Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
Chiến trận Cổ Thành Đinh
Công Tráng
Tác giả:
Giao Chỉ, San
Jose
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Tưởng niệm TIỂU ĐỘI
TIỀN THÁM Nhảy Dù:
Ðây là bài viết thứ 7 trong loạt bài
tìm hiểu về trận thư hùng Nam–Bắc tại Quảng Trị vào mùa hè 1972.
Chúng tôi đã viết về Sư Đoàn 3, về TQLC, Pháo binh, về miền
Trung, về xứ Quảng, về tình yêu, đêm đen. Nay viết về Nhảy Dù và
sẽ còn tiếp theo với Biệt động quân, Không quân, Thiết giáp, Sư
Đoàn 1...
Riêng đoản văn này thực hiện được là nhờ thêm tài liệu của Thiếu
tá Trương Đăng Sỹ hiện định cư tại Úc Châu. Cách đây 37 năm ông
là Đại úy Đại đội trưởng Đại Đội 51 của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Ðơn
vị đã trải qua nhiều cay đắng bên bức tường thành oan trái của
Tiểu khu Quảng Trị.
Từ Úc Châu, Thiếu tá Sỹ đã viết những
lời hết sức đau thương. Ông viết rằng: “Nhảy Dù đã đánh vào Cổ
Thành như thế đó. Bằng tất cả hỏa lực và xương máu. Bằng tất cả
quyết tâm của tuổi trẻ hiến dâng cho tổ quốc. Quyết tâm dựng bằng
được lá quốc kỳ”.
Và lời than vãn 37 năm sau đã nhắc lại:
“Trong lúc Thủy quân lục chiến chuẩn bị làm lễ thượng kỳ, ghi dấu
chiến thắng Cổ Thành Quảng Trị thì cũng có 1 người âm thầm tưởng
nhớ các chiến sĩ của Đại Đội 51”.
Như vậy thì ý nghĩa của trận dứt điểm
Quảng Trị tại Cổ Thành quả thực là 1 vấn đề hết sức quan trọng.
Dù muốn dù không, tinh thần thi đua sống chết với bom đạn, thi
đua lập chiến công các Sư Đoàn Bộ Binh, giữa các đơn vị tổng trừ
bị là chuyện mà lịch sử không thể bỏ qua được. Trước khi vào bắt
đầu, xin hãy cùng người đại đội trưởng năm xưa, chúng ta tưởng
nhớ đến Tiểu Đội Tiền Thám tình nguyện mang màu hoa dù mũ đỏ đã
hy sinh đợt đầu tiên tại Cổ Thành Ðinh công Tráng. Những cái chết
oanh liệt và rất cô đơn đó sẽ được kể lại trong những đoạn sau.
Diễn tiến tin chiến sự:
Chúng tôi sẽ không viết về chi tiết của
cuộc chiến. Bài viết này không phải đơn thuần dành cho các nhà
quân sự, không phải chỉ dành cho giới chiến binh. Ðây là bài viết
cho mọi người, cho gia binh, cho thế hệ tương lai. Xin được thông
cảm. Câu chuyện sẽ trình bày đơn giản và bây giờ xin kể lại từ
đầu.
Trong
chiến tranh Việt Nam có 2 kỳ chiến sự bộc phát mãnh liệt.
Năm 1968 Tết Mậu Thân, cộng sản đánh
theo kiểu nổi dậy từ bên trong. Hoa Kỳ có tham gia chiến trận với
Việt Nam Cộng Hòa. Sau 50 ngày quân ta dẹp tan phe địch ở khắp
nơi.
Qua đến
mùa hè 1972 địch mở 3 mặt trận. Riêng Quân Khu I, địch tấn công
trực tiếp qua giới tuyến. Trong nội tháng 4/1972 Bắc quân chiếm
toàn thể lãnh thổ Quảng Trị. Bên ta rút lui từ sông Bến Hải về
sông Thạch Hãn, rồi từ sông Thạch Hãn về sông Mỹ Chánh. Qua tháng
5/1972 miền Nam chỉ còn giữ được Thừa Thiên và Huế. Cuộc lui binh
Quảng Trị được coi như thất bại đau thương. Các đơn vị Thủy quân
lục chiến, Bộ binh, Biệt động quân, Pháo binh, Thiết giáp, Địa
phương quân và dân chúng đều phải chạy về miền Nam.
Tháng 4/1972 cũng đã là 1 tháng tư đau
thương.
Nhờ 1
Lữ Đoàn Thủy quân lục chiến còn giữ vững phòng tuyến sông Mỹ
Chánh. Nhờ Sư Đoàn 1 Bộ Binh giữ được mặt trận phía tây Thừa
Thiên. Kinh thành Huế còn sống, đứng bất động đợi chờ. Cộng sản
với đà chiến thắng mạnh mẽ cũng đã hết sức nên phải dừng lại
chỉnh đốn binh mã.
Tháng 5/1972 là tháng miền Nam phục
hồi. Tháng 6/1972 đại quân tổng trừ bị Nhảy Dù và Thủy quân lục
chiến cùng vượt sông Mỹ Chánh để bắt đầu trận phản công. Có Thiết
giáp, Pháo binh, Biệt động quân cùng tham dự. Rõ ràng là cuộc
hành quân Bắc tiến thực sự. Không quân Việt–Mỹ bao vùng, thêm hải
pháo từ Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ ở biển Ðông.
Cuộc tiến quân tháng 6 của miền Nam coi
như thành công. Quân sử của miền Bắc đã phê bình nội bộ cho rằng
phe cộng sản đã không bám đất, giữ trận tuyến ngay từ bờ bắc sông
Mỹ Chánh. Ðể đến khi miền Nam dồn địch lên phía bắc thì quá muộn.
Tuy nhiên, vì nhu cầu hòa đàm, địch vẫn phải sống chết bám lấy Cổ
Thành Quảng Trị.
Từ Paris phe ta phe địch, cả hai bên
đều theo chiến thuật đánh đánh, đàm đàm. Việt Nam Cộng Hòa, Giải
phóng miền Nam, cộng sản Hà nội và Hoa kỳ đều chờ tin tức trận
Quảng Trị. Ðại tá Ðỗ đức Tâm, hàng ngày chạy qua bộ tổng tham mưu
nghiên cứu thật kỹ bản đồ trận liệt miền hỏa tuyến để nhật tu
phòng hành quân riêng của Tổng thống Nguyễn văn Thiệu tại dinh
Ðôc Lập. Trên bản đồ của tổng thống có các dấu hiệu theo dõi
xuống đến cả cấp tiểu đoàn.
Trung tướng Thiệu gọi điện cho Tướng
Trưởng mỗi ngày và đồng thời nhận điện từ tin tức hòa đàm Paris.
Từ Hà Nội, Lê Duẩn nhấp nhỏm theo dõi tình hình từ các cấp chỉ
huy mặt trận tại Quảng Bình rồi lại chờ báo cáo của Lê đức Thọ từ
Pháp. Cố vấn Mỹ từ Sài Gòn bay ra Huế rồi đi trực thăng đến bờ
sông Mỹ Chánh nói chuyện với tòa đại sứ. Ông đại sứ gọi thẳng qua
Pháp cho Kissinger. Báo cáo sau cùng, Nhảy Dù Việt Nam đã tiến
vào thị xã Quảng Trị. Tin tức trên trang nhất của báo chí Hoa Kỳ
loan báo trận chiến quyết định sắp sửa mở màn. Mục tiêu sau cùng
là Cổ Thành Ðinh Công Tráng, một nhu cầu chính trị. Lúc đó vào
đầu tháng 7/1972, Sư Đoàn Thủy quân lục chiến Việt Nam với 3 Lữ
Đoàn có chiến xa và pháo binh đã nhẹ nhàng làm chủ tình thế mặt
trận phía duyên hải. Vị tân tư lệnh Thủy quân lục chiến là Chuẩn
tướng Bùi thế Lân.
So với Nhảy Dù, TQLC quân số đông hơn,
và từ đầu năm 72, mũ xanh tổn thất nhẹ hơn Sư Đoàn Mũ Đỏ. Phần vụ
của Sư Đoàn Nhảy Dù xem chừng cay đắng hơn vì từ trục tiến quân
trên quốc lộ bây giờ phải xoay ngang cánh mặt để giải quyết khúc
xương chính của chiến trường. Thị xã và Cổ Thành. Lúc đó Trung
tướng Dư quốc Ðống, gốc Rạch giá vẫn còn giữ chức vụ Tư lệnh Nhảy
Dù với 3 Lữ Đoàn tác chiến chuẩn bị dứt điểm mục tiêu sau cùng
bên bờ sông Thạch Hãn. Một Lữ Đoàn giữ phòng tuyến quốc lộ và
chặn địch phía Tây, vùng cận sơn. Một Lữ Đoàn trừ bị. Trách nhiệm
tấn công giao xuống Đại tá Trần quốc Lịch, Lữ Đoàn II nhận nỗ lực
chính. Ðại tá Lịch quê Nam Ðịnh, một đời chinh chiến đi lên từ
trung đội trưởng. Tiểu đoàn trưởng Pháo binh Nhảy Dù là Bùi Ðức
Lạc, yểm trợ trực tiếp cho Lữ Đoàn II. Ðến trung tuần tháng 7 thì
Nhảy Dù đã giải tỏa xong thị xã Quảng Trị, nhưng chưa tính đến
tòa thành cổ. Ðịch tăng cường mạnh mẽ và rút vào cố thủ bên
trong. Pháo địch bắn liên tục chung quanh phía ngoài. Bom đạn bên
ta ngày đêm cầy nát bên trong. Mặc dù Sư Đoàn Nhảy Dù tinh thần
rất cao, nhưng thương vong tổn thất suốt năm qua đã quá mệt mỏi.
Tạm thời dừng chân bên ngoài Cổ Thành và bàn thảo phương cách tấn
công.
Buổi họp
hành quân lịch sử
Hôm đó là ngày chủ nhật 16 tháng 7 năm
1972. Tất cả các sỹ quan chỉ huy cao cấp tham dự hành quân đều có
mặt với sự chủ tọa của Trung tướng Ngô quang Trưỡng tư lệnh Quân
đoàn. Chỉ thị sau cùng là thay quân. Sư Đoàn Nhảy Dù bàn giao
ngay mặt trận Quảng Trị cho Thủy quân lục chiến để lãnh nhiệm vụ
khác.
Tướng
Bùi thế Lân, tân tư lệnh của Sư Đoàn thủy quân lục chiến có thể
đã được biết nhiệm vụ mới nên không có gì thắc mắc. Phía bên Nhảy
Dù, Tư lệnh Dư quốc Ðống lắng nghe ý kiến của Lữ Đoàn trưởng Trần
quốc Lịch ghé bên tai và gật đầu đồng ý. Ðược phép vị Tư lệnh Sư
Đoàn, ông Lịch bày tỏ ý kiến khi phải bàn giao nhiệm vụ. Ðại tá
Lữ Đoàn trưởng Nhảy Dù trình bày các giải pháp đánh vào Cổ Thành
và đề nghị cho phép Nhảy Dù tiếp tục hoàn tất nhiệm vụ.
Tướng Ngô quang Trưởng nói rằng đây là
lệnh của thượng cấp. Ai cũng hiểu rằng ông nói đến Tổng thống
Nguyễn văn Thiệu. Nói xong, ông tạm lui vào phòng bên cạnh. Một
lát sau, Tướng Trưởng quay trở ra và cho biết: thượng cấp quyết
định lui lại hơn 1 tuần sau. Ngày 27/7/1972 mặt trận Quảng Trị sẽ
được bàn giao giữa Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn Thủy quân lục chiến. Và
ông nói tiếp: Thượng cấp nói rằng bên Thủy quân lục chiến đã rút
lui tại Quảng Trị, bây giờ phải giao trách nhiệm cho anh em lấy
lại Cổ Thành. Nếu không thì về sau làm sao người ta đánh giặc.
Với câu nói đó, bên Nhảy Dù không bình luận gì thêm. Sự hy sinh
lớn lao sau này của trận dứt điểm Cổ Thành trong 50 ngày sau cùng
đã tổn thất trên 3,000 thủy quân lục chiến. Tuy nhiên, ngay sau
hội nghị quan trọng kể trên. Chỉ thị bàn giao chưa ban hành. Các
đơn vị Nhảy Dù tại tiền tuyến vẫn tiếp tục đánh thêm hơn tuần lễ
đẫm máu cuối cùng.
Bây giờ là lúc Lữ Đoàn trưởng Trần quốc
Lịch kêu Trung tá Nguyễn chí Hiếu, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 5
nhận trọng trách lịch sử. Cho quân tiến vào và cắm cờ trên Cổ
Thành Quảng Trị. Vào 1 buổi tối dừng quân, Trung tá Hiếu trịnh
trọng trao tay lá cờ cho Đại úy Trương Đăng Sỹ, Đại Đội trưởng
Đại Đội 51. Với lời lẽ rất khác thường so với ngôn ngữ nhảy dù
thường lệ. Trung tá Hiếu đã nhắn nhủ người đại đội trưởng tin cậy
của ông làm tròn sứ mạng. Nếu công tác hoàn tất, lá cờ lịch sử
của Nhảy Dù không phải chỉ bay trên nền trời Cổ Thành mà bay cả
trên không phận Sài Gòn. Bay cả trên bàn hội nghị Paris.
Và bây giờ xin quý vị nghe ông Đại đội
trưởng 51 kể lại chuyện 37 năm về trước đã sống chết với lá cờ ra
sao.
Bức tường
oan trái.
Vào
những ngày tháng đó, Cổ Thành Quảng Trị, với tường thành vững
chãi. Tường cao, hào sâu là mục tiêu sau cùng nhưng đồng thời
cũng là mồ chôn xác của hàng vạn binh sĩ hai miền Nam–Bắc.
Chiến binh của Đại úy Trương Đăng Sỹ
lúc đó là những người lính ở tuyến đầu. Xuất thân khóa 21 Võ bị
Ðà Lạt, người thanh niên Cần Thơ của miền sông nước Cửu Long đã
sống với Mũ Đỏ từ Campuchia, Hạ Lào, An lộc và giờ đây dừng bước
chân chinh chiến trước Cổ Thành Ðinh công Tráng. Ngay phía sau
lưng ông là Tiểu đoàn phó Bùi Quyền, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn chí
Hiếu rồi lên đến Lữ Đoàn trưởng Trần quốc Lịch. Sau ông Lịch là
Tư lệnh Sư Đoàn Dư quốc Ðống. Cuối cùng là ông Tư lệnh vùng Ngô
quang Trưởng ngày ngày nhận lệnh trực tiếp từ Tổng thống Nguyễn
văn Thiệu.
Thanh kiếm miền Nam với mũi nhọn giờ đây đã ở chân Cổ Thành nhưng
đuôi kiếm nằm ở dinh Ðộc Lập Sài Gòn. Cây trường kiếm của cuộc
phản công với cả 1 hệ thống quân giai rất dài bắt đầu đâm xuống,
nhưng tường thành vẫn trơ như đá tảng.
Trong một khoảnh khắc, gánh nặng của
quốc gia ngàn cân đè lên vai người chiến binh đại đội trưởng ở
tầng lớp dưới cùng.
Trên con đường đi đến chân Cổ Thành,
Đại Đội 51 của Trương Đăng Sỹ cùng các chiến binh Tiểu Đoàn 5,
các Tiểu đoàn tác chiến, Biệt kích dù, đơn vị Trinh sát đã đổ ra
biết bao nhiêu mồ hôi và xương máu. Ngày nào cũng có tử sĩ và
thương binh từ mặt trận chuyển về phía sau. Mỗi thước đất tiến
lên đều phải trả bằng nước mắt thương vong...
Trận đánh khốc liệt xảy ra từng ngày.
Trên trục tiến quân của Đại Đội 51 Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, lính của
Đại úy Trương Đăng Sỹ đã giải thoát cho hơn 100 đồng bào dưới hầm
trú ẩn tại 1 nhà thờ.
Thành Ðinh công Tráng hình vuông mỗi
chiều 1/2 cây số, tường cao 5 thước, mặt thành rộng 5 thước, và
hào sâu tới cổ, rộng gần 10 thước.
Từ trong thành địch vẫn cố thủ giữ vững
trận địa. Phía Cổ Thành tiếp giáp sông Thạch Hãn, cộng sản đưa
quân tiếp viện liên tục ngày đêm.
Trung tuần tháng 7 năm 1972, người Đại
đội trưởng 51 Nhảy Dù trong vai trò mũi nhọn của cây trường kiếm
miền Nam, đứng trước bức tường thành oan nghiệt. Nhiệm vụ sau
cùng là dựng được ngọn cờ.
Trận sau cùng của Đại Đội 51.
Khi đã nhìn thấy Cổ Thành, Đại úy
Trương Đăng Sỹ cố gắng thi hành nhiệm vụ. Mười Mũ Đỏ tình nguyện,
ông chọn ra 8 chiến binh. Nhắc đi nhắc lại là các em không phải
bắt buộc. Hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi lên đường. Nhờ bom không
quân đánh ngay vào tường thành để mở đường. Tường đổ xuống lấp
hào sâu cho tiền sát vượt qua. Hạ sĩ nhất Trần Tâm làm trưởng
toán. Hồ Khang là học sinh Quảng trị ngày xưa dẫn đường, chú Hậu
mang máy đi với Hồ Con và Lê văn Lịch... tất cả 8 chiến binh với
sứ mạng ra đi vào lúc tối trời. Ðại đội trưởng khích lệ đàn em.
Những điếu thuốc lá quân tiếp vụ chia nhau trước giờ lên đường.
Anh luôn luôn ở đằng sau các em. Chuyến này về sẽ cho đi phép Sài
Gòn. Phần thưởng cho nhiệm vụ sống chết mà người chỉ huy cấp dưới
chỉ có thể dành cho anh em là mấy ngày phép. Hồ Khang cầm lá quốc
kỳ. Máy PRC–25 trên vai chú Hậu. Ðại đội thức suốt đêm theo dõi
tin tức của Tiểu đội trinh sát mở đường. Hai đại đội của Tiểu
Đoàn 5 Nhảy Dù sẵn sàng chờ đợi để tiến lên.
Báo cáo của Đại úy Trương Đăng Sỹ.
(1972) (Trích từng đoạn ngắn)
Toán quyết tử âm thầm lao mình vào đêm
đen. Tôi thức theo dõi từng bước đi, thỉnh thoảng cho pháo binh
bắn yểm trợ, soi sáng và chỉ hướng. Tiểu đội này phải tránh các ổ
kháng cự của địch. Nửa đêm, Toán quyết tử báo cáo đã tới sát bờ
thành và đang tìm cách lội qua hào: “Nước sâu quá” Hậu thều thào
trong máy. Tôi gọi pháo binh bắn yểm trợ tối đa vào Cổ Thành và
xung quanh. Ra lệnh tiền quân sẵn sàng xuất phát. Tờ mờ sáng hôm
sau, bỗng nhiên tôi nghe tiếng la lớn: “Việt Nam Cộng Hòa muôn
năm, Nhảy Dù muôn năm!” Nghe hiệu thính viên đứt quãng trong máy:
“Quốc Kỳ đã được dựng lên!” Liền sau đó tiếng nổ ầm vang tứ phía.
Ðại liên 12.8ly, AK47, B40... bắn xối xả vào một mục tiêu duy
nhất lá Quốc Kỳ! Sau đó lại mất liên lạc, tôi nhanh chóng ra lệnh
đơn vị xuất phát và gọi pháo binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu
bạn và xin thêm đạn khói bao phủ Cổ Thành. Pháo binh địch cũng
bắt đầu lên tiếng trả đũa.” Mưa rơi nặng hột (pháo địch mạnh
lắm)” Nhưng cho dù mưa rơi dữ dội cách mấy, tôi cũng phải đi. Tôi
phải cứu các đệ tử của tôi. Tôi hối thúc Hồ Tường, 52: “Sắp tới
rồi, còn không đầy 100m nữa thôi, nhanh lên”. Tôi và Hồ Tường
song song tiến thẳng lên Cổ Thành, xin thêm lá Quốc Kỳ thứ hai.
Nhưng thành dày khoảng 5m, cao 5m và được bao bọc bằng hào sâu
tới cổ, rộng gần 10m. Không thể tiến quân hàng ngang, tiền quân
bị khựng lại, đào hầm hố bố trí và tìm phương thức tấn công. Trên
mặt thành, địch phòng thủ vững chắc trong các lô cốt, bắn xối xả
vào quân ta. Ðêm hôm đó đành bám trụ cố thủ, cho thám sát mặt
nước cũng như kéo xác Toán cảm tử còn kẹt trong thành. Quả thật
là một đêm kinh hoàng, tôi không thể nào chợp mắt. Xác đệ tử cách
mình chỉ vài chục thước chưa kéo về được, bức tường thành kiên cố
và hào sâu đầy chướng ngại, làm cách nào thanh toán? Một binh sĩ
Toán cảm tử chạy về báo cáo: Hồ Khang, Trần Tâm, Hồ Con, Hậu đã
tử thương trên thành, số còn lại đều thất lạc! Sáng hôm sau, tôi
cho sử dụng hỏa tiễn M72, 4 khẩu châu vào và bắn cùng một lúc với
hy vọng phá nổi tường thành, nhưng bờ thành vẫn sừng sững giữa
trời...
Ngày
N+26, một ngày định mệnh đã xảy đến!
Tôi quyết định đánh bom theo trục Tây
Bắc xuống Ðông Nam, nghĩa là đối diện với tiền quân. Một chiến
thuật rất nguy hiểm cho quân bạn. Mục đích là muốn lấy gạch đất
của thành để lấp hào sâu, làm bàn đạp xung phong. Chiếc khu trục
đầu tiên nhào xuống, 2 quả bom rời cánh phi cơ, tất cả đều cúi
sát mặt đất, nón sắt che đầu. Rồi chiếc thứ hai lao xuống, thêm 2
quả nữa nổ long trời lở đất, cát bụi tung phủ cả bầu trời. Khi
ngẩng đầu lên nhìn trong đám bụi mờ, tôi vỗ vai Hồ Tường: “Thành
đã bị vỡ, chuẩn bị xung phong!” Sau khi gọi pháo binh, đầu nổ
chụp lẫn chạm nổ, sau đó là 20 tràng đạn khói phủ ngập mục tiêu.
Tôi ra lệnh 2 trung đội đầu bỏ ba–lô tại chỗ, một người cầm lựu
đạn, một người cấm súng vượt nhanh qua hào sâu, bám chặt vào góc
Cổ Thành đã bị vỡ. Nhờ đất đổ xuống lấp mặt nước hơi cạn, lợi
dụng màn khói bao phủ, nên tiền quân vượt qua tương đối dễ dàng.
Khi màn khói vừa tan, địch quân bắt đầu
trả đũa dữ dội. Nặng nhất là hai lô cốt ở mặt tiền và giữa sân
cột cờ Tiểu khu, địch còn ngoan cố trong hầm hố bắn trả rất mạnh.
Tôi tung thêm vào thành một trung đội, bung rộng đội hình vừa đào
hầm hố, vừa chống cự. Phi cơ quan sát L–19 bao vùng báo cho biết
địch từ phía Bắc sông Thạch Hãn tràn qua như kiến! Tôi xin pháo
binh yểm trợ, một mặt xin phi tuần tiếp tục oanh kích. Trong giờ
phút dầu sôi lửa bỏng như thế, thình lình một tai họa xảy đến.
Một quả đạn cối 82ly nổ ngay hầm chỉ huy. Nói là “hầm” chứ thật
ra là một ụ ẩn nấp sơ sài, ngay trước mặt đường là hào sâu vì tôi
muốn dễ quan sát tiền quân. Hồ Tường máu me đầy người, 3 hiệu
thính viên: một chết, hai bị thương nặng. Riêng tôi cảm thấy cánh
tay trái trĩu nặng, máu đào đã thấm ướt áo trận. Tôi gọi tải
thương và y tá băng bó tạm. Còn một tay vẫn sử dụng được Combiné.
Lúc đó tôi đã là người say máu. Cho củng cố, phối trí lại lực
lượng. Hai Đại Đội 51 và 52 nhập lại thành một. Ðã kéo về được 3
xác của Toán quyết tử: Hồ Khang bị chặt làm 3 khúc nhận ra được
vì anh đeo thẻ bài dưới chân, Hồ Con gục ngã, Lê Văn Lịch bị bắn
ngay giữa đầu... số còn lại bị thất lạc.
Ra lệnh cho các trung đội trong thành
củng cố hầm hố, tôi quyết định cho dựng Quốc Kỳ lần thứ hai. Cờ
vàng ba sọc đỏ là mối thù không đội trời chung của Cộng sản, cho
nên vừa thấy lá Cờ tung bay là chúng khai hỏa dữ dội, nặng nhất ở
giữa cột cờ Tiểu khu Quảng Trị. Hai khẩu 12.8ly ở lô cốt mặt tiền
hạ nòng bắn xối xả, B40, B41, AK47 châu thẳng vào cột cờ. Quân ta
cũng chống trả quyết liệt với quyết tâm giữ vững ngọn cờ!
– Tôi gọi L–19 lên bao vùng và quyết
định dùng bom đánh thẳng vào cột cờ Tiểu khu. Khoảng 10 phút sau,
2 chiếc A–37 bán phản lực vào vùng, bay lượn xung quanh và chờ
L–19 chỉ điểm. L–19 bay quá cao để tránh phòng không nên khi lao
xuống bắn khói chỉ điểm không được chính xác, Tôi vừa bấm máy gọi
Phi Long thì chiếc A–37 đầu tiên đã lao xuống, 2 quả bom rơi
xuống ngay trung đội tuyến đầu. Tôi thất thanh la lớn: “Check
fire ngay lập tức!” Nhưng sát theo sau là chiếc thứ hai lao
xuống, 2 quả nữa chấn động cả vùng. Tôi ra lệnh tung khói màu và
gọi “check fire”.
Ðã trễ rồi! “Phi cơ đã đánh lầm chúng
tôi rồi!” Tôi cảm thấy lồng ngực ê ẩm, tay chân nặng trĩu. Cả một
bầu trời sụp đổ... Phân nửa của các trung đội tuyến đầu gần như
tê liệt. Nhìn binh sĩ lần lượt tải thương, dìu nhau trở lại mà
lòng tôi tê cứng. Sau khi báo cáo về Bộ Chỉ Huy, tôi kiểm soát
lại binh sĩ, tạm bố trí chờ lệnh. Chiều hôm đó, Trung tá Hiếu cho
Thiếu tá Bùi Quyền lên thay để tôi về dưỡng thương. Nhưng tôi
biết rõ, nếu tôi về đêm nay và lỡ bị địch tấn công coi như tan
rã. Tôi cần ở lại và quyết định từ chối tản thương. Thiếu tá Bùi
Quyền cho biết lệnh ngày mai bàn giao Cổ Thành lại cho Thủy Quân
Lục Chiến để Nhảy Dù nhận nhiệm vụ khác. Tôi không thắc mắc, vì
thật ra tôi chỉ còn là một cái xác không hồn, đau thương, uất
nghẹn...
(Trích đoạn báo cáo của Đại đội trưởng 51, TĐ5ND.)
Lời cuối cho một bài toán lịch sử:
Bài viết về bức tường thành oan trái
lần này đã trả lời hai câu hỏi 37 năm qua chưa được giải đáp. Tại
sao Nhảy Dù lại phải bàn giao trận Cổ Thành cho Thủy quân lục
chiến và, trong tuần lễ cuối cùng, thực sự Nhảy Dù đã lọt vào
được Cổ Thành chưa? Câu hỏi thứ nhất, Trung tướng Nguyễn văn
Thiệu đã để lại câu trả lời. Thủy quân lục chiến có trách nhiệm,
nếu không để cho họ hoàn tất thì về sau làm sao đánh giặc.
Câu hỏi thứ hai được trả lời bằng bản
báo cáo viết bằng máu và nước mắt của người Đại đội trưởng 51
Nhảy Dù cùng với những chiến binh mũ đỏ hy sinh trong bức tường
hành oan trái, một ngày trước khi thay quân. Cựu Sinh viên sỹ
quan khóa 21 Võ bị Ðà Lạt Trương Đăng Sỹ mới từ Bình Long anh
dũng đi ra đã mang trọng trách dựng lá cờ cho Trị–Thiên vùng dậy.
Sứ mạng bất thành sau khi bị thương nhẹ lại về đánh trận Barbara
tại Trường Sơn. Lần này bị thương nặng về nằm bệnh viện Ðỗ Vinh,
nhận lon thiếu tá. Trong khi đó, định mệnh đưa đẩy, Đại úy Giang
văn Nhân, cựu sinh viên Ðà Lạt khóa 22, Đại đội trưởng Đại đội 2,
Tiểu đoàn 3 Thủy quân lục chiến thay thế khóa đàn anh, đem quân
vào dứt điểm Cổ Thành. Lá cờ chiến thắng tung bay trong tay TQLC
vào tháng 9/72 đã rũ bỏ kỷ niệm đau thương của cuộc lui binh
tháng tư/1972.
Nhưng sau cùng, ba năm sau, ngày tang
chung của dân tộc là Tháng tư/1975. Cả hai cựu sinh viên sỹ quan
khóa 21 và 22. Cả hai Đại đội trưởng Nhảy Dù và Thủy quân lục
chiến đều có chung những ngày thương khó. Cùng đi tù tập trung
cải tạo. Cùng vượt biển tìm tự do. Ngày nay, ông Trương Đăng Sỹ,
67 tuổi đã về hưu, định cư tại Úc châu. Ông Giang văn Nhân trẻ
trung hơn đôi chút, vẫn còn đi làm, sống với gia đình tại Texas,
Hoa kỳ.
Hình
ảnh của cả hai đại đội trưởng, một Nhảy Dù và một Thủy quân lục
chiến đều sẽ có mặt trong cuốn phim Quảng Trị như một bức thông
điệp anh hùng gửi cho thế hệ tương lai.
Giao Chỉ, San Jose
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by batkhuat nguyen chuyển
Đăng ngày Chúa Nhật, February 18,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang