Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
Truyện
Chủ đề:
đào vàng
Tác giả:
Vương Mộng
Long/K20
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu:
BĐQ Vương Mộng Long tốt nghiệp khóa 20/TVBQGVN. Anh phục vụ tại
LĐ2/BĐQ từ khi ra trường cho đến đầu tháng 4/75. Cấp bậc, chức vụ
sau cùng: Thiếu tá Tiểu Đoàn Trưởng, TĐ82/BĐQ – Anh đã bị CS giam
giữ 13 năm, qua các trại tù từ Nam ra Bắc.
Anh chị được 4
cháu, gia đình hiện đang sinh sống tại Seattle, WA – Ngoài những
chiến công thời trai trẻ, điều đáng khâm phục nơi anh là tuy định
cư muộn, anh vẫn theo đuổi việc học và đã tốt nghiệp B.A. Social
Science & Communication tại University of Washington năm 2003.
–Khuyết danh
Một chiều đầu mùa hè 1989,
bên bờ hồ đập thủy điện Trị An, gió nhẹ và mây quang, mặt hồ gợn
sóng, tôi ngồi hàn huyên cùng một ông bạn già cựu hạ sĩ quan
QLVNCH. Chúng tôi ngồi nhâm nhi đôi ba chung. Rượu vào lời ra,
ông ta biết tôi đã từng đơn thương độc mã vào rừng đào vàng, đào
thiếc kiếm cơm trên mỏ vàng Suối Nho, Gia Kiệm, mỏ vàng K3, Đơn
Dương và mỏ thiếc Nắp–Bắc (Lap Bé Nord) Đà Lạt. Thế là tối hôm ấy
thằng Hai Thanh, con trai lớn của ông bạn tôi, bái tôi làm thầy,
nó đề nghị tôi qui tụ và chỉ huy một “mũi” (tổ làm việc) đi kiếm
“xái” (quặng mỏ) trong rừng Hiếu Liêm. Tôi đang lúc thất nghiệp,
nên nhận lời làm đầu lãnh một mũi gồm hai anh thanh niên trốn
nghĩa vụ quân sự là Thanh và Hòa (bạn Thanh) và một cậu bé mười
lăm tuổi, thằng Út, em của Thanh. Vì tình trạng trộm cắp nơi mỏ
vàng, với sự hiện diện của hàng trăm tay chơi anh chị tứ chiếng
đủ loại, tôi phải gởi cái bóp giấy tờ tùy thân tại nhà ông bạn
già. Lý lịch của tôi được giấu. Trong chuyến đi này bọn bộ hạ gọi
tôi là Bác Hai, đôi khi chúng gọi tôi là Bác Hai Bắc Kỳ. Thằng Ba
Chiến, em của thằng Hai Thanh, đang chạy xe thồ và bạn thồ của nó
sẽ lo việc chuyển vận chúng tôi vào vùng mỏ.
Chúng tôi trang bị hai chỉ vàng rồi lên
đường vào Hiếu Liêm một sớm mai rực rỡ nắng hè. Trong những lần
“ra quân” trước đây ở Suối Nho, Đơn Dương, Nắp–Bắc, tôi thấy
những khu vực khai mỏ đều được xem như “vùng oanh kích tự do” của
dân kiếm xái. Chúng tôi đến, đi, chặt rừng, đào núi, lọc quặng,
khai mương, ngăn suối, chẳng ai đòi hỏi giấy tờ khai báo phép tắc
rườm rà. Lần này chúng tôi cũng được tự do đi về không ai cấm
cản, duy có việc chặt rừng, phá núi phải cần một cái giấy phép
khai thác rừng của Ủy Ban Nhân Dân xã Hiếu Liêm (Đồng Nai). Lệ
phí chính thức cho một tờ giấy phép chỉ có năm ngàn. Nhưng phải
chờ hai, ba tháng sau đơn xin mới được chấp thuận. Trong khi đó
giấy phép tuôn ra bên cửa hông thì chỉ một buổi hay một ngày là
có kết quả, giá “chui” hơi đắt một chút, hai phân vàng! Tờ giấy
phép của UBND xã chỉ có mấy dòng: Cấp cho đương sự quyền khai
thác diện tích 10 mét x 10 mét trong rừng Hiếu Liêm trong thời
hạn 30 ngày.
Mỏ vàng Hiếu Liêm cách đập Trị An (Biên Hòa) khoảng hai giờ xe
thồ, nằm trong một khu rừng nhiệt đới đất đỏ, cây cao, tàn rộng.
Nơi này ngày xưa là phần địa đầu chiến khu D của Việt cộng. Đường
lên dốc, xuống đồi quanh co. Ngày chúng tôi lên đường trời trong,
gió nhẹ. Trên không có những cánh diều hâu bay lượn vòng vòng.
Những con ve sầu đã bắt đầu rả rích bài ca mùa Hạ. Tiếng ve rên
rỉ được giữ nhịp bằng tiếng lốc cốc của chim gõ mõ từ trên thân
cây bằng lăng mốc thếch. Đàn sẻ rừng ríu rít trong đám cỏ non.
Bọn chích choè, chèo bẻo đang xòe đuôi, chí choé chuyền cành đuổi
nhau. Trong rừng sâu âm u, vẳng lại tiếng róc rách suối rừng ngọt
ngào. Tiết tháng Năm, hai bên đường hoa khoe sắc. Bướm đủ màu bay
lượn chập chờn trên hoa. Đường càng lên dốc càng hẹp dần, hương
rừng càng ngất ngây. Chỉ cần đưa tay, tôi đã vớt được một cành
hoa rực rỡ bên vách núi. Tôi cảm thấy mình đang lạc vào nơi thiên
đường bừng bừng sức sống. Ngồi sau lưng thằng Chiến trên yên xe
thồ, lòng tôi phơi phới. Miền Nam đang trong mùa hoa nở. Quê
hương yêu kiều rực rỡ. Quê hương ta đẹp quá! Lâu lắm rồi tôi mới
có cảm giác về vẻ đẹp của quê hương. Tôi hát nho nhỏ một mình
nghe, câu ca cũ:
“Hoa
vẫn nở trên đường quê hương.
Ôi! quê
hương ta đó!...”
Trước khi tới khu khai thác, chúng tôi
phải xuống xe vượt bộ qua một cái dốc khá cao. Trời chợt đổ mưa,
đường dốc, trơn trượt, phải mất cả nửa giờ chúng tôi mới lên tới
đỉnh dốc. Nơi đỉnh dốc, thằng Thanh chỉ cho tôi thấy một nấm đất
to như cái lô cốt và gọi đó là mả cậu Linh. Có vài người đang thì
thụp khấn vái trước mả ra chiều thành khẩn lắm. Hoa quả, vàng mã,
chất đầy mặt đất, mà đèn nhang thì nghi ngút mịt mù. Thanh giải
thích rằng hiện tượng này mới có cách đây chừng một tháng thôi.
Số là một hôm có cậu bé 16 tuổi trúng mạch được cả chục cây. Bạn
cùng mũi với cậu ra về ngay sau khi chia chác. Cậu còn nấn ná đãi
đằng bạn bè vài ngày sau mới dứt áo ra đi. Giầu rồi, cậu không
hẹn trở lại. Cậu ôm vàng trước bụng và thuê riêng một chuyến thồ
về Biên Hòa vào buổi chiều mưa to gió lớn. Mấy ngày sau, đội xe
thồ không thấy anh bạn thồ trở lại. Trên đỉnh dốc có mùi thối bay
xa. Người ta tìm thấy xác cậu bé chết rữa trong rừng, ruột gan bị
heo rừng moi ra ăn lê lết trên mặt đất, mùi thịt thối nồng nặc cả
một khu. Cậu bé bị trấn lột, hạ sát, thủ phạm là anh bạn thồ. Dân
kiếm xái thương tình đồng nghiệp nên đã lấp lớp đất mỏng che tấm
thân lạnh lẽo của cậu bé đào vàng vắn số. Vài ngày sau mối đất ùn
lên khiến cho mộ cậu bé thành một núi đất khổng lồ trong rừng.
Khách qua đường ghé thắp nén nhang cầu cho hương hồn cậu sớm
phiêu diêu...
Người ta đồn với nhau rằng cậu linh
thiêng lắm! Ai có thắp nhang, cúng quảy, khấn vái cậu, đều được
cậu phù hộ mau trúng mạch, khấm khá ra về. Rồi người ta gọi cậu
là cậu Linh. Vì thế cái mả ấy có cái tên là Mả Cậu Linh. Từ dạo
ấy, con đường qua dốc đổi hướng, tạt sang bên trái đỉnh dốc vài
chục mét để người qua đường tiện ghé thắp nhang vái cậu Linh xin
phù hộ độ trì. Một chị bán quán ngoài xã, đã bỏ xã, bỏ quán, vào
đây bán nhang đèn, hương hoa, ngay dưới dốc. Chẳng mấy chốc chị
phất to, cổ có kiềng vàng, chuyền vàng, tay có nhẫn vàng, vòng
vàng.
Ở cái mỏ
vàng Hiếu Liêm này mỗi ngày tôi khám phá thêm một điều mới lạ.
Mới dẫn “quân” vào vùng được một vài giờ, ăn xong bữa cơm, uống
xong bát nước chè tươi, tôi đã thấy ruột mình sôi lên rột rột...
rồi thì bụng quặn đau, đi cầu. Đi cầu xong vừa về tới lều, bụng
lại lâm râm, lâm râm đau. Thằng cu Hòa dẫn tôi đi gặp ông Bác sĩ
An để xin thuốc. Ông bác sĩ đóng đô bên bờ suối. Cái chòi của ông
chia làm hai ngăn, ngăn ngoài là nơi hành nghề y khoa vỏn vẹn chỉ
có một cái chõng tre trên để một cái rương gỗ chứa thuốc men,
bông, băng, alcohol, thuốc tím thuốc đỏ. Ngăn trong là tư thất
với một cái giường tre, một cái bàn tre đặt cạnh cái bếp làm bằng
ba cục đá suối xếp châu đầu thành ông táo. Bếp nhà Bác sĩ An lúc
nào cũng khói lửa nghi ngút, nồi nước nấu kim chích sôi o... o...
suốt ngày. Trước chòi treo một cái biển gỗ cỡ 20x40cm, nền xanh,
chữ trắng, “Phòng Mạch Bác sĩ An”. Tụi nhỏ truyền khẩu với nhau,
nào là bác sĩ rất giỏi, bệnh gì ổng cũng rành, cũng trị được dứt
nọc. Thêm vào đó, nếu bệnh nhân là dân đào xái bị ngã bịnh trước
khi chạm xái, bác sĩ cho nợ tiền công và tiền thuốc cho đến khi
xái đã lọc xong thành vàng. Bịnh nhân con nợ có thể trả công Bác
sĩ An bằng vàng hay tiền cũng đựơc. Nếu anh nào “mo” thì ông chữa
thuốc thí công (mort, tiếng Pháp có nghĩa là chết, ý nói thất
bại). Ông Bác sĩ An là người sinh ra ở quê hương của Bác nên
giọng ông nói nặng lắm. Năm tôi có cơ duyên gặp ông nơi rừng
thiêng nước độc này thì ông đã ở tuổi trên năm mươi. Bà vợ của
bác sĩ lại là người miền Nam, còn rất trẻ và trông thật hiền hậu.
Sau vài câu xã giao, Bác sĩ An nhận ra
tôi là người Bắc, ông liền vồn vã hỏi han huyên thuyên: “Này đằng
ý ơi! Nhìn cái phong thái của đằng ý, tớ đoán chắc rằng đằng ý
không phải tay xoàng. Bộ ‘bảng đỏ’ hả? (bảng đỏ nói lái thành bỏ
Đảng) – Vô Nam lâu chưa? Gia đình vợ con ra răng? Bởi lý do chi
mà đằng ý phải đày đọa như ri? Tớ cũng là dân ‘bảng đỏ’ (bỏ Đảng)
đây! Anh hùng mấy khi gặp gỡ. Ngồi đây tâm sự với nhau chơi, đừng
ngại!”
Ông bác
sĩ bỏ Đảng đâu có biết rằng người đứng trước mặt ông lại là một
cựu sĩ quan Tiểu đoàn trưởng Biệt Động Quân của QLVNCH, vừa mới
được tha ra từ trại tù cải tạo. Phần thì đang bị đau bụng tháo
dạ, phần thì e ngại buổi sơ giao, tôi chỉ ậm ừ cho qua câu
chuyện. Sau khi cặp nhiệt, Bác sĩ An hỏi tôi rất kỹ về dạng phân,
triệu chứng lâm sàng. Anh nói rằng tôi là một trong số ít người
có cơ thể nhạy cảm với đồ ăn thức uống có lượng kiềm cao. Tại các
mỏ vàng, nước giếng, nước suối có chứa lượng kiềm rất cao (?)
Nước suối ở đây uống hơi chát. Nếu pha trà thì nước trà cũng có
màu xám xịt. Nước uống chính là nguyên nhân gây ra cái bệnh đường
ruột của tôi. Muốn tránh, tôi chỉ cần ngưng uống nước trong khu
này thôi, không phải dùng thuốc thang gì cả bệnh sẽ tự nó chấm
dứt. Nghe theo lời chỉ dẫn của ông bác sĩ, đêm đó tôi uống nước
ngọt loại chứa trong bình hai lít thay cho nước trà. Sáng hôm sau
tôi hết bị Tào Tháo rượt. Thế là, cứ vài ngày thằng Chiến lại thồ
vào cho Bác Hai một bình nhựa 20 lít nước suối lấy từ ngoài xã.
Tuy xa thành phố, nhưng trong khu mỏ
vàng Hiếu Liêm này không thiếu thứ gì, từ nước ngọt, bia, rượu,
thuốc lá, bánh kẹo, tới rau cỏ, thịt cá, kể cả dụng cụ đào vàng
như xẻng, khiên, xà beng, cuốc chim, thuốc nổ C4 dùng phá đá, và
thủy ngân (để tách vàng khỏi các kim loại khác). Có cả chục cái
quán cóc cung ứng đủ mọi mặt hàng nhu yếu cho dân đào vàng. Thậm
chí khi bạn trúng lớn, cần có vũ khí để áp tải số vàng kiếm được
về nơi an toàn, bạn cần thuê vài khẩu K54, AK47, bạn cứ hỏi quán
cô Nghĩa là có ngay.
Bất cứ “mũi” nào có “bãi” đều có thể mở
một trang trong sổ nợ của cô Nghĩa. “Mũi” là một tổ thi công (tổ
làm việc), quân số tùy nghi. Có mũi quân số đông cả chục người,
khai thác hai ba giếng. Có mũi chỉ có hai cha con của một gia
đình. “Bãi” là một khoảnh đất vuông mỗi chiều mười mét không hơn
không kém. Muốn có bãi thì dân lùng xái phải đăng ký với xã. Thủ
tục đăng ký thì như tôi đã tả ở phần trên: hai phân vàng. Thời
buổi này cái gì cũng chi bằng phân, bằng chỉ. Vào tới vùng hành
sự, tôi mới phát giác ra rằng chẳng cần ghé văn phòng xã xin giấy
đăng ký cho phí thời giờ, mua trao tay tại hiện trường một cái
giấy phép với con mộc đỏ chói cũng chỉ ba, bốn phân là cao. Ngay
khi chúng tôi vừa hoàn tất công việc phát quang cái bãi mà tôi đã
chọn thì một người đàn bà trung niên, giọng nói rặt Bắc Kỳ 75 tới
tìm tôi để ký giao kèo tiếp tế. Từ gạo, thịt, mắm, muối, kem đánh
răng, khăn mặt, xà bông cho tới cái lều vải tiểu đội cho bốn thày
trò tôi đều được thím Xuân cung cấp. Phí khoản đều ghi vào sổ nợ
tên Bác Hai có đóng ngoặc (Bác Hai Bắc Kỳ). Thím Xuân đồng ý cho
chúng tôi thanh toán sau khi cạn giếng, nghĩa là sau khi đã bán
xong số vàng dưới lòng đất của cái diện tích mà tôi đang căng lều
hạ trại. Mười bốn năm sau chiến tranh, tôi đã sống như một tay
săn vàng chuyên nghiệp trong những phim Cao Bồi Viễn Tây của Mỹ.
Đây là chuyến trở về chiến trường xưa lần thứ tư của tôi. Oái oăm
là chuyến đi nào cũng có chuyện buồn, chuyện vui để nhớ.
* * *
Quả thực, chuyện đào vàng chẳng có gì
nên thơ, mơ mộng. Ngoài nỗi khổ vì muỗi mòng, lo sợ sập hầm, lo
“xái rỗng” (quặng chứa ít vàng quá) không thu hoạch được chút bụi
vàng nào, phí công. Ngoài ra còn cái nguy cơ bị sang đoạt bởi
những tay hảo hán thương phế binh VC có vũ khí. Khác với đất Đà
Lạt và Đơn Dương, những nơi tôi đã kinh qua trong các lần đi khai
mỏ trước đây. Cấu trúc các tầng đất ở Hiếu Liêm làm cho dân đào
vàng đổ mồ hôi, sôi nước mắt, vất vả hơn nhiều so với đất vùng
cao. Sau bốn, năm thước đất mùn đen thì tới đất đỏ pha đá cuội,
đá tổ ong. Hết đá cuội và đá tổ ong lại tới đất pha đá dăm. Xuống
sâu gần hai chục thước mới thấy đất chuyển sang màu trắng nhờ
nhờ. Lúc này cũng là lúc “hy vọng vươn lên.” Đất sét mầu xám pha
lẫn từng cục quặng sắt rỉ là dấu hiệu phần vỏ của lớp đất trộn
quặng vàng. Đoạn đường từ miệng giếng tới lớp đất xám là đoạn
đường đứt ruột, rã rời hai tay. Tôi là trưởng mũi nên không phải
thay phiên “mõi” đất (đào sâu xuống lòng đất, chuyền đất lên
miệng giếng). Tôi chỉ phải tản số đất đã moi lên cho gọn ghẽ.
Công việc này cũng không nhẹ nhàng mà rất tốn sức, tốn công. Lớp
đất đào lên trong những ngày đầu phải gánh ra đổ nơi bờ suối,
cách lều cả trăm mét dưới dốc. Những ngày cận xái thì tôi chỉ
việc đổ đất mới moi lên ngay nơi chúng tôi ăn ngủ. Chúng tôi làm
việc gần như suốt đêm ngày. Chỉ nghỉ, ngủ vài giờ rồi lại tiếp
tục công việc. Tôi phải bấm giờ để ba đứa nhỏ thay nhau mõi cho
công bằng. Hai thằng đào dưới giếng, một thằng ngồi trên miệng
giếng kéo gầu đất xái. Cứ hai tiếng đồng hồ chúng lại nghỉ giải
lao. Thằng Thanh làm một điếu 555 thì hai đứa kia cũng gắng rít
mỗi đứa một điếu. Thằng Hòa chơi một chai bia Chương Dương thì
hai đứa kia cũng chơi theo ngay, mỗi đứa một chai. Chẳng đứa nào
chịu phần thua lỗ cả. Tóm lại tinh thần đồng đội của dân đào vàng
rất cao. Tinh thần tranh đấu cũng rất cao. Bắt tay vào việc là ăn
hút cái đã! Ăn hút đồng đều, không ai ganh tị. Chỉ có cô Nghĩa và
thím Xuân là lời thôi! Tôi nghĩ thầm không biết tới ngày cân lọc
xong xuôi, số vàng thu được có đủ để thanh toán tiền ăn hút cho
bốn người chúng tôi hay không?
Công việc đãi xái cũng rất là vất vả.
Người đãi phải cúi khom lưng cả buổi trên dòng suối, tay lắc cái
khiên chao qua chao lại, giữ làm sao cho nước mới vào khiên thay
nước cũ, nhả đất xuống dòng mà đừng để bột quặng trôi đi. Tụi nhỏ
gọi công việc này là “múa nước”. Tôi thì tuyệt đối không có đủ
cái khéo tay để làm công việc này. Tôi đành làm nghề chuyển vận
và bốc xái trong bao đổ vào khiên để đồng bạn làm công việc còn
lại. Khi công tác múa nước hoàn tất, thì bọn nhỏ vác bao bột
quặng đi tới chòi ông Lâm Thầu người Tàu Chợ Lớn nơi cuối dốc để
mua thủy ngân và làm công tác lọc tinh vàng. Tôi lo thu dẹp rửa
ráy đồ nghề, khiên, chảo, bao bì, cuốc xẻng rồi chuyển vận chúng
về lều. May thay, sau khi thanh toán sòng phẳng sổ nợ cho cô
Nghĩa và thím Xuân, giếng vàng đầu tiên cũng đem lại cho chúng
tôi đủ số vốn hai chỉ lúc đầu tới bãi.
Hôm sau tôi cho quân nghỉ mệt ba ngày
trước khi khởi công một giếng mới. Trong ba ngày nghỉ dưỡng quân
này, thằng Hòa và thằng Út thay nhau nấu cơm. Ăn sáng xong, đứa
thì đi phụ đãi ngoài suối lấy công, đứa thì đi nhập sòng. Cờ bạc
ở đây chỉ có món xóc dĩa. Những con bạc đặt cược bằng tiền, vàng,
đồng hồ, dụng cụ khai thác mỏ. Thẻ chứng minh nhân dân đôi khi
cũng có thể dùng làm vật cầm cố. Có vài ổ bán dâm dọc bên bờ
suối. Trong những cái lều che bằng vải nhựa, những người con gái
trẻ bán dâm trên những cái chiếu trải dưới đất. Những cô gái hành
nghề ở đây không phấn son lòe loẹt. Họ cũng là những người đào
xái một thời, đã “mo” nên không thèm đào nữa, đành đem thân xác
cho đàn ông “đào” để kiếm cơm sống qua ngày. Họ đi la cà các bãi.
Móc ngoặc được khách thì dẫn về lều. Tiền trả trước, trôn trao
sau. Ra khỏi lều, người bán dâm và kẻ mua dâm lại trở thành đôi
người không quen.
Buổi trưa, tôi thả bộ lang thang dọc bờ
con suối đục ngầu đất đãi xái. Dân đãi vàng làm việc cần cù, bất
kể đêm, ngày. Ban ngày chúng tôi đãi xái dưới đèn mặt trời. Ban
đêm, dọc hai bên bờ suối có hàng chục ngọn măng sông và đèn khí
đá. Đôi khi, đêm vui hơn ngày. Nhạc từ những cái máy thu băng
oang oang, bốn hướng tám phương. Nhạc vàng, nhạc kháng chiến,
nhạc disco, bi kịch, hài kịch, vọng cổ xen lẫn nhau. Cùng lúc
người nghe có thể thưởng thức cả giọng ca nữ đang lên Cẩm Vân,
cùng giọng ca nam đang xuống Quốc Hương, xen lẫn điệu ngân xàng
xê bất hủ của Thành Được và Bạch Tuyết. Lúc này khúc Lambada Nam
Mỹ đang thịnh hành. Khúc ca này đã lần mò vào tới tận rừng xanh.
Mỏ Hiếu Liêm đang ở vào thời kỳ đông đảo nhất. Lều trại đó đây,
ước lượng dân số đào vàng nơi này cũng cỡ bốn, năm nghìn người là
ít. Họ đến từ Phát Diệm, họ gọi con trâu trắng là “con tâu tắng”.
Họ đến từ Móng Cái, từ Tuyên Quang, họ nói tiếng Nùng, tiếng Tày.
Họ đến từ miền Trung, giọng Quảng, giọng Huế. Họ đến từ Cà Mau,
họ chuyện trò với nhau bằng tiếng Miên...
Mặt trời hừng hực tháng Năm. Dòng nước
đầu nguồn trôi xuôi, càng về cuối nguồn càng đục. Dòng nước thành
mầu cà phê sữa đặc. Người ta lội tới mắt cá, bắp chân, đầu gối.
Tay khiên chao nhanh, mắt không rời những hạt vàng óng ánh trong
đáy khiên. Lượng cát óng ánh nhiều hay ít là niềm vui, là nỗi
thất vọng. Đủ loại người tìm sống nơi chiến trường xưa, trên con
suối đục ngầu đất đỏ. Những tiếng hát cất cao, ngây ngô, giọng
Bắc, Trung, Nam chen lẫn nhau. Những giọt mồ hôi đọng trên trán,
trên má những khuôn mặt cháy nắng sạm khô. Những tiếng cười vô tư
bên những tiếng thở dài chán chường...
Tới cuối đồi, tôi ngừng bên những giếng
vàng cũ. Dăm em bé gái trai, tuổi cỡ lên chín, lên mười, thân
mình gầy guộc đang chuyền từng gàu đất xái chúng mót được lên mặt
đất. Tôi tò mò hỏi, “Có khá không các em?” Một bé gái trả lời,
“Tụi con mót cả ngày không đủ ăn chú ơi! Họ ‘cạo’ láng quá! ‘bợn’
còn ít lắm chú à!” Tôi xoa đầu bé cảm thông. Thương cho bé, mới
tí tuổi đầu đã vất vả vì đời.
Tôi theo cái thang dây xuống thám hiểm
vùng đất thế giới của Diêm Vương. Sâu hai, ba chục thước dưới
lòng đất, ở tầng quặng mỏ, vách ngăn giữa các giếng được đánh
thông để lấy xái. Lớp đất sét có quặng chỉ dày chừng ba, bốn
thước. Tôi đứng giữa một căn hầm rộng mênh mông. Mặt đất dưới
chân tôi bị cạo sạch sành sanh. Trên trần là lớp đất sét trộn đá
dăm, dưới nền cũng là đất sét pha đá dăm. Không khí dưới đáy
giếng lạnh lẽo vô cùng. Ánh sáng mặt trời từ trên cao theo những
lỗ giếng chiếu xuống đáy như những ngọn đèn pin trắng. Ngửa mặt
nhìn lên, chỉ thấy một khoanh trời xanh xa tít, lâu lâu bay qua
vài sợi mây trắng.
Những em bé đang mót xái cách tôi không
xa, vậy mà tôi không nghe được tiếng chúng nói chuyện. Xái dưới
chân không còn. Chúng dùng xẻng đâm ngược lên tầng vách đất trên
đầu, hy vọng tìm được những cục quặng vàng lẫn trong đất đá trên
trần hầm. Những bé con đang tìm miếng cơm dưới chân Thần Chết! Có
lúc đất đá sụp từng khối trên đầu chúng khiến bọn nhỏ hoảng sợ
chạy dang vội ra xa. Chờ vài giây, chúng trở lại bới vét đống đá
tìm những cục xái còn sót, gom thành từng cụm rồi chuyển vận lên
mặt đất. Khi bọn nhỏ đi khỏi, căn hầm im lặng như tờ, không cả
tiếng côn trùng. Tôi chợt nghĩ, chỉ cần một chấn động nhỏ trên
mặt đất là cả khu rừng nặng hàng triệu tấn trên kia sẽ đổ xụp
xuống lấp kín căn phòng khổng lồ này trong giây phút. Tôi đảo
người quan sát một vòng, tôi có cảm tưởng như đang đứng dưới một
bầu trời đầy mây đen kịt mênh mông. Đất dưới chân tôi bốc hơi
lành lạnh. Tôi thấy hai ống chân mình có vẻ như muốn mềm nhũn từ
từ. Quanh tôi không có ai. Quanh tôi im lặng quá. Tôi chợt rùng
mình. Tôi tìm sợi dây thang, vội vàng leo nhanh lên miệng giếng.
Mặt trời xế bóng, có ba người đàn ông
đeo mỗi người một cái túi đựng đầy hàng hóa bên hông. Họ đang
đứng trước lều của ông Bác sĩ An hỏi han điều gì đó. Tôi thấy Bác
sĩ An và họ nói chuyện với nhau bằng tay, miệng bốn người xí xô
om sòm. Khi tới gần tôi nhận ra ba người lạ là người Thái Lan. Họ
nói chuyện bằng Anh ngữ, họ hỏi xem có ai biết tiếng Anh thì giúp
việc họ bán những cái poncho line hoa hòe. Họ sẽ trả công mười
lăm nghìn một ngày. Thấy không có ai lãnh việc này, tôi tình
nguyện làm việc với họ. Giao kèo chỉ có một ngày thôi vì ngày kia
tôi đã bắt đầu một giếng mới không thể đi theo họ được. Sáng hôm
sau tôi nhận tiền thù lao trước, làm việc thông ngôn sau. Ngày
hôm ấy chúng tôi đã đi qua hết cái diện tích của mỏ vàng Hiếu
Liêm, từ đầu dốc Cậu Linh cho tới triền đồi hướng tây, nơi những
cây nọc phân khu mới đóng ranh. Giấy phép khai thác khu đất này
chưa được phổ biến. Chúng tôi la cà từ giếng này sang giếng khác.
Tôi thông dịch chuyện mua bán thì ít, mà thông dịch những câu hỏi
về thời thế, gia cảnh của dân mõi xái thì nhiều. Những người Thái
có vẻ thích nghe chuyện lạ bốn phương hơn là việc mời chào khách
hàng. Người Thái Lan lớn tuổi nhất cẩn thận ghi chép những điều
ông ta nghe được vào quyển sổ tay dày. Lâu lâu ông lại dở ba lô
lấy cái máy ảnh nhỏ chụp hình hoạt cảnh đang diễn ra trên khu
khai thác mỏ. Đi từ sáng tới chiều chúng tôi chỉ bán được vài cái
mền. Ban đêm ở đây cũng lạnh lắm, nhưng những kẻ đào vàng khốn
khổ như chúng tôi thì đâu có thời giờ để ngủ mà cần tới mền?
Trước khi chia tay chiều hôm ấy, tôi chỉ dẫn cho những người Thái
thương buôn con đường lên cao nguyên để bán chăn nylon. Họ có vẻ
không thiết tha lắm với việc lên Đà Lạt rao hàng.
Hỏi ra, tôi được biết người cao niên
nhất trong bọn họ là một cựu chiến binh thuộc Sư đoàn Mãng Xà
Vương của Quân đội Hoàng gia Thái Lan, một đơn vị đồng minh đã có
lần hiện diện ở Long Thành thời chiến tranh. Chuyến đi này của
ông không có chủ đích buôn bán, mà chỉ mượn cớ về thăm nơi chiến
trường xưa thời tuổi trẻ. Ông ta đang trên đường tìm hứng để viết
lại hồi ký đời ông. Ông ta hy vọng thiên hồi ký này có thể đem về
một số tiền nhuận bút lớn lao, đủ cho ông sống dưỡng già. Tôi
không thiết tha lắm với đám người này, vì tôi vào lại chiến
trường xưa chỉ với mục đích tìm gạo sống qua ngày, tôi không có
gì hứng thú với việc trở về rừng tìm ý viết văn như họ. Chiều ấy
chúng tôi chia tay.
Tôi về tới lều thì thằng Út kể cho tôi
nghe chuyện chị bán nhang đèn bị cướp. Chiều qua trên đường về
nhà chị bị phục kích giữa rừng. Lúc chiếc Honda hai bánh của chị
đổ dốc thì kẻ gian đã giựt một sợi dây dù căng ngang con đường xe
be vừa hẹp vừa rậm rạp. Chiếc xe bổ nhào. Từ bìa rừng, hai người
đàn ông bịt mặt bằng áo thun đen ào ra lôi chị và chiếc xe vào
sâu trong bụi lau. Chúng trói chị lại, nhét giẻ vào miệng chị,
lột hết nhẫn, vòng, kiềng, cà rá và cả đôi bông tai vàng của chị.
Chúng vứt chị nằm trên đám cỏ lác cho kiến tha, rồi leo lên xe
Honda của chị nổ máy chạy đi mất tiêu. Chị hì hục suốt đêm mới tự
cởi trói được. Chị lết ra tới giữa đường nằm chờ người đến cứu.
Gần sáng, có mấy tay bảo tiêu có súng, sau khi chuyển xái về nhà
thân chủ, trên đường trở lại rừng, họ thấy chị nằm giữa đường bèn
cứu chị về bãi. Chuyện chị nhang đèn bị cướp chắc cũng được
truyền khẩu trong dân gian vùng mỏ này được vài ngày. Ngày sau,
tuần sau người ta lại quên chuyện ấy thôi. Ở đây, mỗi ngày xảy ra
cả trăm vụ lộn xộn. Đủ thứ chuyện tào lao. Tôi nghe tụi nhỏ kể
lại, tôi cũng chỉ ậm ừ cho qua! Chẳng hứng thú tìm hiểu thêm làm
gì. Đụng độ trong cái chợ trời này là chuyện thường ngày. Qua
đường, vô ý chạm vai một yêng hùng, nếu không có lời xin lỗi kịp
thời có thể gây nên cảnh sứt đầu lỗ trán. Vô tình ném cái tàn
thuốc lá trước mặt một tay chơi cũng là hành động châm ngòi cho
một cuộc chiến tranh. Ngoài ra, còn cả ngàn nguyên nhân gây ra ẩu
đả. Đánh nhau vì gái, vì cờ bạc, vì chia chác phần hùn, vì mõi
xái lấn lằn ranh, và vì vân vân... Cái khó bó cái khôn, cái khổ
làm con người dễ dàng nổi khùng, rồi trút cái khùng ấy lên đầu
đồng loại.
Một
hôm, tôi vừa đổ gầu đất xuống bờ suối, quay lưng định trở về
giếng làm chuyến kế tiếp thì nghe có tiếng đàn ông quát tháo,
“Mày không nộp hết túi vàng cục đó cho tao thì tao vặn họng mày!”
Tò mò tôi dừng lại quan sát. Bên bờ suối, một hảo hán to lớn đang
kẹp cổ một cô gái cỡ mười bốn mười lăm tuổi. Tay anh ta lần mò
trước ngực cô giành giựt cái gì đó. Cô gái vừa cố ôm chặt cái túi
áo vừa khóc lóc, “Em lạy anh, vốn liếng đào đãi cả tháng nay, em
chỉ có ba chỉ. Mẹ em đang bịnh nặng chờ ở nhà. Anh mà lấy hết thì
em không còn tiền thuốc thang cho mẹ em. Mẹ em chết mất! Em lạy
anh ngàn lạy. Em làm đứt dây lều của anh, em đã thay bằng dây dù
loại xịn đền cho anh rồi. Anh tha cho em, anh ơi! hu... hu...
hu...” Người đàn ông nắm tóc cô gái mà quay, hắn nghiến răng,”Tổ
mẹ mày! Dây lều của tao, mày phải đền bằng thứ dây ‘gin’. Tao
không chịu cái thứ dây dù đó. Ở đây cái gì cũng tính bằng vàng.
Không đền tao giết!” Vừa nói hắn vừa đấm đá túi bụi vào ngực, vào
mình cô gái đáng thương.
Cuối cùng, hắn chộp được cái túi nylon
giấu trong áo ngực của cô gái. Người thanh niên bỏ bao vàng vào
túi rồi buông cô bé ra. Cô bé mặt mũi đầy máu, ôm lấy chân anh
thanh niên, nắm chặt vạt áo hắn, cô cố gắng giựt lại cái túi
nylon. Người đàn ông liên tiếp đấm đá cô gái. Hắn tìm đủ mọi cách
thoát khỏi bàn tay cô gái. Cuối cùng hắn quật cô bé lăn quay ra
đất rồi nhổm mình định chạy đi. Cô gái vội nhào vào ôm chặt chân
chàng hảo hán, miệng cô la bải hoải:
“Bà con cô bác ơi! Cứu con! Người ta ăn
cướp vàng của con. Ăn cướp! bà con ơi!”
Thấy tôi đứng nhìn, cô bé cầu cứu:
“Chú ơi! Cứu con với! Anh này cướp vàng
của con chú ơi!”
Tôi chưa biết tính sao, thì tay hảo hán
đã hăm he:
“Này! Đừng có dính vào nghe cha! Coi chừng lỗ mũi ăn trầu đó!”
Tôi xua tay, nhẹ giọng:
“Chuyện đâu còn đó. Anh cứ thủng thẳng
mà giải quyết. Sao lại nặng tay với phụ nữ như thế, ngó sao
được.”
Nghe
vậy, người thanh niên nộ khí xung thiên:
“Đ.M! Mày có phải ông nội tao không mà
lên mặt dạy khôn tao? Tao uýnh chết mẹ mày bây giờ!”
Đúng là cái ách giữa đàng! Tôi phân bua
với những người đồng cảnh đang đãi xái dưới suối:
“Bà con nghe có được không? Tôi thấy
đàn ông ăn hiếp đàn bà thì tôi có ý kiến. Anh này hàm hồ, hỗn hào
như vậy thì bà con tính sao?”
Bà con chưa nói gì thì anh hảo hán đã
dấn cho tôi một bạt tai khiến mắt tôi nổ đom đóm. Anh co cẳng bồi
thêm một cái đạp ngay hông tôi; tôi té bò càng bên bờ suối. Tôi
vừa lồm cồm bò dậy lại bị thêm một cái tát ngay má phải. Thế là,
tôi chẳng còn nghĩ hơn thiệt, phải trái gì nữa. Tai tôi đã ù, mắt
tôi đã đổ lửa. Tôi không kìm được tiếng rú man rợ thoát ra từ
miệng mình, “A!...A!...A!...!!!”.
Tôi hất đôi quang gióng xuống đất. Cái
đòn gánh trở thành cây côn. Cái đầu côn thốc lên một đòn rất
nhuyễn và thuần thục. Bài côn Bình Định do một võ sư xuất thân từ
quê quán của vua Quang Trung truyền dạy cho tôi ở Pleiku thời
1966–67 đã bị bỏ quên nhiều năm, nay được đem ra thi thố giữa
rừng xanh. Mũi côn vừa thọc trúng hàm đối phương thì tôi tự động
tạ người xuống thấp, tay tôi xoay cây côn một vòng trên đầu lấy
đà. “Vèo!” cây côn chúc xuống quét sát mặt đất, cắt ngang ống
quyển tên thảo khấu. Bị liên tiếp hai đòn chí tử, chàng hảo hán
qụy gối xuống. Phát côn thứ ba, bổ xuống từ trên cao trúng vai
anh ta, kết thúc bài học vỡ lòng “Tam Côn Khai Môn” – Đó là bài
đầu trong ba mươi sáu bài “Đoạt Mệnh Côn” Bình Định, bài nào cũng
kết thúc bằng một thế sát thủ. Theo đúng bài bản, thì phát bổ
xuống phải nhắm ngay đỉnh đầu địch thủ, nhưng tôi chợt hồi tâm,
nhích tay cho nó chệch sang bên, dù sao thì anh ta cũng không
phải là một tên lính Mãn Thanh! Lúc này vị hung tinh rũ người
xuống như cọng bún. Tôi bước lên một bước, tay phải vặn ngược tay
trái anh ta ra đàng sau. Anh đang cố gượng đứng lên, nhưng đành
tự động quỳ xuống, khi tôi xoay tay anh một vòng chín chục độ
theo chiều kim đồng hồ. Mặt anh nhăn nhúm vì đau. Mồ hôi anh chảy
ròng xuống má. Tôi nghe anh ta rên, “ư! ư! ư!...” trong họng. Bà
con tụ tập kín xung quanh la ó như cái chợ:
“Đánh chết mẹ nó đi! Đồ ăn cướp!”
Tôi móc túi anh lấy cái túi nylon đựng
mấy cục vàng ròng đưa cho cô bé. Cô bé vội vã bỏ vàng vào túi,
miệng lúng búng:
“Cám ơn chú!” rồi cô ta cắm đầu vụt
chạy về hướng dốc cậu Linh khuất bóng.
Đợi cho cô bé chạy đã xa, tôi mới buông
tay anh thanh niên ra. Tôi đẩy nhẹ, anh ta ngã chúi về phía
trước. Tôi chống một đầu đòn gánh sát mũi chân phải. Bàn chân
phải sẵn sàng hất cái đòn gánh lên cao phòng hờ một đòn phản ứng
cấp thời. Nhưng anh thanh niên không còn hung hăng nữa. Anh lết
mình trên cát như con chó đánh hơi thấy mùi cọp. Anh ta gắng lết
cho xa đầu ngọn côn. Anh nhìn tôi với đôi mắt lạc thần. Anh lượm
vội đôi dép râu Trường Sơn rồi ù té chạy về phía con dốc hướng
tây, nơi đầu nguồn con suối. Tôi đứng nhìn theo bóng anh ta, lòng
chùng xuống, man mác buồn. Tôi tự cảm thương cho cái thân tôi!
Cạn ao, bèo xuống đất, tôi đang tranh sống trong một thế giới
không luật pháp, không cả tình người. Đâu có ngờ, cuộc đời tôi
lại có ngày bị đẩy đưa đến cái khúc quanh thê thảm này!
Đấy! Cuộc sống của dân Gold seeker miền
Nam vào thời 88–90 đại để là như thế đấy! Muốn nghĩ rằng nó nên
thơ, thì nó nên thơ. Nếu cho rằng nó thảm sầu, thì quả thực nó
quá thảm sầu. Thời gian thì cứ trôi. Mặt trời lặn rồi lại mọc.
Ngày nào cũng là quá dài, đối với những kiếp người sống đọa đày
trầm luân trong tăm tối, không tương lai. Tôi nghĩ đến thân phận
mình và đồng bào mình. Chỉ vì cái ngày ba mươi tháng Tư năm ấy,
chúng tôi đã đánh mất đất nước, mà cả đất nước tôi thành một trại
tù khổng lồ. Năm 1988 ra khỏi cái nhà tù con, tôi lại cùng những
người khốn khổ nhất của đất nước này tranh sống trong một nhà tù
lớn.
* * *
Chúng tôi khởi công đào giếng vàng thứ
nhì vào một buổi sáng trời u ám lất phất mưa rơi. Mặt trời bị mây
che kín mà rừng già thì tối om. Tôi gắng chuyền nhanh từng gầu
đất, nặng như những gầu bùn khi đi tát ruộng đào ao thời còn lao
động khổ sai trong trại cải tạo Nam Hà A, Z30C, hay Z30D. Mồ hôi
che mờ con mắt. Mồ hôi chảy ròng ròng xuống má, qua cằm, xuống
ngực. Mồ hôi làm nóng lớp da bụng. Mồ hôi chảy xuống ướt cả cạp
quần. Đúng Ngọ, gió chợt ngừng, tôi nghe như có ai đó vãi từng
đợt đá sỏi trên tàng cây cao. Mưa đá! Những cục nước đá nhỏ bằng
hạt ngô nhảy tưng tưng từ đọt lá này xuống đọt lá khác, rơi vãi
trên nền đất mới. Thoáng chốc, mặt đất đã trắng xóa vì mưa đá.
Hạt mưa đá lớn dần, bằng hạt đậu, bằng trứng cút, rồi bằng trứng
gà. Trời tối thui, và nhiệt độ hạ rất nhanh. Da bàn tay tôi săn
lại vì lạnh. Những vết vân tay nổi rõ lên màu bạc nhợt nhạt. Tôi
thấy gai ốc nổi cùng người. Tôi cảm như bầu trời là một tảng băng
khổng lồ đen kịt đang phà khí lạnh xuống những tàn cây trên đầu.
Ôi! Sao trời lạnh thế! Giữa trưa, tháng Năm...
Trên đồi, những dòng nước bắt đầu len
lách quanh gốc cây. Những dòng nước đỏ ngầu tìm đường xuống dốc.
Nước bắt đầu đổ ào ào vào miệng giếng đang đào. Tôi cho quân tạm
nghỉ. Chúng tôi dùng một tấm vải nhựa che trên miệng giếng. Khi
ba đứa nhỏ đã leo lên khỏi miệng giếng chui vào lều, tôi mới theo
chân chúng ngồi bó gối nơi cửa ra vô. Tôi mồi một điếu thuốc Cửu
Long, nhìn những hạt mưa đá lăn trên mặt đất, nghĩ ngợi mông
lung...
Nhớ
chuyện cũ, ở chân núi hướng đông của ngọn Lap Bé Nord, Đà Lạt,
một ngày đầu hạ năm 1965, cũng có trận mưa đá bất chợt như hôm
nay. Những viên nước đá to như quả trứng gà vãi trên tàn thông
năm lá, rồi lăn tưng tưng trên nền cỏ, bên miếu Thần Hổ, trời
lạnh quá, giữa trưa, tháng Năm...
Một thằng bạn sinh viên sĩ quan cùng
đại đội còn điếu Oakland cuối cùng, chuyền tay nhau năm đứa. Khói
thuốc ngọt như mật. Điếu thuốc được chuyền nhanh qua những ngón
tay ướt và trắng bệch vì lạnh. Hình như hôm ấy không một sợi khói
nào kịp bay thoát trong không trung. Khói thuốc chui vào buồng
phổi tuổi trẻ. Những lá phổi còn trẻ khỏe đầy sức sống. Những lá
phổi hút từng ngụm khói thuốc gọn gàng dứt khoát, như tấm giấy
thấm loại thượng hạng ép trên giọt mực tím rơi trên giấy trắng
học trò ngày thơ ngây tiểu học. Điếu Oakland qua tay năm chàng
tuổi trẻ, sinh viên sĩ quan khóa 20 Đà Lạt. Trời lạnh quá! Khói
thuốc chưa kịp bay thì điếu thuốc đã tàn...
Ngày ấy, sau cơn mưa, chúng tôi tiếp
tục bài chiến thuật “Tiểu Đoàn Phản Phục Kích” trên đoạn cua chữ
“U” bên đồi 1441 đất đỏ, thông xanh. Con đường uốn khúc quanh co.
Những anh lính “Kà” giả địch giấu mình dưới bụi sim hoa tím, lúc
nào cũng chuẩn bị câu, “Tôi đầu hàng rồi! Đừng bắn nữa ông Thiếu
úy ơi!” khi chúng tôi oai dũng tiến về phía họ ẩn nấp, sau một
pha xung phong phản phục kích tuyệt vời qua màn khói đỏ, khói
vàng, khói trắng, khói tím, khói xanh, và khói đạn mã tử!
Rồi Đại úy Mỹ phê bình trận đánh một
cách tổng quát. Rồi Trung úy Đức rút ưu khuyết điểm. Cứ thế, hai
năm dài, lặp đi, lặp lại. Những bài lý thuyết với những trường
hợp xử lý, những câu giải đáp a, b, c khoanh. Những buổi thực
hành trên đồi thông Đà Lạt, đương đầu với địch giả, trong màn
khói đạn mã tử. Những buổi dạ hành, xuyên đêm. Những chuyến di
chuyển địa hình tìm cọc mốc dưới trăng. Những phiên gác đêm đông
sương mù lạnh lẽo trên đồi Bắc. Tất cả những kinh nghiệm tự tin
đó đã gom góp lại làm vốn liếng hành trang cho những người trẻ
tuổi lớn dần, rồi trưởng thành, vững tâm đi vào chiến trường.
* * *
Ôi thời gian qua như tên bay! Ðã có
biết bao nhiêu lần mưa đá đi qua trong đời. Năm thằng tuổi trẻ
chuyền tay điếu Orland ngày nào, thì một thằng thành phế binh, ba
thằng đền nợ nước. Hai mươi bốn năm sau lần mưa đá ấy, còn lại
mình tôi, một Kẻ Săn Vàng trên Chiến Khu D...
Trời gầm trên ngọn cây. Chớp giật liên
hồi. Mưa như cầm chĩnh đổ. Cứ như vậy suốt đêm và kéo dài cho tới
chiều hôm sau, mưa mới nhẹ hạt dần.
Nước đã tràn qua bờ be miệng giếng.
Nước cuốn trôi xuống chân đồi những gì cản đường. Dòng suối hiền
hòa hôm qua, nay trở thành con sông nhỏ chở đầy củi cành rác rến,
nước đỏ ngầu.
Tôi cứ ngồi bó gối nhìn ra ngoài trời. Ðiếu thuốc này tiếp nối
điếu thuốc khác trên môi, tôi ngồi nghĩ vẩn vơ toàn những chuyện
ngày xưa.
Trời
càng về chiều càng lạnh hơn. Ðêm đó tôi bị cảm lạnh. Trong lúc
cơn sốt rét rừng hành hạ tôi, thì ngoài kia mưa vẫn rơi.
Nhưng rồi chuyện gì cũng qua. Mấy hôm
sau vừng dương lại trở về soi những tia nắng ấm trên cuộc đời
những kẻ bất hạnh nhất trần gian. Những giọt mồ hôi lại đổ xuống
mảnh đất chiến trường xưa. Những gầu đất tiếp tục khơi sâu lòng
giếng. Từ quán cô Nghĩa vang vọng lại giọng hát ngọt ngào thuở
nào, Khánh Ly:
“Trời
ươm nắng cho mây hồng...
Mây qua mau, em
nghiêng sầu...
Ngoài kia lá như vẫn xanh...”
Tôi chợt thấy một niềm vui nhỏ nhen
nhúm trong lòng, nơi rừng thiêng nước độc này, chợt phút giây,
tìm lại được cái gì đó gần gũi, ấm cúng ngày cũ.
Giếng đã cạn đá sỏi, bắt đầu vào lớp đá
dăm, chúng tôi mừng vui vì sắp tới ngày “hy vọng vươn lên” của
giếng vàng thứ nhì.
Ðã đến ngày chúng tôi bắt đầu công việc
gom xái. Xái chuyển tới mặt đất thì được đóng thành bao, chất
quanh lều. Sau đó chúng tôi mới từ từ chuyển xái xuống suối để
đãi lấy tinh. Với dân đào vàng thì ngày này là ngày hạnh phúc
nhất.
Tôi cầu
mong đợt thu hoạch kỳ này sẽ khấm khá hơn lần trước. Giếng bên
cạnh của hai cha con ông người Quảng mới trúng bảy cây. Giếng của
chúng tôi sát nách giếng cha con nhà ấy, có rẻ cũng được năm cây!
Tôi nhẩm tính trong đầu, chi phí đâu đó
xong xuôi, mỗi người chắc mẩm có cả cây bỏ bọc!
Tôi nghĩ đến đàn con đang ở Sài Gòn chờ
tin tôi, như những con chim non đang trông chờ con chim mẹ kiếm
mồi...
Tôi mơ
màng hình dung trước mắt, một mâm cơm gia đình có canh, có cá.
Tôi nghĩ tới tuần sau, khi tôi mang
vàng về, các con tôi sẽ có tiền trả tiền học. Tôi sẽ mua thêm vài
tấm tôle nhựa để che những lỗ dột trên lầu cho lũ con đỡ ướt lúc
gió mưa. Tôi sẽ mua dự trữ một số chỉ thêu để con gái tôi có sẵn
chỉ mà thêu hàng cho khách đặt hàng thêu. Tôi sẽ mua một cái máy
thu thanh cho bọn nhỏ học Anh văn. Vợ tôi sẽ mua để dự trữ sẵn
trong nhà một tạ gạo, vài chai nước mắm, phòng đói cho con...
Trời hừng đông, người ta bàn tán với
nhau rằng, ngày mười chín tháng năm, ngày sinh của “Bác”, Huyện
đội sẽ cho cán bộ bất thần vào kiểm tra an ninh khu vực khai thác
vàng này.
Tin
tình báo nhân dân nhanh thật! Hèn nào mới gà gáy sáng, tôi thấy
đã có mấy anh thanh niên hì hục chuyển hai thùng súng đạn từ cái
quán của cô Nghĩa đem phân tán đi đâu đó không ai rõ.
Sáng sớm, thím Xuân đem lên một con gà
trống đã luộc chín và một nồi xôi đậu xanh. Chúng tôi lần lượt
thắp nhang khấn vái cám ơn Thổ Ðịa đã phù hộ.
Sau khi ăn sáng, chúng tôi chuẩn bị
đánh dây đai những bao xái để dễ dàng chuyển vận.
Khoảng mười giờ sáng, nơi đầu dốc cậu
Linh có tiếng súng bắn chỉ thiên, một cái loa cầm tay oang oang
ra lệnh:
“A
lô! A lô! Ai ở đâu ở tại chỗ! Có đoàn kiểm tra an ninh kinh tế
của huyện thi hành nhiệm vụ thanh lọc. Yêu cầu bà con sẵn sàng
xuất trình giấy phép khai thác củi cho nhân viên chính quyền. Ðây
là công việc bảo vệ an ninh và quyền lợi cho bà con. Xin bà con
cứ yên tâm sinh hoạt bình thường, đừng gây lộn xộn. Hãy tiếp tay
với chính quyền củng cố an ninh huyện nhân dịp kỷ niệm ngày sinh
của Hồ Chủ Tịch! A lô! A lô!”
Thằng Thanh ghé tai tôi nói nhỏ:
– Con với thằng Hòa phải tránh mặt, vì
tụi con trốn nghĩa vụ. Bác Hai và thằng Út ở lại trông coi bãi
xái. Hết động, tụi con trở lại.
Sau đó nó và thằng Hòa lủi vào rừng mất
hút.
Tiếng loa
oang oang tiến lại gần. Nhạc vàng vụt tắt.
Trên đồi, vài dân mõi vàng giấu vội
những bao xái trong lùm bụi. Có người ném các bao xái xuống giếng
rồi ném cành lá lên trên che đi.
Tôi chưa biết phải làm gì thì những cái
nón cối xanh đã nhấp nhô đó đây.
Dẫn đầu đoàn bộ đội là một sĩ quan cấp
lớn của Quân Ðội Nhân Dân. Ðầu hắn đội cái nón cối rất mới, sao
vàng sáng chói, bên hông có K54, tay có đổng (đồng hồ), vai có
đài (radio), có cặp, mắt có kiếng râm. Miệng hắn toe toét cười
khi đi ngang qua các quán lều. Cái quân hàm màu đỏ trên cổ áo hắn
với một ngôi sao và hai gạch vàng (thiếu tá) cho tôi biết lực
lượng kiểm tra hiện diện trong vùng này cũng phải cỡ trên dưới
một tiểu đoàn.
Như vậy là vòng ngoài, vòng trong đều
có bộ đội, không rõ tụi thằng Hoà, thằng Thanh có lọt thoát
không?
Hai
hàng quân triển khai dọc hai bên bờ Nam Bắc của con suối. Những
tên lính cộng sản, AK cầm tay, lưỡi lê đầu súng, mặt lạnh như
tiền.
Chúng
đóng trụ, từng tổ hai đứa. Tổ này cách tổ kia khoảng hai chục
thước, trải dài theo con đường mòn bên bờ chờ lệnh.
Công việc kiểm tra bắt đầu với việc
trình giấy phép khai thác rừng. Từng toán ba người đến mỗi bãi
hỏi giấy phép.
Sau đó họ làm biên bản, bắt người
trưởng mũi ký tên. Có vài người bị đưa đến tập trung hướng bên
kia đồi, nơi cuối dốc, ở đó có một khoảng đất bằng phẳng với
những súc gỗ cũ mục.
Mỗi toán kiểm tra gồm ba bộ đội thì có
một tên là sĩ quan, từ một sao một gạch, tới bốn sao một gạch,
tức là từ thiếu úy tới đại úy.
Tôi nhủ thầm: “Gớm! Sao mà Quân Ðội
Nhân Dân có nhiều sĩ quan dữ vậy!”
Một thượng úy cộng sản và hai tên bộ
đội tiến tới lều tôi. Mắt chúng sáng lên khi thấy hai dãy gần ba
chục bao xái đã đóng bì gọn ghẽ.
Với giọng Miền Trung tên thượng úy
trưởng toán hỏi tôi:
– Giấy phép khai thác rừng của anh mô?
Ðưa tui coi!
Tôi trình cái giấy phép mới mua lại tại bãi tuần trước với cái
giá ba phân vàng.
– Chứng minh nhân dân của anh mô?
Tôi nhỏ nhẹ:
– Vì ở đây không an toàn nên tôi để
chứng minh nhân dân ở nhà.
Người sĩ quan cộng sản nhăn mặt:
– Anh nói năng chi lạ rứa? Anh ở ngoài
Bắc mới nhập phải không?
Tôi chống chế:
– Không, tôi ở trong Nam lâu rồi, nhà
tôi ngoài bến phà mà!
Hắn không để ý gì tới lời tôi nói. Quay
qua một tên tùy tùng, hắn ra lệnh:
– Dẫn anh này ra bãi tập trung, giao
cho đồng chí Quang.
Tôi quay qua định dặn dò thằng Út đôi
điều thì thằng nhỏ đã trốn mất tự lúc nào!
Tôi đi trước, khẩu AK và cái lưỡi lê đi
theo sau lưng.
Trên đoạn đường tới bãi, tôi còn gặp cả
chục người cùng hoàn cảnh nên lòng cũng không lo lắng lắm.
Khoảng gần hai trăm người chúng tôi bị
tập trung nơi bãi cây. Nơi đây có một cái lều vải dã chiến vừa
được dựng lên vội vã. Có một cái bàn gỗ đặt trước cửa lều.
Một đại úy cộng sản đang ngồi trên ghế
nhâm nhi ly cà phê đen.
Tên bộ đội đẩy tôi về phía bàn giấy và
ra lệnh:
– Anh
trình diện Thủ trưởng Quang đi!
Tôi chưa kịp bước lên thì tên sĩ quan
cộng sản đã xua tay:
– Thoải mái! Thoải mái! Anh cứ thoải
mái ra nghỉ ngoài kia, chờ chúng tôi nghiên cứu vấn đề rồi sẽ
giải quyết sau. Nhớ đừng tìm cách thoát ly đó nhé!
Sau đó hắn to giọng để những người khác
cùng nghe:
–
Các anh chỉ được di chuyển trong vòng đai đánh mốc bằng dây thừng
này thôi! Ai tìm cách thoát ly thì chúng tôi không chịu trách
nhiệm bảo toàn tính mạng đấy nghe không!
Ðám người bị câu lưu nghe lời hăm dọa
mà xanh mặt.
Những tên lính cộng sản canh gác bốn góc bãi thì vẻ mặt khó đăm
đăm. Những họng AK lúc nào cũng lăm lăm chĩa vào đám đông như sẵn
sàng nhả đạn.
Gần hai trăm người chúng tôi ngồi trên cát, trên cỏ, nhịn đói,
nhịn khát trong thời gian năm, sáu tiếng đồng hồ.
Tới xế chiều thì viên thiếu tá trưởng
đoàn kiểm tra xuất hiện. Hắn vẫn toe toét cười:
– Thế nào? Bà con có khoẻ không? Chờ
đợi lâu thế này chắc là bà con đói bụng rồi đấy! Thôi nhé! Mình
tranh thủ làm nhanh nhanh công tác kiểm điểm để bà con về nghỉ
mệt. Thì giờ là vàng ngọc mà! Hì! hì! hì!...
Mọi người thở ra nhẹ nhõm. Tình hình có
vẻ không đến nỗi căng lắm! Vài người trong bọn tôi bạo gan giở
thuốc lá ra hút trong khi chờ đợi viên thủ trưởng của đoàn kiểm
tra giải quyết vấn đề.
Viên thiếu tá cộng sản đưa từng xấp
giấy có in sẵn mẫu cho bốn tên đàn em đem phân phát cho mỗi người
chúng tôi một bản. Ðó là mẫu tự khai và kiểm điểm, trong đó chúng
tôi phải ghi rõ họ tên, quê quán, nghề nghiệp, ngày sinh, tháng
đẻ.
Về mục
kiểm điểm thì tùy từng người; người không có chứng minh nhân dân
thì hứa lần sau sẽ đem theo giấy tờ theo mình khi đi xa nhà;
người không có giấy khai thác củi thì hứa lần sau sẽ xin giấy
phép trước khi vào rừng.
Nhiều ông trưởng mũi không biết đọc,
biết viết, phải nhờ người khác giúp đỡ.
Tôi khai tên mình là Nguyễn văn Hai,
sinh quán Hà Ðông, nghề nghiệp thợ mộc. Tôi nộp tờ tự kiểm của
anh chàng Nguyễn văn Hai, Hà Ðông, thợ mộc trên bàn rồi lui ra
đứng lẫn vào đám đông.
Những tên bộ đội canh gác an ninh lúc
đó đang tháo gỡ căn lều dã chiến. Chúng nó chuẩn bị thu quân.
Sau khi dồn đống giấy kiểm điểm của
chúng tôi vào ba lô, tên đại úy phụ tá xách cái ba lô đó đi về
hướng dốc Cậu Linh. Hắn vừa nhún nhảy đi, vừa huýt sáo miệng điệu
nhạc Lambada Nam Mỹ.
Viên thiếu tá cộng sản trưởng đoàn
trịnh trọng hắng giọng lấy hơi rồi tuyên bố:
– Nhân danh trưởng đoàn kiểm tra nhân
dân, tôi khen ngợi các anh đã thành khẩn nhận lỗi và hối lỗi.
Nhân ngày kỷ niệm sinh nhật của Bác Hồ, tôi châm chước cho các
anh ra về. Nhớ lần sau chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định khai
thác rừng của huyện và không được vi phạm nữa nghe không!
Mọi người vỗ tay cảm động. Ðôi người
còn đến mời thuốc lá và xin bắt tay tên sĩ quan trưởng đoàn. Tôi
cũng thở phào nhẹ nhõm.
Tôi nói với một người đồng cảnh trên
đường trở về bãi:
– Chắc lệnh trên ban xuống, bắt tụi nó
kiểm tra, thì tụi nó cũng làm cho có lệ vậy thôi, chứ ăn cái giải
gì mà khó dễ tụi khố rách áo ôm như mình!
Ông đồng cảnh của tôi cười khẩy:
– Chắc tụi nó có nhận trà nước chia
chác của xã, nên mới dễ dãi với mình. Lần trước tụi nó dọn sạch
cả đồ nghề, khiên, bao, xẻng, cuốc, chẳng còn gì. Ðể về bãi mới
biết kết quả ra sao anh ơi!
Tôi về tới bãi cũng là lúc tụi thằng
Thanh chạy bát nháo đi tìm tôi.
Thằng Thanh và thằng Hòa cùng vài trăm
người không giấy tờ khác trốn trong khu hầm mỏ cũ suốt bốn, năm
tiếng đồng hồ. Chẳng có ma nào thèm tìm đến vây bắt bọn họ.
Khi bộ đội đã rút đi, có người thông
báo, tụi nó mới về lều.
Nghe thằng Út nói Bác Hai bị điệu ra
bãi tập trung thì tụi nó lo lắng cuống quýt chạy đi tìm.
Thằng Út nói lúc bộ đội gí súng bắt tôi
đi thì nó chạy sang lều Bác sĩ An, giả đò đau bụng để theo dõi
diễn tiến ra sao.
Chờ yên việc nó mới dám mon men về lều.
Rồi nó mếu máo:
– Bác Hai ơi! Xái của mình bị tịch thu
hết rồi! Bộ đội đã khiêng đi hết rồi!
Tôi nhớ lại, khi lên nộp tờ kiểm điểm
trên bàn của tên thiếu tá cộng sản trưởng đoàn, tôi tình cờ nghe
y dặn dò tên đại úy phụ tá:
– Ðồng chí nhớ cho người khẩn trương
đãi xái ngay tối nay, bên huyện ủy chia cho cánh mình một nửa số
thu hoạch kỳ này đó!
Thì ra cuộc càn quét này, mục đích của
huyện là lấy vàng.
Trong thời gian chúng tôi bị giữ ngoài
bãi súc sau đồi thì lực lượng vũ trang huyện đã lùng sục khắp các
bãi. Tất cả xái đã khai quật đều bị tịch thu đóng bao khiêng đi
hết. Có cả chục cái xe tải chờ sẵn ngoài dốc cậu Linh để chở đi
những tấn hàng béo bở.
Cán bộ giải thích với dân đào vàng
rằng, huyện cho giấy phép “khai thác rừng” chứ không phải để khai
thác quặng mỏ. Quặng mỏ là tài sản của nhân dân, đào vàng là xâm
phạm tài sản của nhân dân. Những người trưởng mũi đều bị gán tội
xâm phạm tài sản nhân dân. Họ bị làm biên bản và phải làm tờ tự
kiểm điểm. Tất cả xái vàng họ đã khai thác được đều bị tịch thu
giao nộp về văn phòng huyện.
Mẹ kiếp! Cái giấy phép, giá chính thức
là hai phân, giá chui là ba, bốn phân. Trên thực tế, khai thác
một diện tích vuông, mỗi chiều mười mét, cho dù là rừng cẩm lai
cũng không được một phân! Thêm tiền công, tiền di chuyển xe cộ,
ăn uống, thuốc men.
Lại một trò “chơi chữ”! Cái đồ ăn cướp
cạn!
Tôi chợt
bật cười, nhớ lại cái thông cáo tháng Năm 1975 của Ủy Ban Quân
Quản Sài Gòn Chợ Lớn ra lệnh cho Quân Cán Chính của chế độ Sài
Gòn phải “đem theo 30 ngày tiền ăn khi trình diện học tập cải
tạo”
Rồi một
tháng sau, “Nhà nước ra lệnh cho các anh mang theo 30 ngày tiền
ăn, chứ nhà nước có hứa sẽ thả các anh về sau một tháng đâu?”
Thế rồi từng tờ lịch lật qua, theo
nhau, mười ba tập lịch được bóc đi, tôi về.
Tôi về, vợ tôi đã sắp đuối, bốn đứa con
tôi còn nhỏ dại.
Tôi bắt đầu lại cuộc đời với hai bàn
tay trắng.
Mới
đó mà đã mười bốn năm trôi qua. Thời gian trôi, nhưng chính sách
của Ðảng và nhà nước thì lúc nào cũng tàn ác, dã man, “trước sau
như một”.
Tôi
tự trách, “Mình đúng là thằng tối dạ! Kinh nghiệm đau thương mười
mấy năm rồi mà chưa sáng mắt ra!”
Thế là công cốc! Cái lều của thày trò
tôi vẫn còn nguyên, nhưng những bao xái vàng chất xung quanh lều
đã biến mất. Giờ này xái trong những bao bì ấy đã được những “đầy
tớ trung thành của nhân dân” đem đi đãi, vàng sẽ được chia cho
những người có công chỉ huy công tác “bảo vệ an ninh và quyền lợi
cho bà con” trong cuộc hành quân kiểm tra sáng nay.
Ðúng như tên thiếu tá cộng sản đã tuyên
bố, “bộ đội không tơ hào đến tài sản của nhân dân!”
Chứng cớ là bao, bì, khiên, cuốc, xẻng,
đòn, đồ nghề khai mỏ vẫn nằm yên chỗ cũ, có ai đụng tới đâu?
Chúng chỉ hớt tay trên miếng ăn của những kẻ đói khổ nhất trần
đời. Trong rừng chiều, tôi nghe đây đó vang vọng tiếng khóc than,
tiếng nguyền rủa của những nạn nhân vừa bị cướp.
Chiều đầu mùa Hạ 1989, nắng vàng lóng
lánh trên những đọt lá giữa rừng già. Trời quang và mây tạnh,
nhưng trong lòng tôi cảm thấy lạnh lẽo vô cùng, lạnh hơn là khi
trời đang mưa đá trên miếu Thần Hổ, Ðà Lạt ngày nào.
Quán cô Nghĩa lại vang lên một bài ca
xưa, nhưng giọng ca rất lạ, cuộn cassette được lén gởi về từ bên
kia nửa vòng trái đất:
“Một
ngày tàn chinh chiến ấy, chim đã xa bầy...
Một ngày tả tơi hoa lá,
ngóng trông về
xa,
nhớ thương hình bóng qua...”
Vương Mộng Long
K20–VBĐL
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tony nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Năm, May 16,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang