quân ở trong thành, khi máy bay của ta đến ném bom,
họ chui xuống những công sự kiên cố, máy bay rời vùng, họ lại bò
lên một cách an toàn. Và hai tuần trôi qua. Lực lượng Nhảy Dù chỉ
tiến lên được 500 thước, hỏa lực của địch quân đã cầm chân họ ở
đây.
Qua đến
tuần thứ ba tình hình chưa có gì tiến triển. Trung tá Hiếu đau
lòng khi nhìn thấy quân số của mình mỗi ngày hao hụt khoảng 100
người, vừa chết vừa bị thương. Mặc cho quân số Nhảy Dù được bổ
xung ngay, nhưng đa số là tân binh từ trại Vương Mộng Hồng ở
Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung đưa đến. Trước tình huống như
vậy thì một sĩ quan tiền sát của tiểu đoàn đến gặp và nói với
Trung tá Hiếu:
– Tôi sinh trưởng và lớn lên ở Cổ
Thành. Tôi biết rõ từng ngõ ngách bên trong Cổ Thành.
Trung tá Hiếu lập tức ra lệnh làm một
sa bàn của ngôi thành bằng đất. Ông nghiên cứu rồi họp mặt tất cả
đại đội trưởng để trình bày một kế hoạch mới, kế hoạch này gồm
hai giai đoạn: giai đoạn một là xâm nhập, thăm dò trên mặt thành,
cắm một lá cờ và nằm im đó để làm đầu cầu trước lúc bình minh của
ngày 25 tháng 7, giai đoạn hai là rạng sáng hôm sau, một lực
lượng sẽ tấn công tiếp và trong vòng 48 tiếng đồng hồ, phải đánh
chiếm lại ít nhất phân nửa Cổ Thành. Cuối cùng, Trung tá Hiếu kết
luận:
– Phải
có một toán cảm tử vào thành để lập đầu cầu.
Các đại đội trưởng trở về đơn vị phổ
biến kế hoạch và chọn những người tình nguyện cho công tác đặc
biệt đêm nay. Rất nhiều người tình nguyện, nhưng chỉ 8 người được
chọn, họ là những tân binh Nhảy Dù, nhưng trước đây đã ở trong
Lực Lượng Đặc Biệt, từng nhảy toán nên “tay nghề” rất già dặn.
Tám người làm thành một toán gọi là toán Quyết Tử. Trung tá Hiếu
thăng trước cho mỗi người hai cấp. Ông biết đó là điều ngoài
quyền hạn của mình, nhưng ông cũng như mọi người đều hiểu rằng,
những kẻ ra đi trong đêm nay, chỉ mấy phần trăm hy vọng trở về.
Buổi chiều ngày 24 tháng 7 năm 1972,
khi chiếc phản lực cuối cùng rời vùng oanh kích trở về căn cứ, là
lúc hoàng hôn cũng vừa phủ xuống trên Cổ Thành và cả một vùng
hoang tàn đổ nát chung quanh. Tiếng súng thưa thớt rồi im hẳn,
làm cho chiến trường bỗng nhiên chìm vào một khung cảnh tĩnh mịch
trong bóng đêm. Nhưng chính trong những giây phút tưởng như người
chiến sĩ có thể gác súng nghỉ ngơi được giây lát sau một ngày dài
nhích lên từng tấc đất dưới bom đạn, mồ hôi và máu, thì thật ra
đây là khoảng thời gian nguy hiểm nhất. Lệnh không được khai hỏa
ban đêm, sợ lộ mục tiêu mà bị địch phục kích cũng biết điều đó
nên thường hay bò đến đánh đặc công. Bởi vậy, khi bóng đêm phủ
xuống, đó là thời gian “thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ.”
Nhưng buổi chiều hôm nay, khi màn đêm
vừa buông xuống, một kế hoạch táo bạo của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù bắt
đầu khai diễn. Tám người lính Nhảy Dù trong toán Quyết Tử đã biết
rõ công tác của họ đêm nay. Cũng như họ đã biết rất rõ lộ trình
mà họ sẽ vượt qua, một đoạn đường ngắn chỉ chừng 300 thước, đoạn
đường từ điểm xuất phát đến chân bờ thành. Một đoạn đường mà đã
hơn hai tuần nay, ngày nào họ cũng đổ mồ hôi và máu để thâu ngắn
lại, nhưng mà bờ tường của ngôi thành cổ kia hình như vẫn còn xa.
Cái khoảng trống rộng có 300 thước đó
là vòng đai của tử thần. Một màn lưới hỏa lực dày đặc bao phủ
vòng đai này, khiến cho người ta có cảm tưởng nếu có một con thỏ
từ ngoài này chạy vào, nó sẽ trúng đạn trước khi đến dưới bờ
thành. Lại thêm những toán đặc công của Cộng quân “độn thổ” chung
quanh và bên ngoài bờ thành là những chốt ngăn chận bất cứ một
lực lượng nào mưu toan xâm nhập. Khi được giao phó cho nhiệm vụ
tái chiếm Quảng Trị, lực lượng Nhảy Dù đã chuẩn bị sẵn một lá cờ
để dựng trên Cổ Thành. Lá cờ đó, bất cứ giá nào cũng phải dựng
lên. Và đó là công tác của toán đặc nhiệm Nhảy Dù đêm nay.
Tại điểm xuất phát, toán Quyết Tử đã
sẵn sàng. Binh Nhất Trần Tâm được cử làm trưởng toán. Binh Nhất
Hồ Khang được chỉ định giữ lá cờ và sẽ cắm lá cờ trên Cổ Thành.
Rồi trong bóng đêm, tám người lính Nhảy Dù lặng lẽ khởi hành. Sau
lưng họ, những cấp chỉ huy, những bạn đồng đội dõi mắt nhìn theo,
gửi gắm nơi họ một niềm hy vọng. Tám người chiến sĩ ra đi với một
lòng quyết tử. Họ ra đi như Kinh Kha ngày trước. Sông Dịch Thủy
Nhảy Dù có rộng nhưng vẫn dễ qua hơn 300 thước đất trống trước
mặt. Chín bậc thềm rồng của Tần vương tuy có cao nhưng dễ lên hơn
5 thước tường của ngôi thành cổ.
Tám người mất hút vào bóng đêm rất
nhanh. Những người đằng sau dõi mắt trông chờ. Họ chỉ mong khung
cảnh đêm nay vẫn tiếp tục yên tĩnh như trong giây phút này. Đối
với những người đang chờ đợi, thời gian như ngừng lại. Không có
tiếng người, không có tiếng súng, không có hỏa châu, chỉ có tiếng
côn trùng từ những đồng ruộng chung quanh vọng lên làm cho đêm
trở nên hiền hoà như một đêm thanh bình của những ngày chưa xảy
ra chiến trận tại đây. Trong bóng đêm dày đặc, các đồng đội của
những người ra đi không thấy được gì hơn là bóng đen sừng sững
của ngôi cổ thành vươn lên giữa khung trời còn chút ánh sáng mờ
mờ. Họ đếm từng giây từng phút, họ lắng tai nghe từng tiếng động.
Chưa có tiếng súng là toán Quyết Tử của Nhảy Dù chưa chạm địch.
Nhưng nếu hỏi giờ này họ đã tiến vào đến đâu rồi, thì không ai có
thể trả lời được. Có thể 50 thước, 100 thước, cũng có thể đã đến
dưới chân tường hoặc có thể đã bị địch bắt sống, bị thanh toán
bằng cận chiến một cách âm thầm để gài cho toán khác tiếp tục
tiến vào.
Và
họ chỉ biết chờ đợi. Thời gian trôi qua. Rồi trong bóng đêm, ngay
hướng của toán tám người vừa tiến vào, trên mặt thành, một bóng
đen đột nhiên nhô lên giữa bầu trời, bay bay theo chiều gió. Từ
ngoài xa, một người tinh mắt nhìn thấy và la lên:
– Lá cờ.
Cùng lúc đó, trong sự tĩnh mịch của đêm
trên chiến địa, bên tai của những người đang ghìm súng chờ nhau
bỗng nghe một tiếng hô dõng dạc từ trên bờ thành vang dội:
– Nhảy Dù cố gắng. Nhảy Dù chiến thắng.
Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!
Tiếng hô lồng lộng trong đêm khuya và
vang dội cả Cổ Thành.
Khi những người lính Nhảy Dù đầu tiên
đặt chân được trên mặt thành để dựng cờ, một tai nạn thảm khốc
xảy ra, ngay trước mắt Trung tá Hiếu đang đứng theo dõi trận
đánh: hai phi tuần của ta, không biết vì một sự lầm lẫn nào, đang
chúi xuống trút bom ngay trên đầu Đại Đội 51. Trung tá Hiếu nhìn
thấy rõ ràng, nhưng làm sao ngăn kịp. Ông nghe tiếng của Đại úy
Sỹ la thất thanh trên máy. Rồi bom nổ. Đại Đội 51 Nhảy Dù gần như
tan nát.
Ngày
27 tháng 7 năm 1972, lực lượng Nhảy Dù được lệnh bàn giao Cổ
Thành lại cho Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Sự thay đổi nhiệm vụ
đột ngột này làm cho một số người thắc mắc. Sau này tôi có hỏi
Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tướng Trưởng xác nhận rằng, việc
điều động là do tình hình của chiến trường. Lúc bấy giờ áp lực
của Cộng quân ở vùng núi rất nặng nề. Ông đã hội ý với các vị Tư
Lệnh của các lực lượng và cân nhắc rất kỹ trước khi quyết định.
Có lẽ Tướng Trưởng muốn ám chỉ lúc đó, những tin tức tình báo cho
thấy Cộng quân đang điều động viện binh từ Lào qua. Lực lượng này
có thể là toàn bộ Sư Ðoàn 316 và hai trung đoàn thuộc Sư Ðoàn 312
đã rút khỏi Lào hiện đang ẩn nấp giữa vùng biên giới Lào–Việt và
có thể tham chiến tại Quảng Trị bất cứ lúc nào. Cuộc bàn giao
vùng trách nhiệm giữa hai lực lượng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục
Chiến hoàn tất vào ngày 28 tháng 7.
Một cố vấn Mỹ của Thủy Quân Lục Chiến
đã tuyên bố với báo chí:
– Trận Quảng Trị mới bắt đầu.
Đó có nghĩa là từ giờ phút này, những
chiến sĩ Mũ Xanh sẽ “trầy vi, tróc vảy” để dứt từng chốt một của
địch đang cố thủ trên đường tiến vào Cổ Thành. Những người quan
tâm đến trận chiến này đều cùng chung một nhận định: Cổ Thành chỉ
có thể tái chiếm khi quân ta khóa được họng pháo của địch, cắt
đứt đường tiếp tế từ Bắc vào và không lực phải yểm trợ tối đa cho
các lực lượng trên bộ.
Và trận chiến lại tiếp diễn.
TQLC/VNCH tại Quảng Trị 1972
Lực lượng Thủy Quân Lục Chiến dưới
quyền chỉ huy của Đại tá Ngô Văn Định, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258
bắt đầu đếm từng tấc đất tiến lên được, từng đồng đội đã gục ngã
và từng viên gạch trên tường Cổ Thành rơi xuống vì sức công phá
của quân ta. Trận chiến không phải chỉ trong một giờ, một ngày
hay một tháng. Trận chiến tiếp diễn không ngừng. Tiếng súng không
một giây phút nào dứt. Ta và địch, giành nhau từng tấc đất. Trên
bầu trời của thành phố Quảng Trị, không bao giờ vắng bóng những
chiếc phản lực cơ gầm thét, phóng lên, nhào xuống để trút hàng
tấn bom đạn. Khắp cả một vùng, không có một thước đất nào là
không có dấu vết của sự tàn phá. Nhà cửa, phố xá hoang tàn. Chỉ
còn Cổ Thành là vẫn đứng vững. Và cuộc chiến vẫn tiếp diễn... Rồi
80 ngày trôi qua. Đã bao nhiêu bom đạn trút xuống, đã bao nhiêu
chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến hy sinh, mà điểm tiến đến gần nhất
cũng còn cách bờ thành 200 thước.
Cuối cùng, một kế hoạch mới được thực
hiện: muốn nắm được cái đầu rắn trong Cổ Thành thì phải đập cái
đuôi rắn bên kia bờ Bắc của sông Thạch Hãn. Không Quân và Pháo
Binh được giao cho nhiệm vụ khóa họng những khẩu pháo của địch
trong một thời gian đủ để cho lực lượng Thủy Quân Lục Chiến xung
phong tràn lên mặt thành đánh cận chiến bằng lựu đạn và súng M–79
với địch. Kế hoạch này đã có kết quả.
Và một ngày giữa tháng 9, ngày 14 tháng
9 năm 1972, Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến, tuyên
bố với phóng viên báo chí tại chiến trường:
– Tôi tin tưởng rằng, trong vài hôm
nữa, ngọn cờ vàng ba sọc đỏ sẽ tung bay trên Cổ Thành Quảng Trị.
Và ông mời các phóng viên lúc đó sẽ
cùng ông vào Cổ Thành nhậu ly rượu đế để mừng chiến thắng. Chỉ
vài hôm nữa. Nghe thật đơn giản và quá dễ dàng. Nhưng muốn uống
ly rượu đế của Tướng Lân, hãy nghe tin điện của phóng viên AFP
đang có mặt ở Cổ Thành mô tả:
“Thật là một cảnh địa ngục trần gian.
Ác chiến diễn tiến không ngừng một giây. Trong tiếng đạn đại bác,
tiếng bom oanh tạc của Không Quân và những tràng đạn súng tự động
là những tiếng la xung phong. Quang cảnh đổ nát điêu tàn.”
Phóng viên người Ý, Ennio Iacobucci, là
phóng viên cuối cùng rời Quảng Trị, chỉ vài giờ trước khi các lực
lượng của miền Nam di tản khỏi thành phố này hồi tháng 5 vừa qua,
và ông cũng là phóng viên ngoại quốc đầu tiên leo lên Cổ Thành,
ngay nơi Thủy Quân Lục Chiến và Cộng quân đang giao tranh ác
liệt.
Trong
thời điểm quyết liệt đó, một trận đánh táo bạo và thần tốc ngay
buổi sáng ngày 14 tháng 9. Những chiến sĩ của Tiểu Ðoàn 3 và Tiểu
Đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến dùng lựu đạn và chĩa nòng súng lớn
trực xạ vào các công sự phòng thủ của Cộng quân để tiến chiếm
thêm một phần tường phía Nam Cổ Thành. Cuộc tấn công bất ngờ này
có sự yểm trợ của 5 chiến xa M–48 của Thiết Đoàn 20. Những chiến
xa M–48 đã tiến sát tường thành, bắn đại bác lên đầu các công sự,
bắt địch quân phải nằm im dưới hầm, trong lúc đó, Thủy Quân Lục
Chiến bò lên tung lựu đạn và bắn trực xạ vào các nơi ẩn núp của
Cộng quân.
Khi
tiếng súng từ dưới những hầm của địch quân đã im bặt, toán Thủy
Quân Lục Chiến đứng thẳng lên reo hò vì đã chiếm xong một đoạn
tường thành nữa. Phóng viên của UPI là Ted Kurrus đã leo lên
tường thành cùng một lúc với toán 50 Thủy Quân Lục Chiến dự cuộc
tấn công này tường thuật: “Khoảng 250 thước tường thành, tức là
phân nửa vòng thành phía Nam đã nằm trong tay của Thủy Quân Lục
Chiến.”
Trên
mặt một đoạn thành khác, một lực lượng Thủy Quân Lục Chiến bố trí
để yểm trợ cho một lực lượng bạn đã vào trong thành từ mấy hôm
trước, nay tiếp tục tiến lên một cách thận trọng từng bước. Cộng
quân vẫn tiếp tục bắn súng cối và đại bác không giật vào các lực
lượng đang xâm nhập Cổ Thành. Những phản lực cơ của Không Quân ta
trả đũa không ngừng, cố gắng khóa họng các khẩu pháo này để tránh
thiệt hại cho quân bạn. Có những lúc các chiến sĩ Mũ Xanh mạo
hiểm, chấp nhận cho dội bom sát bên cạnh, chỉ cách vài chục
thước, để mong sớm dứt điểm chiến trường.
Có lẽ còn chừng 500 Cộng quân bị vây
hãm trong thành nên tiếp tục kháng cự. Các đơn vị của ta đã bố
trí sẵn sàng ở mặt Tây và Đông của thành phố Quảng Trị để ngăn
không cho địch rút lui. Địch quân bị tiêu diệt dần dần, cuối cùng
phải phân tán thành từng toán chống cự nhỏ rải rác trong các công
sự. Nhưng pháo kích vẫn còn tiếp tục, từ phía bên bờ Bắc sông
Thạch Hãn.
Cho
đến ngày 15 tháng 9, đại quân của ta từ ba mặt kéo vào, hoàn tất
cuộc tái chiếm Cổ Thành lúc 5:15g. Cùng trong ngày, mặc dù Cộng
quân vẫn còn bắn sẻ và pháo đạn súng cối vào liên tục và trời thì
đang mưa bão, nhưng Thủy Quân Lục Chiến vẫn làm lễ dựng lại quốc
kỳ trên Cổ Thành Quảng Trị. Lá cờ mà toàn thể người dân miền Nam
đã bao ngày mong đợi. Lá cờ mà máu của bao nhiêu chiến sĩ đã đổ
xuống để dựng lại ngày hôm nay.
Một tiểu đội Thủy Quân Lục Chiến, quần
áo đầy đất bụi, mệt nhọc sau những ngày kịch chiến, đã buộc lá cờ
màu vàng ba sọc đỏ lên một cây cột cao chừng 7 thước và cắm trên
đỉnh tường về phía Tây của Cổ Thành. Gió bão thổi lá cờ bay phần
phật một cách oai hùng và ngạo nghễ giữa cảnh chiến trường chưa
im tiếng súng. Chéo dưới của lá quốc kỳ có gắn dây biểu chương
hai màu xanh và vàng của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, là lực
lượng đã chiến đấu suốt thời gian qua để chiếm lại Cổ Thành.
Phóng viên Ted Kurrus của hãng thông
tấn UPI, chứng kiến cảnh dựng cờ trên Cổ Thành Quảng Trị đã cho
rằng thật hùng tráng không khác gì cảnh dựng cờ của quân đội Mỹ
trên đảo Iwo Jima hồi Đệ Nhị Thế Chiến.
Kiều–Mỹ–Duyên
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Bê Ta chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, February 17,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang