Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
30–T4–Đen
Tác giả:
Vương Mộng
Long/K20
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lời giới thiệu: Hồi ký
“Ngày Ta
Bỏ Núi” đã được viết cách đây 16 năm. Nhưng khi phổ biến, nó đã
bị cắt xén và che giấu nhiều điều. Tác giả Thiếu tá Vương Mộng
Long đã bỏ công nhuận sắc lại toàn bộ bài viết này. “Ngày Ta Bỏ
Núi” với đầy đủ chi tiết từng ngày, từng sự kiện diễn ra trong
suốt cuộc lui binh, kể cả những bí mật mà trước đây bị che đậy và
giấu nhẹm.
–Người chuyển bài.
Giữa tháng 2 năm 1975, tôi lái xe từ
đồn Kiến Ðức, Quảng Ðức lên thăm Ðại tá Biệt Ðộng Quân Phạm Duy
Tất, Tư Lệnh Mặt Trận Kontum tại căn cứ Non Nước, khoảng 10 cây
số Bắc Kontum.
Ðêm đó thầy trò tôi nằm bên nhau, hàn
huyên tới khuya.
Tôi được Ðại tá Tất cho đọc bản cung từ
của một hồi chánh viên Việt Cộng.
Bản cung từ này do Ðại úy Vũ Quang Dũng
của Trung Tâm Thẩm Vấn/Phòng 2/Quân Ðoàn II thiết lập.
Người hồi chánh là một Thượng sĩ Trưởng
mũi thám sát của Trung Ðoàn 48/Sư Ðoàn 320A Cộng Sản Bắc Việt.
Anh ta khai rằng, 2 tháng nữa sẽ có 1
cuộc tấn công đại quy mô của Cộng Quân nhằm giải phóng thị xã Ban
Mê Thuột. Anh ta còn kê khai ra những tổn thất của Sư Ðoàn 320A
Cộng Sản Bắc Việt trong trận đánh 33 ngày đêm vây hãm Pleime
tháng 7–8 năm 1974. Trận này Trung Ðoàn 48/Sư Ðoàn 320A chủ công
đã bị thiệt hại rất nặng, mỗi đại đội chỉ còn khoảng 17, 18 cán
binh. Ðơn vị này phải về hậu cứ gần biên giới Việt Miên để bổ
sung quân số rồi chuyển vùng hoạt động.
Ðêm đó tôi có nói với Ðại tá Tất rằng:
– Thằng 48 đã bị tôi đánh xiểng liểng
hai lần. Kỳ này Tư Lệnh cho tôi về phòng thủ Ban Mê Thuột, tôi sẽ
có dịp “cưa” với nó một lần nữa. Ðại tá yên chí! Nếu tôi chưa
chết thì Ban Mê Thuột chưa lung lay. Tôi cam đoan với Ðại tá như
vậy!
Tôi thực
lòng mong muốn được về giữ thành phố này. Vì cha mẹ, vợ con, anh
em tôi, và gia đình binh sĩ đơn vị tôi sinh sống ở đây.
Ông Tất cười cười trả lời:
– Cậu đừng lo! Ông Phú đã giao cho ông
Tường vụ này rồi!
(Ghi chú: Ông Phú = Thiếu tướng Phạm
Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II. Ông Tường = Chuẩn tướng Lê Trung
Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh).
Tôi cũng được ông Tất cho biết rằng Sư
Ðoàn 23 Bộ Binh sẽ án ngữ tại Buôn Blech, có thể dễ dàng di động
giữa Ban Mê Thuột và Pleiku.
Tiếp đó Ðại tá Tư Lệnh “bật mí” cho tôi
1 tin vui: Vài tháng nữa Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi sẽ
được tăng cường để có quân số trên 800 người, với 1 hệ thống
ngang 16 máy truyền tin, gồm đủ Trinh Sát, Viễn Thám cùng 1 đại
đội chỉ huy và 4 đại đội tác chiến. Tiểu đoàn tôi sẽ xuất phái
khỏi Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân để làm lực lượng xung kích dưới
quyền Tư Lệnh Mặt Trận Kontum.
Hôm sau, trước khi từ giã Ðại tá Tất,
tôi có đi quanh một vòng thăm Trung tá Lê Tất Biên, Liên đoàn
trưởng Liên Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân và vài người bạn đang tham gia
phòng thủ vùng Bắc Kontum.
Thiếu tá Thi, liên đoàn phó Liên Ðoàn
23 Biệt Ðộng Quân hướng dẫn tôi đi quan sát vị trí bố quân của
liên đoàn.
Tôi
thấy mặt trận ở đây có vẻ còn yên tĩnh hơn vùng Ngã Ba Tam Biên
Nam (Cao Miên, Nam Kỳ, Trung Kỳ) mà tôi đang trấn giữ.
Trên đường về Quảng Ðức, tôi ghé Ban Mê
Thuột thăm tiền cứ của tiểu đoàn, rồi về nhà nghỉ với vợ con tôi
một đêm.
Buổi
sáng ngày kế đó, tôi vào tiệm Phở Tây Hiên, ăn điểm tâm trước khi
lên đường. Lúc tôi sắp lên xe thì người lính già mới giải ngũ
Dương Ðức Mai (cựu Trung tá Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 22 Biệt
Ðộng Quân) xuất hiện giữa phố, giơ tay vẫy:
– Chào người hùng Pleime! Ghé tệ xá cho
tôi hỏi thăm đôi lời đi ông Quan Tư!
Tôi và bác Mai là chỗ rất thân tình.
Chúng tôi đã nhiều năm làm việc chung ở Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng
Quân/Quân Khu 2.
Tôi theo chân bác, vào thăm nhà bác.
Nhà bác Mai ở kế hàng rào Sân Vận Ðộng Ban Mê Thuột.
Vào tới sân, cựu Trung tá Dương Ðức
Mai, thật nghiêm nghị, hỏi tôi:
– Theo ý cậu, tụi Việt Cộng có dám đánh
Ban Mê Thuột hay không?
Vừa nâng niu những giò lan rực rỡ trên
giàn, tôi vừa hùng hồn cam đoan với người chỉ huy cũ:
– Bác cứ yên chí lớn! Ông Tường sẽ bảo
vệ Ban Mê Thuột, ông Tất nói vậy, bác đừng lo!
Bác Mai nhìn tôi, dọ dẫm:
– Thế ông gia, bà gia và vợ con cậu
không di chuyển đi đâu sao?
Tôi cầm tay bác, trấn an bác:
– Có thể địch sẽ tấn công, nhưng chắc
chúng không làm nên sự việc gì đâu. Gia đình tôi còn ở đây, đủ
hết, cha mẹ, anh em, vợ con tôi, vợ con binh sĩ tiểu đoàn tôi.
Tới đây thì bác Mai có vẻ yên tâm.
Tối trước, khi thấy bố vợ tôi âu lo vì
những tin đồn địch sẽ tấn công, tôi nói với ông cụ rằng, một cặp
chỉ huy dày dạn chiến trường Tường & Luật đủ bảo đảm cho sự đứng
vững của thành phố nhỏ bé này rồi.
(Ghi chú: Tường&Luật = Chuẩn tướng Lê
Trung Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh & Đại tá Nguyễn Trọng
Luật Tỉnh trưởng Darlac).
Nghe tôi mạnh miệng, bố vợ tôi mới hết
lo lắng.
Bố vợ
tôi cũng là 1 cựu Trung tá của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh vừa giải ngũ
được hơn 1 năm. Ông cụ và bác Dương Ðức Mai là bạn khá thân.
Sau khi chuyện trò một lúc, tôi bắt tay
từ giã người cựu Liên đoàn trưởng Biệt Ðộng Quân Dương Ðức Mai,
rồi lên đường.
Vài ngày sau, ở Kiến Ðức, tôi chợt nhớ
ra rằng, bản cung hồi chánh đã cũ, và nếu đúng theo diễn tiến mà
anh Thượng sĩ của Trung Ðoàn 48/SÐ 320 A/Ðiện Biên đã khai, thì
giữa tháng 3 tới, địch sẽ triển khai chiến dịch tấn công Ban Mê
Thuột.
Tôi lại
nghe tin A 2 phổ biến từ Phòng Nhì/Quân Ðoàn II thông báo những
chỉ dấu chuyển quân của Việt Cộng từ biên giới Việt Miên về vùng
ven căn cứ biên phòng Bản Don.
Tôi biết rất rõ về Trung Ðoàn 48/Sư
Ðoàn 320A Cộng Sản Bắc Việt, đơn vị chủ công sẽ đánh Ban Mê
Thuột.
Tôi tin
tưởng rằng đơn vị tôi đủ sức đương đầu với chúng. Trong quá khứ,
đơn vị tôi đã 2 lần chạm trán với trung đoàn Cộng Sản này ở căn
cứ 711 Pleiku (tháng Tư 1974) và ở căn cứ biên phòng Pleime
(tháng 7–8 năm 1974).
Mối quan tâm của tôi là, gia đình tôi
và đa số gia đình binh sĩ Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đều ở Ban
Mê Thuột. Tôi vội thảo gấp một cái công điện gởi thẳng cho 2 nơi,
một cho Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 đang ở
Kontum, một cho Bộ Tư Lệnh/Quân Ðoàn II ở Pleiku. Tôi xin thượng
cấp cho phép Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân được rời Kiến Ðức, Quảng
Ðức để về phòng thủ Ban Mê Thuột.
Vì đây là điện văn riêng, nên tôi không
gởi theo hệ thống dọc qua Bộ chỉ huy Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân
và qua Bộ chỉ huy Tiểu Khu Quảng Ðức mà chúng tôi đang tăng phái.
Nhưng Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 24
Biệt Ðộng Quân rõ chuyện này, vì tôi có tâm sự với ông, ông rất
thông cảm hoàn cảnh của tôi.
Tôi chờ đợi từng ngày. Không ai trả lời
bức điện thỉnh cầu của tôi vì nó là một điện văn gửi vượt hệ
thống quân giai, hoàn toàn sái nguyên tắc.
Những khi hành quân xa, tôi thường đặt
đài tiếp vận để tiện liên lạc với hậu cứ. Những tiểu đoàn bạn,
đôi khi cả bộ chỉ huy liên đoàn cũng vào tần số đài này nhờ
chuyển tin.
Sáng ngày 9 tháng Ba năm 1975, đài tiếp vận “Tam Quái 82” của tôi
đặt trên căn cứ hỏa lực Núi Lửa, Ðức Lập báo cáo rằng địch đang
pháo kích vào Chi Khu Ðức Lập. Tới gần trưa thì chính căn cứ Núi
Lửa cũng bị địch pháo kích và tấn công bằng bộ binh.
Xế chiều, tôi nghe anh binh nhì trưởng
toán tiếp vận báo cáo bằng bạch văn lời cuối:
– Thiếu tá ơi! “Tam Quái chắc tiêu ma
đợt này rồi Thiếu tá ơi!”
Sau đó tôi không còn nghe được gì nữa.
Tôi thường gọi mấy anh Biệt Ðộng Quân
của Tiểu Ðoàn 82 giữ máy tiếp vận trên đỉnh Núi Lửa là “Tam
Quái”. Chỉ vì toán này gồm 3 anh lính có tật, một anh cà thọt,
một anh điếc, và một anh thong manh. Anh điếc nấu cơm, 2 anh kia
trực máy truyền tin.
Những năm sau này, quân số thiếu hụt,
những người có tật cũng bị bắt đi quân dịch, mà Biệt Ðộng Quân
lại thiếu người, nên rất dễ dãi vấn đề tuyển quân. Biệt Ðộng Quân
nhận tất cả quân nhân bổ sung từ bất cứ nguồn nhân lực nào.
Chúng tôi được bổ sung quân số từ Trung
Tâm Nhập Ngũ Số 3 chuyển qua Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, từ Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Ðộng Quân Dục Mỹ,
từ Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn, và từ Ðơn Vị 2 Quản Trị Ðịa
Phương, Nha Trang với những người lính vừa mãn án tù, kể cả Lao
Công Phục Hồi.
Tôi không chê bất cứ ai trình sự vụ
lệnh về phục vụ đơn vị mình. Thong manh, cà thọt, mẻ sứt, kể cả
ma túy, xì–ke tôi nhận tuốt! Những quái nhân này ở tiểu đoàn tôi
chỉ ít lâu sau đã thành những con người mới. Người nào có việc
nấy, tôi cứ áp dụng lời khuyên của người chỉ huy cũ, Trung tá Bùi
Văn Sâm:
“Viên
đạn nào cũng bắn vào đầu địch. Chỉ cần người lính chịu bóp cò là
được rồi. Xấu trai mà dám bóp cò, còn hơn đẹp trai mà ra trận
chưa nghe súng nổ, mắt đã láo liên. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn!”
Vì thế mà quân số tiểu đoàn tôi lúc nào
cũng đông hơn tiểu đoàn khác.
Lính cà thọt không chạy nhanh được, cho
họ làm tiền đồn. Cà thọt đóng chốt thì khỏi lo mất chốt.
Lính thong manh, không canh gác được
thì cho trực truyền tin, nấu cơm.
Lính điếc thì cho tải đạn cối 81ly, cối
60ly, SKZ 57ly. Lính điếc mà bắn cối hay SKZ thì nhất! Ðiếc đâu
cần bịt lỗ tai!
Xì–ke nghiện ngập cũng dễ chữa thôi!
Tôi lúc nào cũng dùng lời khuyến dụ êm ngọt trước, dùng võ lực
sau. Anh nào không nghe lời nhỏ nhẹ bỏ nghề chích choác thì tôi
mời vào connex nằm chơi. Ngày này qua ngày khác, chỉ có món nước
đường do Thiếu úy Huỳnh Kim Hoàng, Ðại đội trưởng đại đội công vụ
tiếp tế. Những ngày đầu thiếu thuốc, dân choác khổ sở, vật vã vô
cùng. Dăm ba ngày sau quen dần, quen dần... Người nghiện nặng
cách mấy cũng chỉ 1 tuần là phải từ giã ống chích, kim tiêm, khỏi
bịnh!
Theo lời
dạy của cổ nhân, “Dụng nhân như dụng mộc”, tôi sắp xếp người của
tôi vào công việc phù hợp với họ; trên dưới đề huề, thương nhau.
Những năm sau cùng, không khí sinh hoạt
trong đơn vị tôi (Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân) là thế đấy!
Tin Tam Quái trên Núi Lửa bị mất liên
lạc làm cả ban tham mưu tiểu đoàn buồn rầu.
Sáng 10 tháng 3 năm 1975, bộ chỉ huy
liên đoàn báo cho tôi biết tin địch đang pháo kích vào tiền cứ
Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân ở Ban Mê Thuột. Tiền cứ này nằm sát
trại Thiết Giáp trên đường đi Bản Ðôn. Người chỉ huy tiền cứ của
liên đoàn là Thiếu tá Lê Ðình Hồng đã bị thương nặng.
Hậu trạm của tiểu đoàn tôi ở Ban Mê
Thuột cũng có mặt 6 người là, Thiếu úy Huỳnh Kim Hoàng, Chuẩn úy
Lê Hữu Ðức, Chuẩn úy Nguyễn Hữu Phước, Trung sĩ 1 Lưu Ðức Hoàn,
Lao công Phan Thành Hoàng, và ông Tàu Hỷ chủ Câu Lạc Bộ. Không rõ
tình trạng của các ông này ra sao?
Tới trưa thì có tin chiến xa Việt Cộng
nối đuôi nhau chạy rầm rầm giữa trung tâm thị xã. Mọi cuộc đàm
thoại vô tuyến bị đứt đoạn vì không có đài tiếp vận.
Liên lạc giữa Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 24
Biệt Ðộng Quân từ Gia Nghĩa với tiền cứ Ban Mê Thuột bằng các hệ
thống máy tầm xa như VRC 67 và PRC 74 cũng đột nhiên chấm dứt.
Ðêm đó đài BBC loan tin Ban Mê Thuột
thất thủ. Tôi và cả ban tham mưu tiểu đoàn bàng hoàng, vì tiền cứ
của tiểu đoàn tôi cũng như gia đình binh sĩ đều ở thành phố này.
Ngày 11 tháng 3 năm 1975, tôi nghe được
tiếng Ðại tá Phạm Duy Tất trên tần số. Ông Tất đang bay trên trời
Ban Mê Thuột và gọi tôi.
Tôi hỏi ông về địch tình, về phản ứng
của Chuẩn tướng Lê Trung Tường.
Ðại tá Tất buồn rầu trả lời:
“Ông Tường không đủ sức ngăn chúng nó
toa ơi! Bây giờ chỉ còn hy vọng thằng Dậu cố gắng cứu vãn tình
thế. Không biết có được hay không?”
(Ghi chú: Thằng Dậu = Trung tá Lê Quý
Dậu).
Trung tá
Lê Quý Dậu là Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân.
Ông Dậu mới lên chỉ huy liên đoàn được
2–3 tháng, thay thế cho Trung tá Nguyễn Lang (Lang Trọc) vừa giải
ngũ.
Tôi cố
nài nỉ ông chỉ huy trưởng:
– Trường An cho phương tiện bốc tôi về
Ban Mê Thuột đi! Trường An ơi! Vợ con tôi ở đó! Vợ con lính của
tôi ở đó!
Trường An là danh hiệu truyền tin của Ðại tá Phạm Duy Tất, Chỉ
huy trưởng Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2.
Lúc đó tôi nghẹn lời. Bên tôi, người Sĩ
quan Tiếp liệu tiểu đoàn, Trung úy Trần Văn Ðăng mắt cũng đỏ hoe.
Tôi tỉnh người khi nghe ông Tất hứa
hẹn:
– Rồi! Ta
sẽ nói lại với Số 1 (Thiếu tướng Phạm Văn Phú) để bốc Thái Sơn
về!
Thái Sơn
là tên riêng của tôi, tôi mang tên này từ khi còn phục vụ ở Tiểu
Ðoàn 11/Biệt Ðộng Quân, Pleiku, thời 1967–69.
Ðược lời như cởi tấm lòng, tôi quyết
định rút trung đội tiền đồn của Ðại Ðội 4/82 trên đồi Bù Row cách
3 cây số hướng Bắc về.
Tôi cũng gọi sĩ quan đại đội trưởng, 1
đại đội của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân đang tăng cường cho tôi
lên gặp tôi.
Tôi dặn dò anh kỹ càng những điều phải làm để phòng thủ Ngã Ba
Kiến Ðức thay cho Ðại Ðội 1/82 Biệt Ðộng Quân của Thiếu úy Ðặng
Thành Học, nếu chúng tôi có trực thăng bốc đi.
Tiếp đó tôi cho tiểu đoàn chuẩn bị 2
ngày cơm vắt, vũ khí, đạn dược sẵn sàng.
Sau khi lệnh chuẩn bị hành quân của tôi
được thông báo tới mọi cấp trong đơn vị, tôi nghe tiếng bàn tán
xôn xao trong các túp lều và bên giao thông hào.
Niềm háo hức hân hoan lộ rõ trên những
khuôn mặt sạm nắng.
Những người lính gốc Rhadé, Jarai dưới
quyền tôi đã lâu, nên qua nụ cười, ánh mắt của họ, tôi hiểu rằng
lúc đó họ đang vui sướng vô cùng.
Suốt ngày 12/3/1975 tôi không nghe
tiếng Ðại tá Tất trên máy, nhưng tôi liên lạc được 1 phi công
đang quan sát trên trời Ban Mê Thuột.
Tôi nhờ anh ghi nhận và chuyển cho tôi
những gì anh nhìn thấy dưới chân anh.
Tôi mô tả con đường Hàm Nghi cạnh nhà
thờ Vinh Sơn, là nơi gia đình tôi cư ngụ và khu tiền trạm của
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.
Sau hồi lâu quan sát, anh cho tôi biết
rằng cả 2 nơi đều nằm trong màn khói đen mù mịt.
Buồn quá, tôi ngồi trước cửa hầm, ôm
cây đàn guitar. Tay tôi chỉ bấm 1 cung Mi Thứ; tôi lần mò một bài
tình ca buồn.
Nhớ lại lần đầu, 6 năm trước, tôi và người bạn cùng đơn vị đi đón
em gái anh ta lúc học sinh Trung Học Tổng Hợp Ban Mê Thuột tan
trường.
Sau đó
mẹ tôi từ Hội An vào gặp bố mẹ cô ta; mẹ tôi xin cô ta về làm dâu
họ Vương. Bây giờ nàng đang bị kẹt trong vùng đạn lửa, một nách 3
đứa con thơ, lại thêm bụng mang dạ chửa.
Tôi ngồi thừ người trước cửa hầm trú ẩn
của tiểu đoàn trưởng. Tôi không cảm thấy cái lạnh của sương đêm.
Trời sáng lúc nào tôi không hay.
Vừng dương bắt đầu le lói. Lại thêm một
ngày.
Bên tôi
là những cây hoa móng tay.
Mấy ngày rồi không ai tưới, hoa lá đã
vàng vọt úa màu.
Bên những cây hoa này, 2 đứa con gái
tôi đã đứng chụp hình. Con tôi cũng chỉ xấp xỉ cao cỡ những cây
hoa đó.
Sau
Noel 1974 tôi đã đón vợ tôi và 2 đứa con gái lớn lên tiền đồn này
chơi vài ngày. 2 đứa bé suốt ngày chỉ quanh quẩn bên những cây
hoa móng tay.
Chợt những bông hoa móng tay trước mắt tôi như mờ dần đi. Một
giọt nước mắt nóng rơi trên mu bàn tay. Ðầu óc tôi phừng phừng.
Hai bàn tay tôi xoắn vào nhau, dày vò
lẫn nhau. Tôi muốn đập phá, la hét, kêu gào để trút bỏ niềm đau
đớn, phẫn uất đang nung nấu tâm can.
Nước mắt cứ tiếp tục lăn trên má, qua
môi, xuống miệng.
Tôi oán trách ông Trời; tôi oán trách
Ðại tá Tất; tôi oán trách Tướng Tường; tôi oán trách Trung tá
Dậu; tôi tự oán trách tôi.
Chuẩn úy Lê Văn Phước (Ban 3) len lén
đến bên tôi. Phước đưa cho tôi cái khăn bông ướt:
– Bình tĩnh lại Thiếu tá! Ðài BBC nói
Ban Mê Thuột thất thủ rồi! Ðánh nhau nhanh như vậy chắc là ít
người chết. Nhà 2 bác ở xa khu quân sự, hy vọng chị và các cháu
không hề hấn gì.
Cái khăn ướt làm mặt tôi bớt nóng. Tôi
đứng lên bước hững hờ xuống khu pháo binh cũ, hướng Bắc của bộ
chỉ huy tiểu đoàn.
Từ đây tôi có thể nhìn thấy một vùng
rừng rậm xanh rì trải dài về hướng chân trời.
Xa lắm, nơi chân mây hướng Ðông Bắc là
Ban Mê Thuột, nơi đó có gia đình tôi, gia đình của những người
lính Kinh, Thượng, Jarai, Rhadé, Bana dưới quyền tôi.
2 ngày dài buồn thảm nối tiếp trôi qua,
tôi không nghe được tin tức gì của Ban Mê Thuột.
Chiều 15 tháng 3 dân chúng từ buôn Bù
Binh hướng Nam, nối đuôi nhau đi về Ngã Ba Kiến Ðức. Gùi sau
lưng, con trước ngực, họ từng đoàn lếch thếch qua mặt đồn tôi
đóng, để về Nhơn Cơ.
Không rõ vì lý do gì, gần tối đoàn
người dội ngược trở lại. Tôi cho đám dân tị nạn này tạm nghỉ qua
đêm trong cái nhà tranh Câu Lạc Bộ của tiểu đoàn, sát chân đồi,
bên lề đường.
Sáng sớm 16 tháng 3, trung đội tuần đường của Ðại Ðội 1/82 vừa
tới đầu khúc cua chữ “S” cách Kiến Ðức hơn 3 cây số thì đại liên
12.7ly “choang choác!” nổ giòn.
Ông Thượng sĩ Y Ngon Near bị phòng
không bắn chết nơi đầu dốc. Trung đội tuần đường tháo chạy ngược
về hướng Kiến Ðức.
Từ giờ này Tỉnh Lộ 344 đoạn Kiến Ðức,
Nhơn Cơ bị cắt.
Xác ông tiểu đội trưởng Y Ngon Near bị
bỏ rơi nằm chình ình giữa lộ.
Ngay lúc đó, pháo địch từ hướng Tây Bắc
nã khoảng gần 100 viên đại bác 105ly trên đồi Kiến Ðức.
Lúc đạn địch rơi, tôi đang thăm khu dân
tị nạn để hỏi han họ lý do tại sao họ không về Nhơn Cơ chiều hôm
trước.
Bây giờ
thì rõ ràng rồi: địch chặn đường!
Lúc này, Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn, Tiểu
đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân báo cáo rằng chiến xa
địch đang từ hướng Phước Long tiến về Bù Binh, nơi ông đang đóng
quân. Liên đoàn cho lệnh ông Mẫn rút về với tôi.
Tối đó Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân được
tôi chia cho phần nhiệm vụ phòng thủ mặt Ðông của Ngã Ba Kiến
Ðức, án ngữ hướng về Nhơn Cơ.
Ðêm 16 tháng 3 năm 1975, Trung tá Liên
đoàn trưởng ra lệnh cho Thiếu tá Mẫn nỗ lực vượt qua nút chặn của
Cộng Quân để về phòng thủ quận Nhơn Cơ.
Suốt ngày 17 tháng 3 năm 1975, đạn
12.7ly nổ rền trời nơi khúc quanh có xác Thượng sĩ Ngon. Tiểu
Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân không tiến được bước nào.
Ðêm xuống, con cáo già Khóa 2 Ðồng Ðế
là Hoàng Ðình Mẫn cho đơn vị chui lòn trong rừng, đánh một vòng
rộng về hướng Nam, xa hẳn vùng Việt Cộng đóng chốt để tìm đường
vào phi trường Nhơn Cơ.
Ông Mẫn đã khôn khéo tránh né đụng độ,
và đã hoàn thành nhiệm vụ bắt tay được Thiếu tá Khánh, Quận
trưởng Kiến Ðức ở Căn Cứ Nhơn Cơ buổi sáng ngày hôm sau.
Mờ sáng 18 tháng 3 năm 1975, súng cối
82ly của địch từ hướng Tây lại tái pháo kích vào Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân. Từ tuần lễ nay, đồi Bù Row bỏ ngỏ. Ðịch đã quay
lại chiếm lĩnh cao điểm này. Từ đây, DKZ 75 của chúng liên tục
đánh phá khu trung tâm đồi chỉ huy của tiểu đoàn. Thêm vào đó,
đạn đại bác 105ly từ đằng xa phía Bắc, nã không ngừng trên nửa
ngọn đồi hướng Bắc, nơi những ụ súng pháo binh đã bỏ hoang từ khi
pháo đội 105ly của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh rút đi.
“Oành! Oành! Oành!”
Ðạn 75ly theo nhau tóe lửa trên lô cốt
Ðông và khu vực quanh cái cây khô cao nghệu giữa đỉnh đồi.
Cây cổ thụ này cao lắm, đứng xa cả cây
số mà người ta còn nhìn thấy nó. Nó tồn tại từ khi cơ ngơi của
Chi Khu Kiến Ðức mới được xây dựng lên. Chiến trận nổ ra thì nó
trở thành cái mốc cho địch quân điều chỉnh pháo.
Ngày mới tới đây tôi đã có ý định hạ nó
xuống, nhưng bận rộn hết việc này tới việc khác, tôi đã quên đi.
Hầm chỉ huy của tôi có 2 mái bằng bao
cát, lớp trên đã bị bắn sập, đất cát đang tuôn ào ào vào các lỗ
châu mai.
Tôi
quyết định tụt xuống ngã ba Quốc lộ 14, tạm trú trong cái hầm nhỏ
khoét sâu vào vách núi bên Tỉnh lộ 344.
Vừa phóng nhanh ra cửa, tôi vừa ngoắc
tay ra dấu cho 2 người lính đang ngồi gác đôi:
– Xuống đường!
Như cái máy, Binh nhì Ðức Xì Ke ào lên
án ngữ cái cầu thang, còn Binh nhì Ba Rỗ thì kè sát sau lưng tôi,
rồi lấy cái thân to lớn của nó che chở cho tôi rời khu chỉ huy sở
của tiểu đoàn.
Xuống tới đường, tôi lập tức hạ lệnh
cho toán đầu bếp của Câu Lạc Bộ:
– Kéo cổng Ðông! Gài Claymore!
Hiện thời địch đã chiếm lĩnh vùng đồi
thấp giữa Nhơn Cơ và Kiến Ðức. Hướng Ðông lại là khu vực tôi dàn
quân mỏng nhất. Cấp thời chỉ có cách gài thêm mìn và huy động
nhân viên Câu Lạc Bộ tăng cường phòng thủ với tiểu đội cận vệ.
“Xèo! Oành!” – “Xèo! Oành!”
Nghe tiếng rít của đạn bay, tôi lấy làm
lạ, vội giơ tay bịt lỗ tai rồi buột miệng:
– Ủa! 122ly?
Kinh nghiệm cho tôi biết, xưa nay địch
chưa bao giờ dùng hỏa tiễn 122ly hay 107ly để đánh phá các mục
tiêu có diện tích hẹp như các tiền đồn hay căn cứ hỏa lực.
Vậy mà giờ này, trước mắt tôi đúng là
122ly! Không sai!
Trái hỏa tiễn thứ nhất và thứ nhì đã
bay ngang qua đầu tôi, rồi rơi trong rừng cây hướng Nam.
“Xèo! Oành!”
Trái thứ ba rơi ngắn hơn, nên cắm trên
mặt Tỉnh lộ 344, tóe lửa, khiến cho đất, đá bay rào rào!
Một mảnh hỏa tiễn chém đứt lìa cái cột
chính của Câu Lạc Bộ, làm cho mái tranh sụm xuống.
Kế đó, cách tôi chừng 2 thước, Binh nhì
Ðức Xì Ke đang ôm ngực, đầu chúi về phía trước rồi nằm giãy đành
đạch trên mặt lộ.
– Thiếu tá ơi! Thiếu tá ơi...
Tôi chưa nghe trọn tiếng kêu từ miệng
thằng em thì nó đã chết rồi!
Binh nhì Ðức Xì Ke là một tân binh vừa
hết bệnh nghiền sau 1 tuần nằm trong chuồng cọp. Hết bệnh chích
choác, Ðức Xì Ke được tôi cho về tiểu đội cận vệ trám chỗ của
thằng Thon chết trận Ðạo Trung. Vậy mà chưa được bao lâu, thằng
Ðức Xì Ke đã sớm đi theo thằng Thon...
Lúc này từ khu gia binh bỗng có nhiều
tiếng trẻ con đua nhau khóc ré lên thật thảm thiết. Tôi vội chạy
lại coi có gì xảy ra không thì 1 chị vợ lính chui ra đường nắm áo
tôi khiếu nại:
– Thiếu tá ơi! Hầm trú của tụi em bị
mấy người Thượng chiếm chỗ rồi! Tụi em và mấy cháu không biết
chạy đi đâu mà núp pháo kích!
Tôi hỏi:
– Có ai bị thương không?
– Dạ không!
Tôi thở ra, rồi la lớn:
– Thôi! Nếu hầm trú ẩn đã bị dân chúng
chiếm, thì tất cả mọi người chỉ còn cách nằm úp mặt xuống sát đất
tránh pháo. Chắc cũng không lâu nữa thì yên! Ráng chịu đựng đêm
nay, mai tôi sẽ xin trực thăng chở gia đình các chị và các cháu
ra Gia Nghĩa.
Lúc này pháo của địch vẫn tiếp tục rơi trên đồi chỉ huy, nhưng
không thấy thêm trái 122ly nào cả.
Sáng nay tôi không cho lệnh phản pháo
tức thời như vẫn làm thường lệ khi bị địch pháo kích. Tôi cùng
toán hộ tống chạy thẳng lên đỉnh ngọn đồi hướng Tây do Ðại Ðội
2/82 trấn giữ. Từ đây tôi có thể chấm chính xác 3 vị trí cối 82ly
và nơi phụt khói 75ly của địch. Tôi cho trung đội Pháo Binh Biên
Phòng đang ở với tôi và Pháo Binh Diện Ðịa Nhơn Cơ 10 phút để lột
vỏ 400 quả đạn và chuẩn bị yếu tố tác xạ trên 4 vị trí tôi đã
chấm.
Ðại Ðội
2/82 được lệnh di chuyển tiến đánh 2 khẩu cối 82ly đặt gần, ngay
sau lưng 1 ngọn đồi trọc hướng Tây.
Ðại Ðội 2/82 đang thiếu đại đội trưởng.
Trước Tết Dương Lịch, Ðại đội trưởng Ðại Ðội 2/82 là Trung úy Võ
Hữu Danh, khóa 25 Võ Bị, khai bệnh sốt rét, phải đi nằm nhà
thương, nên Ðại Ðội 2/82 tạm thời do Chuẩn úy Gấm cầm đầu.
Trung úy Trần Văn Ðăng, Sĩ quan Tiếp
liệu của tiểu đoàn xin tôi cho anh chỉ huy Ðại Ðội 2/82 trong lần
ra quân này.
Tôi ái ngại:
–
Chú nghĩ sao mà xin đi đánh cú này?
Ðăng nghẹn ngào:
– Vợ con em ở hậu cứ. Hậu cứ mất rồi.
Em còn gì đâu? Thiếu tá cho em trở lại đại đội cho quên chuyện
gia đình.
Tôi
tần ngần:
– Ừ!
Cậu đã muốn thế thì tôi cũng okay! Thôi đi đi!
Tôi đứng trên đồi nhìn theo bóng dáng
cao gầy của Ðăng đang lẫn vào rặng cây xanh.
Hồi 1969–1970, khi tôi còn làm Ban 2 và
Trinh Sát Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân thì Chuẩn úy Trần Văn Ðăng
là Trung đội trưởng ở Tiểu Ðoàn 22 Biệt Ðộng Quân dưới quyền 1
anh bạn cùng khóa của tôi.
Khi tôi nhận chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân thì Ðăng đang là Trung úy Ðại đội trưởng
của Tiểu Ðoàn 22 Biệt Ðộng Quân. Ngày đó anh có gặp và xin tôi
nhận anh về làm việc với tôi, tôi từ chối vì đơn vị tôi đã đủ sĩ
quan đại đội trưởng.
Sau đó Trung úy Ðăng bị thương, đứt 1
khúc ruột, chờ ra Hội đồng Y khoa để chuyển sang bộ binh, làm
Thương Binh Loại 2 Yểm trợ.
Ðăng lại gặp tôi và tình nguyện làm sĩ
quan tiếp liệu tiểu đoàn cho tôi để anh còn được tiếp tục ở lại
phục vụ binh chủng Biệt Ðộng Quân. Lần này tôi chấp thuận.
Ðăng xin xuất viện về làm việc dưới
quyền tôi đã được gần 1 năm.
Khi cánh quân của Ðại Ðội 2/82 báo cáo
còn cách mục tiêu gần 200 mét thì tôi cho lệnh pháo binh khai
hỏa. Ðạn đi! Mỗi mục tiêu 100 quả hỗn tạp.
Và chỉ 5 phút sau khi đạn rơi, tiếng
M16 nổ rộ như pháo ran, chêm vào là những tiếng M79. Khói súng và
bụi che mờ một nửa ngọn đồi.
Thoáng chốc, 2 khẩu cối 82ly đã đổi
chủ, từ Trung Ðoàn E271/T10 của Quân Khu 6/Cộng Sản Bắc Việt sang
Ðại Ðội 2/Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân/Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Tôi chợt nghe AK và đại liên nổ rền
trong thung lũng.
Tôi hỏi Ðăng:
– Ê! Delta! ngoài tiếng AK còn tiếng
đại liên. Ðại liên của cậu hay của địch vậy?
(Danh hiệu truyền tin của Trung úy Ðăng
là Delta).
–
Của tụi nó đó Thái Sơn! Em đâu có đem theo M60!
Tôi cho lệnh Ðại Ðội 2/82 rút lui:
– Delta, đây Thái Sơn! Cuốn gói! Ðừng
về đường cũ! Hãy theo hướng ba ngàn hai trăm! Tôi với thằng An
Bình đón cậu trên đường. Tôi lặp lại, ba ngàn hai trăm! Nghe rõ
chưa?
– Ba
ngàn hai! Nhận 5!
Nếu trở về đường cũ thì Ðại Ðội 2/82 sẽ
phải qua một cái thung lũng, và 2 khẩu đại liên địch không để cho
họ dễ dàng rút về an toàn trên đoạn đường gần 2 cây số rừng lau.
Ðại liên địch cứ nổ giòn, đạn lửa đan
chéo nhau trong thung lũng. Tôi nghĩ địch bắn hoảng, bắn tiều,
chứ chúng chẳng rõ Biệt Ðộng Quân đang ở chỗ nào!
Tôi chấm vị trí 2 khẩu đại liên địch và
giao cho Ðại úy Ngũ Văn Hoàn, Tiểu đoàn phó. Ông Hoàn và Thượng
sĩ Năng, trưởng khẩu 81ly sẽ rót cối vào đầu chúng!
Từ hướng Bắc, đạn đại bác 105ly địch
lại rơi tới tấp trên đồi chỉ huy của tiểu đoàn.
Với đại bác 105ly thì vô phương! 105ly
của khối Cộng đã bắn dài hơn 105ly của ta, mà súng của ta lại đặt
sau hậu quân. 2 khẩu đại bác 155ly của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh tăng
cường cho tôi đã bị Tiểu Khu Quảng Ðức đòi lại từ 2 tuần lễ
trước.
Hiện
thời, không súng nào của tôi với tới được vị trí súng của chúng.
Thôi! Cứ để cho nó tác oai tác quái,
chưa hề hấn gì!
Nửa giờ sau tôi và An Bình (An Bình là
danh xưng của Trung úy Trần Văn Phước) cùng 1 trung đội thuộc Ðại
Ðội 3/82 tiếp xúc được cánh quân đầu của Trung úy Ðăng. Ðại Ðội 2
đã hoàn tất nhiệm vụ mà không bị tổn thất nào. Thẩm quyền Delta
là một trong những người đi đoạn hậu của Ðại Ðội 2/82.
Tôi thấy Trung úy Ðăng vừa thở, vừa
cười hì hì khi leo lên mặt Quốc lộ 14.
Vừa gặp mặt tôi Ðăng đã oang oang:
– Có ngay 2 khẩu 82ly cho Thái Sơn đây!
Sau lưng Trung úy Ðăng là 2 anh lính
Thượng đang hì hục vác 2 cái nòng súng cối 82ly. 2 ông lính Jarai
hớn hở khoe:
–
Cái ông Thiếu tá ơi! Tụi Việt Cộng này đánh nhau dở lắm! Chưa chi
đã bỏ súng mà chạy! Dở hơn mấy thằng đánh nhau với mình ở Trà Ku
nhiều!
Tôi
cười:
– Mấy
hôm nữa tụi mình lại về Trà Ku. Mấy chú có nhớ Trà Ku không?
Người dân tộc Jarai gọi Pleiku là Trà
Ku.
Tôi ở
Pleiku lâu rồi, tuy không nói được tiếng Jarai nhưng nghe biết
nhiều tiếng thường dùng của họ.
Khi nhắc tới Trà Ku, không ai cố ý khơi
chuyện buồn. Nhưng bỗng nhiên thầy trò chúng tôi cùng ngước nhìn
nhau, rồi cùng nhìn về phương Bắc, rưng rưng...
Hướng Nhơn Cơ có chạm súng, vì ở cuối
gió nên tôi nghe rõ tiếng đạn đại liên, đạn đại bác, và đạn súng
cối nổ đì đùng.
Trên máy truyền tin có giọng Thiếu tá
Khánh, Chi khu trưởng Chi khu Nhơn Cơ và Thiếu tá Mẫn, Tiểu Ðoàn
Trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân gọi nhau. Thiếu tá Mẫn báo cáo
với bộ chỉ huy liên đoàn rằng Cộng Quân đang tấn công vào khu
xưởng cưa cách quận đường Nhơn Cơ 200 mét về hướng Ðông.
2 khẩu đại bác 105ly Biên phòng của tôi
phải trở ngược nòng về hướng Ðông, yểm trợ cho Thiếu tá Mẫn suốt
đêm.
Sáng hôm
sau có nhiều phi tuần A37 đánh tiếp cận cho quận Nhơn Cơ.
Cuộc giao tranh có vẻ kéo dài cầm chừng
cho tới trưa 19 tháng 3.
Trong khi đó thì tình hình vùng tôi
chịu trách nhiệm cũng có nhiều chỉ dấu đang biến chuyển. Nửa đêm
về sáng chúng tôi thấy nhiều đốm lửa di động vùng Nam Kiến Ðức,
có cả tiếng động cơ.
Những toán chống tank đã được gởi đi
nằm phục trong rừng.
Ở đây, tôi không ngán tank Việt Cộng
một chút nào, vì tôi đã trấn giữ cái đồn này gần nửa năm.
Tôi đã nghiên cứu, thám sát và nắm chắc
địa hình vùng này.
Chỉ có 2 hướng xe tank có thể áp sát
đồn Kiến Ðức. Cả 2 ngả đều có bãi mìn chống tank của tôi. Mỗi bãi
chôn 40 quả mìn đĩa. Mỗi quả mìn đĩa được kèm theo một đầu đạn
105ly.
Quan
trọng nhất là việc bảo vệ bãi mìn. Bãi mìn không người bảo vệ coi
như vứt đi, vô dụng.
Kinh nghiệm trong quá khứ, tháng 8 năm
1973 khi nhảy toán Biên Vụ (Viễn Thám) vùng Ðông căn cứ Plei
Djereng tôi đã thấy xe tank địch chạy phoong phoong trên bãi mìn
của Quân Ðoàn II đặt gần Plei De Chi hướng Tây Pleiku mà chẳng
nghe mìn nổ. Công Binh của Quân Ðoàn II đã bỏ công sức hàng tháng
trời để thiết lập bãi mìn chống tank này. Vậy mà sau đó nó bị bỏ
thí, không người canh gác.
Công Binh Việt Cộng chỉ cần 2 hàng
bangalore là mở được một hành lang rộng cho tank đi qua.
Ở Kiến Ðức, mỗi bãi mìn chống tank của
tôi, khi hữu sự, được bảo vệ bằng 1 đại đội Biệt Ðộng Quân. Ðại
đội này không có nhiệm vụ đánh tank mà đánh những tên cán binh
Cộng sản đi dò, dọn đường cho tank.
Sáng 20 tháng 3 năm 1975, Trung tá Liên
đoàn trưởng ra lệnh cho tôi bứt những cái chốt của Việt Cộng trên
Tỉnh lộ 344 để link–up (bắt tay) với 1 đại đội thuộc Tiểu Ðoàn 63
Biệt Ðộng Quân của Thiếu tá Trần Ðình Ðàng. Ðại đội này đang trấn
giữ một ngọn đồi bên cái cống xi măng trên tỉnh lộ.
Tôi thu Ðại Ðội 4/82 của Thiếu úy Phạm
Văn Thủy từ hướng Bắc về hợp lực với 1 đại đội của Tiểu Ðoàn 63
Biệt Ðộng Quân tăng phái để giữ đồn Kiến Ðức. Ðại Ðội 4/82 giữ
đồi Tây, Ðại Ðội của Tiểu Ðoàn 63 phòng thủ ngọn đồi chính và
chốt giữ cầu Dak Blao.
Tôi dặn dò Ðại úy Tiểu đoàn phó về sự
quan trọng của 2 bãi mìn chống tank. Bất cứ giá nào cũng phải
giữ. Vì nếu tôi đang đánh nhau ở phía trước, mà bị tank địch tập
kích từ đằng sau thì không tài nào trở tay.
Ðại úy Hoàn chần chừ một lúc rồi gãi
đầu xin tôi cho đi nhổ chốt:
– Thái Sơn cho tôi đi khai thông con
đường có được không?
Quả thực, từ xưa tới nay, từ đại đội
tới tiểu đoàn, tôi chưa bao giờ sử dụng người phụ tá của mình làm
nỗ lực chính bao giờ.
Nhiệm vụ của những ông phó cho tôi là
yểm trợ cho tôi, và sẵn sàng thay thế tôi, nếu tôi nằm xuống.
Ðại úy Ngũ Văn Hoàn đã phục vụ dưới
quyền tôi gần nửa năm. Ông chỉ thuần túy làm công việc yểm trợ
chứ không bị tôi đưa lên tuyến đầu lần nào.
Thấy tôi ngần ngừ, ông ta nài nỉ:
– Giữ đồn nặng hơn bứt chốt. Thái Sơn
cho tôi đi bứt chốt đi!
Nghe ông Hoàn nói có lý, tôi gọi 2 đại
đội trưởng trách nhiệm nhổ chốt là Trung úy Phước (ÐÐ 3/82) và
Trung úy Ðăng (ÐÐ2/82) lên dặn dò, chỉ bảo họ đường đi, nước
bước, cách đánh nào thích hợp nhứt trong tình huống này.
Bộ chỉ huy nhẹ Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng
Quân của Hoàng Long cùng 2 đại đội tác chiến lên đường lúc 10 giờ
sáng ngày 20 tháng 3. (Hoàng Long là danh hiệu truyền tin của Đại
úy Ngũ Văn Hoàn).
Trong khi tôi đang theo dõi diễn tiến
hành binh của Ðại úy Hoàn thì tổ báo động hướng Bù Binh báo cáo
có tiếng xe tank địch.
Ðể tiện quan sát, tôi cùng toán hộ tống
leo lên đỉnh đồi Tây, nơi Thiếu úy Phạm Văn Thủy (ÐÐT/ÐÐ 4/82)
trấn giữ.
Từ
đỉnh đồi, tôi có thể quan sát tới khúc quanh nơi cái cống sập
cách Kiến Ðức gần 2 cây số về hướng Nam.
Khẩu SKZ 57ly của tiểu đoàn lúc nào
cũng sẵn sàng trên đỉnh đồi Tây. Ống nhắm của khẩu súng đã điều
chỉnh chính xác ngay cái cống sập. Nếu SKZ bắn hụt thì tổ chống
tank núp sẵn trên triền đồi sẽ làm nhiệm vụ tiếp tay.
Khi thằng Thọ (B2 Thọ nấu cơm) trao ly
cà phê cho tôi vừa trở gót xuống đồi thì tiếng 12.7ly nổ rền
hướng Nhơn Cơ.
Lúc đó là giữa trưa. Máy truyền tin các
cánh quân của Ðại úy Tiểu đoàn phó gọi nhau cuống quýt.
Tôi nghe Delta và An Bình báo cáo đang
chạm địch nặng. Delta đang bị đại liên địch dồn xuống khe suối
bên trái đường lộ.
Delta yêu cầu An Bình giữ an ninh bên
phải giùm anh ta để anh ta rút về con dốc đầu chữ “S”.
Tôi không nghe tiếng Hoàng Long trên
máy.
Tôi vào
máy hỏi Delta và An Bình sao không nghe Hoàng Long, thì 2 anh đều
không rõ ông Ðại úy Tiểu đoàn phó ở chỗ nào.
Tình hình có vẻ nghiêm trọng. Tôi giao
cho Thiếu úy Thủy lo vụ chống tank rồi tụt xuống đồi.
Nhảy lên chiếc xe Jeep, tôi phóng nhanh
tới cái nút chặn hướng Ðông của Ðại Ðội 1/82. Từ đây tôi và toán
cận vệ chạy bộ lên chỗ Ðại Ðội 3/82 và Ðại Ðội 2/82 đang chạm
địch.
Quân của
Trung úy Phước (ÐÐ 3/82) đang nằm trong rừng, bên phải lộ. Phước
chiếm được ngọn đồi cao, nằm dài theo hướng Ðông Tây.
Còn Trung úy Ðăng ở bên trái con đường.
Ðại liên Việt Cộng từ 2 hướng Nam Bắc con lộ đang bắn tới tấp vào
bên trái dốc chữ “S” nơi đơn vị của Trung úy Ðăng bị sa lầy.
Ðại đội của Trung úy Ðăng đang kẹt
trong rừng khọt (cây dầu rái) lơ lửng giữa con suối và con đường.
Tôi cho pháo binh và cối 81ly bắn cản
trước mặt đại đội của Trung úy Ðăng để đơn vị của anh bò từ từ
lên cao, bắt tay với Ðại Ðội 3/82.
Khi Ðại Ðội 2/82 bắt tay được Ðại Ðội
3/82, tôi ra lệnh cho 2 đại đội quây tròn trên đỉnh đồi bên phải
tỉnh lộ.
Tôi
sử dụng pháo từ Kiến Ðức bắn ngay mặt lộ để ngăn địch truy kích.
Nhưng tiếng súng của địch đã êm. Như thế là chúng không chủ tâm
giao chiến, hoặc chúng chưa có lệnh giao chiến với Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân.
Chỉ nhìn thoáng qua trận địa, tôi đã
hiểu ngay chủ đích của địch là nhử quân ta tiến sát khu chữ “S”
rồi chúng dùng 2 khẩu 12.7ly kềm chân quân ta. Sau đó bộ binh
địch bao vây chia cắt hậu quân của ta.
Bao vây chia cắt là chiến thuật cổ
điển, nhưng rất hữu hiệu khi chặn đánh 1 đoàn quân đang khai lộ.
Trung úy Ðăng báo cáo với tôi rằng khi
đơn vị anh còn cách cái xác của Thượng sĩ Ngon chừng 100 thước
thì đại liên địch khai hỏa. Ðại úy Tiểu đoàn phó hăng hái xông
lên với trung đội đi đầu của Ðại Ðội 2/82.
Ông Hoàn nói với Ðăng:
– Kỳ này mình lấy cây 12.7ly về cho
Thái Sơn giải buồn!
Nhưng chỉ 5 phút sau, từ con suối bên
trái trục tiến quân, địch vừa bắn vừa ào ạt xung phong lên cắt
đơn vị anh thành 3 phần. Chuẩn úy Nguyễn Hữu Ðức và trung đội đi
đầu của Ðại Ðội 2/82 bị mất liên lạc; ông tiểu đoàn phó đã đi
theo đoàn quân của ông chuẩn úy này.
Xế trưa, tôi cho quân cuốn chiếu, rút
lui từ từ về hướng Kiến Ðức.
Chiều đó chúng tôi bắt tay được tiếp
điểm Ðông của Ðại Ðội 1/82.
Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày tôi nghe
tiếng Hoàng Long trong tần số nội bộ của Delta. Ông tiểu đoàn phó
nói rất nhỏ, có lẽ ông ta đang bị địch bám sát.
– Tôi đi với đứa con đầu của thằng
Delta. Tôi bị đánh bọc hậu mất liên lạc với đằng sau. Hiện tôi ở
trên triền một ngọn đồi hướng Bắc con đường, nhưng không xác định
được tọa độ. Chúng nó (Việt Cộng) đang đuổi theo tôi.
– Rồi! Bình tĩnh! Anh còn bao nhiêu
người cho tôi biết đi!
– Tôi còn 60 người!
– 60 thì đủ mạnh để đánh mở đường về
với tôi rồi. Cứ hướng bốn nghìn tám trăm mà phóng đi! Càng nhanh
càng tốt! Giữ liên lạc với tôi!
Có tiếng bấm ống nghe “xẹt! xẹt!” rồi
tiếng Hoàng Long thì thào:
– Thái Sơn ơi! Tôi còn có 6 người thôi!
Tôi ngụy thoại thành 60 đó (!) Tôi với 5 thằng lính của Delta là
6. Tụi tôi bị chúng nó (Việt Cộng) cắt ngang từ phút đầu. Cái máy
truyền tin này là của trung đội đầu của thằng 2!
Thực là dở khóc, dở cười. Tuy vậy tôi
cũng an tâm là ông Hoàn vẫn còn sống. Tôi ôn tồn:
– Thôi được rồi! Bây giờ làm theo tôi
chỉ. Ði thẳng hướng sáu nghìn tư cho tới con suối hướng Bắc ngọn
đồi anh đang đứng. Sau đó quẹo trái, ngược dòng con suối, đi riết
về hướng Tây. Hết suối là về tới chỗ tôi. Làm ngay đi!
– Tôi nghe 5! Thái Sơn nhớ báo cho tụi
thằng Hồng Hà (Thiếu úy Học) tránh ngộ nhận tôi đó nhe!
– Ừ! Thôi! Lẹ lên!
Từ đồn Kiến Ðức, Thiếu úy Thủy báo cáo
rằng, nơi cái cống sập, chiếc tank từ hướng Bù Binh bò lên đã
hiện nguyên hình là cái máy cày cài cành lá ngụy trang. 3 tên cán
binh Việt Cộng trên xe, đã vứt xe, nhảy xuống đường định chạy
thoát thân khi trái hỏa tiễn XM202 xé nát đầu chiếc máy cày.
2 băng M16 đốn ngã 3 tên giặc. 3 khẩu
AK 47 và 1 khẩu phòng không 12.7ly cháy theo chiếc xe tank dỏm.
Chiếc xe máy cày bị bắn cháy đã trở
thành chướng ngại vật cản trở xe tank nằm giữa đường Bù Binh,
Kiến Ðức.
Gần
tối hôm đó Ðại úy Tiểu đoàn phó và 5 người lính theo ông về tới
tiền đồn Bắc của Ðại Ðội 1/82.
Trước đó vài phút, trung đội của Chuẩn
úy Nguyễn Hữu Ðức chui ra khỏi rừng hướng Nam con lộ và liên lạc
được toán tiếp đón của Ðại Ðội 1/82.
Người mang máy PRC 25 cho Ðại úy Hoàn
có mặt trong trung đội của Chuẩn úy Ðức. Cái máy truyền tin của
ông tiểu đoàn phó đã bị bắn bể từ phút đầu tiên.
Tính tới 5 giờ chiều, Ðại Ðội 2/82 còn
thiếu 14 người.
Ðêm xuống, sương mù dày đặc, trăng
thượng tuần có cũng như không. Các tiền đồn không dám gài mìn bẫy
vì sợ quân bạn thất lạc trở về vướng bẫy.
Gần sáng, Trung tá Liên đoàn trưởng cho
lệnh tôi bỏ Kiến Ðức, tìm mọi cách rút về Nhơn Cơ.
Sáng 21 tháng 3 năm 1975, tôi chuẩn bị
đánh 1 trận nhổ chốt thần tốc.
Tôi xin pháo binh của tiểu khu 1 hỏa
tập thu gọn trong ô vuông mỗi chiều 1 cây số từ đầu tới cuối khúc
đường chữ “S”.
Pháo 105ly Nhơn Cơ bắn không ngừng từ
khi tôi xuất quân, và chỉ được phép chấm dứt khi tôi yêu cầu.
Về phần Trung Ðội Pháo Binh Biên Phòng
Biệt Ðộng Quân ở Kiến Ðức thì 500 quả đạn nổ 105ly được chất lên
xe. 2 khẩu đại bác được 2 toán Biệt Ðộng Quân đẩy bằng tay di
chuyển trên 2 bên bìa đường.
Tôi cho đại bác trực xạ ngay sát mép
rừng hướng trước mặt. Quả đạn sau nổ chỉ cách quả đạn trước 20
thước.
“Ðùng!
Ðoàng!” – “Ðùng! Ðoàng!” ra khỏi nòng 1–2, giây là đạn nổ.
Khẩu súng bên trái bắn vào rừng bên
phải; khẩu bên phải bắn vào rừng bên trái.
Sở dĩ phải bắn như thế vì bắn mục tiêu
ở bên lề đường đối diện dễ hơn bắn mục tiêu cùng phía với súng.
Cứ thế, “Ðùng! Ðoàng!” – “Ðùng! Ðoàng!”
2 họng đại bác thay nhau tiến lên, bắn liên tục.
Ðàng sau lưng tôi là khẩu 81ly của tiểu
đoàn và 4 khẩu 60ly của các đại đội.
Tôi cho cối 81ly bắn đạn thời nổ chậm
(delay) trong khi cối 60ly bắn đạn chạm nổ.
Tầm bắn di động từ gần ra xa dần theo
hướng tiến quân. Sau mỗi đợt pháo, tầm xa lại hạ xuống một vòng
tay quay.
Vòng
tay quay nằm bên phải nòng súng, dùng để điều chỉnh tầm xa của
điểm đạn sẽ rơi. Tầm đạn rơi gần nhất là khi nòng súng được đặt ở
độ dốc 90 độ so với mặt đất, và được bắn không có thuốc bồi, còn
gọi là thuốc bồi KHÔNG.
Ðặt nòng súng với góc 45 độ so với mặt
đất, và đuôi đạn được gắn 4 vỉ thuốc bồi thì đạn sẽ rơi trên mục
tiêu xa nhất.
Tiếng cối depart “kinh! kinh!” – “kinh! kinh!” liên hồi kỳ trận,
âm vang dội trong khe núi.
Ðạn cối nổ “ùm! ùm!” – “ùm! ùm!” Cây
cành gãy răng rắc.
Mưa đạn cối đang rơi 2 bên đoạn đường
ngắn ngủi hơn 1 cây số rừng rậm.
Thêm vào đấy là tiếng đại liên, trung
liên, M79, lựu đạn, và tiếng quân ta reo hò, la hét. Khói và bụi
cuồn cuộn trước mặt.
Biệt Ðộng Quân hàng ngang trong rừng,
song song với 2 khẩu đại bác ngoài đường.
Những người lính miệng hô “Biệt Ðộng!
Sát!” vừa bước tới, vừa bóp cò.
Quân đằng trước vừa hết đạn thì dừng
lại, thay băng đạn mới; quân đằng sau lên thay, tiếp tục vừa bắn
vừa tiến.
Người thì thay phiên nhau bắn, nhưng đạn không ngừng nổ rền trời.
Theo thế sâu đo, Biệt Ðộng Quân tiến ào
ào, khí thế như nước vỡ bờ.
Ðây là 1 trận đánh chớp nhoáng nhưng
lại rất thảnh thơi, thoải mái, lớp lang.
Mỗi cánh quân hai bên đường có 6 toán
an ninh cạnh sườn. 6 toán trang bị mìn Claymore và M79 bắn đạn
chài, đạn nổ, làm nhiệm vụ chống bao vây chia cắt. Gặp đường mòn,
triền dốc, những toán này dừng lại gài mìn bố trí chờ.
Ra quân lần này tôi đã tận dụng tất cả
hỏa lực có trong tay đánh phủ đầu không cho địch kịp ngóc lên
thở. Khẩu 12.7ly của Việt Cộng bên hướng Nam con lộ chỉ bắn được
vài viên là câm họng.
Ðúng như tôi đã dự đoán. Khi quân của
tôi vừa chạm đỉnh dốc đầu chữ “S” nơi cái xác của Thượng sĩ Ngon
đang bốc mùi thì 2 khẩu phòng không Việt Cộng đặt trong khu mả
của dân Thượng bên trái đường khai hỏa.
Dưới khe bên trái lộ, mìn Claymore bắt
đầu nổ. 3 toán Biệt Ðộng Quân ngăn chặn lực lượng bao vây chia
cắt đã phát giác địch và cho mìn kích hỏa.
Những chuyên viên chiến thuật bao vây
chia cắt của Cộng Sản Bắc Việt đang gặp khắc tinh!
Hôm nay các mũi xung kích của địch chưa
kịp phóng viên B40 nào thì các xạ thủ đã bị bắn vỡ sọ. Tiếng rên
la đau đớn, tiếng quát tháo chửi bới lẫn nhau om sòm dưới khe
suối bên trái con lộ. Tiếng Bắc xen Nghệ Tĩnh.
Lúc này đạn M79 của ta bắt đầu tới tấp
câu xuống khe.
Tôi đang chỉnh đạn 105ly của Chi Khu
Nhơn Cơ rơi trên trục nghi ngờ có khẩu phòng không di động của
địch thì trong tần số hỏa yểm nghe có tiếng người gọi tôi từ trên
trời:
– Thái
Sơn cho mục tiêu, tôi phụ một tay! Bắc Bình mới xin tôi lên làm
việc với Thiếu tá đây!
Bắc Bình là ông Thiếu tá Trần Văn Bường
(K18 VB), Tham mưu phó hành quân của Tiểu Khu Quảng Ðức.
Tiếng nói trong máy hỏa yểm là tiếng
nói quen thuộc của 1 hoa tiêu máy bay L19 mà trong nửa năm hành
quân ở đây, tôi đã nhiều lần ngồi ghế sau anh ta, bay bao vùng
khu vực Nhơn Cơ, Kiến Ðức. Tôi và anh phi công này đã nhiều lần
đánh phối hợp rất ăn khớp và tương đắc.
Tôi hướng dẫn để anh phi công quan sát
cái nghĩa địa Thượng nơi ngã ba đường xe be. Tôi nhờ anh triệt hạ
giùm 2 khẩu phòng không di động đang trụ ở điểm này.
Tôi sơ lược tình hình bạn địch cho anh
ta rõ. Hướng đề nghị cho máy bay oanh tạc ra vào là Nam Bắc, vì
quân tôi tiến theo trục Tây Ðông.
Chiếc thám thính cơ L19 đảo sát ngọn
cây 1 vòng. Khẩu phòng không đổi góc bắn lên trời, đuổi theo đuôi
chiếc L19.
–
Okay! Tôi thấy rồi! 1 cái xe bò cài lá ngụy trang có khẩu phòng
không. Tôi chơi ngay!
Một trái khói phụt xuống sát bên khu Mả
Thượng.
– Ðược
chưa? Thái Sơn!
– Ðược rồi! Cứ từ đó dài về hướng 360
độ là địch, đánh tự do!
Sau câu trả lời “Okay! Do!” chiếc quan
sát cơ bay tránh sang hướng Ðông.
Tôi che mắt tìm những chiếc máy bay
oanh tạc.
Trời
trong xanh. Có 2 chiếc A37 đang lượn rất cao. 2 chiếc tàu lấp
lánh trong nắng. 2 chiếc tàu nhỏ tí ti. Có tiếng “rè rè!” phát đi
từ A37, hay L19:
– Bom đi! Pass số 1! Chỉnh!
Tôi trả lời:
– Nhận!
Tôi đã trả lời “Nhận!” nhưng tôi phải
che mắt để quan sát xem bom tới từ hướng nào.
Ðời tôi đã có hàng trăm lần được Không
quân Mỹ, Việt yểm trợ tiếp cận. Ðây là lần đầu tiên tôi thấy máy
bay yểm trợ cho tôi đã thả bom ở tầm cao quá sức là cao! Có lẽ
bom được thả từ trên cao độ 10 ngàn bộ (feet) có dư!
Mắt tôi thấy 1 chấm đen từ trên thăm
thẳm hướng Ðông đang bay về phía mình. Chấm đen tới gần, nó vẫn
giữ hình thù 1 cái chấm.
Bom tới sát lắm rồi, mà vẫn chỉ là cái
chấm!
Thôi bỏ
mẹ! Bom bay mà chỉ thấy một cái chấm, không thấy chiều dài của nó
tức là nó đang nhắm vào đầu mình rồi!
Tôi la thất thanh:
– Nằm xuống! Nằm xuống!
Vừa xô thằng Bích xuống cái rãnh khô
bên đường, tôi vừa nói với các ông phi công:
– Sáng nay các anh đã giết 1 Tiểu đoàn
trưởng Biệt Ðộng Quân rồi đó! Các anh ơi!
Tôi chỉ kịp nằm úp mặt trên đường nhựa
thì quả bom đã chạm đất.
“Ầm!” Bụi, đất, sỏi, đá, cây cối bay
tung, phủ trùm 1 vùng.
Quả bom rơi cách tôi và khẩu đại bác đi
đầu chừng chục mét. Nó rơi ngay trên cạnh Bắc của con đường, sát
bờ suối, đàng sau 1 mô đất.
Mô đất cao hơn đầu người và cây cối mọc
trên đó đã bị sức công phá của quả bom dọn sạch ngay sau tiếng
“Ầm!” vừa rồi.
Chưa rõ tổn thất quân bạn ra sao, chưa
rõ chính tôi có bị thương hay không, tôi quơ cái máy truyền tin:
“Check Air! Check Air!”
Tôi nghe anh phi công L19 đang cự nự
anh phi công A37:
– Ð.M! Toa làm ăn như con c...!
Rồi anh hỏi tôi:
– Sorry! Sorry! Thái Sơn có sao không?
– Cám ơn anh! Thôi! Cho họ về đi! Tôi
không cần họ nữa!
Tôi ném cái ống nghe của máy Không Lục
xuống đường.
Ðoàn người mình mẩy đầy đất cát lồm cồm đứng dậy. Không kịp phủi
bụi trên đầu tóc, họ tiếp tục chuyển đạn, nạp đạn, giựt cò.
“Ðùng! Ðoàng!” – “Ðùng! Ðoàng!”
Chỉ 1 khẩu đại bác bên trái đường còn
nguyên vẹn. Khẩu súng bên phải đường bị mảnh bom đánh xẹp bánh.
Có 1 người chết vì quả bom là Binh nhứt
Ðức Ðiếc. Ðức Ðiếc bị vỡ sọ. Xác của Ðức Ðiếc được kéo sang lề
đường để tạm trên cỏ.
“Ðùng! Ðoàng!” – “Ðùng! Ðoàng!”
“Tiếp tục!” – “Còn 1 khẩu, ta chơi theo
1 khẩu! Tiến lên đi! Anh em ơi! Biệt Ðộng! Sát!”
Toán viễn thám của Hạ sĩ Mom Sol và
toán viễn thám của Hạ sĩ Nguyễn Tuấn được gom lại thành 1 đội
xung kích. Họ vượt suối, băng ngược lộ trình rút lui của ông tiểu
đoàn phó ngày hôm qua.
Khi tới điểm hẹn, Hạ sĩ Mom Sol xin tôi
ngừng tác xạ pháo binh trên khu Mả Thượng để 2 toán viễn thám
tiến sát địch.
Thỏa mãn yêu cầu của Mom Sol, tôi cho
pháo binh tạm ngừng.
Tới khi Mom Sol đã sẵn sàng tại vị trí,
tôi cầm ống liên hợp gọi Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn
trưởng để xin tiếp tục yểm trợ thì nghe đầu máy bên kia có tiếng
1 người lạ, người này nói giọng Bắc:
– Anh hãy báo cáo mục tiêu cho tôi một
cách thật chi tiết, tôi sẽ cứu xét đơn xin hỏa yểm cho anh!
Quả thực từ ngày đi lính tới giờ này,
tôi đã từng gọi máy xin pháo yểm cả trăm lần, chưa lần nào tôi
nghe ai đó làm khó dễ như cái giọng nói lạ hoắc kia.
Tôi la lên:
– Tôi đang đụng địch rất nặng, yêu cầu
yểm trợ ngay! Tôi không có thì giờ để giải thích dài dòng! Yêu
cầu thoả mãn 20 tràng đạn hỗn tạp trên mục tiêu! Nghe rõ chưa?
Có tiếng lè nhè đáp lại:
– Anh cãi lệnh tôi hả? Nếu anh không
báo cáo cho tôi rõ tình hình địch, tôi sẽ cúp pháo binh! Không
cho anh 1 viên đạn nào nữa!
Tôi nổi cơn điên:
– Ð! Mẹ mày! Mày là thằng nào? Mày cứ
cúp pháo binh đi! Tao mà thoát chết trận này thì mày sẽ biết tay
tao! Tao sẽ bắn nát óc mày!
Ðầu máy bên kia đột ngột tắt tín hiệu.
1 giây kế đó là tiếng ông Liên đoàn trưởng:
– Thái Sơn, đây 207! Người vừa nói
chuyện với chú là ông phó của anh. Ông ấy mới tới đơn vị, nên
chưa biết chú. Thôi! Bỏ qua đi! Pháo binh đã bắt đầu bắn lại rồi
đó!
207 là
danh hiệu truyền tin của Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn
trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân).
Không lâu sau đó thì đạn đại bác từ
Nhơn Cơ lại theo nhau xé gió, rơi trên khu Mả Thượng. Hết 20
tràng pháo yểm, tôi ra lệnh:
– 821! 825! Ðây Thái Sơn! Lên đi!
Rồi tôi nghe M72 nổ. Tiếp đến là M16.
Sau cùng là lựu đạn.
Bẵng đi một lúc, có tiếng Mom Sol reo
trong máy:
–
Báo cáo Thái Sơn xong rồi! 2 cây phòng không. 1 trên xe bò, 1
trên gò mả. Tụi tui chờ Thái Sơn nơi ngã ba.
Ðoạn giữa cái eo chữ “S” là nơi địch
đắp mô. Lá cờ nửa xanh nửa đỏ, sao vàng của Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam đã rách tả tơi nhưng còn bay phần phật bên lộ.
Ðại Ðội 1/82 ào lên. Ðạn của ta réo như
mưa bão.
Từ
bìa rừng bên phải đường, 1 tên Việt Cộng, có lẽ là cấp chỉ huy,
nhảy ra giữa đường; tay nó giơ cao khẩu K54 bắn chỉ thiên:
“Các đồng chí! Giữ vững...”
Hắn chưa hô dứt câu thì, “Cành! Cành!
Cành! Ðùng! Ðùng! Ðùng!” thân hình hắn đã gập xuống; khẩu K54 rơi
trên mặt đường; đạn ghim kín người hắn.
Từ ven rừng phía Nam con lộ, nhiều cán
binh Việt Cộng phóng nhanh qua đường tìm cách nhào xuống suối.
Súng cứ nổ giòn giã, hiệu lệnh của cuộc
hành quân hôm nay là “Giết!”
Bất cứ cái gì nhúc nhích trước mặt đều
là mục tiêu!
“Giết!” Hôm nay chúng tôi xuất quân với tất cả lòng căm hờn.
Chúng tôi đã tiến tới cuối đoạn cua chữ
“S” hướng Ðông.
Ðại đội của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân
trấn giữ ngọn đồi trên tỉnh lộ gần con suối Bắc Nhơn Cơ thấy hỏa
lực của chúng tôi kinh khủng quá, họ sợ chúng tôi ngộ nhận, bắn
càn, nên vội vàng bỏ vị trí, rút về bên kia suối.
Tiếng súng tạm yên thì 2 cánh quân 2
bên đường được lệnh bung sâu vào rừng kiểm soát an ninh 2 hông
phải và trái chiến địa.
Chúng tôi hoàn tất cuộc nhổ chốt trong
vòng chưa đầy 2 giờ đồng hồ.
Ngay sau khi con đường được khai thông,
tôi ra lệnh cho tiểu đội cận vệ trở lại Kiến Ðức hộ tống số dân
Thượng tị nạn và gia đình binh sĩ di chuyển về quận Nhơn Cơ chờ
xe.
Tổng kết
trận này, quân bạn có 6 chết, 1 mất tích, 13 bị thương vừa nặng,
vừa nhẹ.
Con
số địch bị giết vào khoảng trên dưới 100. Vũ khí chúng tôi tịch
thu được hôm đó có lẽ nhiều hơn số địch bị giết.
Ông Ðại úy Trần Dân Chủ, Trưởng Ban 3
Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân ra lệnh cho Chuẩn úy Lê Văn Phước, Sĩ
quan Ban 3 của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân phải gửi gấp cho ông
ta 1 bản tổng kết số nhân mạng địch bị giết và số chiến lợi phẩm
tịch thu được.
Sự hứa hẹn khen thưởng vì chiến công
không hấp dẫn chúng tôi trong lúc này.
Ban Mê Thuột đã rơi vào tay giặc. Lon
lá, huy chương, những lời ủy lạo, những câu nói khích tướng của
thượng cấp đâu còn ý nghĩa gì đối với những con người đã mất tất
cả như chúng tôi hiện nay!
Tôi nói với chú Phước hãy trả lời phiên
phiến cho qua, việc cần yếu hiện thời là yêu cầu liên đoàn mau
mau cung cấp phương tiện chuyên chở thương binh cùng với số dân
chúng tị nạn và gia đình binh sĩ rời khỏi nơi đây càng nhanh càng
tốt.
Tôi vào
quận đường Nhơn Cơ và chỉ gặp Thiếu tá Khánh, Quận trưởng, không
thấy ông Thiếu tá Mẫn vì vừa nghe tôi báo cáo khai thông xong con
đường, liên đoàn đã cho Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân của Thiếu tá
Hoàng Ðình Mẫn rút về Gia Nghĩa.
Trung tá Liên đoàn trưởng cho lệnh tôi
vào đồn đóng quân chung với Ðịa Phương Quân của Thiếu tá Khánh và
đặt ông Khánh dưới sự chỉ huy của tôi.
Tôi không chịu đóng quân trong quận lỵ.
Tôi tin chắc rằng, sau khi 2 bãi mìn ở Kiến Ðức rơi vào tay Cộng
Quân thì chỉ cần 2 chiếc T54 là địch đủ sức san bằng cái đồn Nhơn
Cơ tí teo.
Ðồn
Nhơn Cơ chỉ có 1 cổng ra vào hướng tỉnh lộ từ Kiến Ðức về. Sau
lưng đồn, sát hàng rào là 1 cái đập nước rộng và sâu. Chui vào
đồn là chui vào rọ.
Ðại úy Tiểu đoàn phó Ngũ Văn Hoàn, được
lệnh gom quân đang giữ Kiến Ðức, cuốn chiếu qua mặt tôi, rồi leo
lên con dốc hướng Ðông của quận đường Nhơn Cơ.
Tôi giao cho ông Hoàn nhiệm vụ đốt cái
đồi Kiến Ðức trước lúc rút đi.
Chuẩn úy Bảo, 1 sĩ quan Trung đội
trưởng của Ðại Ðội 4/82 là người sau cùng rời Kiến Ðức.
Những quả mìn cơ động do Bảo gài lại
nơi điếm canh hướng Ðông của căn cứ là những cái bẫy sau cùng,
đón chờ những cán binh Trung Ðoàn 271/T10/CSBV khi họ vào tiếp
thu đồi Kiến Ðức.
2 đại đội tăng phái của Tiểu Ðoàn 63
Biệt Ðộng Quân đã theo tôi từ trước Tết Âm Lịch, giờ này được tôi
trả lại Gia Nghĩa cho Thiếu tá Trần Ðình Ðàng.
Khẩu đại bác 105ly bị bể bánh đã được
phục hồi. Cả 2 khẩu pháo binh biên phòng đều được kéo về nơi dự
trù đóng quân của ông Tiểu đoàn phó cùng Ðại Ðội 2/82 và Ðại Ðội
4/82, trên khu chứa gỗ trước xưởng cưa Nhơn Cơ cách tôi chừng 2
cây số về hướng Gia Nghĩa.
Trưa 21 tháng 3 tôi bố trí Bộ chỉ huy
tiểu đoàn và 2 Ðại Ðội 1/82 và 3/82 ngay ngã ba đường xe be, nơi
đầu khúc cua hướng Ðông của đoạn đường chữ “S”.
Chiều hôm ấy, cách Kiến Ðức hơn 4 cây
số, tôi nghe tiếng đạn cháy nổ “Ùm! Ùm! Lép! Bép!” vọng về. Ngọn
khói đen bốc lên cao dần.
Tôi đứng bên con đường nhựa, cạnh những
ngôi mộ mới. Bên lề tỉnh lộ này, chúng tôi đã chôn những người
bạn vừa chết hôm qua và hôm nay.
Lù lù giữa Tỉnh lộ 344 là 1 đống vũ khí
chiến lợi phẩm tịch thu được của địch.
Bên đường là một rờ–mọt (remorque) súng
dư dùng của ta.
1 núi súng ta, súng địch, gom lại, chỉ
cần 2 quả lựu đạn lân tinh là cháy tiêu hết!
Sương chiều dâng, rừng núi mờ dần, lòng
tôi tê dại, dửng dưng...
Sáng sớm 23 tháng 3 năm 1975, tiền đồn
hướng Tây báo cáo có tiếng hô “Xung phong!” trên đồi Kiến Ðức.
Pháo binh đã chuẩn bị yếu tố. 20 tràng
đạn bay đi để chào mừng những người chủ mới đến tiếp thu ngọn đồi
này.
Tiếp đó
là một tiếng “Ùm!” từ hướng Tây vọng lại. Như vậy là bãi mìn
chống tank đã nổ! Không rõ tank địch đã vô ý cán lên bãi mìn, hay
bangalore của Công Binh Cộng Sản Bắc Việt đã phá hủy nó?
Và cũng từ ngày này tôi bận tâm suy
nghĩ phải làm gì để đương đầu với xe tank địch trong những ngày
sắp tới!
Ngày
25 tháng 3 năm 1975, khoảng 9 giờ sáng tôi vào quận để thăm ông
Thiếu tá Khánh. Tôi không gặp được ông Khánh. Mấy ông lính Ðịa
Phương Quân cho tôi hay, từ mấy ngày trước, ông quận trưởng đã ra
Gia Nghĩa và ở lại ngoài đó không về.
Tôi đi ngang hầm truyền tin thì nghe
loa khuếch âm oang oang, tiếng Thiếu tá Khánh ra lệnh cho lực
lượng đồn trú:
“Các anh chuẩn bị bỏ đồn, rút về Tiểu
Khu. Nhớ vặn nhỏ volume kẻo ông Thiếu tá Biệt Ðộng Quân nghe được
thì rầy rà!”
Người chuẩn úy trực Chi Khu thấy tôi đứng trước hầm, anh ta luống
cuống phân bua:
– Trình Thiếu tá, không phải lỗi em!
Tôi xua tay:
– Ðừng ngại! Cứ thi hành lệnh đi! Tôi
sẽ gặp sếp của anh!
Tới hầm súng cối, tôi tần ngần nhìn
khẩu cối 4 chấm 2 (cối 4.2 tức cối 106ly), đạn còn nhiều quá!
Tôi gọi chiếc GMC của tiểu đoàn vào chở
khẩu súng này lên cho ông Ðại úy Hoàn. Thượng sĩ Năng là chuyên
viên bắn 106ly của tôi, khi chúng tôi còn ở Pleime.
Thượng sĩ Năng chắc phải vui lắm khi
nhận được khẩu cối này.
Trước khi Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân
Nhơn Cơ ra khỏi đồn, tôi nghe trong máy, tiếng Thiếu tá Trần Văn
Bường, Tham Mưu Phó của Tiểu Khu Quảng Ðức ra lệnh cho Sĩ quan
Pháo Binh Diện Ðịa đồn Nhơn Cơ bắn hết số đạn dự trữ tại ụ súng,
sau đó phá hủy tất cả súng đại bác 105ly của đơn vị này.
Tôi đứng quan sát những pháo thủ Nhơn
Cơ bắn cả ngàn quả đạn về hướng Kiến Ðức, trong đó có những viên
đạn phostpho.
Sau cùng, họ đã thả từng quả lựu đạn màu đỏ vào nòng súng, hủy
từng khẩu pháo.
Tôi nhìn cách phá súng của họ và học
lóm được cách tháo ống thủy điều cho chất nước đỏ chảy ra, nòng
súng thụt xuống không sử dụng được.
Chừng nửa giờ sau thì quận đường Nhơn
Cơ trống trơn.
Tôi cho lệnh đốt quận đường rồi giựt
mìn phá hủy cái cống bắc ngang suối Nhơn Cơ.
Sau đó tôi cho quân rút lên đỉnh dốc
giữa đường Nhơn Cơ, Gia Nghĩa.
Nửa tiểu đoàn quây quanh khu vườn rộng
sau cái miếu Thổ Ðịa nơi đầu dốc. 2 khẩu 105ly biên phòng hướng
về phía Tây sẵn sàng đạn chống tank.
Tôi lái xe ngược chiều về xưởng cưa
thăm vị trí của ông Hoàn.
Bỗng tai tôi nghe có tiếng động cơ từ
hướng Kiến Ðức vọng về.
Sợ xe tank của địch sẽ tiến tới tấn
công, tôi quyết định cho cánh quân của Ðại úy Tiểu đoàn phó rút
qua mặt Bộ chỉ huy tiểu đoàn rồi ngủ đêm bên bờ con sông hướng
Bắc trục lộ, cách tôi độ nửa cây số, hướng Gia Nghĩa.
Tôi xuống xe đi bộ cùng với ông Hoàn.
Khi đi ngang xóm nhà của Khu Dinh Ðiền
Nhơn Cơ, nơi Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân và địch đã giao chiến
suốt đêm 18 và sáng 19 tháng 3, chúng tôi nghe mấy người lính đi
bên trái báo có 1 thương binh bạn nằm bên lề đường.
1 Biệt Ðộng Quân mang phù hiệu Tiểu
Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân nằm trên bờ cỏ sát suối. Ruột gan anh đổ
trên mặt cát. Ðầu mặt, tay chân anh máu đã khô. Kiến lửa và ruồi
nhặng lúc nhúc bu trên người anh.
Người chiến sĩ Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng
Quân chỉ còn thoi thóp nhẹ.
Tôi lần tay vào cò khẩu súng Colt 45.
Tôi nghĩ tới viên đạn giải thoát cho bạn mình.
Tay tôi run run. Tôi không đủ can đảm
làm việc này!
Tôi chợt nghĩ, anh chiến sĩ đã hôn mê; chắc anh ta không còn biết
đau đớn là gì nữa cả. Chắc anh không cần đến viên đạn giải thoát
của tôi.
Tôi
và Ðại úy Hoàn lấy 1 cái poncho phủ lên người anh. 2 chúng tôi
đứng nghiêm chào vĩnh biệt người bạn trẻ cùng binh chủng.
Cách chỗ anh Biệt Ðộng Quân nằm chừng
50 mét trên dốc là 2 cái xác Việt Cộng đã sình. 2 cái xác trương
to như 2 con bò, áo quần căng cứng.
Nắng hầm hập. Một vùng ngập chìm trong
tử khí.
Trưa
25 tháng 3 năm 1975, đứng trên đồi cao, tôi nhìn thấy khói đen
bốc lên hướng thị xã Gia Nghĩa. Trung tá Liên đoàn trưởng báo cho
tôi biết tin Tiểu Khu Quảng Ðức đang bắt đầu rút về Blao.
Trung tá Thanh còn cho tôi hay, người
chỉ huy cuộc hành quân triệt thoái khỏi Quảng Ðức không phải là
Ðại tá Phạm Văn Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Ðức, mà là ông Trung tá
Phạm Ðức Dư, Tham mưu trưởng Tiểu khu.
Trung tá Dư xuất thân là 1 sĩ quan tài
chánh, từng làm Tham mưu trưởng Tiểu Khu Lâm Ðồng từ khi còn là
đại úy cho đến khi chuyển qua làm Tham mưu trưởng Tiểu khu Quảng
Ðức mới được gần 1 tháng. Ông Trung tá Phạm Ðức Dư chưa từng có
dịp ra trận, chưa cầm súng bắn 1 viên đạn thật lần nào, nên đành
phải giao cho Thiếu tá Trần Văn Bường, Tham mưu phó hành quân
Tiểu khu Quảng Ðức đảm đương nhiệm vụ điều quân.
Vì thế, Trung tá Hoàng Kim Thanh ra
lệnh cho Bộ chỉ huy Liên Ðoàn 24 và 2 Tiểu Ðoàn 63 và 81 Biệt
Ðộng Quân án binh tại chỗ, chờ tôi về rồi mới tính sau.
Tôi lên xe chạy về Gia Nghĩa. Trên
đường, tôi phải ngừng xe nhiều lần để dẹp những khúc gỗ súc lớn
mà các bạn Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân Quảng Ðức đã trải đầy
mặt lộ. Ðó là những chướng ngại vật chống tank cấp thời của các
đơn vị bạn còn để lại.
Nơi đầu tỉnh, gặp mặt Trung tá Thanh,
tôi cùng ông duyệt lại tình hình Quảng Ðức.
Chúng tôi thấy những ngày trước đó,
quân ta chưa có gì sứt mẻ. Tinh thần còn vững vàng. Tiếp liệu còn
đầy kho. Chỉ có Kiến Ðức, Nhơn Cơ là nóng bỏng. 2 Tiểu Ðoàn 81&82
Biệt Ðộng Quân và Ðịa Phương Quân của quận Nhơn Cơ còn đứng vững,
chưa cần tới tiếp viện.
Tôi không hiểu vì sao ông tỉnh trưởng
bắt chúng tôi lui binh từ từ, bỏ hết điểm này tới điểm nọ.
Bây giờ ông ta lại bỏ cả tỉnh lỵ khi
địch chưa tỏ ý định đánh chiếm nó.
Kho tàng đã bị đốt hết. Chúng tôi có tử
thủ cũng chỉ vài ngày là hết đạn, hết cơm. Chúng tôi không rút
cũng không được.
Tôi vội kêu Trung úy Ðăng giao Ðại Ðội
2/82 lại cho Chuẩn úy Gấm rồi dùng chiếc xe GMC của tiểu đoàn
chạy về liên đoàn gặp tôi.
Tôi giao cho Trung úy Ðăng 200 ngàn
tiền ăn và dặn dò anh dùng xe GMC đi theo đoàn xe của Bộ Chỉ Huy
Tiểu Khu Quảng Ðức. Tới Blao, anh chuẩn bị lương thực tiếp tế sẵn
cho đơn vị.
Ra
khỏi liên đoàn, tôi ghé chợ Gia Nghĩa. Chợ quán thưa vắng.
Tôi vào khu bán chạp phô. Tôi mua 2 ký
tép khô. Giá 300 đồng 1 ký. Tôi đưa cho chị bán hàng tờ giấy 1
nghìn, không nhận tiền thối lại. Tôi hỏi những người bán hàng:
– Sao bà con còn nấn ná ở đây? Người ta
đi hết rồi!
Chị bán tép sụt sịt:
– Biết đi đâu bây giờ Thiếu tá ơi! Con
thì nhỏ, đường thì xa. Em sợ tên bay đạn lạc. Thôi ở lại đây có
chết cũng đành!
Tôi buồn bã nói với bà con đôi lời từ
giã.
Lúc đó có
tiếng ồn ào nơi khu phố đối diện, cạnh Phòng Ngủ Gia Nghĩa, nơi
có 2 tiệm vàng. Cửa hàng bên phải có tiếng khóc than. Cửa hàng
bên trái có bóng đi ra, đi vô của 1 bộ quần áo rằn ri.
Tôi hỏi chị bán tép chuyện gì huyên
náo, chị nói:
– Cướp, có 2 anh lính Biệt Ðộng Quân ăn cướp! Họ ném lựu đạn vào
tiệm bên phải, cướp vàng. Họ đang khảo tra chủ tiệm bên trái.
Tôi ra xe phất tay cho Trung sĩ Nguyễn
Chi và Hạ sĩ Mom Sol sẵn sàng. 2 người này và anh tài xế đã rõ
câu chuyện ăn cướp. Họ thủ thế chờ lệnh.
Tôi đứng trước đầu xe hét to:
“Ê! 2 anh kia đi ra không tôi bắn!”
Một tên tóc tai dài lượt thượt ló đầu
ra cửa. Hắn giơ tay lên nhứ nhứ quả M26.
Tôi ra lệnh:
“Bắn!”
2 viên M16 trúng đầu thằng ăn cướp.
Nó nằm giãy tê tê trước bục cửa ra vào
của tiệm kim hoàn. Quả lựu đạn chưa mở chốt văng trước thềm.
Thằng thứ nhì cũng mặc quân phục Biệt Ðộng Quân từ trong nhà chạy
ra, trên tay cũng có hai trái M26.
Tôi hét lớn:
– Ném 2 quả lựu đạn ra vườn!
Tên cướp ném 2 trái M26 ra sân cỏ sau
nhà. Chỉ 1 trái đã bị rút chốt an toàn.
Một tiếng “Ùm!” làm bay tấm tô–le trên
mái.
Tôi ra
lệnh tiếp:
–
Nằm úp mặt xuống đất, hai tay dang ra!
Hắn riu ríu làm theo lệnh. Tôi lại la
lớn:
– Còn ai
trong nhà nữa không? Ra hết đi!
Một cặp vợ chồng già run lập cập nắm áo
nhau chạy ra sân chợ.
3 thầy trò tôi tiến lên chỗ tên cướp
đang run như cầy sấy.
– Mày ở đơn vị nào?
– Dạ em là Lao Công Ðào Binh của Sư
Ðoàn 23 Bộ Binh chạy lạc về đây!
Tôi hỏi vặn:
– Quần áo Biệt Ðộng Quân tụi mày lấy ở
đâu ra?
– Dạ
nhiều lắm! Trong tiệm giặt ủi đàng kia!
Tôi co chân đá vào mặt thằng ăn cướp
một cái. Miệng nó phun máu. Tôi ra hiệu cho chú Chi lục túi nó và
túi thằng đã chết, gom tang vật lại rồi gọi nạn nhân ra trao cho
họ.
Gia chủ
căn nhà bên phải chạy ra nhận lại số vàng. Họ vừa khóc vừa cám
ơn.
Tôi đá
liên tiếp vào mặt thằng ăn cướp mấy cái nữa, nó ôm mặt lăn lộn
trên mặt đường khóc lóc xin tha mạng.
Tôi quát:
– Cút đi!
Nó lồm cồm bò dậy, chạy một mạch xuống
triền đồi khuất dạng.
Tôi phân trần với dân phố đang bu
quanh:
– Tụi
này là lính giả. Chúng nó là quân phạm chứ không phải Biệt Ðộng
Quân. Biệt Ðộng Quân không có những hạng người đốn mạt như tụi
này!
Nói xong
câu đó, tôi nghĩ tới ngày mai, chúng tôi không còn hiện diện ở
nơi đây nữa. Ai sẽ thanh minh cho chúng tôi những sự mạo nhận như
thế?
Tôi buồn
bã lên xe hướng về Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Quảng Ðức.
Tòa Hành Chánh bị đốt hư hại nhẹ. Khói
từ các cửa sổ ăn loang lổ tường vôi.
Khu Trung Tâm Yểm Trợ Tiếp Vận chỉ có
kho xăng đã cháy, vài căn nhà chứa lương thực và đạn dược bị đốt
lam nham. Những chỗ khác vẫn còn nguyên vẹn.
Trên mặt đất, quân trang, quân dụng,
lương thực vương vãi khắp nơi.
Tôi quay xe xuống đồi. Tôi hẹn với
Trung tá Liên đoàn trưởng, sáng mai tôi sẽ rút quân thẳng về bờ
sông Kinh Ðà chờ bộ chỉ huy và 2 tiểu đoàn. Ðiểm vượt sông tôi sẽ
định sau.
Sáng
ngày 26 tháng 3 năm 1975, tôi ra lệnh phá hủy 2 khẩu 105ly ngay
trên sân miếu thổ thần sau khi bắn hết gần 1 ngàn viên đạn về
hướng Kiến Ðức.
Khẩu 106ly được ném xuống dòng sông bên
đường, đạn của khẩu súng này cũng đã được gởi (bắn) hết qua bờ
Nam đập nước.
10 giờ sáng, đại đội đi đầu ra tới bờ sông. Trước khi tới bờ
sông, tôi gặp 1 trạm gác của Nghĩa Quân Khiêm Ðức.
Tôi thấy 1 Nghĩa Quân ngồi trên chòi
gác giặc. Anh lính đang chăm chú quan sát khu rừng rậm dưới dốc.
Tôi hỏi anh Nghĩa Quân:
– Sao em còn ngồi đây? Người ta đi hết
rồi!
Anh lính
ngơ ngác:
–
Ủa! Chứ người ta đi đâu Thiếu tá?
– Người ta rút về Blao hết rồi! Em đi
đi!
Anh Nghĩa
Quân nhìn tôi bán tín bán nghi. Ðến lúc thấy quân lính theo tôi
đông ngời ngời, anh phát hoảng, co giò chạy về hướng thị xã.
Ðể tránh sự quan sát của địch, tôi cho
tiểu đoàn đi song song với bờ sông Ða Dung xuôi về hướng Tây.
Càng tránh xa những con lộ chính hay đường xe be, càng đỡ lo
chuyện rủi ro trên bờ đối diện.
Tới 1 khúc quanh, dòng chảy đổi thành
Bắc Nam.
Cuối
nguồn 1 ngọn thác thì mặt sông Đa Dung phình ra, vận tốc nước
trôi không còn nhanh lắm. Tôi quyết định vượt sông.
Tôi chọn 2 anh lính gốc dân chài cùng
tôi bơi qua sông làm đầu cầu.
3 khẩu M16, 3 băng đạn, 3 cuộn dây
nylon, 3 thầy trò tôi bu theo 3 cái phao poncho độn bằng cành lá.
Chỉ có tôi và 1 anh lính tới bờ bình
yên. Người lính bơi trên thượng nguồn bên trái tôi chìm nghỉm
giữa dòng, sau một tiếng “Ối!” thất thanh. Ða Dung nổi tiếng là
sông nhiều cá sấu!
Qua tới bờ Ðông, tôi thủ thế khẩu M16
gác giặc để anh Biệt Ðộng Quân bạn yên tâm cột dây cho các toán
viễn thám của tiểu đoàn theo chân nhau qua sông. Sau đó các đại
đội được lệnh chặt tre làm mảng.
Ai biết bơi thì chỉ cần ôm một khúc tre
lồ ô là có thể nương theo dòng chảy, tới bờ đối diện không khó
khăn lắm.
Lúc
này cả 1 khúc sông ồn ào như cái chợ. Nếu có con cá sấu nào bơi
gần đó chắc cũng thất kinh hồn vía lo tìm đường tẩu thoát.
Tiểu đoàn tôi hoàn tất cuộc vượt sông
với 1 thời gian rất ngắn. Khi Bộ chỉ huy Liên đoàn bắt đầu xuống
mảng thì Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân cũng bắt đầu di chuyển. Tôi
cho đơn vị đi ngược về Ðông Bắc, hướng tới 1 ngọn đồi xanh khá
cao.
Cách bãi
vượt sông chưa tới 200 mét là 1 bãi sình rộng. Cả chục con cá sấu
lớn nhỏ đang nằm phơi mình dưới nắng.
Thấy đoàn người đi tới gần, chúng hoảng sợ lao mình xuống nước,
lội ngược dòng về thượng nguồn.
Ngọn đồi xanh mà chúng tôi đang chiếm
lĩnh là 1 rừng tre. Tôi cho quân vượt cái yên ngựa, bố trí trên
đỉnh Ðông Bắc của yên ngựa, nhường cái đuôi yên ngựa cho những
đơn vị lên sau.
Dưới bờ sông có tiếng lựu đạn nổ.
Truyền tin báo cho tôi hay, Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn
trưởng, Trung úy Nguyễn Công Minh, Sĩ quan Truyền tin Liên đoàn
và 3 người khác bị thương.
Ơ hờ khi sưởi ấm đã gây ra tai nạn lựu
đạn nổ. Lựu đạn nổ vì sợi dây thun cột mỏ vịt lựu đạn bị cháy
trong lúc kíp an toàn đã bị tháo mất rồi. Trung tá Liên đoàn
trưởng bị mảnh lựu đạn văng trúng ngực và trán.
Sau khi băng bó, Trung tá Thanh và
những người bị thương được cáng lên chỗ tôi đóng quân.
Sáng ngày 27 tháng 3 năm 1975, trực
thăng từ Ðà Lạt tới bốc những quân nhân bị thương. Cùng đi trên
chuyến tải thương này còn có Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn Tiểu đoàn
trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân. Ông Mẫn bị sốt rét cấp tính.
Như vậy là chỉ trong vòng 24 giờ sau
khi rời Quảng Ðức, 2 vị sĩ quan chỉ huy của liên đoàn đã ra khỏi
vùng.
Sau khi
Trung tá Hoàng Kim Thanh được tải thương thì ông Trung tá Liên
đoàn phó trở thành sĩ quan Xử Lý Thường Vụ chức vụ Liên đoàn
trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân.
Tôi ở tiền quân, cách xa bộ chỉ huy
liên đoàn gần nửa cây số nên không biết ông liên đoàn phó đang đi
với tiểu đoàn nào.
Tôi thấy mới ra quân mà đã bỏ phí 2
ngày đường, nên sau khi tải thương xong, tôi cho lệnh đơn vị gấp
rút đổ dốc tiến về hướng Ðông Nam.
Chiều đó đang đi trên 1 lối mòn, chúng
tôi nghe tiếng gà nhà gáy trong rừng. Vậy là có mật khu Việt Cộng
gần đâu đây?
Tôi báo cáo tình hình cho liên đoàn, đề nghị những cánh quân theo
sau tôi dừng lại để tôi tập kích cái mật khu trước mặt.
Cái khu sản xuất của Thượng Cộng nhỏ
tí, với 2 chú du kích Thượng đang ngồi ngậm ống vố, không đáng
cho 1 cú xung phong của 1 đại đội Biệt Ðộng Quân.
2 tên du kích chưa kịp đứng dậy cầm
súng đã bị bắn vỡ óc, nằm thẳng cẳng bên lò lửa than nghi ngút
khói dưới chân 1 cái nhà sàn.
Tối đó chúng tôi dừng quân ngay trong
mật khu địch. Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân bố trí 1 vòng cung
hướng về Ðông, các tiểu đoàn bạn hạ trại bao quanh bộ chỉ huy
liên đoàn, chịu trách nhiệm phòng thủ hướng Tây.
Cả liên đoàn không còn cái xẻng cá nhân
nào, chúng tôi ngủ lộ thiên trên poncho. Tôi có cảm tưởng như
mình là 1 Hướng Ðạo Sinh thời còn đi học, đang tham gia một đêm
cắm trại mùa Hè.
Khoảng 7 giờ đêm, tôi nghe tiếng người
cười đùa huyên náo trong rừng, khu Ðại Ðội 3/82. Tôi và Binh nhì
Phan Thọ lần bước về chỗ tiếng cười nói ồn ào.
Trung úy Trần Văn Phước, Ðại đội trưởng
Ðại Ðội 3/82 và cả chục Biệt Ðộng Quân dưới quyền anh đang quây
quần bên 1 vò rượu cần, vò rượu chiến lợi phẩm. Trự nào cũng xiêu
vẹo bước tới, bước lui. Trự nào cũng lè nhè, la hét ồn ào. Tiếng
họ cười nói oang oang giữa rừng khuya.
Với tôi, thì uống rượu không là 1 cái
lỗi; nhưng say rượu thì tôi không tha; dù người đó thân cận như
chú Phước.
Tôi
rút súng bắn tan vò rượu. Những ma men tỉnh rượu ngay lập tức.
“Cuốn lều! Ðại Ðội 3 cuốn lều! Hướng
hai ngàn bốn trăm dzu lu! Làm ngay!”
Trung úy Phước và “tòng phạm” riu ríu
thi hành lệnh.
10 phút sau 1 khoảng rộng lớn trên
tuyến phòng thủ của tiểu đoàn bị bỏ trống. Ðại Ðội 3/82 bị phạt
phải dạ hành mở đường. Mãi nửa giờ sau tôi mới bớt giận. Tôi ra
lệnh cho Ðại Ðội 3/82 dừng lại tấp vào rừng ngủ.
Trong tiểu đoàn này Trung úy Trần Văn
Phước là người thân cận nhất của tôi. Tháng 11/1972 khi tôi còn
giữ chức Trưởng Phòng 2 của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2
thì Chuẩn úy Trần Văn Phước về trình diện.
Vì Chuẩn úy Trần Văn Phước có bằng Tình
Báo Căn Bản từ Trường Cây Mai, nên đầu năm 1973 tôi đã cho Phước
vào Plei M’rong làm Sĩ quan Ban 2 của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng
Quân. Nhưng chỉ được ít lâu, Thiếu tá Phạm Duy Ánh, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân đã chịu không thấu cái tật
rượu vào là rút súng của ông chuẩn úy nên vội hoàn trả chú Phước
về cho tôi. Chỉ có mình tôi là biết cách kiềm chế con ngựa chứng
này. Chú Phước đã theo tôi từ đó cho tới ngày tàn cuộc chiến.
Tới cuối năm 1973, sau khi Phước lên
thiếu úy thì thầy trò tôi vào Pleime.
Chú Trần Văn Phước và chú Nguyễn Công
Minh, sĩ quan truyền tin của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, là 2 sĩ
quan sau cùng còn ở lại bên tôi, rồi bảo vệ tôi thoát hiểm trong
kẽ tóc đường tơ, khi vị trí của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân bị
địch tràn ngập trưa 15 tháng Tư năm 1974.
Rồi cũng chính Thiếu úy Trần Văn Phước
là người đầu tiên cùng tôi đặt chân trên Căn cứ 711 sau khi chúng
tôi vất vả 2 ngày phản công tái chiếm căn cứ này. Trận đó tiểu
đoàn của chúng tôi bị 6 tiểu đoàn của Sư Ðoàn 320A/Ðiện Biên xa
luân chiến.
Trong 2 năm sau cùng của cuộc chiến, không có trận đánh nào mà
không có mặt Phước bên cạnh tôi.
Sau trận Pleime, Thiếu úy Trần Văn
Phước được đặc thăng trung úy. Lên trung úy, chú Phước bỏ nghề
Quân Báo, trở lại đời tác chiến làm đại đội trưởng.
Ðây là lần đầu, tôi nặng tay với Phước.
Tôi vào máy gọi cho Phước:
– An Bình, đây Thái Sơn! Stop được rồi!
Nghe rõ chưa?
Ðầu máy bên kia, tôi nghe tiếng người đàn em sụt sịt:
– Em xin lỗi Thái Sơn! Em xin lỗi anh
Hai!
Tôi cũng
thấy mủi lòng, xốn xang:
– Thôi! Ngủ đi! Chờ mai anh lên với
chú!
Tôi lấy
điếu Lucky ra hút. Tiếng muỗi đêm vo ve bên tai. Tiếng suối reo
rì rào trong khe. Tiếng gió lùa ù ù sau đồi. Trên poncho, lá cây
rơi lộp độp. Quanh tôi đủ loại tiếng rừng. Chưa lần nào tôi cảm
thấy rừng đêm buồn như thế!
Ðêm 27 tháng 3 năm 1975, trăng sáng như
ban ngày.
Gần
9 giờ khuya, Trung tá Liên đoàn phó cho người tới lều mời tôi lên
gặp riêng.
Tôi
nghĩ ông Liên đoàn phó sẽ rầy la tôi về vụ ồn ào của Ðại Ðội
3/82.
Tôi đã
chuẩn bị tâm tư nhận lỗi với ông chỉ huy mới của liên đoàn về sự
vô kỷ luật của đàn em. Nhưng tôi không ngờ ông Trung tá Liên đoàn
phó muốn gặp tôi lại vì mục đích khác chứ không vì chuyện lính
tráng say sưa.
Cho tới giờ này tôi mới nhìn thấy dung
nhan ông Trung tá Liên đoàn phó, tên ông ấy là Ðào Ðức Châu.
Thì ra trong quá khứ, hơn 1 năm về
trước, tôi và ông ta, đã giáp mặt nhau 1 lần, chỉ vài phút, ở
Bồng Sơn, Tam Quan, Bình Ðịnh, ngày đó ông Châu còn mang lon
thiếu tá, giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 34, Liên Ðoàn 6
Biệt Ðộng Quân.
Hôm đó, nhân dịp lễ Giáng Sinh năm
1973, tôi có lệnh tháp tùng Ðại tá Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng
Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 và Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai,
Chỉ Huy Trưởng/Biệt Ðộng Quân/Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bay trực
thăng tới Bắc Bình Ðịnh để ủy lạo các đơn vị Biệt Ðộng Quân đang
tham chiến ở vùng này.
Tại phi trường Bồng Sơn, Ðại tá Nguyễn
Kim Tây, Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân đã nài nỉ
tôi hoán đổi vị trí cho Thiếu tá Ðào Ðức Châu để ông Châu lên
Vùng 2, còn tôi sẽ thay ông Châu giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu
Ðoàn 34 Biệt Ðộng Quân.
Tôi dư điều kiện để xin đổi vùng, vì
tôi đã ở Pleiku, Vùng 2 trong thời gian gần 10 năm rồi. Nghe Ðại
tá Nguyễn Kim Tây đề nghị, tôi vui vẻ đồng ý ngay.
Ðại tá Nguyễn Kim Tây và tôi quen biết
đã lâu. Hơn thế nữa, đầu năm 1972 tôi là người đã bay liên tục cả
giờ đồng hồ trên trời Pleiku để sẵn sàng xuống cứu 1 phi công lâm
nạn theo lời yêu cầu của ông Tây.
Hôm đó có 1 chiếc oanh tạc cơ Skyraider
đã bị Việt Cộng bắn trúng càng trong 1 phi vụ yểm trợ hành quân ở
Kontum mới bay về. Tôi cũng vừa thả xong 1 toán viễn thám và đang
chuẩn bị đáp trước bộ chỉ huy, nhưng Trung tá Nguyễn Kim Tây lại
có mặt ở đây và đã yêu cầu tôi bay cover cho chiếc Skyraider bị
nạn.
Lý do ông
Tây quan tâm tới chuyện này chỉ vì viên phi công lái chiếc
Skyraider là 1 người em ruột của ông Tây.
Dự trù khi máy bay cạn nhiên liệu, phi
công sẽ nhảy dù xuống vùng Tây Pleiku và bỏ cho tàu rơi tự do
trong rừng, trực thăng của tôi sẽ xuống cứu ông ta.
Nhưng bay tới khi hết xăng, người phi
công đã không nhảy dù, bỏ tàu, mà cố gắng đáp bằng bụng. Cú đáp
đã thành công ngoài dự liệu của mọi người.
Sau này, năm 1973, ông Nguyễn Kim Tây
trở thành Ðại tá Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân nên
ông muốn tôi về làm việc với ông.
Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai không phản đối
chuyện hoán chuyển này, nhưng Ðại tá Phạm Duy Tất thì có vẻ không
vui.
Nhìn tôi,
ông Tất nói:
–
Anh có làm gì phật lòng Long không mà Long bỏ anh?
Nghe Ðại tá Tất nói, tôi đã mềm lòng,
xin hủy bỏ chuyện đổi vùng.
Tôi đã phụ lòng Ðại tá Nguyễn Kim Tây.
Tôi đã ở lại với Ðại tá Phạm Duy Tất, với Vùng 2, và tôi đã làm
được nhiều điều mà những thiếu tá khác không làm được. Vậy mà qua
bao trận đánh, qua bao chiến công, tôi vẫn là thiếu tá.
Tôi hơi ngỡ ngàng, khi nhận ra ông
Trung tá Liên đoàn phó của tôi lại chính là ông Thiếu tá Tiểu
Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 34 Biệt Ðộng Quân ngày nào.
Ông Châu mới tới Liên Ðoàn 24 một thời
gian rất ngắn. Ông ta chưa hề đi thăm các đơn vị tiền tiêu, do đó
tôi chưa từng gặp mặt ông ta.
Chính vì chưa giáp mặt, chưa quen cách
điều binh khiển tướng của Trung tá Châu mà tôi đã thề sẽ bắn nát
óc ông ta nếu ông ta cắt đứt pháo yểm của tôi cách đây vài ngày.
Ông Trung tá Châu thuộc lớp sĩ quan
sống lâu lên lão làng, nên cách chỉ huy của ông ta cũng khác xa
cung cách chỉ huy của lớp sĩ quan trẻ chúng tôi.
Ông Liên đoàn phó thân thiện mời tôi
vào lều; ông trung tá ngồi trên võng, còn tôi thì ngồi trên khúc
gỗ đối diện với ông.
Ông nói với tôi rằng cuộc họp “bí mật”
này ông chỉ muốn có mặt mình tôi thôi; ông không cho 2 vị chỉ huy
tiểu đoàn còn lại là Thiếu tá Ðàng và Thiếu tá Tài biết chuyện
ông sẽ bàn tính với tôi.
Ông tự giới thiệu, ông là dân Bắc Di
Cư, tốt nghiệp Khóa 12 Võ Bị Quốc Gia. Ông ta vừa học xong khóa
tu nghiệp gì đó sau khi lên cấp trung tá thì được lệnh về giữ
chức Liên đoàn phó Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân.
Ông Châu mở ba lô lấy bao thuốc lá
Salem đầu lọc, mời tôi:
– Long hút thuốc đi! Hút 1 điếu cho ấm!
Tôi xua tay:
– Cám ơn Niên Trưởng! Tôi không hút
thuốc đầu lọc!
Ông Châu im lặng một phút, rồi với 1
giọng đầy thảm não, ông bắt đầu tâm sự:
– Long ơi! Anh sinh ra để làm chính
trị. Chỗ của anh là Thượng Viện, Hạ Viện chứ đâu phải chỗ này!
Anh có muốn làm nhà binh đâu! Anh sinh ra không phải để làm lính!
Quyết định đi lính của anh là 1 quyết định sai lầm! Giờ này anh
không còn chút hứng thú nào ở quân đội nữa!
Tôi sốt ruột, phang ngang:
– Bây giờ Trung tá có lệnh gì cho tôi
thì nói ngay đi! Nếu không, tôi phải về ngủ để mai còn sức mở
đường! Liên đoàn đang lui binh, tôi không rảnh ngồi nghe chuyện
cổ tích.
Thấy
tôi có vẻ không muốn cà kê, dài dòng, ông Châu vội khẩn khoản:
– Long có uy tín với quân đoàn, mai
Long xin trực thăng tải thương cho anh về Ðà Lạt được không?
Anh...
Tôi
ngạc nhiên, trợn mắt, ngắt lời ông Châu:
– Trung tá đừng đùa lúc này!
Ánh sáng từ cái bóng đèn nhỏ mắc vào
cục pin PRC 25 cho tôi thấy đôi mắt ráo hoảnh của vị sĩ quan khóa
đàn anh:
– Anh
nói thật chứ có đùa đâu?
Bây giờ thì tôi biết ông trung tá nói
thật, không đùa. Tôi cứ ngồi ớ ra mà không biết phản ứng ra sao.
Thấy thế, ông Châu năn nỉ tiếp:
– Long à! Thương anh thì ngày mai Long
xin trực thăng cho anh ra khỏi đây, anh sợ chiến trận rồi!
Tôi nhấp nhỏm đứng dậy thì ông Châu vội
cầm tay tôi:
–
Anh đâu có tình nguyện lên Vùng 2 (?) Anh đâu có quen địa thế ở
đây(?) Anh có ở lại cũng chẳng giúp gì cho anh em. Long ở Vùng 2
lâu rồi, quen biết nhiều, ngày mai Long xin trực thăng cho anh ra
khỏi đây đi! Mình là anh em cùng trường. Long cố gắng giúp anh!
Anh cám ơn Long nhiều lắm!
Thế là hết chuyện! Bộ mặt bỉ ổi của 1
kẻ tham sống sợ chết đã lộ ra quá nhanh và quá trơ trẽn. Tôi thẫn
thờ đứng lên, bước ra khỏi căn lều của tên vô loại.
Ðêm đó tôi ngồi hút hết điếu thuốc này
tới điếu thuốc khác mà lòng thì buồn vô cùng, cứ nhớ về Trường Mẹ
Ðà Lạt không nguôi...
Mờ sáng 28 tháng 3 năm 1975, một công
điện khẩn được gởi cho Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2/Hành Quân, xin trực
thăng tản thương.
Trước khi máy bay tới, Ðại úy Trần Dân
Chủ, Ban 3 Liên đoàn đến xin tôi cho phép anh ta theo chân Trung
tá Liên đoàn phó rời vùng.
Tôi trả lời anh ta rằng:
– Trực thăng chưa tới thì ông Trung tá
Châu còn là người chỉ huy liên đoàn. Anh phải trình diện ông ta,
xin ông ta cho phép anh rời nơi đây.
Tôi nói thêm:
– Nếu tôi là người chỉ huy liên đoàn,
tôi sẽ không cho bất cứ sĩ quan nào rời vùng. Trong những tình
thế hiểm nghèo, người lính trông nhờ vào sĩ quan. Chỉ có sĩ quan
mới có khả năng dắt dìu những người lính dốt nát thoát khỏi cơn
khốn đốn. Sĩ quan biết sử dụng bản đồ, địa bàn, biết phương
hướng. Ði trong núi, trong rừng mới cần sĩ quan dẫn dắt binh
lính. Trong thành phố không ai cần các anh dẫn dắt!
Ông Ðại úy Ban 3 dạ dạ, vâng vâng.
Nhưng khi máy bay tải thương tới, thì Ðại úy Chủ đã nhanh chân
theo bén gót Trung tá Châu lên tàu. Có 2 hạ sĩ quan khai bệnh sốt
rét tới xin đi, tôi cho đi luôn.
Hóa ra chuyến đi này của Trung tá Ðào
Ðức Châu cũng là chuyến bay giã từ quân ngũ của ông ta. Ông ta
vắng mặt từ đó, rồi trở thành 1 trong những người đầu tiên di tản
khỏi Việt Nam ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Trưa ngày 28 tháng 3 năm 1975, khi 2 sĩ
quan và 2 hạ sĩ quan vừa yên chỗ trên sàn trực thăng thì dưới bãi
bốc xảy ra cảnh lộn xộn, ồn ào.
Có 1 người đàn bà nhất định không chịu
lên máy bay. Chị ta vừa khóc thút thít vừa co rụt người lại khi
mấy anh lính an ninh bãi đáp tìm cách đẩy chị ta lên cửa trực
thăng. “Em không về đâu! Em không nỡ bỏ anh ấy giữa rừng!”
Người đàn bà này đã theo đoàn quân của Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng
Quân từ ngày đầu di tản. Chị không chịu bỏ người thân. Tay chân
chị giãy giụa, miệng chị la bài hải:
“Em không sợ chết đâu! Cho em ở lại đi!
Các anh ơi!”
Cuối cùng, toán giữ trật tự bãi đáp đành chịu thua người đàn bà.
Chợt không ai bảo ai, tất cả Biệt Ðộng
Quân có mặt trên bãi bốc ngày hôm ấy đã đồng loạt vỗ tay hoan hô
người phụ nữ can đảm.
Chờ 1 lúc không thấy ai lên máy bay
nữa, tôi ra dấu cho chiếc trực thăng cất cánh.
Còn Thiếu tá Trần Ðình Ðàng, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân lại là sĩ quan thâm niên hơn
tôi nhiều. Anh Trần Ðình Ðàng xuất thân Khóa 15 Võ Bị và phục vụ
trong binh chủng Biệt Ðộng Quân từ những năm binh chủng mới được
khai sinh. So với Thiếu tá Ðàng tôi là đàn em rất xa, về cả 2
xuất xứ, Biệt Ðộng Quân cũng như Võ Bị, vì tôi xuất thân từ Khóa
20 Võ Bị.
Tôi
xin ý kiến của người Niên Trưởng dễ mến này về việc tôi được chỉ
định chỉ huy liên đoàn. Tôi hỏi anh có trở ngại gì khi anh phải
nằm dưới sự chỉ huy của tôi không, thì anh Ðàng trả lời một cách
khẳng khái:
–
Chú chỉ huy là phải rồi! Chú thông thuộc địa thế Vùng 2. Chú được
cấp trên, cấp dưới tín nhiệm. Anh sẽ nghe theo lệnh của chú. Yên
chí đi!
Tôi
siết tay anh Ðàng thật chặt:
– Cám ơn Niên Trưởng!
Trong cơn nguy khốn, chúng tôi thấy
thương nhau hơn. Trong hoạn nạn, chúng tôi thấy gần nhau hơn.
Sau khi nhận lệnh chỉ huy Liên Ðoàn 24
Biệt Ðộng Quân, tôi đích thân kiểm điểm lại quân số các ban,
ngành của bộ chỉ huy liên đoàn thì phát giác ra, chỉ có Ban
Truyền Tin là hiện diện khá đầy đủ, cái máy viễn liên PRC 74 còn
đủ điện trì và vận hành tốt.
Ban Quân Y chỉ còn 1 hạ sĩ quan cùng 2
binh sĩ. Ông Trung úy Nguyễn Ðăng Tri, Y sĩ trưởng của liên đoàn
đã vắng mặt từ trước ngày di tản.
Ðại Ðội Trinh Sát của liên đoàn cũng
không còn người nào, không biết ông Ðại đội trưởng là Ðại úy
Nguyễn Văn Song và đại đội này đang ở đâu.
Tôi tập họp tất cả quân nhân còn lại
của bộ chỉ huy liên đoàn thành 1 trung đội, rồi cho trung đội này
đi theo cánh quân đoạn hậu của Thiếu tá Trần Ðình Ðàng.
Cũng từ đêm 28 tháng 3 năm 1975, tôi
không còn liên lạc được bất cứ đơn vị nào của Quân Ðoàn II.
Thì ra, thời gian này Thiếu tướng Phạm
Văn Phú và Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II cùng các đơn vị khác đang bị
Việt Cộng truy kích đánh đuổi tơi bời, phải chạy từ tỉnh này tới
tỉnh khác. Tình hình chỉ tạm yên sau khi lãnh thổ Vùng 2 Duyên
Hải đã được sáp nhập vào Quân Khu 3 đặt dưới quyền chỉ huy của
Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn III.
Sáng 29 tháng 3 trong khi đánh răng rửa
mặt, tôi bất chợt nhìn thấy 1 cái đầu hói nằm chung với mấy anh
lính cận vệ của tôi trên 1 cái poncho.
Tôi hỏi Binh nhứt Bích, người lính nấu
cơm cho tôi:
–
Thằng đầu hói nằm kia là ai vậy Bích?
– Dạ! Trình Thái Sơn, người đó là Thiếu
tá Tài. Tối qua ông Tài tới poncho của tụi em, xin vào ngủ chung,
ổng nói đã xin phép Thái Sơn rồi!
Tôi ra lệnh:
– Kêu ông ta dậy! Nói với ông ta lên
gặp tao!
5
phút sau, Thiếu tá Nguyễn Hữu Tài chân còn chưa mang giày, tới
đứng nghiêm trước mặt tôi, miệng run lập cập:
– Ðêm qua tui lên xin gặp Thái Sơn để
trình một việc quan trọng thì Thái Sơn đã ngủ rồi, tui phải chui
vào nằm với tụi cận vệ của Thái Sơn chờ sáng nay gặp mặt Thái
Sơn.
Tiếp đó
ông Tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân nói một hơi:
– Trình Thái Sơn! Tinh thần binh sĩ của
tiểu đoàn tôi xuống thấp lắm rồi! 1 thằng đại đội trưởng của tôi
đã dẫn 2 thằng lính dưới quyền nó trốn đi mất tiêu! Thái Sơn gắng
liên lạc với thượng cấp xin tiếp tế lương thực cho anh em. Anh em
tụi tôi đói quá! Thái Sơn ơi!
Nghe xong, tôi chỉ biết khích lệ tinh
thần ông Tài bằng vài lời:
– Giữa rừng già thế này khó tìm lương
thực lắm. Ông nói với anh em, chịu khó ăn rau tàu bay cầm hơi.
Chắc cũng không còn xa làng xóm lắm đâu, gắng sức lên! Ðiều quan
trọng nhất là cố giữ vững tinh thần, đừng vì quá đói mà thối chí,
nản lòng, đào ngũ.
Những ngày tiếp theo, dưới quyền chỉ
huy của tôi, liên đoàn tiếp tục cuộc hành trình đã dự trù. Theo
hướng Ðông Nam, chúng tôi băng rừng lội suối nhắm về quận lỵ Di
Linh và thị trấn Blao, cứ cặp theo Liên tỉnh lộ 8B thì sẽ không
sợ lạc. Trên đường chúng tôi đi qua chỉ có tre, mây và lau sậy;
trên đường chỉ có dấu chân voi.
Ðịa thế ở đây tôi quen lắm. Thời 1968
tôi đã lặn lội, lùng sục không sót 1 ngọn đồi nào trong vùng này.
Ðã bao lần, tôi qua lại trên dải đất từ bờ Ðông sông Ða Dung qua
Quốc lộ 20 tới Cao nguyên Gia Bắc giáp giới quận Thiện Giáo, Bình
Thuận.
Ngày
đó, Trung tá Bùi Văn Sâm Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng
Quân đã biệt phái Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân của Ðại úy Hồ Khắc
Ðàm (K16VB) cho Task Force South của Tướng Trương Quang Ân, Tư
lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Tôi lúc đó là Ðại đội trưởng Ðại Ðội
1/Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân dưới quyền anh Ðàm.
Chúng tôi được trực thăng Hoa Kỳ tải
vào rừng. Tìm mục tiêu, diệt địch. Leo hết ngọn đồi này tới ngọn
đồi khác.
10
ngày sau chui ra bãi trống nhận tiếp tế gạo, mắm. Rồi lại leo lên
trực thăng, đổ xuống bãi khác.
Lại tìm mục tiêu. Lại leo hết đồi này
tới đồi khác. Lại tiếp tế...
Cứ thế, mỗi đợt cả tháng trường, chúng
tôi lần mò trong núi. Chỉ những anh bị thương hay sốt rét là có
dịp nhìn thấy phố...
7 năm sau, tôi lại lội trên những con
đường mòn ngày xưa tôi đã dẫn quân đi qua.
7 năm sau, tôi vẫn nhớ đường nào lên
Ðại Nga, hướng nào về Tân Bùi, ngả nào qua Tân Rai.
Lương thực của chúng tôi đã gần cạn.
Giầy vớ, áo quần bắt đầu te tua.
Ngày 30 tháng 3 năm 1975, mặt trời vừa
lên, trong máy nội bộ của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã có tiếng
người trên trực thăng hối thúc:
“Yêu cầu Thái Sơn kiếm bãi đáp nhận chỉ
thị gấp!”
Lúc
đó chúng tôi đang ở gần 1 bãi ngô cũ. Chiếc trực thăng sà xuống.
Người phi công quơ tay ngoắc tôi lia lịa. Tôi bước lên càng máy
bay để nghe anh ta nói:
– Tôi được lệnh quân đoàn lên đón Thiếu
tá về Ðà Lạt. Thiếu tá lên tàu mau đi!
– Thế còn liên đoàn thì sao?
– Chúng tôi chỉ “rescue” một mình Thiếu
tá thôi! Những người khác, bỏ! (Rescue: Cứu)
Tôi xua tay:
– Thôi! Nếu thế thì tôi không đi đâu!
Tôi đang chỉ huy cả ngàn người. Tôi không mặt mũi nào bỏ đi một
mình. Anh về báo với quân đoàn cố gắng bốc tất cả liên đoàn giùm
tôi!
Nói xong
câu đó, tôi bước xuống đất định quay đi thì người phi công cởi
dây đai, mở cửa phi cơ. Anh nhảy xuống đất đứng nghiêm trước mặt
tôi. Giơ tay chào tôi, anh nói lớn:
– Tôi không ngờ giờ này quân đội ta còn
1 vị chỉ huy đáng nể như Thiếu tá! Thiếu tá cho phép tôi chào
kính phục ông và nói lời vĩnh biệt ông.
Người phi công nắm tay tôi lắc lắc mấy
cái rồi anh buông tay tôi ra, leo lên buồng lái. Cả phi hành đoàn
giơ tay vẫy vẫy giã từ. Tôi cũng giơ cái bản đồ vẫy lại. Chiếc
trực thăng cuối cùng của Vùng 2 khuất dần ở chân mây.
Binh nhất Y Don Near mang máy truyền
tin nội bộ của tôi lúc nào cũng đi sát bên tôi. Don đã nghe tất
cả những lời tôi và viên phi công đối đáp với nhau. Chắc nó đã kể
lại chuyện này cho bạn bè.
Trưa hôm đó, lúc dừng quân nghỉ chân,
vài anh lính Rhadé, Jarai đã đến xúm quanh người chỉ huy của họ:
– Ông Thiếu tá ơi! Ðừng bỏ tụi em, tội
nghiệp!
– Ừ!
Thiếu tá không bỏ các em đâu! Thiếu tá lúc nào cũng ở bên các em.
Chúng mình sống chết có nhau!
Nhìn những giọt nước mắt theo nhau lăn
trên những gò má đen đủi của thuộc cấp, tôi thấy lòng mình ấm
lại.
Chúng tôi
đã cạn hết lương thực. Trên đường đi, chúng tôi phải tấp vào
những nương rẫy cũ kiếm rau tàu bay, củ chuối, nấu ăn cho đỡ đói.
Răng người nào cũng đen thui vì nhựa chuối rừng.
Ðiều khổ nhất phải chịu đựng là, sau
khi ăn hoa chuối, cây chuối hay củ chuối thì chất xơ của chuối
làm cho chúng tôi mắc bệnh táo bón. Mỗi khi đi tiêu, chúng tôi
phải ngồi ngâm hậu môn xuống nước, lấy cây cạy phân ra. Hậu môn
đau rát lắm. Ði tiêu xong người nào cũng bước cà náng, hai hàng.
Buổi trưa, tôi đang ngồi bên đường chờ
bát canh rau tàu bay của chú Bích thì Thiếu úy Ðặng Thành Học rón
rén tới gần. Học thì thầm:
– Có con gấu to lắm, trên cây. Thái Sơn
cho phép bắn làm thịt nghe?
Tôi sáng mắt lên:
– Ừ! Bắn đi!
Học vui vẻ phóng về hướng rừng. Lát sau
chú quay lại, mặt tiu nghỉu:
– Thấy con gấu trên cây trong bụi lau,
thằng lính gác muốn bắn, nhưng lại sợ Thái Sơn la. Ðợi khi em xin
phép xong thì con gấu đã chạy mất tiêu rồi!
Tôi thì buồn vui lẫn lộn. Buồn vì mất
ăn 1 bữa thịt gấu. Vui vì tới giờ phút này, tinh thần kỷ luật của
đơn vị tôi vẫn chưa bị lung lay.
Chúng tôi đang ở bên bờ 1 con suối lớn.
Dưới nước, những con cá đuổi nhau có ngời. Tôi chợt nghĩ ra một ý
lạ: Ðốt cá!
Tôi gọi Thiếu tá Tài và Thiếu tá Ðàng sẵn sàng. Tôi ra lệnh cho 3
tiểu đoàn tản xa theo dòng nước.
Mỗi tiểu đoàn trấn giữ 1 khúc suối. Nơi
đầu nguồn của mỗi đơn vị chỉ cần đốt 3 quả lựu đạn M26 là liên
đoàn có 1 bữa cá no nê.
Tôi học được cách “đốt cá” từ khi còn ở
Ðại Ðội Trinh Sát của Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân.
Muốn đốt cá thì làm như sau:
Vặn phần đầu của quả lựu đạn ra, vứt
đi.
Bẻ đầu 1
viên đạn M16 lấy thuốc súng đổ vào lỗ kích hỏa của trái lựu đạn.
Ðốt thuốc súng cho lửa xanh phụt lên.
Quơ qua, quơ lại quả lựu đạn cháy trong
lòng nước. Hơi cay làm cho thủy tộc bị đui. Cá đen, cá trắng,
lươn, cua, rùa, rắn, ếch, nhái, vân vân, con gì trong nước cũng
nổ con ngươi nổi lên mặt nước.
Buổi chiều chúng tôi mỗi người được
chia 1 lon Guigoz cá tươi. Sáng mai chúng tôi lại có sức để lên
đường.
Ngày 31
tháng 3 năm 1975, chúng tôi đang ở trên 1 ngọn đồi cách Bảo Lộc
trên dưới 20 cây số. Từ trên đỉnh, chúng tôi nhìn thấy thung lũng
dưới chân đồi là 1 mật khu trù phú.
Kế hoạch đặt ra như sau: Ðại Ðội 3/82
sẽ tiến sát, rồi bất thần đột kích khu doanh trại chính; mỗi tiểu
đoàn sẽ cắt 20 người tải lương thực về.
Kế hoạch đã được thi hành như dự liệu
và không có gì trục trặc xảy ra.
Ðại Ðội 3/82 thanh toán mục tiêu rất
nhanh.
1 cán
bộ Việt Cộng quần áo bảnh bao đang ngồi bên bàn, chờ ly cà phê
phin nhỏ giọt thì bị 1 viên M16 ghim vào ngực.
2 cán bộ đang cho lợn ăn trưa cũng bị
mỗi tên 1 viên M16 vào ngực.
Mấy anh cán binh đang tưới cây trong
vườn cũng bị mỗi anh 1 viên M16 vào ngực. Cái mật khu dưới kia là
1 trung tâm huấn luyện của Tỉnh Ðội Lâm Ðồng Việt Cộng.
Trung tâm có khoảng trên 300 khẩu súng
gỗ và cả chục khẩu súng thật.
Có 1 khẩu cối 82ly với 1 kho đạn.
Tên Việt Cộng đang chờ uống cà phê có
vẻ là cấp chỉ huy. Những tên khác có lẽ là bọn lo công tác hậu
cần. Bọn bộ đội bảo vệ trung tâm đã xuất trại vắng.
Quân ta làm chủ tình hình một cách lẹ
làng.
Có 1 tai
nạn lúc xung phong: Hạ sĩ Nguyễn Ba trong toán tà lọt của tôi đã
lủi đầu vào một bụi tre. Một cọng tre khô xuyên vào mắt trái của
hạ sĩ. Ðói quá, quên đau, hạ sĩ xung phong bắt được một con gà và
một gốc sắn rồi mới chịu lấy khăn tay bịt một mắt rút lui lên
đồi. Ăn xong bữa thịt gà, hạ sĩ mới nhận ra con mắt bị thương
đang hành hạ anh ta. Cái cọng tre còn lòi ra khỏi hốc mắt Hạ sĩ
Ba cả tấc. Quân Y liên đoàn không dám rút cọng tre khỏi mắt Ba vì
không đủ phương tiện cứu chữa. Họ chỉ dùng kìm cắt cọng tre ngắn
đi cho đỡ vướng.
Vốn là 1 tay viễn thám gan lỳ, người tà
lọt của tôi cắn răng chịu đau, không rên, không khóc. Những ngày
sau đó, hạ sĩ đành quàng súng lên vai, hai tay luân phiên che mắt
đi theo đoàn tùy tùng của Ðại úy Hoàn.
Tôi cũng quên dặn dò các cánh quân coi
chừng bắn gà, bắn heo có thể gây đạn lạc trúng quân ta. Kết quả,
đạn của Ðại Ðội 3/82 đã sượt qua cổ 1 anh lính của Tiểu Ðoàn 63
Biệt Ðộng Quân, thay vì trúng đầu 1 con gà. Người trúng đạn bị
thương nhẹ.
Toán tải lương thực sau cùng của liên đoàn đã rút lui an toàn.
Chiều đó, khi dừng quân, tôi nhận được
1 công điện từ Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2/Hành Quân chỉ định Thiếu tá
Hiện Dịch Vương Mộng Long, Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
tạm thời giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng
Quân.
Tôi mời
Thiếu tá Ðàng và Thiếu tá Tài lên gặp tôi để phân nhiệm. Theo đó,
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân sẽ mở đường, Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng
Quân đi giữa, Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân có nhiệm vụ đoạn hậu.
Ðối với Thiếu tá Nguyễn Hữu Tài, tôi
không gặp trở ngại gì về vấn đề chỉ huy, vì anh Tài là Tiểu đoàn
phó Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi trước khi thuyên chuyển
qua Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân làm Tiểu đoàn phó cho Thiếu tá
Hoàng Ðình Mẫn.
Vài ngày trước, tôi đã chứng kiến cảnh
Biệt Ðộng Quân hoan hô người đàn bà can đảm của Tiểu Ðoàn 81 Biệt
Ðộng Quân trên bãi trực thăng, vì thế tôi không ngạc nhiên khi
thấy chị ta cũng có mặt trong đoàn người mặt mày hí hửng đang từ
dưới chân đồi hì hục leo lên.
Tôi không cho lệnh đốt khu doanh trại,
vì ngại khói đen bốc cao có thể thu hút sự chú ý của các đơn vị
Việt Cộng ở xa. Tôi không muốn đụng đầu với quân cứu viện của
chúng lúc này.
Khi rút lui, Trung úy Phước đã sơ ý
không phá hủy cái kim hỏa của khẩu súng cối. Vài giờ sau khi
chúng tôi rút đi thì đạn cối 82ly bắt đầu câu theo đít quân ta.
Chúng tôi nhanh chân vượt qua 2 ngọn
đồi, rồi chui vào sâu trong rừng lau sậy.
Trời vừa tối. Tôi cho lệnh dừng quân
căng lều. Rừng bao la, đạn cối của Việt Cộng “ùm! ùm!” rơi bâng
quơ trong núi.
Ngày 1 tháng Tư năm 1975, lên đường!
Sáng nay mọi người đều no bụng. Ðoàn
quân tìm lại được cái vẻ oai phong, khí thế ngày nào!
Ðội hình một hàng dọc! Thứ tự như cũ!
Cứ theo hướng mặt trời mọc mà đi! Cứ men theo bờ Ða Dung mà tìm
đường về quận lỵ Di Linh.
Binh nhì viễn thám viên Triệu Tân mở
đường. Người thứ nhì là Thiếu úy Ðặng Thành Học. Người thứ ba là
tôi. Sau tôi là thằng Y Don Nier. Sau thằng Don... là đoàn rồng
rắn lên mây, cả liên đoàn hàng dọc.
Ðường độc đạo, 2 bên là lau sậy và gai
mắc cỡ. Nếu cứ tính lộ không trung bình mỗi người cách nhau 3
mét, thì toán đi đầu của tôi cách toán đi chót của Thiếu tá Ðàng
phải trên 2 cây số.
Tới chiều thì chúng tôi bắt đầu đi lên
1 cái dốc khá cao. Tình hình vẫn yên tĩnh! Trời đẹp quá! Trên
không mây trắng vài sợi bay lờ lững. Gió nhẹ như ru. Thông ngàn
reo vi vu. Chim chóc hót vang lừng. Nếu là thuở thanh bình thì
cảnh này thật lý tưởng cho các thi nhân lang thang đi tìm ý
thơ...
“Choác!” thằng Tân té ngửa!
Tôi và Thiếu úy Học khựng lại. 1 giây
sau, tôi và chú Học mới bóp được cò 2 khẩu M16 theo phản xạ, nhắm
về hướng bụi cây um tùm bên phải dốc.
Ðạn trúng tảng đá trong bụi rậm. Ðạn
văng ngược ra đường xoáy trong không khí, kêu “Tăng! Tăng! ...
Tằng! Tằng!” rồi... “Xèo!” chui xuống cỏ.
Toán viễn thám của Hạ sĩ Tuấn phóng
nhanh lên dốc, vừa chạy vừa bắn.
Toán viễn thám chiếm được đỉnh dốc,
nhưng tên bắn tỉa đã cao bay.
Viên đạn súng trường Nga trúng ngay
giữa trán Triệu Tân. Cái nón sắt vỡ. Cái vỏ đạn bằng đồng đỏ còn
nóng hổi, nằm trên mặt đất sau tảng đá.
Chỉ với 1 viên đạn, Thượng Cộng đã loại
ra ngoài vòng chiến 1 viễn thám viên lợi hại của đơn vị tôi.
Khi đại đội của Thiếu úy Học đã bố trí
an ninh xong, chúng tôi tạm dừng để an táng Biệt Ðộng Quân Triệu
Tân.
Cặp thẻ
bài đeo trên cổ Triệu Tân bị chia đôi, một chôn theo người chết,
một cất trong ba lô của Ðại úy Hoàn, Tiểu đoàn phó.
Tôi cho liên đoàn chiếm lĩnh ngọn đồi
để nghỉ qua đêm.
Ðêm đó toán viễn thám của Hạ sĩ Tuấn âm
thầm lên đường. Ðiểm tới là triền dốc cuối ngọn đồi, cách chỗ
chúng tôi dừng quân gần 2 cây số.
Mờ sáng hôm sau 1 quả Claymore nổ. Tên
Thượng Cộng đang nửa đường lên dốc lãnh nguyên trái mìn cơ động,
khẩu súng trường bá đỏ văng trên bãi cỏ bên đường: Có vay có trả!
Sáng ngày 2 tháng Tư năm 1975, vừa
xuống tới chân dốc, tôi báo cho 2 tiểu đoàn đi sau chuẩn bị đánh
lạc hướng địch.
10 năm phục vụ ở Vùng 2, tôi đã hướng
dẫn nhiều quân nhân dưới quyền thành thạo nghệ thuật xóa dấu vết
khi di chuyển trong rừng.
Hôm nay liên đoàn bị 1 phen vất vả.
Ðoàn quân đang đi hàng dọc thì được lệnh dừng lại, chuyển thành
hàng ngang, đâm thẳng xuống suối. Tới suối lại được lệnh lội hàng
dọc trong lòng suối. Lội được khoảng nửa cây số lại có lệnh
chuyển hàng ngang leo lên đỉnh. Khi lên tới đỉnh, đoàn quân lại
chuyển thành hàng dọc.
Phải ma mãnh như thế mới đánh lạc được
sự theo dõi của Thượng Cộng.
Vì di chuyển vòng vo tránh vùng địch
hiện diện, nên chúng tôi dạt về hướng Tây hơi xa.
Buổi trưa, tôi thấy đồn Tân Rai sừng
sững bên phải trục tiến quân của mình. Như vậy chúng tôi còn cách
thành phố Blao trên chục cây số.
Nhưng khi nhìn thấy đồn Tân Rai đã bị
bỏ trống, trên cột, lá cờ vàng ba sọc đỏ còn bay, thì chúng tôi
chỉ đứng xa mà ngó, chứ không dám leo lên. Mìn bẫy ai mà lường
cho được!
Tôi
cho quân chuyển hướng về Nam. Xế chiều, chúng tôi đã ở trên 1
đỉnh đồi nằm về hướng Tây Bắc của phi trường Con Hinh Ða.
Thành phố Blao nằm dưới kia, ngay trước
mặt!
Từ trong
phố, vẳng lại tiếng trống múa lân “thùng! thùng!”
Trước cửa vài ngôi nhà lác đác cờ bay,
cờ nửa xanh, nửa đỏ, sao vàng. Blao đã rơi vào tay giặc!
Chúng tôi đành quay sang hướng Ðông,
tìm đường lên Ðức Trọng, Liên Khương. Không biết tình hình Ðà Lạt
ra sao? Thôi thì, nước còn, ta cứ tát! Hy vọng, có còn hơn không!
Bụng tuy đói cồn cào, nhưng chân chúng tôi vẫn cố gắng bước lên.
Ðêm 2 tháng Tư năm 1975, trong khi dò
tìm tần số đài phát thanh Sài Gòn, chiếc radio cầm tay của tôi
bắt được 1 bản tin phát đi từ Lộc Ninh qua Ðài Tiếng Nói Của Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam.
Chương trình tối nay của đài cứ lặp đi,
lặp lại lời kêu gọi của 1 thiếu úy trực thuộc Tiểu Ðoàn 81 Biệt
Ðộng Quân vừa ra đầu hàng quân Giải Phóng.
Anh thiếu úy này hết lời ca ngợi Quân
Ðội Giải Phóng đã đối xử vô cùng nhân đạo với anh ta và 2 người
dưới quyền đã theo anh ta ra đầu hàng.
Anh ta còn lớn tiếng thiết tha kêu gọi
những Biệt Ðộng Quân còn lại của Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân hãy
noi gương anh ta, mau mau ra đầu thú để khỏi bị chết đói ở trong
rừng.
Trưa
ngày 3 tháng Tư năm 1975, cánh quân đầu của tôi tới sát Liên tỉnh
lộ 8B. Nơi này cách quận lỵ Di Linh chừng 5 cây số. Bên kia lộ là
vườn trà. Trà bạt ngàn.
Hướng Tây Nam con lộ là rừng tre. Chúng
tôi núp trong rừng tre.
Ngoài đường cơ giới địch chạy ầm ầm.
Chờ tới gần tối, tôi đem theo Thiếu úy
Học và 1 toán cận vệ xuống thám sát con đường.
Khi chúng tôi đang kẹt giữa đường thì 1
chiếc xe tải đi tới.
Toán cận vệ Biệt Ðộng Quân bắn đại vào
đầu xe. Chiếc xe bể máy, xẹp lốp ngừng ngay giữa đường. 2 tên
Việt Cộng ngồi ghế trước chết ngay tại chỗ.
Chúng tôi chưa kịp kiểm soát trên xe
chứa gì thì nghe tiếng đàn bà và trẻ con khóc ré lên trong xe; xe
chở toàn đàn bà và con nít!
Tôi không biết vì sao trong chiếc xe
Zin của Việt Cộng lại đầy con nít, đàn bà?
Tôi gọi anh em rút êm về hướng cũ.
Chúng tôi nhanh chân lui lại hướng Tây chừng 1 cây số, ngủ trong
rừng trà.
Từ
radio, đài BBC loan tin thành phố Ðà Lạt mất!
Bây giờ chúng tôi chỉ còn cách bỏ núi,
tìm đường ra biển.
Ngày 4 tháng Tư năm 1975, chúng tôi di
chuyển thật chậm trong rừng thông và rừng cỏ hôi. Vùng này nằm
giữa Di Linh và Bảo Lộc. Hướng tiến bây giờ là Ðông Nam. Tôi hy
vọng tìm được đường tới Liên Ðầm. Rồi từ Liên Ðầm lủi trong rừng
tre chuồn về Gia Bắc, xuống Thiện Giáo, Phan Thiết.
Trưa đó toán đi đầu của tôi mới ló đầu
ra 1 trảng trống thì nghe tiếng súng trường Nga bắn “tắc! bụp!”
Có người đi săn gần đây!
Vừa quẹo qua một cái cua đường mòn,
Binh nhất Yang đi đầu chạm trán một cán binh Việt Cộng ngồi câu
cá trên một cái cầu ván bắc ngang con rạch nhỏ.
Tên Việt Cộng không ngờ trong rừng còn
có quân lính Việt Nam Cộng Hoà! Y há hốc mồm nhìn sững cái phù
hiệu đầu cọp nhe nanh trên mũ sắt của Binh nhất Yang. “Ðoàng!”
thằng Việt Cộng rớt xuống rạch. Nước trong rạch không sâu lắm, cỡ
đầu người.
Chúng tôi núp trong lùm tre nhìn về hướng đồn điền trà trước mặt.
Trời! Việt Cộng đâu mà nhiều thế! Lều
bạt, xe cộ, phòng không, đại bác, xe tank, xe xích kéo pháo và
tải đạn, đậu sát rạt nhau theo các đường phân lô trà. Bóng người
qua lại lố nhố. Ðơn vị Cộng Sản Bắc Việt này cũng cỡ một E pháo
(trung đoàn pháo). Như vậy gần đây cũng phải có ít nhất là một E
bộ binh yểm trợ cho cái E pháo nặng trước mắt tôi!
Trên cái đồn điền trà bát ngát đó, chỗ
nào cũng có bộ đội. Chúng nói chuyện ồn ào huyên náo tự nhiên như
đang ở giữa Hà Nội.
Chẳng đứa nào để ý tới tiếng súng của
Binh nhất Yang. Chắc chúng tưởng đó là tiếng súng bắn chim trời,
gà rừng của đồng bọn?
Trong tình cảnh đó, tôi thấy chỉ có
cách áp dụng chước thứ 36 trong tam thập lục kế là tốt nhất. Tôi
ra dấu cho mọi người đánh bài tẩu mã.
Anh Thiếu tá Ðàng đi đoạn hậu, còn ở
tít đằng sau xa, chẳng hiểu ất giáp gì. Thấy tôi hối hả ra lệnh
“chém vè” càng nhanh càng tốt, anh cũng cho đàn em vắt giò lên cổ
chạy theo tụi tôi. (Chém vè: Danh từ Việt Cộng, có nghĩa là rút
chạy.)
Sau đó,
nương theo rừng thông, chúng tôi từ từ di chuyển ngược về Tây
Nam, băng qua các vườn trà Bắc Blao và Bắc Tân Bùi.
Dự trù, qua khỏi Tân Bùi, tôi sẽ lấy
Quốc lộ 20 làm chuẩn. Nếu thuận tiện, chúng tôi đổ dốc xuống
Thiện Giáo. Nếu có trở ngại, chúng tôi sẽ cặp quốc lộ để về Gia
Kiệm.
Ðoàn
quân tiếp tục đi suốt đêm.
Mờ sáng ngày 5 tháng 4 chúng tôi đang
nghỉ chân trên 1 khu đồi thông thì nghe hướng chân đồi, trên con
đường xe be có tiếng người nói chuyện. Tôi cho lệnh Thiếu úy Ðặng
Thành Học dẫn theo 1 trung đội theo dõi đoàn người này.
Mấy phút sau có tiếng súng bắn “Cành!
Cành!” và tiếng hét “Sát! Sát!” âm vang trong núi...
Thiếu úy Học không đem theo máy truyền
tin, nên tôi chẳng biết chuyện gì đã xảy ra.
Chừng 15 phút kế đó, mười mấy ông Biệt
Ðộng Quân vừa thở, vừa leo lên đồi.
Học gạt mồ hôi trên trán, báo cáo với
tôi:
– Trình
Thái Sơn, tôi xuống tới đường thì đoàn người dưới đó đã đi tới
khúc quanh. Chắc tụi nó là dân công Việt Cộng, có cả phụ nữ đội
nón lá. Tui cho lệnh bắn chỉ thiên để ra lệnh cho bọn họ dừng lại
thì họ quăng hết đồ đạc, rồi chạy luôn! Tôi kiểm soát chiến lợi
phẩm, chỉ thấy mấy cái đầu máy may, mấy cái radio, mấy cái đồng
hồ treo tường, mấy cái nón lá, mấy cái áo tơi... Chẳng có thứ gì
ăn được cả! Chúng tôi đói quá, chạy một hơi là mệt, đành bỏ cuộc!
Tôi an ủi Học:
– Xui quá! Phải chi đám dân công này mà
đang làm công tác vận tải lương thực thì hay biết mấy!
Tôi thấy, cứ như những gì mà chú Học
vừa nói thì bọn Việt Cộng đi dưới đường chắc chắn mới trở về từ
thị xã Bảo Lộc. Thành phố Bảo Lộc đã bỏ ngỏ nên trở thành mục
tiêu cho bọn thổ phỉ cướp phá.
Tôi đoan chắc rằng, sau khi chúng tôi
đi khỏi đây, thế nào chúng cũng mon men quay lại để tìm kiếm
những gì mà chúng vừa vứt bỏ.
Hướng Tây Nam của chúng tôi là những
rặng đồi cuối cùng của Cao Nguyên Bảo Lộc.
Tôi biết chắc chắn rằng bên trái những
rặng đồi xanh đó là Ðèo Chuối. Rừng chuối, rừng tre vùng này thì,
eo ơi! Vắt nhiều không đâu bằng!
Trưa ngày 5 tháng Tư năm 1975, tôi đang
suy tính làm cách nào an toàn đưa liên đoàn băng qua Quốc lộ 20
thì trong tần số 47.70 có người gọi Thái Sơn.
Tần số 47.70 là tần số đặc biệt của
tôi, chỉ có tôi và Trung tá Hoàng Kim Thanh, Liên đoàn trưởng
Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân biết mà thôi.
Tần số này chỉ dùng trong trường hợp
nguy biến hay bị thất lạc.
Tôi mừng rỡ vô cùng khi nhìn thấy bóng
dáng một chiếc máy bay L19 đang bay lững lờ trên vùng trời hướng
Ðông. Chiếc thám sát cơ L19 này trực thuộc Quân Ðoàn III.
Sau này tôi được biết, trên đường theo
đoàn người di tản từ Ðà Lạt về Nha Trang, Trung tá Hoàng Kim
Thanh, Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân đã tới trình
diện Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Khu 3 đang đi thị
sát mặt trận. Trung tá Thanh đã báo cáo cho Tướng Toàn hay rằng,
Thiếu tá Vương Mộng Long đang chỉ huy 3 tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân
còn phiêu bạt ở trong rừng. Ông Thanh đã xin ông Toàn cho máy bay
đi tìm cứu chúng tôi.
Trung tá Thanh đã cung cấp đặc điểm
nhận ra tôi là: “Thái Sơn nói tiếng Bắc 54” trên tần số truyền
tin cố định FM 47.70.
Từ 31 tháng 3 năm 1975, mỗi chiều dừng
quân, tôi đều bắt thằng Y Don Nier gắn cây ăng ten 7 đoạn vào đầu
1 cành cây cao rồi phát đi trong thời gian dài đúng 1 tiếng đồng
hồ cái điệp khúc:
“Mayday! Mayday! Ðây là Liên Ðoàn 24
Biệt Ðộng Quân!”
Thế rồi, 1 hôm, đài kiểm thính của ta
đã bắt được lời kêu cứu ấy:
“Mayday! Mayday! Ðây là Liên Ðoàn 24
Biệt Ðộng Quân!”
Tin tức này được trình cho Trung tướng
Tư Lệnh Quân Ðoàn III.
Ngay sau đó, Chuẩn tướng Lê Minh Ðảo,
Tư Lệnh Sư Ðoàn 18 Bộ Binh được ủy thác nhiệm vụ tìm cứu đơn vị
này.
Trung tá
Nguyễn Khoa Lộc, khóa 18 Võ Bị, Liên đoàn phó Liên Ðoàn 33 Biệt
Ðộng Quân đã được chỉ định bay trên trinh sát cơ L19 từ sáng cho
tới tối mỗi ngày để tìm kiếm chúng tôi.
Suốt thời gian này Trung tá Lộc trú ngụ
trong tư dinh của Ðại tá Phạm Văn Phúc, Tỉnh trưởng Tỉnh Long
Khánh.
Vì Ðịnh
Quán, Phương Lâm, Blao, Di Linh, Ðà Lạt, đã rơi vào tay Cộng
Quân, nên tất cả những phi cơ dám mạo hiểm bay trên Quốc Lộ 20,
vùng giáp ranh Lâm Ðồng và Long Khánh đều có thể bị phòng không
bắn rơi bất cứ lúc nào.
Vậy mà ròng rã 3 ngày, Trung tá Nguyễn
Khoa Lộc đã gồng mình liệng tới liệng lui trên trời, cố tìm dấu
tích bạn.
Sau
khi bắt được liên lạc với anh Lộc, sợ địch phát giác ra vị trí
bãi đáp, tôi phải dẫn theo 1 toán viễn thám tiến ra giữa 1 bãi
tranh để chiếu gương cho máy bay, thay vì dùng lựu đạn khói.
Thấy chắc ăn rằng dưới đất là quân ta,
anh Nguyễn Khoa Lộc mới chịu bay đi, hẹn ngày hôm sau sẽ gặp lại.
Tôi loan báo tin vui này cho anh Ðàng
và anh Tài. Cả liên đoàn như hồi sinh.
Sau đó, tôi cho quân tấp vào bìa rừng
nghỉ qua đêm chờ mai ra bãi bốc.
Ðêm đó là lần đầu, tôi, anh Tài, và anh
Ðàng đóng quân chung. Ðó cũng là lần đầu chúng tôi có thời giờ
kiểm điểm lại quân số một cách kỹ càng sau gần nửa tháng vất vả,
gian nan.
Tôi
cám ơn Niên Trưởng Trần Ðình Ðàng đã phụ giúp tôi một cách rất
đắc lực trong vai trò đoạn hậu vô cùng khó khăn. Với những đức
tính can đảm, kiên nhẫn, chịu đựng, và khiêm nhường, Thiếu tá
Ðàng là tấm gương tốt cho những người khác nhìn vào, cảm phục và
noi theo.
Quân
số Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân còn duy trì gần như toàn vẹn, phần
lớn nhờ vào công lao của Niên Trưởng Trần Ðình Ðàng, Khóa 15 Võ
Bị.
Trưa ngày
6 tháng Tư năm 1975 Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân được Phi Ðoàn 237
trực thăng Chinook của Quân Ðoàn III bốc ra phi trường Phan
Thiết. Ðổ xăng xong, trực thăng lại chở thẳng chúng tôi về Xuân
Lộc tăng phái Sư Ðoàn 18 Bộ Binh.
Hôm sau, những quân nhân của 2 tiểu
đoàn còn lại cũng được trực thăng bốc về Phan Thiết.
Khoảng 5 giờ chiều ngày 6 tháng 4 năm
1975 chúng tôi đặt chân xuống phi trường Long Khánh.
Một cuộc lui binh nghiệt ngã đã đưa tôi
tới chốn này. Quanh đây, tôi chỉ thấy một dải bình nguyên ngút
ngàn đồng cỏ. Tìm đâu những rặng Chư–Prong, Chư Gô suốt mùa sương
phủ, mây che? Tôi đã thực sự lìa rừng, xa núi. Từ nay vĩnh biệt
Pleime!
Tôi
hiểu rằng chiến trận không dừng ở đây. Vì tôi biết 1 tướng hàng
đầu Cộng Sản đã tuyên bố:
“Muốn giải phóng Miền Nam, trước hết
phải đặt bàn chân phải lên Tây Nguyên, sau đó đặt bàn chân trái
lên Duyên Hải” (Võ nguyên Giáp).
Chúng tôi đã bình thản đợi chờ những
trận đánh mới.
Tháng Tư 1975, những người lính của
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân gốc Kinh, Thượng Rhadé, Jarai, Bana
của căn cứ Biên Phòng Pleime đã chiến đấu 1 cách tuyệt vọng,
nhưng với 1 phong cách thật tuyệt vời.
Chúng tôi đã không bỏ nhau. Theo chân
nhau, chúng tôi đã ngã xuống, từng ngày. Máu chúng tôi đã tưới
đẫm từng ngọn đồi, từng đoạn đường, từng khu phố để ngăn bước
giặc tràn vào Xuân Lộc, Ðồng Nai, Sài Gòn.
Vương Mộng Long – K20
Seattle, ngày 21 tháng Tư năm 2006
(Nhuận sắc tháng Ba năm 2021)
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by CATHY chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, March 4,
2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang