Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tự
Truyện
Chủ đề:
lính kể chuyện chiến
trường xưa
Tác giả:
Vương Mộng
Long/K20
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Mục Lục
Kỳ 1
Kỳ 2
Kỳ 3
Kỳ 4
Kỳ 5
Kỳ 6
Kỳ 7
Kỳ 8 & Hết
Kỳ 1
Đường về Gia Nghĩa
Vương Mộng Long
Chiến tranh Việt Nam chấm dứt đã gần nửa thế kỷ rồi. Nhưng đối với những cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, thì kỷ niệm của những ngày gian khổ ấy không dễ gì có thể bị xóa nhòa trong ký ức của họ. Mỗi trang hồi ký của những người tham chiến chính là những tiểu đoạn của bộ phim dài ghi lại toàn bộ những gì đã xảy ra trong cuộc chiến đẫm máu kéo dài hai mươi năm trên đất nước chúng ta.
Gặp mặt đồng
đội mới...
Sau
chiến thắng Pleime 1974, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi được
thưởng ba ngày nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ. Hậu cứ của tiểu đoàn
nằm ngay cổng vào Phi Trường Dân Sự Pleiku. Trong ba ngày 16, 17,
18 tháng 9 năm 1974 này, từ ông Đại úy Tiểu đoàn phó trở xuống
đều được phép rong chơi trong phố, tới chiều thì về tập họp, rồi
được phân phối từng toán năm, bảy người, lên xe, đi dự tiệc do
các hội đoàn Dân Chính hay Doanh Gia tư nhân của Thành phố Pleiku
khoản đãi.
Riêng cá nhân tôi, Thiếu tá Vương Mộng Long, Tiểu đoàn trưởng,
lại bận rộn đầu tắt, mặt tối, liên miên, suốt ngày.
Ngoài công việc thăm thương binh, thăm
gia đình tử sĩ, ký phúc trình tổn thất, ký đề nghị thăng thưởng,
tôi còn một công việc cấp thiết phải làm là “thẩm vấn” những quân
nhân vừa được bổ sung.
Theo thông lệ, mỗi khi có quân nhân mới
đáo nhậm đơn vị, tôi phải đích thân tiếp chuyện quân nhân đó vài
ba phút, để biết anh ta là người như thế nào, rồi sắp xếp cho anh
ta vào vị trí thích hợp.
Kỳ này tiểu đoàn tôi được bổ sung 150
quân nhân, gồm có hai sĩ quan, hai hạ sĩ quan, số còn lại là tân
binh quân dịch từ Trung Tâm Huấn Luyện Lam Sơn chuyển tiếp cho
Biệt Ðộng Quân.
Nếu chỉ bỏ ra năm phút để tiếp xúc với
một người, thì tôi cũng phải tốn ba buổi sáng, mỗi buổi bốn tiếng
đồng hồ mới gặp đủ 150 ông Biệt Ðộng Quân mới tới.
Ngày đầu tôi nói chuyện với những quân
nhân này là 16 tháng 9 năm 1974. Ðây cũng là ngày đã ghi lại vài
kỷ niệm mà suốt đời tôi còn nhớ.
Người thứ nhất bước vào văn phòng là
một thiếu úy từ Vùng 3 ra, anh ta tên Ðặng Thành Học, quê quán
Long An. Anh thiếu úy này trông đẹp trai như tài tử Anthony
Perkins thời còn trẻ.
– Vì lý do gì chú bị đưa ra Vùng 2.
Nhìn Học, tôi từ tốn hỏi.
– Dạ! Thưa Thiếu tá tui trình diện trễ
sau khi mãn khoá Rừng Núi Sình Lầy. Học vừa cười hì hì vừa trả
lời tôi.
– Nếu
không thích ở đây thì chú viết đơn khiếu nại, tôi sẽ chuyển tiếp
và cho chú về liên đoàn, chờ quyết định của cấp trên. Ai không
muốn làm việc với tôi, tôi sẵn sàng ký sự vụ lệnh hoàn trả, không
lưu giữ. Ðặc biệt là sĩ quan, tôi tuyệt đối dễ dãi, cho đi ngay!
– Thiếu tá cho tui ở đây với thiếu tá.
Mắt nhìn ngay mặt tôi, miệng Học vẫn cười.
Tôi bắt tay Thiếu úy Học,
– Tôi biết chú đã từng làm đại đội
trưởng, vậy thì ngay chiều nay chú thay Thiếu úy Lê Ðình Khay chỉ
huy Ðại Ðội 1. Ông Khay mới được gọi đi học khoá Rừng Núi Sình
Lầy, Dục Mỹ.
Từ ấy, Thiếu úy Ðặng Thành Học trở thành một trong những đàn em
thân thiết của tôi; Học đã cùng tôi chiến đấu quên mình trong
suốt những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam.
Người thứ nhì giáp mặt tôi sáng hôm đó
là Trung úy Võ Hữu Danh. Trung úy Danh là đàn em khoá 25 Võ Bị
của tôi. Chú Danh đã nghe biết tên tôi từ trước ngày chú ấy nhận
lệnh thuyên chuyển về đơn vị này. Do đó thời gian tiếp xúc với
Danh không dài. Tôi cho chú Danh coi Ðại Ðội 2 thay thế Trung úy
Nguyễn Hữu Anh. Ông Anh vừa nộp đơn xin về phục vụ đơn vị địa
phương nơi nguyên quán của ông ta.
Xem
thêm: Đường về Gia Nghĩa (kỳ 5)
Tiếp theo là hai hạ sĩ quan, một trung
sĩ người Quảng và một trung sĩ người Thượng.
Anh trung sĩ người Thượng vào trình
diện trước. Anh này nước da đen đủi, nhỏ con nhưng dáng bộ rất
lanh lẹ.
–
Trung sĩ Y Thon Nier trình diện ông thiếu tá.
– Ngồi xuống ghế đi! Trung sĩ từ đâu
tới?
– Thưa
ông Thiếu tá! Tui từ Tiểu Ðoàn 22 tới.
– Lý do thuyên chuyển?
– Tui xin ông Ðại tá! Ông Ðại tá cho
tui về ở với ông Thiếu tá!
– Tại sao Trung sĩ lại muốn về ở với
Thiếu tá?
–
Tui là lính của ông Thiếu tá mà! Tui thương ông Thiếu tá tui mới
xin về 82.
–
Trung sĩ là lính của Thiếu tá hồi nào? Thiếu tá không biết trung
sĩ là ai cả!
–
Thì năm 1971 tui là Binh nhất, lính của ông Thiếu tá ở Tiểu Ðoàn
4 Mike Force đó!
Tôi ngẩn người.
– Vậy chứ mi ở đại đội nào?
Anh trung sĩ người dân tộc Ra Ðê chợt
đứng dậy, bước tới trước bàn giấy của tôi; anh giơ hai bàn tay
cháy nắng, sần sùi, vừa nắm, vừa bóp nhè nhẹ bàn tay trái của tôi
đang đặt trên bàn, rồi cúi mặt, sụt sịt khóc.
– Hồi đó ông thầy là Ðại úy Tiểu đoàn
trưởng của tui! Tui là lính tải đạn đại liên cho khẩu M60 của Ðại
Ðội Chỉ Huy và Công Vụ. Ông thầy quên tui rồi sao?
Tôi bóp trán hồi tưởng lại chuyện bốn
năm về trước. Lính của tôi thời đó, chín mươi phần trăm là dân
thiểu số với đủ thứ dân khác nhau, nào là người Ra Ðê, người Ja
Rai, người Stieng, người Ba Na, người Hời, người Nùng, người
Thái, người Miên, anh nào trông cũng giống anh nào, khó mà phân
biệt.
Mặt của
hai ông sĩ quan người Thượng Ra Ðê và ông hạ sĩ quan thường vụ
tiểu đoàn người Chàm mà tôi còn không nhớ, thì làm sao tôi nhận
ra anh binh nhứt vác đạn đại liên?
Nhưng nhìn vào bộ dạng chân chất, mộc
mạc, vô tư của người lính Ra Ðê này, tôi không đang tâm nói thật
với anh ta rằng tôi không nhận ra anh ta là ai.
Tôi đành dối lòng, nghiêng đầu, gật gù,
rồi dịu dàng nói với anh ta:
– Mi là thằng Thon tải đạn! Ðúng rồi!
Thiếu tá nhớ ra rồi! Thôi! Nín đi Thon!
Nghe được những lời này, mặt Y Thon
Nier rạng rỡ hẳn lên, nó toét miệng, nhe răng ra cười, hàm răng
của nó bị cà, chỉ còn một nửa chiều cao.
Tôi đứng dậy, nhìn vào khuôn mặt đen
đủi, nhạt nhòa nước mắt của người đàn em mà lòng chợt thấy lâng
lâng một cảm giác êm đềm pha lẫn chút ngậm ngùi.
Chắc thằng Thon cảm động lắm khi tôi
gọi nó là “Thon” mà không gọi nó là “Y” hay “Nier” chỉ vì trong
thời gian chỉ huy Tiểu Ðoàn 4 Mike Force tôi đã học được chút ít
về lịch sử các dân tộc thiểu số ở Cao Nguyên.
Người Ra Ðê đa phần mang họ Nier, con
trai thì có chữ lót là Y giống như dân người Kinh có chữ lót là
Văn còn con gái có chữ lót là H’ hay Hờ, đồng nghĩa với chữ Thị
của dân Kinh.
Ngày Tiểu Ðoàn 4 Mike Force giải tán, tôi trở về Bộ Chỉ Huy Biệt
Ðộng Quân/Quân Khu 2 đảm nhận chức vụ Trưởng Phòng 2.
Tôi ra đi rồi, thì quân số của ba Ðại
Ðội 1, 2, 3 trực thuộc Tiểu Ðoàn 4 Mike Force được xé lẻ, bổ sung
cho các Tiểu Ðoàn 11, 22, 23 Biệt Ðộng Quân. Riêng Ðại Ðội 4 của
Trung úy Thuận được sáp nhập vào Ðại Ðội Chỉ Huy và Công Vụ của
Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân.
Thời gian sau, tôi được thông báo rằng
một ông cựu đại đội trưởng là Thiếu úy Ngọc tức Y Ngok Nier đã
đào ngũ ngay sau khi trình diện Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân.
Ba ông khác là Trung úy Ðức tức Y Dok
Nier, Trung úy Thuận, và Trung úy Trình đã theo nhau đền nợ nước.
Ba năm đi qua, thuộc cấp cũ của tôi ở
Tiểu Ðoàn 4 Mike Force đã chết nhiều lắm rồi; không ngờ anh lính
tải đạn đại liên vẫn còn sống; nay anh ta lại tìm tới đơn vị này
để được ở với tôi.
Xem thêm: Đường về Gia Nghĩa (kỳ 8)
Thế là từ đây, với người lính Thượng
này, không cần huấn luyện, không cần thử lòng, bên cạnh tôi đương
nhiên có thêm một đồ đệ có thể tin tưởng được, có thể trông cậy
được mỗi khi gặp cảnh hiểm nghèo.
Tôi dang tay vỗ nhè nhẹ lên vai Thon
rồi ôn tồn:
–
Xuống tìm gặp Thiếu úy Lý Ngọc Châu, bổ sung cho tiểu đội cận vệ!
Suốt thời gian mười năm chỉ huy đơn vị,
tôi chưa từng đem một người lính nào về làm việc nhà. Nhưng đi
hành quân thì vây quanh tôi có nhiều người lắm!
Hiện thời, tháng 9 năm 1974, những
người này được đặt dưới quyền chỉ huy của một ông chuẩn úy, sau
là thiếu úy, tên ông ấy là Lý Ngọc Châu. Ông Châu bằng tuổi tôi;
ông là một thầy giáo ở Nam Vang, Cao Miên. Thời người Việt bị
“cáp duồn” ông đem gia đình bỏ chạy về Sài Gòn. Về nước ông Châu
bị gọi nhập ngũ vào Trường Thủ Ðức học một khoá quân sự để làm
chuẩn úy. Mãn khoá ông bị “Cọp liếm” phải ra đơn vị Biệt Ðộng
Quân. (Cọp liếm: Tiếng lóng, có ý nói gia nhập binh chủng Biệt
Ðộng Quân)
Qua
một trận đánh, tôi thấy ông chuẩn úy này quờ quạng quá, nếu để
ông ta ở vị trí tác chiến thì không sớm thì chầy, ông ta cũng đền
nợ nước, nên tôi cho ông ấy đảm nhận chức vụ sĩ quan Phòng thủ
của tiểu đoàn.
Dưới quyền ông Châu có 11 ông lính, lo
công tác canh gác đêm, ngày, lo cả công tác lều võng và cơm nước
cho tôi.
Nay
tôi tăng cường thêm anh Trung sĩ Y Thon Nier, xạ thủ súng M79,
thế là ông Châu có 12 thuộc hạ.
Người trình diện kế tiếp là một trung
sĩ người Kinh gốc Quảng Nam. Anh trung sĩ này mặt mày sáng sủa và
trắng trẻo như một thư sinh, tôi thấy mặt anh ta có vẻ quen quen.
– Trung sĩ Nguyễn Minh trình diện thiếu
tá!
– Ngồi
xuống ghế đi Minh! Hình như tôi có gặp anh ở đâu đó rồi?
– Năm 1972 Thiếu tá còn là Ðại úy
Trưởng Phòng 2, em là hạ sĩ quan mật mã của Ðại Ðội Truyền Tin
Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2. Ngày nào em cũng gặp Thiếu tá trong
Trung Tâm Hành Quân của Bộ Chỉ Huy.
– Lý do gì cậu bị xuất ngành Truyền Tin
phải ra tác chiến?
– Dạ! Em cũng chẳng biết vì răng mà em
bị cho xuất ngành. Em có mẹ già và ba đứa em nhỏ ở Nghi Xuân. Em
đã làm đơn xin về phục vụ Tiểu Khu Quảng Ðức nhưng chưa biết kết
quả.
– Vậy cậu
về Ðại Ðội Công Vụ ở tạm với Thiếu úy Hoàng, anh sẽ sắp xếp lại
sau.
Trung sĩ
Minh vừa khuất bóng thì Trung sĩ Ðốc, hạ sĩ quan quân số rời bàn
làm việc bước tới, trình cho tôi một văn thư mật. Trên văn thư có
ghi rõ ràng lý lịch của Trung sĩ Minh: Anh này vốn là một hạ sĩ
quan mật mã của Ðại Ðội Truyền Tin Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2. Anh
ta có thân nhân đi tập kết năm 1954.
Lý do thuyên chuyển: Vì nghi ngờ có
dính dáng tới những tiết lộ đặc lệnh truyền tin trong thời gian
gần đây nên An Ninh Quân Ðội đề nghị đưa Trung sĩ Minh ra đơn vị
tác chiến.
Trung sĩ Minh ở Liên Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân được hai tháng thì
tiếp tục bị chuyển tiếp tới Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi.
Tiếp đó, tôi phải tạm ngừng công tác
tiếp xúc những quân nhân vừa đáo nhậm để tiếp chuyện hai người
đàn bà, thân mẫu của hai Biệt Ðộng Quân trong đơn vị.
Bà thứ nhất là phu nhân của Thiếu tá Lê
Văn Ky, nguyên là Tham mưu trưởng Tiểu Khu Quảng Ðức. Bà cụ nghe
tin tiểu đoàn của con bà vừa trải qua một trận chiến thập tử nhất
sinh, nên vội vàng bay từ Sài Gòn ra Pleiku để năn nỉ tôi cho
phép con bà khỏi tác chiến vì anh ta là đứa con trai độc nhất của
ông bà.
Xem
thêm: Đường về Gia Nghĩa (kỳ 6)
Con trai của vợ chồng Thiếu tá Lê Văn
Ky là Chuẩn úy Lê Văn Phước, Trung đội trưởng Trung Ðội 2, Ðại
Ðội 2, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.
Bà thứ nhì là một láng giềng của gia
đình tôi ở Ban Mê Thuột. Bà cụ mới theo chuyến xe đò sớm nhất
sáng nay từ Ban Mê Thuột tới đây.
Nước mắt ngắn dài, bà cụ vừa khóc vừa
kể lể rằng chồng bà đã qua đời, bà chỉ có hai mẹ con, nếu con bà
cứ tiếp tục ra trận mà có mệnh hệ nào, chắc bà sẽ không còn muốn
sống nữa.
Con
bà cụ này là Trung sĩ Lê Văn Bình đang giữ chức tiểu đội trưởng
trực thuộc Ðại Ðội 3, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.
Nhìn những giọt nước mắt theo nhau lăn
trên gò má nhăn nheo của hai bà cụ, tôi hồi tưởng lại, ngày xưa,
năm 1966, khi tôi còn là một thiếu úy vừa ra trường, mẹ tôi cũng
lo lắng mất ăn, mất ngủ nhiều ngày, sau khi tôi thoát chết trong
trận Tháp Bằng An, Vĩnh Ðiện, Quảng Nam.
Và tôi cũng biết rằng trong thời gian
33 ngày đêm giao tranh diễn ra ở Pleime hồi tháng 8 vừa qua, chắc
mẹ tôi cũng lo lắng không thua gì hai bà mẹ đang ngồi trước mặt
tôi đây.
Thời
buổi chiến tranh, mẹ của chú Phước, mẹ của chú Bình, cũng như mẹ
tôi, và những bà mẹ của các chiến binh Việt Nam Cộng Hòa khác, đã
phải sống với nỗi phập phồng, lo âu, ngày này, qua ngày khác,
suốt tháng, quanh năm. Nước mắt chảy xuôi. Trên cõi đời này,
không ai thương con bằng mẹ!
Trước khi tiễn chân mẹ chú Phước và mẹ
chú Bình ra khỏi phòng, tôi đã hứa:
– Cháu không đủ quyền hạn để cho hai em
làm công việc không tác chiến được. Nhưng cháu hứa rằng, cháu sẽ
cho hai em làm việc ở bộ chỉ huy tiểu đoàn, dưới quyền trực tiếp
của cháu.
Từ
ngày đó Chuẩn úy Lê Văn Phước được giữ chức Phụ tá Ban 3 Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, dưới quyền Trung úy Trần Dân Chủ; Trung
sĩ Lê Văn Bình được giao nhiệm vụ phụ tá khẩu đội trưởng súng cối
81ly của Thượng sĩ Nguyễn Văn Năng.
Ăn cơm trưa xong, tôi trở lại công tác
“thẩm vấn” lý lịch những đồng đội mới.
Theo thứ tự A, B, C thì anh tân binh có
tên Nguyễn Văn Bính là người lính đầu tiên được ông Trung sĩ
Nguyễn Phượng Hoàng đưa vào phòng.
– Em là Binh nhì Nguyễn Văn Bính, trình
diện Thiếu tá ạ!
– Chào anh Bính! Ngồi xuống ghế đi! Tôi
ra lệnh.
– Dạ!
Vâng ạ! Em xin phép ạ! Bính lễ phép, khép nép ngồi xuống ghế.
Vừa nghe tiếng anh tân binh này đối đáp
vài câu, tôi bỗng giật mình, lạnh gáy. Giọng nói Bắc Kỳ của anh
Bính này khác hẳn giọng nói của dân Bắc Di Cư năm 1954. Tôi cũng
là dân Bắc Di Cư, nên tôi nhận ra ngay, anh tân binh này không
phải là người xuất xứ từ Hố Nai, Gia Kiệm, Cái Sắn, hay Blao.
Tôi đã từng là một sĩ quan Tình Báo đảm
trách rất nhiều cuộc thẩm vấn tù binh ngoài mặt trận; tôi chắc
chắn rằng anh tân binh trước mặt tôi chính là một cán binh cộng
sản mới từ Miền Bắc xâm nhập vào. Không biết vì nguyên do nào mà
anh ta lại trở thành một anh lính Việt Nam Cộng Hòa?
Thời đó dân Tình Báo Chiến Trường chúng
tôi thường gọi giọng nói của các cán bộ Trường Sơn là “Tiếng Bắc
Xâm Nhập”.
Sau
năm 1975, thì dân chúng Miền Nam gọi thứ tiếng nói này là “Tiếng
Bắc 75”.
Tôi
bước vội ra cửa hất hàm cho Hạ sĩ Nguyễn Ba; chú Ba nhanh nhẹn
kẹp khẩu M16 trấn giữ sát cửa văn phòng ngay.
Nhìn mặt anh tân binh vừa hiện ra nét
lo lắng, trong trí tôi chợt nảy ra một diệu kế. Tôi liền chụp cái
gạt tàn thuốc lá bằng sứ giơ lên cao khỏi đầu rồi đập mạnh xuống
mặt bàn.
Sau tiếng
“Chát!” chói tai. Tôi quát lớn:
– Anh ở Ðoàn Xâm Nhập nào? Vào Nam ngày
nào? Khai ra mau!
Không ngờ đòn đánh phủ đầu bất ngờ của
tôi có hiệu quả ngay! Nghe tiếng hét của tôi, tân binh Nguyễn Văn
Bính bỗng co rúm người trên ghế, hai đầu gối run run đập vào nhau
lia lịa:
–
Trình “Thủ trưởng” em là chiến sĩ Ðặc Công vừa ra trường được đưa
vào bổ sung cho Ðội Ðặc Công Nội Thành Thành phố Sài Gòn!
Ngay lúc này, Hạ sĩ Ba và Binh Nhứt
Bích đã nhanh chân chạy vào đứng thủ thế hai bên bàn giấy, ghìm
súng sẵn sàng.
Mặt anh tân binh bắt đầu ướt đẫm mồ
hôi. Anh ta run lập cập:
– Trình “Thủ trưởng” em đi lạc, bị lính
bắt vào trại huấn luyện rồi đưa lên đây!
Thấy Bính có vẻ không có gì là nguy
hiểm, tôi ra lệnh:
– Thằng Ba và thằng Bích ra cửa gác
được rồi! Còn chú Bính thì cứ bình tĩnh, anh không làm gì để chú
phải lo sợ. Chú cứ từ từ kể cho anh hay, vì sao chú lại có mặt ở
đây?
Nghe tôi
ôn tồn dịu giọng, anh tân binh đã bớt run. Anh ta xoa hai tay vào
nhau liên tục, rồi bắt đầu kể cho tôi nghe.
Nguyễn Văn Bính sinh năm 1956 tại huyện
Gia Lộc, tỉnh Hải Hưng, vào bộ đội năm 17 tuổi. Theo học Trường
đào tạo chiến sĩ Ðặc Công ở Sơn Tây. Mãn khoá học, Bính được lệnh
đi B tạm dừng tại Binh Trạm T9, rồi được tách ra, phân phối cho
Biệt Ðội Ðặc Công Nội Thành ở Sài Gòn.
Tháng 4 năm 1974 trong khi theo chân
một nữ cán bộ giao liên trên đường từ Tân Cảng tới Chợ Lớn thì y
bị lạc. Bính lang thang suốt đêm trong khu Phạm Ngũ Lão và Ga Sài
Gòn tìm dấu người đưa đường nhưng vô vọng. Bốn giờ sáng thì y bị
Tuần Cảnh Hỗn Hợp Ðô Thành bắt gặp. Sau khi khai tên tuổi, hôm
sau y bị chuyển sang Trung Tâm Quản Trị Trung Ương, rồi đưa ra
máy bay chở lên Dục Mỹ vào học lớp tân binh trong Trung Tâm Huấn
Luyện Lam Sơn.
Sau trận Pleime, vì nhu cầu quân số,
Binh nhì Nguyễn Văn Bính đã được bổ sung cho Tiểu Ðoàn 82 Biệt
Ðộng Quân của tôi.
Chuyện nghe tưởng như đùa! Nhưng đây là
chuyện trăm phần thật!
Sau khi nghe hiểu hết nguồn cơn, tôi
đổi giọng, thật nghiêm nghị, nói với Bính:
– Chuyện đã rõ ràng như thế thì tôi chỉ
có thể chuyển anh sang An Ninh Quân Ðội, từ đó anh sẽ được đưa
vào trại giam Tù Phiến Cộng, sống chung với các đồng ngũ của anh
đã bị chúng tôi bắt trước đây.
Bính nhìn tôi khẩn khoản:
– “Thủ trưởng” có thể giúp em, bỏ qua
chuyện lý lịch, cho em ở với “Thủ trưởng” được không?
Trước yêu cầu của anh cán binh cộng sản
Nguyễn Văn Bính, tôi ngạc nhiên:
– Anh muốn ở lại với chúng tôi sao?
– Vâng! Em muốn lắm ạ!
Tôi đổi giọng ôn tồn trở lại:
– Trong thời gian mấy tháng vừa qua,
sống dưới chế độ Cộng Hòa, chú thấy thế nào?
– Dạ! Em thấy ở trong Nam sướng hơn ở
ngoài Bắc.
–
Ðược rồi! Tôi sẽ cho chú làm đơn xin “Cải danh Hồi Chánh”, Chú sẽ
được tiếp tục sống dưới chế độ Cộng Hòa.
Khi nào chú được chấp thuận là Hồi
Chánh Viên, chú xin gia nhập Biệt Ðộng Quân, anh sẽ tiếp nhận chú
về tiểu đoàn này.
Từ chiều 16 tháng 9 năm 1974, sau khi
cho xe giải giao Nguyễn Văn Bính cho Ty An Ninh Quân Ðội Pleiku,
tôi không còn biết tương lai của anh ta ra sao.
o0o
Giã biệt Pleiku...
Ngày 19 tháng 9 năm 1974 hết hạn nghỉ
dưỡng quân, tôi được lệnh dẫn đơn vị vào vùng Tây Pleiku tăng
phái cho Liên Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân của Trung tá Hoàng Thọ Nhu.
Tôi và Trung tá Nhu quen biết nhau từ
năm 1971, khi ông Nhu còn mang lon Thiếu tá từ Sài Gòn ra Pleiku
thay thế ông Thiếu tá Vũ Quốc Khánh để giữ chức vụ Tham mưu
trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2. Thời gian này tôi
cũng vừa nhận chức Trưởng Phòng 2.
Tôi và ông Nhu đã làm việc chung trong
một thời gian khá dài.
Tôi biết, nhờ sự giúp đỡ của Ðại tá Lê
Khắc Lý, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 thời
gian đó, mà cuối năm 1971 ông Nhu được vinh thăng trung tá.
Ông Nhu coi tôi như em, chúng tôi nói
năng chẳng cần giữ gìn, câu nệ.
Tính nết của tôi ngổ ngáo, ương ngạnh
thế nào, ông Nhu đã biết.
Năm 1972 tôi và Trung tá Hoàng Thọ Nhu
đều có dịp thuyên chuyển khỏi Vùng 2; ông Nhu đi làm Liên đoàn
trưởng Liên Ðoàn 6 Biệt Ðộng Quân, còn tôi cũng từ giã Pleiku,
lên đường về Sài Gòn theo học khoá 3/72 Bộ Binh Cao Cấp.
Nhưng dun rủi làm sao, chúng tôi ra đi
một thời gian ngắn, lại tái ngộ, lại cùng làm việc với nhau thêm
một thời gian nữa ở Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 dưới
quyền Ðại tá Phạm Duy Tất.
Ngày ông Nhu ra nhận chức Liên đoàn
trưởng Liên Ðoàn 2 Biệt Ðộng Quân, sau này cải danh thành Liên
Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân, ông cũng rủ tôi đi theo, nhưng tôi chối
từ.
Tới khi
Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân được thành lập, thì tôi vào Pleime
giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân trực thuộc
Liên Ðoàn 24.
Ðã có mấy lần ông Nhu nài nỉ Ðại tá Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy
Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 bắt tôi hoán chuyển nhiệm vụ với Ðại úy
Nguyễn Lạn để tôi về làm việc với ông, nhưng tôi không đồng ý.
Trưa 19 tháng 9 năm 1974 đoàn xe Quân
Vận chở chúng tôi tới vùng hành quân của Liên Ðoàn 23 Biệt Ðộng
Quân.
Bộ Chỉ
Huy Hành Quân của Liên Ðoàn 23 Biệt Ðộng Quân tọa lạc trên một
bãi đất trống cách Ðồi 37 Pháo Binh không xa. Vị trí này được một
đại đội Biệt Ðộng Quân và một chi đội chiến xa M41 bảo vệ.
Vừa xuống xe, tôi đã bị Trung tá Nhu
kéo tay dẫn vào hầm riêng của ông ấy:
– Anh xin chú tăng cường cho anh mấy
ngày, trong thời gian đó tiểu đoàn của chú sẽ thay thế Thằng 11
giữ núi Chi Kara. Thằng 11 sẽ thế chỗ cho Tiểu Ðoàn 1/41 để tiểu
đoàn này trở về với Sư Ðoàn 22 Bộ Binh. (Thằng 11: Tiểu Ðoàn 11
Biệt Ðộng Quân).
Trên phóng đồ hành quân, khu vực trách
nhiệm của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân sẽ là một vùng có chiều
ngang 3 cây số, chiều dài 10 cây số, kéo dài từ vị trí Bộ Chỉ Huy
Hành Quân của Liên Ðoàn 23 cho tới làng Plei De Chi ở hướng Tây.
Tôi thấy những vị trí mà tôi có nhiệm
vụ kiểm soát chỉ nằm loanh quanh dưới chân núi Chi Kara, chứ
không có điểm chốt giữ nào trong khu vực bình nguyên bao la trước
mặt.
Thì ra
thời gian này các đơn vị phòng thủ chỉ co cụm phòng thủ các cao
điểm cố định, ai ở đâu cứ ở yên nơi đó chờ địch tới thì đánh.
Tôi thở ra nhẹ nhàng, vì thấy nhiệm vụ
của mình thật là khỏe re!
Ngồi chơi trong hầm của Trung tá Nhu
vài phút, tôi từ giã ông, rồi đi vào phòng hành quân liên đoàn để
bắt tay những anh em đang làm việc ở đây. Trước năm 1970 tôi đã
từng là một sĩ quan tham mưu của liên đoàn này.
Khi lui ra để chuẩn bị di chuyển, tôi
lấy làm lạ là ông Liên đoàn trưởng cứ theo sát bên tôi như bóng
với hình, nên thắc mắc:
– Sao Trung tá cứ đi theo tôi hoài? Ông
có gì cần nói không?
Ông Nhu khẽ liếc mắt cho tôi đi theo ra
cổng căn cứ. Ông hất cằm về hướng Bắc để tôi nhướng mắt nhìn
theo. Trung tá Nhu nói nhỏ:
– Trước mặt chú là Đồi 631. Thằng Lạn
đánh mất ngọn đồi này đã năm ngày rồi, nhưng anh chưa báo cáo với
quân đoàn! Anh nhờ chú lấy nó lại có được không? (Thằng Lạn: Ðại
úy Nguyễn Lạn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân)
Tôi vừa ngạc nhiên vừa phẫn nộ:
– Ông nói cái gì lạ thế? Mất một cái
tiền đồn đã năm ngày mà không tái chiếm, không báo cáo, vậy ông
còn chờ cái gì nữa?
Trung tá Nhu đưa tay lên che miệng tôi,
không cho tôi to tiếng để tránh cho người khác nghe.
– Tao còn phải chờ xem mấy thằng lính
đóng chốt trên đó có còn sống không rồi mới báo cáo. Báo cáo sớm
thì thằng Lạn lại bị phạt. Bị phạt mãi thì làm sao nó cất đầu lên
được?
Tôi bình
tâm trở lại, thấy lời ông Nhu cũng có lý. Ðại úy Nguyễn Lạn là
bạn cùng khoá của tôi, chật vật bao năm mà anh ấy vẫn còn đeo cái
lon đại úy.
Tướng Tư Lệnh Quân Khu 2 Nguyễn Văn Toàn mà biết chuyện mất tiền
đồn, lính giữ đồn mất tích, thì hình phạt của ông ấy chắc chắn sẽ
không nhẹ hơn 40 Trọng Cấm.
Nếu không có chiến công, cứ chờ thăng
thưởng thường niên thì người mang trên vai 40 Trọng Cấm sẽ chẳng
bao giờ có hy vọng.
Nghĩ lại, tôi thấy thương hại anh
Nguyễn Lạn, tôi cũng thông cảm cho nỗi khó xử của Trung tá Nhu.
Trung tá Nhu cho tôi biết rằng, hôm
qua, trên đường từ Pleiku vào Thanh An trực thăng của Ðại tá Phạm
Duy Tất Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 đã
phát hiện ra một toán lính Biệt Ðộng Quân làm dấu cấp cứu trong
vùng rừng thưa cách núi Hàm Rồng khoảng gần mười cây số về hướng
Tây–Bắc.
Ông
đại tá đã đáp xuống cứu được bảy ông Biệt Ðộng Quân sắp chết đói,
đang lang thang tìm đường về Pleiku.
Bảy ông lính này là quân nhân của Tiểu
Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân đóng chốt trên Tiền đồn 631.
Các ông lính này khai rằng giữa đêm 15
tháng 9 năm 1974 họ bị một đơn vị cấp đại đội Việt cộng tấn công,
tràn ngập vị trí, phải rủ nhau bỏ chốt tìm đường thoát thân.
Chuyện mất tiền đồn, chuyện cứu được
bảy ông Biệt Ðộng Quân thất lạc đã được giấu nhẹm, chỉ có mấy vị
chỉ huy Biệt Ðộng Quân biết với nhau thôi!
Trung tá Nhu cầm tay tôi năn nỉ:
– Chú mày giúp anh một lần này thôi,
mình là anh em mà!
Nhìn bộ dạng thảm hại của ông anh, tôi
cầm lòng không đậu:
– Ðược rồi, chiều nay tôi trả lời.
Tôi dẫn quân đi đã xa mà ông Nhu còn
đứng nhìn theo.
Việc chuyển quân, thay chốt, diễn ra
không lâu hơn hai tiếng đồng hồ.
Tôi chẳng lạ gì địa thế Pleiku, do đó
công tác thiết trí phòng thủ, yểm trợ hoàn tất rất nhanh.
Ðứng trên một mỏm đá cao, với cái ống
nhòm, tôi quan sát ngọn đồi trước mặt. Ðồi này có cao độ 631 mét
nên được đặt tên là Tiền đồn 631. Ðồi 631 nằm sát lằn ranh Bắc
của khu vực mà tôi chịu trách nhiệm.
Tiền đồn này cách Tỉnh lộ 565 đúng ba
cây số về hướng Bắc. Muốn tới đó ta cứ đi thẳng hướng 360˚, theo
con đường xe be, vượt hai cái bình nguyên cỏ tranh và hai con
suối nhỏ là tới mục tiêu.
Sau khi quan sát kỹ, tôi thấy đỉnh đồi
đã bị khai quang trọc lóc, rất dễ bị lộ, địch không thể đặt súng
phòng không để khống chế không phận Tây–Nam Pleiku.
Theo tôi, về mặt chiến thuật, vị trí
này chỉ có giá trị một đài quan sát. Tôi đoan chắc rằng, lực
lượng địch đóng trên tiền đồn này nhiều lắm là một tiểu đội là
cùng.
Ba giờ
chiều, tôi ra lệnh cho toán Viễn Thám 822 của Hạ sĩ Nguyễn Ba
chuẩn bị một ngày ăn rồi cùng tôi và một toán cận vệ xuống núi.
Tôi vào tới hầm trú ẩn của ông Liên đoàn trưởng thì Trung tá Nhu
đã chờ sẵn. Kế hoạch tái chiếm Đồi 631 của tôi thật là giản dị.
Ngay khi trời sập tối, toán Viễn Thám
822 sẽ mở đường, dẫn theo một trung đội của Tiểu Ðoàn 11 Biệt
Ðộng Quân. Tới chân đồi thì trung đội của Tiểu Ðoàn 11 dừng lại,
ém quân chờ. Toán 822 tiếp tục tiến theo kỹ thuật trinh sát.
Chiếm lĩnh xong mục tiêu, sáng hôm sau Toán 822 sẽ bàn giao cao
điểm này cho trung đội của Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân.
Mười phút sau khi có lệnh của ông Liên
đoàn trưởng, một trung đội của Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân được
gửi tới. Trung đội trưởng trung đội này là Thượng sĩ Phan Thành,
người Huế.
Thay vì đứng nghiêm trình diện tôi, Thượng sĩ Thành lại chạy tới
ôm tôi thật chặt, miệng anh ta rối rít:
– Ông thầy! Ông thầy cho em về 82 với
ông thầy đi! Ông thầy ơi!
Tôi vừa cười hì hì, vừa lắc đầu:
– Ông Vua Xóc Dĩa ơi! Tôi đem ông về 82
để ông bán hết sản nghiệp của tiểu đoàn rồi đem đặt vào chiếu bạc
thì chúng tôi chết hết mất!
Trung tá Nhu trố mắt đứng nhìn. Ông
chẳng hiểu vì sao mà một tay cứng đầu, sừng sỏ, mặt lạnh như tiền
là tôi mà lại thân thiện, vui vẻ, bá vai, bá cổ một anh thượng sĩ
cắc ké tên là Phan Thành của Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân.
Ông Nhu có biết đâu tôi và chú Thành đã
trải qua nhiều năm chia ngọt, sẻ bùi, chung sống với nhau.
Từ tháng 2 năm 1966 tôi đã có mặt ở
Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân. Tới năm 1969 thì tôi là sĩ quan kỳ
cựu nhất của đơn vị này.
Trong thời gian tôi chỉ huy Ðại Ðội
3/11 rồi chỉ huy Ðại Ðội 1/11 thì anh Phan Thành là lính của Ðại
Ðội 2/11.
Thành đánh giặc thật gan lỳ, nhưng lại mắc cái tật ham mê cờ bạc.
Trong trại gia binh, anh ta là tay chuyên môn cầm cái cho các
sòng xóc dĩa.
Tôi khoái cái phong cách
gan lì trong chiến trận của Thành, nhưng không thể chấp nhận
những hình ảnh bê tha trên chiếu bạc của chú ấy; vì thế, đã nhiều
lần Thành xin về làm việc với tôi, tôi đều thẳng thừng từ chối.
Sau khi giới thiệu Hạ sĩ Nguyễn Ba với
Thượng sĩ Phan Thành, tôi đứng giảng giải cặn kẽ nhiệm vụ hành
quân đêm nay của hai người rồi hỏi:
– Có gì thắc mắc không?
– Dạ! Thưa không!
Hai thuộc cấp của tôi vừa trả lời xong,
thì tôi quay qua nói với Thành:
– Bao giờ chú mi bỏ được cái tật đỏ
đen, anh sẽ cho chú mi theo anh.
Vương Mộng Long
(còn tiếp...)
Kỳ
2
Đường về Gia Nghĩa
Vương Mộng Long
Thành gãi
đầu:
– Trình
Thái Sơn, em đã thử nhiều lần lắm rồi mà chưa bỏ được. Kỳ này gặp
lại ông thầy, nghe ông thầy khuyên bảo, em sẽ cố gắng thêm! Chắc
chắn em sẽ làm được!
Trong khi ngồi chờ giờ xuất phát, tôi
hỏi thăm Thành về gia đình chú ấy.
– Thế nào? Cô vợ 16 tuổi người Blao của
chú bây giờ ra sao?
Bất ngờ bị tôi nói trúng tim đen, Phan
Thành trố mắt:
– Ít ai biết vợ em lấy em khi mới 16
tuổi. Làm sao Thái Sơn lại biết chuyện này?
– Năm 1968 ở Blao, trên cái giấy cho
phép con gái vị thành niên lấy chồng của ông bố vợ chú có chữ ký
của người làm chứng là Trung úy Vương Mộng Long! Bố vợ chú là bác
Phát làm nghề hái trà ở Tân Hóa. Vợ chú là bạn thân của cô Sen,
con gái bác Tần!
Nghe tôi trả lời, Thành ngẩn người ra
một phút rồi cầm tay tôi lắc lắc mấy cái:
– Vậy mà em không biết chuyện này! Phải
công nhận rằng không có việc gì xảy ra ở Tiểu Ðoàn 11 mà qua được
đôi mắt của Thái Sơn.
Một phút sau, Thành cúi mặt, rầu rầu:
– Tụi em đã có hai đứa con, một trai,
một gái. Cháu lớn lên ba, cháu nhỏ mới thôi nôi. Ông cụ thân sinh
của vợ em vừa qua đời năm ngoái.
Nghe Thành nói, tôi không khỏi ngậm
ngùi nhớ tới ông bạn già làm nghề hái trà ở Tân Hóa. Mỗi lần tôi
đi qua trước cửa, ông đều niềm nở mời tôi vào nhà uống trà và nói
chuyện thời sự cho vui. Ông già goá vợ, có ba cô con gái, không
có con trai. Vợ của chú Thành là người con lớn nhất.
Trước giờ toán Viễn Thám 822 và trung
đội của Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân xuất phát, tôi cho lệnh Ðại
Ðội 3/82 của Thiếu úy Hổ xuống núi, đóng quân trong vòng rào kẽm
gai của Liên Ðoàn 23. Nếu tình hình biến chuyển không êm xuôi,
quân tiền phương chạm địch nặng, thì tôi sẽ cùng Ðại Ðội 3/82 và
chi đội chiến xa M41 lên tiếp cứu.
Tối đó tôi và Trung tá Nhu ngồi hút
thuốc chờ tin bên hai cái máy vô tuyến trong hầm trú riêng của
ông.
Khoảng
9:00g đêm có tiếng ì ầm của lựu đạn nổ từ hướng Đồi 631. Hai phút
sau, một hỏa châu cầm tay được phóng lên trời, đây là dấu hiệu
của 822 báo đã chiếm xong mục tiêu.
Suốt đêm, Toán 822 đã tắt máy để tránh
bị lộ, nhưng tôi yên chí rằng toán này không bị thiệt hại gì.
6:00g sáng ngày 20 tháng 9 tất cả các
đài vô tuyến của các đơn vị tham chiến đều lên máy. Một giờ sau
thì trung đội của Tiểu đoàn 11 Biệt Ðộng Quân hoàn tất công tác
trải quân phòng thủ Tiền đồn 631.
Chưa tới 8:00g sáng ngày 20 tháng 9,
Toán 822 về tới chân núi Chi Kara, tôi và Ðại Ðội 3/82 đang chờ ở
đây.
Trưa 20
tháng 9 Trung tá Hoàng Thọ Nhu gọi máy cho tôi để thông báo rằng
ông sẽ gửi cho Hạ sĩ Nguyễn Ba và hai anh Viễn Thám viên của Toán
822 mỗi người 5 nghìn đồng và một Bằng Tưởng Lục Cấp Trung Ðoàn.
Ngày hôm đó Trung Tâm Hành Quân của Bộ
Tư Lệnh Quân Ðoàn II được tin báo rằng trong đêm 19 tháng 9 Tiền
đồn 631 đã bị một đại đội địch tấn công, quân trú phòng đã anh
dũng đẩy lui quân địch, địch phải rút lui và để lại... nhiều vũng
máu.
Chiều hôm
đó tôi xuống núi, ghé thăm Trung tá Nhu. Ông Nhu úp mở:
– Anh có lệnh trả chú lại cho ông Vấn.
Hình như chú sắp nhận lệnh đi xa. Chắc đi khỏi đây rồi, chú sẽ
nhớ Pleiku lắm nhỉ?
Nói xong câu này ông Nhu nhìn tôi, cười
hóm hỉnh.
Tôi
không rõ ông niên trưởng này có ý gì, nên uống hết ly trà, tôi
đứng lên cáo từ.
Ðêm 20 tháng 9 năm 1974, khuya lắm rồi,
mà tôi vẫn còn ngồi trên mỏm đá cao, bên sườn núi Chi Kara nhìn
về Pleiku. Ðèn Pleiku rực sáng một vùng trời.
Tôi đã là cư dân của Pleiku một thời
gian gần mười năm dài. Tôi đâu biết rằng hai ngày nữa tôi sẽ phải
đem quân xa rời nơi ấy. Tôi cũng không ngờ, xa Pleiku lần này,
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân sẽ chẳng bao giờ quay trở lại...
Chiến trường réo gọi...
Chiều 21 tháng 9 tôi được lệnh rút về
Pleiku. Hai Tiểu Ðoàn 63 và 81 Biệt Ðộng Quân cũng vừa được triệu
tập về đây một ngày trước đó.
Tối 21 tháng 9 Ðại tá Từ Vấn, Liên đoàn
trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân gọi điện thoại báo cho tôi
biết có lệnh cho liên đoàn chuẩn bị đi khai thông Liên tỉnh lộ 8B
để giải tỏa áp lực địch trên đoạn đường từ Ðức Lập tới Gia Nghĩa.
Chúng tôi có trọn ngày 22 tháng 9 để
tái trang bị và tiếp tế, sáng 23 tháng 9 năm 1974 chúng tôi lên
đường. Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đi trên những chiếc xe dẫn đầu
của đoàn công voa.
Vì Quốc lộ 14 bị Việt cộng quấy rối
vùng Bắc Ðèo Tử Sĩ nên chúng tôi phải rẽ vào Liên tỉnh lộ 7B rồi
quẹo phải, đi qua Thuần Mẫn, tiến tới Buôn Blech rồi nhập vào
Quốc lộ 14. Vì thế, chúng tôi tốn nhiều thời gian hơn là đi thẳng
từ Phú Nhơn.
Chiều ngày 23 tháng 9 năm 1974 chiếc xe cuối cùng của chúng tôi
có mặt ở Ban Mê Thuột. Toàn thể quân nhân của liên đoàn và đoàn
xe chuyên chở chúng tôi đều tập trung trong khuôn viên doanh trại
của Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân.
Sau khi sắp xếp nơi ăn ngủ cho anh em,
tôi lên xe về nhà. Nhà tôi nằm trên đường Hàm Nghi, cách hậu cứ
Liên Ðoàn 21 chừng một cây số. Trời sắp tối xe của tôi mới ngừng
trước cổng. Vợ tôi ít khi đi ra ngoài, nên nàng không biết Liên
Ðoàn 24 đã vào thành phố từ lúc ban trưa. Từ tháng 4 tới nay, đã
gần nửa năm, sau khi tham dự hai trận đánh ác liệt nhất năm 1974
của Vùng 2, tôi mới có dịp ghé thăm nhà.
Cũng như bao lần trước, mỗi khi tôi từ
mặt trận trở về, vợ tôi đều vòng tay ôm tôi, mặt nàng úp vào ngực
tôi, những ngón tay nàng liên tục nhịp nhịp nhè nhẹ sau lưng tôi,
miệng nàng không ngừng thì thầm, “Mình ơi! Mình ơi! Mình ơi!”
Ôm hôn vợ xong, tôi quay sang bồng đứa
con gái nhỏ nhất. Bé Tiên Giao của tôi sinh ra đúng ngày Căn cứ
711 do Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân và Chi Ðoàn 3/19 trấn giữ đã
bị Sư Ðoàn 320A của cộng sản tấn công và tràn ngập. Hôm đó tôi đã
trải qua một trận đánh xáp lá cà. Vừa thoát ra khỏi vòng vây, tôi
được Ðại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng
Quân/Quân Khu 2 đang bay trên trời thông báo rằng:
“Ông già vợ của chú vừa báo cho ta hay,
vợ chú vừa đẻ đứa con gái thứ ba!”
Tiếp đó là trận Pleime 33 ngày đêm dầm
mưa, đội pháo. Mãi tới giờ này, tôi mới có dịp ôm trong tay đứa
con bé bỏng của tôi. Vợ tôi ôm vai tôi, rồi đưa tay vỗ nhè nhẹ
vào mông em bé:
– Bé Tiên Giao hay khóc giữa đêm, em
phải lấy cái áo mayor của mình đắp cho con, con hết khóc.
Vợ tôi thường nghe các cụ nói rằng, khi
em bé đi ngủ, thì lấy áo của bố nó đắp cho nó, nó sẽ ngủ yên. Tin
lời các cụ, nên vợ tôi vẫn làm như thế...
Võng đong đưa, sợ con trẻ giựt mình,
Em ủ cho con hơi ấm áo anh...
–(Thơ Vương M Long)
Không biết có phải cái tình phụ tử vô
hình đã báo cho con tôi biết rằng bố nó đang ôm nó hay không, mà
con bé cứ quơ quơ hai bàn tay tí hon, mũm mĩm của nó sờ sờ, vuốt
vuốt, mặt bố nó.
Ðôi mắt con bé tròn xoe, mở lớn, miệng
nó cứ, “bi bô, bi bô”, ra chiều đang vui thích lắm. Hai đứa chị
nó, một đứa ba tuổi, một đứa lên hai, cũng cố lấn vào ôm chân bố,
chờ bố chúng nó cúi xuống vỗ về...
Tính nhẩm lại, tôi được gần vợ, gần con
chỉ vài giờ đồng hồ, vì chưa tới 4:00g sáng hôm sau tôi đã phải
thức dậy, thay quần áo rồi vào trại kiểm quân, chuẩn bị lên
đường.
Tôi lên
xe, các con tôi còn say ngủ. Sau lưng tôi, chỉ có đôi mắt của
người vợ trẻ dõi trông theo... Ðời chiến binh, hạnh phúc gia đình
của chúng tôi được tính từng ngày, từng giờ, từng phút, từng
giây... Ðêm hôm đó, trên trời Ban Mê Thuột, sương mù đã che khuất
mảnh trăng non.
Ðoàn quân xa đi ngang qua thị xã,
Áo trận hoa rừng phủ đầy đất đỏ,
Ta ghé
thăm Em và Bé mới ra đời.
Em cười, giọt
nước mắt trên môi lăn vội.
Ta chỉ biết
nói lời xin lỗi!
Ðã để cho Em một mình
đi biển mồ côi...
Ta ôm con vào lòng, bé
bỏng con tôi!
Ta chỉ bên Em, bên con,
vài giờ ngắn ngủi.
Chiến trường sục sôi,
chiến trường réo gọi...
Ðoàn quân xa lại
vội vã lên đường,
Ðể lại Bé, để lại Em
và thành phố sau lưng...
Tuổi trẻ, một
thời để yêu
Tuổi trẻ, một thời để chết
Mùa Xuân ra đi biền biệt...
Ngày xanh,
tuổi trẻ của ta...
Ta đã cho quê hương
tất cả!
–(Thơ Vương M Long)
8:00g sáng ngày 24 tháng 9 năm 1974,
đoàn công voa chuyển quân khởi hành, dẫn đường là hai chiếc xe
V100 của Tiểu Khu Darlac (Darlac là tên trước 1975, sau 1975 là
Dak Lak) kế đó là chiếc Jeep của tôi. Thời gian này gia đình binh
sĩ của Liên Ðoàn 24 còn ở Pleiku, nên hai bên đường chúng tôi đi
qua, không có ai vẫy tay chào tạm biệt.
oOo
Vào vùng...
Trưa 24 tháng 9, đoàn xe chuyển quân
tạm dừng trước cổng Chi Khu Ðức Lập vài chục phút đồng hồ để các
sĩ quan chỉ huy Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân vào quận đường nhận
lệnh hành quân từ ông Ðại tá Phạm Văn Nghìn, Tỉnh trưởng, kiêm
Tiểu khu trưởng Tiểu Khu Quảng Ðức. Trong thời gian chúng tôi họp
ở hội trường của Quận Lỵ Ðức Lập thì anh em binh sĩ tản vào các
quán xá hai bên đường nghỉ mệt.
“Tổng thống ra lệnh, trong vòng hai
tuần lễ, chúng ta phải khai thông Liên tỉnh lộ 8B để tiếp tế cho
Quảng Ðức và Phước Long. Tôi cho Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân thời
gian ba ngày để chuẩn bị, sau đó phải hoàn tất công tác này trong
mười ngày!”
Sau khi lớn tiếng kết thúc buổi họp hành quân, ông tỉnh trưởng
vội vã cất bước ra đi, mà chẳng thèm bắt tay giã từ ai.
Ngay sau đó, Ðại tá Từ Vấn đứng dậy giơ
hai tay lên trời:
– Ông Liên đoàn phó và ba ông Tiểu đoàn
trưởng ngồi lại đây bàn chuyện, các sĩ quan khác giải tán.
Hai phút sau khi ông Ðại tá Nghìn khuất
dạng, trong hội trường chỉ còn lại năm sĩ quan của Liên Ðoàn 24
Biệt Ðộng Quân là Ðại tá Từ Vấn, Liên đoàn trưởng, Trung tá Hoàng
Kim Thanh, Liên đoàn phó, Thiếu tá Trần Ðình Ðàng, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân, Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn, Tiểu
đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân, và tôi, Thiếu tá Vương
Mộng Long, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.
Chúng tôi chưa kịp ngồi xuống ghế thì
Ðại tá Vấn đã lớn tiếng phân công:
– Kỳ này Tiểu Ðoàn 63 sẽ đảm nhận vai
trò nỗ lực chính, dồn sức bứng các chốt chận hướng Tây tỉnh lộ;
Tiểu Ðoàn 81 có nhiệm vụ thám sát mặt lộ, rà mìn, và đặt các trạm
an ninh; Tiểu Ðoàn 82 vừa đánh Pleime xong, có nhiều tân binh mới
được bổ sung, chưa quen chiến trận, sẽ đi sau bộ chỉ huy liên
đoàn, và là thành phần trừ bị.
Lệnh hành quân sẽ được đánh máy và gửi
cho các đơn vị ngay chiều nay.
Sau đây, tôi nhờ Trung tá Liên đoàn phó
trông coi liên đoàn giùm tôi, tôi có việc phải bay về Sài Gòn, ba
ngày nữa tôi sẽ ra chỉ huy. Thôi! Giải tán!
Sau đó bộ chỉ huy liên đoàn và hai tiểu
đoàn bạn xuống xe, tạm trú trong vòng đai Quận Ðức Lập. Riêng
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, vì là thành phần trừ bị, nên tiếp
tục hành trình, để chiếm lĩnh đầu cầu, đồng thời cũng là tuyến
xuất phát.
Ðiểm tới của đơn vị tôi sẽ là Căn cứ Hỏa lực Ðạo Trung. Tới ngã
ba Dak Son tôi dừng xe để hỏi thăm tin tức của đơn vị giữ đường.
Ông chỉ huy đơn vị khai lộ đang nằm trên cái võng tòn ten dưới
bóng cây, nghe biết tôi đang tìm ông ta thì ông ta vội vã chạy ra
đường:
– Chào
niên trưởng, niên trưởng có khỏe không?
Thì ra đơn vị giữ đường ngày hôm đó là
Tiểu Ðoàn 3/53 Bộ Binh của Thiếu tá Cao Mạnh Nhẫn, Nhẫn là Võ Bị
khoá 21, đàn em của tôi.
– Ðường từ đây vào Ðạo Trung có yên
không chú? Tôi hỏi Nhẫn.
– Bảo đảm trăm phần trăm! Em giữ đường!
Niên trưởng yên chí! Thiếu tá Nhẫn nhìn tôi, rồi vừa cười vừa
nói.
Trong
trận Pleime 33 ngày đêm hồi tháng 7 và 8 vừa qua, đơn vị của chú
Nhẫn là một trong hai tiểu đoàn của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh vào
giải vây cho tôi.
Tiểu Ðoàn 1/53 bị thiệt hại nặng, Tiểu
đoàn trưởng là Ðại úy Nguyễn Dương Lâm, khoá 19 Võ Bị tử trận.
Tiểu Ðoàn 3/53 của Thiếu tá Cao Mạnh
Nhẫn cũng phải bỏ chạy cùng với Bộ Chỉ Huy Nhẹ của Trung Ðoàn 53
Bộ Binh do Trung tá Trần Nguyên Khoa, khoá 18 Võ Bị chỉ huy.
Ngồi chơi với chú Nhẫn vài phút, tôi
cho lệnh tiếp tục.
Còn cách Căn cứ Ðạo Trung gần một cây
số tôi cho xe ngừng lại, mọi người xuống đi bộ; đoàn xe trống trở
đầu, quay về Ðức Lập.
Căn cứ Hỏa lực Ðạo Trung nằm trên một
ngọn đồi trọc, ngay một khúc quanh của Liên tỉnh lộ 8B.
Hiện thời căn cứ này có 4 khẩu 105ly và
do một Tiểu đoàn Ðịa Phương Quân giữ an ninh. Vị Tiểu đoàn trưởng
Ðịa Phương Quân này là Thiếu tá Bùi Ngọc Long chuyển ngành từ Lực
Lượng Ðặc Biệt. Tôi chỉ nhớ mang máng rằng ông thiếu tá này tốt
nghiệp khoá 5 hay khoá 6 Thủ Ðức.
Thiếu tá Bùi Ngọc Long cũng là dân Bắc
Di Cư, lớn hơn tôi cả chục tuổi. Ông khuyên tôi nên cẩn thận khi
di chuyển hay đứng trên các mô đất cao, vì ở đây ngày nào cũng bị
địch bắn tỉa. Ðịch ở cách ta chỉ một con suối và một cái thung
lũng cạn. Bên kia thung lũng trên mặt đường xe be, sát bìa rừng
còn vài cái xác của chiến sĩ bộ binh bị bỏ lại, trong đó có một
chuẩn úy.
***
Tôi chọn vị trí đóng quân cho hai Ðại
Ðội 1/82 và 3/82 cùng Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 82 là một ngọn đồi nhỏ
và hẹp nằm bên hướng Tây của Liên tỉnh lộ 8B và cách vị trí pháo
binh ba trăm mét về hướng Bắc.
Ngọn đồi này có lợi thế ngụy trang vì
có cây cao che khuất tầm nhìn từ xa của địch. Bên trái ngọn đồi
này là một thông thủy tuy không sâu lắm, nhưng dốc hơi đứng, rất
khó xung phong. Chỉ còn một hướng chính Bắc là cần chốt chận nơi
ngã ba giao tiếp liên tỉnh lộ và con đường xe be. Ông Đại úy Tiểu
đoàn phó cùng với hai Ðại Ðội 2/82 và 4/82 sẽ trấn thủ cái ngã ba
này.
Bố quân
xong, tôi đang ngồi trên bãi cỏ ven đường chuẩn bị mồi một điếu
thuốc lá thì một quân nhân tới đứng nghiêm chào xin trình diện.
Người này chính là anh Trung sĩ Nguyễn Minh, mới được bổ sung.
Minh vừa xoa hai bàn tay vào nhau, vừa cười cầu tài, rồi năn nỉ
tôi:
– Nhà em
ở Nghi Xuân, sau chuyến hành quân này Thái Sơn du di cho em nghỉ
vài ngày thăm nhà.
Tôi gật đầu:
– Nơi này cách Nghi Xuân hơn mười cây
số thôi, nhưng đường lại bị Việt cộng đóng chốt. Chờ hôm nào bứng
xong mấy cái chốt, trên đường về Gia Nghĩa anh sẽ thả chú xuống,
cho chú ghé thăm gia đình vài bữa.
– Cám ơn Thái Sơn!
Minh lí nhí, chào tôi rồi lui về khu
trú quân của đơn vị anh ta.
Hai phút sau Trung sĩ Minh quay trở
lại, anh ta có vẻ như muốn nói với tôi chuyện gì đó.
Tôi mở lời:
– Gì đó Minh?
Minh gãi đầu, cúi gằm mặt xuống, miệng
lí nhí:
– Dạ!
Em muốn trình bày với Thái Sơn một chuyện.
– Có gì cứ nói đi! Tôi từ tốn.
Minh rụt rè nhìn tôi rồi ấp úng:
– Trình Thái Sơn! Em không phải là nội
tuyến đâu! Em bị nghi oan!
Tôi lấy làm lạ, tại sao Trung sĩ Minh
lại tự ý tới gặp tôi để nói chuyện này, vì tôi có để lộ cho anh
ta biết rằng tôi đã đọc biết lý lịch của anh ta đâu?
– Nội tuyến cái gì? Ai nói chú là nội
tuyến mà chú phải phân trần với anh?
– Dạ! Em nghe mấy anh bạn trong ban
Truyền Tin của Liên Ðoàn 23 nói rằng em bị xuất ngành vì bị tình
nghi làm nội tuyến.
– Chắc tụi nó đồn bậy đó! Ðừng có lo
nghĩ gì cho mệt xác! Ở đây có anh! Anh tin rằng chú không làm bậy
là được rồi!
–
Em cám ơn Thái Sơn!
Miệng trả lời tôi mà đầu Minh vẫn cúi
nhìn xuống đất. Vài phút sau anh trung sĩ ngửng mặt lên, tôi thấy
hai dòng nước mắt đang lăn xuống má anh ta.
Tôi chợt thấy lòng xót xa. Người đứng
trước mặt tôi không thể là một tay giỏi đóng kịch. Những giọt
nước mắt kia chắc chắn là kết quả của những ưu tư, lo sợ, muộn
phiền, và uất ức tạo nên.
Tôi chỉ tay xuống bãi cỏ trước mặt:
– Chú ngồi xuống đây anh có chuyện cần
hỏi.
Minh từ
từ ngồi xuống trước mặt tôi. Tôi bắt đầu tìm hiểu con người trước
mặt với câu:
–
Trước khi đi lính, chú có gia nhập đảng phái hay đoàn thể nào
không?
– Dạ
không! Em học xong chương trình Ðệ Nhất Cấp thì đi làm thợ hàn để
giúp đỡ mẹ em. Tới năm 1971 em xin được cái Chứng Chỉ Ðệ Nhị rồi
tình nguyện theo học khoá Hạ sĩ quan của trường Ðồng Ðế. Ra
trường, em được chọn về Biệt Ðộng Quân, rồi bị đưa đi Vũng Tàu,
thụ huấn lớp hạ sĩ quan Truyền Tin. Mãn khoá học, em được phân
phối về Ðại Ðội Truyền Tin của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu
2, dưới quyền Ðại úy Táo. Ngày đó Thái Sơn còn là Ðại úy Trưởng
Phòng 2.
Tôi đổi đề
tài:
– Thân
nhân của chú có ai đi tập kết không?
– Trình Thái Sơn! Bố em đi tập kết năm
em vừa lên bốn. Em còn hai đứa em, một đứa em trai sinh năm 1952,
một đứa em gái sinh năm 1953. Em không nhớ bố tên gì. Em đã nhiều
lần thắc mắc với mẹ nhưng mẹ cứ trả lời rằng mẹ đã quên rồi! Trên
giấy tờ thì mẹ khai tụi em có cha vô danh nên tụi em mang họ mẹ.
Hiện thời mẹ em và hai em của em sinh sống ở Nghi Xuân. Gia đình
em vào đó từ thời cụ Diệm thành lập các khu Dinh Ðiền.
Tôi hỏi tiếp:
– Ở Ðại Ðội 2 Truyền Tin chú giữ công
việc gì?
– Em
là hạ sĩ quan mật mã, mỗi ngày em mã hoá các công điện gửi đi,
giải mã các công điện mật từ nơi khác chuyển về.
– Chú có vào máy chuyển công điện hằng
đêm, hằng ngày hay không?
– Dạ không! Từ tháng Giêng 1972 cho tới
ngày có lệnh ra Liên Ðoàn 23. Ban ngày em chỉ làm công tác chuyên
môn, ban đêm em phải trực gác pháo đài hay cổng chính của đại
đội.
Tôi vỗ
vai Minh ôn tồn:
– Ðược rồi! Anh sẽ giải oan cho chú!
Chú về lều đi! Ðừng lo nghĩ gì nữa!
Sở dĩ tôi quả quyết người hạ sĩ quan
này không phải là kẻ gian chỉ vì ngay từ đầu, tôi chưa cật vấn,
anh ta đã thành tâm, tự ý cho tôi biết gia phả của anh ta.
Anh ta không phải là người trực tiếp
chuyển công điện; nếu anh ta muốn chuyển tin cho địch bằng phương
cách khác thì cũng vài ba ngày sau, tin mới tới tay người nhận.
Trong khi đó thì, hằng đêm, các đài
kiểm thính của ta đều báo cáo rằng Việt cộng có trong tay toàn bộ
điểm đóng quân đêm của các đơn vị Biệt Ðộng Quân Vùng 2 chỉ vài
giờ sau khi Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 gửi bản tổng kết
lên Quân Ðoàn II.
Trước đây, mỗi lần về Pleiku, tôi
thường vào gặp Ðại tá Tất để lưu ý ông chuyện này. Ông Tất đã ra
lệnh cho Phòng An Ninh của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2
mở những cuộc điều tra theo dõi những kẻ tình nghi.
Ðã xảy ra nhiều chuyện thay đổi nhân sự
ở các phòng, ban liên quan tới đặc lệnh truyền tin hay khoá mật
mã.
Trung sĩ
Nguyễn Minh và một vài nhân viên văn phòng khác đã bị xuất ngành
và thuyên chuyển lâu rồi, mà tình trạng tin tức bị tiết lộ vẫn
còn tiếp tục thì nhất định người chuyển tin cho địch vẫn chưa bị
phát giác.
Tôi
có cảm tưởng rằng, tên nội tuyến ấy vẫn còn sống phây phây đâu đó
ngay trong Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 ở Pleiku chứ
không đâu xa.
Bốn mươi năm sau chiến tranh, ở Mỹ, qua điện thoại, ông Cựu Chuẩn
tướng Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 than
phiền với tôi rằng ông không ngờ viên Ðại úy Ðại đội trưởng Ðại
Ðội Truyền Tin Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 lại là một thượng úy nội
tuyến của Việt cộng!
Trong hai ngày 25 và 26 tháng 9 có ít
nhất năm, sáu vụ bắn tỉa nhắm vào Căn cứ Ðạo Trung. Về phía Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân không có đe dọa gì. Có thể vì chúng tôi
tới đây bằng chân, không có xe cộ rầm rộ, nên địch chưa phát giác
ra vị trí trú quân của tôi. Lý do thứ nhì là anh em chỉ nấu nướng
một lần vào lúc chạng vạng tối, sương mù che khói lửa, địch không
nhìn ra.
Trưa
ngày 27 tháng 9 năm 1974 Ðại tá Từ Vấn đáp xuống mặt tỉnh lộ,
cách lều của tôi vài chục thước.
Sau ba ngày nghỉ phép đặc biệt ở Sài
Gòn, ông Vấn đã bay ra Nhơn Cơ bằng Air Việt Nam rồi nhờ trực
thăng của Ðại tá Nghìn để tới đây.
Máy bay vừa trở đầu cất cánh thì phòng
không Việt cộng đã “Choang choác!” từ khe suối bên hướng Tây bắn
sang. Ông đại tá chạy vội vào lều của tôi rồi lấy máy truyền tin
của tôi để ban lệnh cho các đơn vị thuộc quyền. Nửa giờ sau, bộ
chỉ huy Tiểu Ðoàn Ðịa Phương Quân của Thiếu tá Bùi Ngọc Long phải
di chuyển sang trú quân trên một ngọn đồi ở hướng Ðông liên tỉnh
lộ để nhường chỗ cho Biệt Ðộng Quân thiết lập Bộ Chỉ Huy Hành
Quân của Liên Ðoàn 24. Trong khi các quân nhân Biệt Ðộng Quân
đang căng võng đào hầm, thì đạn đại bác của Cộng quân từ hướng
Tây ào ào bay tới. Gần hai chục viên 105ly đã rơi trên mặt Liên
tỉnh lộ 8B, may mắn là không có ai bị thương.
Chiều 27 tháng 9 năm 1974 tôi được lệnh
sang Căn cứ Ðạo Trung để họp hành quân.
Trong phòng họp chỉ có năm người cầm
đầu liên đoàn. Ðại tá Liên đoàn trưởng mở đầu buổi họp với giọng
thật là nhỏ nhẹ:
– “Tông Tông” bắt tụi mình phải khai
thông con đường này trước ngày lễ thành lập Quân Ðoàn II để ổng
ra thăm Pleiku và Quảng Ðức, rồi gắn huy chương cho các chiến sĩ
hữu công. Ông Nghìn cho mình 10 ngày, nhưng tôi thấy, nếu cố
gắng, mình có thể hoàn tất công việc này trong vòng một tuần.
(Tông Tông: Tổng Thống)
Nghe ông Liên đoàn trưởng ban lệnh, tôi
nhớ lại, trong buổi họp hành quân cách đây ba ngày thì, Tiểu Ðoàn
63 sẽ là nỗ lực chính, còn Tiểu Ðoàn 82 là thành phần trừ bị, tôi
bèn giơ tay vỗ nhẹ lên vai Thiếu tá Trần Ðình Ðàng, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân, để an ủi:
– Ông tổng thống ra lệnh hoàn thành
công tác trong vòng 2 tuần lễ, tức là 14 ngày, ông tỉnh trưởng
rút xuống còn 10 ngày, ông Liên đoàn trưởng trả giá thấp chút nữa
thành... 7 ngày! Thế thì kỳ này niên trưởng Ðàng của tôi hơi mệt
đó!
Tôi kêu
Thiếu tá Trần Ðình Ðàng là “niên trưởng” chỉ vì ông thiếu tá này
xuất thân từ khoá 15 Ðà Lạt, ngang vai với các ông thầy dạy tôi
trong trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
Nào ngờ tôi vừa dứt lời, Ðại tá Từ Vấn
đã giơ tay, quơ quơ trước mặt:
– Khoan! Khoan! Các ông im lặng nghe
tôi nói đây! Lệnh hành quân bây giờ đổi lại là, Tiểu Ðoàn 82 sẽ
đảm nhận vai trò nỗ lực chính, dồn sức bứng các chốt chận hướng
Tây tỉnh lộ; Tiểu Ðoàn 81 có nhiệm vụ thám sát mặt lộ, rà mìn, và
đặt các trạm an ninh; Tiểu Ðoàn 63 vì có ông Tiểu đoàn trưởng mới
từ Vùng 3 thuyên chuyển ra, chưa quen địa thế Vùng 2 nên được đi
sau bộ chỉ huy liên đoàn, và là thành phần trừ bị!
Tôi sững người ngồi im không phản ứng
ngay được. Sao lại có chuyện kỳ vậy nè? Rõ ràng ba ngày trước ông
Vấn nói, vì chúng tôi mới bị vây lâu ngày, có nhiều người chết và
nhiều người bị thương chưa xuất viện, nhiều tân binh vừa bổ sung
chưa quen trận mạc, nên ông ta cho 82 làm trừ bị, nay chẳng hiểu
vì duyên cớ gì mà đột nhiên ông ta đổi ý bắt 82 làm nỗ lực chính?
Tôi đứng dậy, trợn mắt nhìn Ðại tá Vấn,
rồi lớn tiếng:
– Ba ngày trước Ðại tá cho tôi làm trừ
bị, ba ngày sau ông lại bắt tôi “húc”, ông làm cái gì mà kỳ vậy?
Thấy tôi nổi đóa, Ðại tá Từ Vấn bèn ra
dấu cho hai vị Tiểu đoàn trưởng kia lui ra rồi đấu dịu:
– Không phải trận này anh cố ý ép Long.
Chỉ vì anh biết khả năng hai ông Tiểu đoàn trưởng kia không thể
hoàn thành công tác đúng thời hạn mà tổng thống giao, rồi cuối
cùng chú vẫn phải vào trận. Chi bằng anh giao việc này cho chú
ngay từ đầu.
Tôi vùng vằng bước ra khỏi phòng họp, cúi đầu đi về lều, không
thèm đôi co thêm tiếng nào.
Lúc đó mặt tôi nóng bừng bừng, hai tay
run lên vì giận. Rõ ràng ông Vấn là một cấp chỉ huy không công
bằng! Trận Pleime tiểu đoàn tôi chịu trận hơn một tháng trời, bị
chết chóc, thương tật cả trăm người, Tiểu Ðoàn 81 đánh nhau vừa
đúng một ngày thì tan hàng, bỏ chạy, Tiểu Ðoàn 63 từ ấy tới nay
không phải bắn một phát súng nào vì cứ núp ở đàng sau xa.
Nay thấy lệnh của tổng thống ban ra,
các ông chỉ huy sợ không hoàn thành nhiệm vụ thì sẽ bị khiển
trách nên bắt Tiểu Ðoàn 82 “húc” tiếp!
Tới sẩm tối, thằng Bích vào báo cho tôi
hay Trung tá Liên đoàn phó đang đứng dưới đường chờ vào gặp tôi
có việc cần. Tôi bảo nó:
– Mi xuống nói với ông trung tá rằng
thiếu tá mệt, đi ngủ rồi!
Vừa lúc đó Trung tá Hoàng Kim Thanh đã
chui vào lều, ngồi nơi đầu võng của tôi, vừa cười vừa nói:
– Bớt nóng đi chú em! Anh sang nói
chuyện với chú vài phút, nghe xong, chắc chú sẽ hết giận ngay
thôi!
Tôi miễn
cưỡng ngồi dậy:
– Anh có gì cần thì nói đi! Tôi bực cái
ông Vấn này quá! Tiền hậu bất nhất!
Trung tá Thanh ra dấu cho Binh 1 Nguyễn
Bích đi ra ngoài, rồi hạ giọng:
– Trưa nay anh và ông Hai Lẻ Chín có
họp riêng với Ðại tá Nghìn. Ông Nghìn cho biết nếu không khai
thông được con đường này đúng thời hạn thì ông ta sẽ mất việc,
nên ông ta cứ nài nỉ ông Vấn cố gắng lên. (Hai Lẻ Chín hay 209,
là danh xưng truyền tin của Ðại tá Từ Vấn).
Tôi cự nự:
– Bộ cứ sợ ông Nghìn bị mất việc là các
ông bắt tiểu đoàn tôi phải đâm đầu vào chỗ chết hay sao?
– Không phải thế đâu! Anh với ông Vấn
sợ Thằng 63 vào trận, chưa chi đã chạy thì quân ta sẽ mất tinh
thần. Việc này sẽ ảnh hưởng tâm lý tới các tiểu đoàn khác. Cuối
cùng cũng phải nhờ tới chú. Chi bằng cho chú đánh từ đầu, chắc
chắn sẽ xong việc thôi!
– Thế còn Thằng 81?
Anh Thanh lắc đầu:
– Sau khi thằng Lân (Tiểu đoàn trưởng
81) bị Việt cộng chặt đầu, thằng Ngọc (Tiểu đoàn phó 81) mất
tích, thì tinh thần binh sĩ của Tiểu Ðoàn 81 sa sút trầm trọng
lắm! Không còn ngon lành như trước đây nữa đâu! Chúng nó đang chờ
ngày đi tái huấn luyện dưới Dục Mỹ.
Vương Mộng Long
(còn tiếp...)
Kỳ
3
Đường về Gia Nghĩa
Vương Mộng Long
Nghe
ông Liên đoàn phó phân tích sự việc, tôi cũng phát lo. Tiểu đoàn
tôi giờ đây chỉ còn một mình Thiếu úy Phạm Văn Thủy là đại đội
trưởng cũ, hai ông Thiếu úy Ðặng Thành Học và Trung úy Võ Hữu
Danh vừa từ nơi khác tới, ông Thiếu úy Nguyễn Văn Hổ cũng mới lên
chỉ huy đại đội chưa đầy hai tháng, kinh nghiệm chẳng nhiều. Thêm
vào đấy, một phần ba quân số của tôi cũng là tân binh, nếu phải
đi tiếp viện cho đơn vị khác, thấy người ta chạy, chắc chắn các
ông tân binh của tôi cũng chạy theo mất thôi!
Tôi ôm đầu suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Trung tá về nghỉ đi! Mai tôi trả lời.
Anh Thanh giơ tay, bắt tay tôi nhưng
miệng anh vẫn khẩn khoản:
– Chú suy nghĩ lại, rồi cho anh biết ý
kiến càng sớm càng tốt!
o0o
Yếu tố tinh thần trong chiến trận
Ðêm 27 tháng 9 năm 1974 tôi trằn trọc,
suy nghĩ liên miên. Tôi thấy hai ông chỉ huy của tôi là Ðại tá Từ
Vấn và Trung tá Hoàng Kim Thanh rất có lý khi phân tích tình
trạng tâm lý các quân nhân dưới quyền. Tôi có người bạn cùng khoá
Võ Bị là Ðại úy Lê Thanh Phong. Mùa Hè năm 1972 Ðại úy Lê Thanh
Phong chỉ huy Tiểu Ðoàn 62 Biệt Ðộng Quân và đã ghi được nhiều
chiến công trong chiến dịch giải vây Kontum. Vậy mà chỉ ít lâu
sau, đầu tháng 12 năm 1972, anh Phong đã bị Cộng quân bắt tại
trận ở Ðức Cơ. Trước đó, tháng 8 năm 1972 Ðức Cơ đã bị bao vây,
tôi được lệnh xuống chỉ huy căn cứ này. Tôi đã giải tỏa xong áp
lực địch chỉ với một Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng.
Tháng 10 năm 1972, tình hình yên tĩnh
trở lại, tôi đã bàn giao Ðức Cơ cho ông Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn.
Tôi đi khỏi Ðức Cơ thì trại này được tăng cường thêm hai tiểu
đoàn nữa để phòng thủ, đó là Tiểu Ðoàn 62 Biệt Ðộng Quân của Ðại
úy Lê Thanh Phong và Tiểu Ðoàn 80 Biệt Ðộng Quân của Thiếu tá
Nguyễn Công Thông.
Người chỉ huy ba tiểu đoàn này là Trung
tá Lê Chữ. Ông Chữ vốn là Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 95 Biệt Ðộng
Quân, mới được thăng cấp trung tá sau lần tử thủ, giữ được Căn cứ
Biên Phòng Bạch Hổ (Ben Het).
Ngày đó yểm trợ cho Ðức Cơ, chúng ta có
hàng chục khẩu pháo 105ly và 155ly sẵn sàng từ Thanh An và Thanh
Giáo; ta còn hàng chục máy bay oanh tạc chất đầy bom đạn nằm chờ
ở phi trường Cù Hanh, Pleiku, chưa kể tới những pháo đài bay B52
sẽ có mặt trên vùng chỉ sau vài giờ chờ đợi.
Với ba tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân phòng
thủ, và được yểm trợ mạnh như vậy mà Ðức Cơ vẫn mất, mất là vì
sao?
ãi tới tháng
7 năm 1974 gặp lại anh bạn Lê Thanh Phong sau khi bạn tôi được
trao đổi tù binh, tôi mới nhận được câu trả lời thích đáng.
Bạn Phong ấm ức phân trần với tôi:
“Mẹ nó! Ngày đó ở Ðức Cơ không có tiếng
súng nào! Vậy mà cha Mẫn và cha Chữ cứ cắm đầu chạy! Vạ lây cho
tui! Người ta chạy, làm cho lính dưới quyền tui cũng chạy theo!
Chuyện thực khôi hài, nhưng tức muốn chết!”
Thì ra, qua một đêm chịu pháo, 5:00g
sáng ngày 4 tháng 12 năm 1972, các ông chỉ huy căn cứ Ðức Cơ là
Trung tá Lê Chữ và Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn đã bỏ đồn, hớt hải
chạy ra cổng, tới tá túc với đơn vị của Ðại úy Lê Thanh Phong nơi
đầu phi trường. Theo chân hai ông chỉ huy là một tốp lính của
Tiểu Ðoàn 81, sau lưng toán lính này là một toán Việt cộng hò reo
đuổi theo. Không có tiếng súng nào, chỉ có tiếng la “Hàng sống!
Chống chết!”
Ðịch không bắn, có thể là vì trời còn tối, chúng không nhìn thấy
quân ta, cũng có thể là chúng sợ quân ta đông hơn nên không dám
bắn. Ðâu ngờ những tiếng hô “Hàng sống! Chống chết!” đã khiến hai
ông Mẫn và Chữ hoảng hồn dẫn quân đạp lên lều võng của Tiểu Ðoàn
62 Biệt Ðộng Quân rồi bỏ phi trường phóng đi luôn.
Bộ chỉ huy của Tiểu Ðoàn 80 Biệt Ðộng
Quân đóng gần đó, nên nhìn thấy ông Trung tá Lê Chữ đang vắt giò
lên cổ, ông Thiếu tá Nguyễn Công Thông chẳng biết ất giáp gì,
cũng lao theo chân ông Lê Chữ! Thấy quan và quân của đơn vị bạn
chạy tán loạn, những người lính nhát gan của Tiểu Ðoàn 62 Biệt
Ðộng Quân cũng ùn ùn chạy theo. Phút chốc, trên sân bay chỉ còn
lại ông Ðại úy Lê Thanh Phong, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 62 Biệt
Ðộng Quân và vài chục anh lính. Ba ngày sau, Ðại úy Lê Thanh
Phong bị địch bắt sống ở trong rừng.
Trước Hòa Ðàm Paris mà đã có những
chuyện chưa đánh đã chạy như thế, thì sau Hòa Ðàm Paris phải
chiến đấu trong tình trạng thắt lưng buộc bụng, thiếu thốn trăm
bề, chắc chắn tinh thần chiến đấu của quân ta cũng bị suy sụp đi
nhiều. Chưa nghe anh Phong tâm sự, tôi đã biết, yếu tố tinh thần
là vô cùng quan trọng, nó quyết định vận mạng của cả một chiến
trường. Bằng cớ là, nếu không có cái quyết tâm thà chết không đầu
hàng, không bỏ chạy của những chiến sĩ trong Tiểu Ðoàn 82 Biệt
Ðộng Quân dưới quyền tôi, thì tôi đã bị địch bắt sống hay giết
chết trong trận Pleime 1974 rồi. Tôi nghĩ rằng, nếu đánh nhau với
địch, địch mạnh hơn mình, mình yếu thế hơn phải rút lui thì không
nói làm gì. Chứ mình đi sau người ta, chưa đánh nhau mà người ta
đã chạy, làm cho lính của mình thấy thế cũng hoảng sợ, rồi rủ
nhau cắm đầu, cắm cổ chạy theo người ta, bỏ mình ở lại, thì mình
chỉ còn cách tự đấm ngực mà chết mất thôi! Lại nữa, tôi thấy đơn
vị nào đã thua một trận, sẽ mắc cái “huông” rồi cứ thế được trớn,
thua luôn! Trở thành lỳ đòn, trơ mặt, không biết xấu hổ là gì!
Dưới quyền Thái Sơn Vương Mộng Long,
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân là một đơn vị chưa hề chiến bại. Giữa
đêm khuya, tôi chợt buột miệng hét to:
“Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân sẽ không
bao giờ chiến bại!”
Hai anh lính Viễn Thám gác đôi gần đó,
nghe tiếng tôi la, bèn chạy vội vào cửa lều, lớn tiếng hỏi:
– Thái Sơn gọi tụi em hả!
Tôi bật cười:
– Ừ! Mai thầy trò mình đi nhảy toán!
Tôi cầm cái ống liên hợp máy PRC25 gọi
cho Trung tá Hoàng Kim Thanh:
– Okay! Tôi sẽ hoàn thành sứ mệnh trước
thời hạn 7 ngày!
Trinh sát dạ hành...
Suốt ngày 28 tháng 9 với cái ống nhòm
và tấm bản đồ trên tay, tôi kín đáo núp sau những gốc cây bên
sườn đồi, quan sát cái thung lũng dưới chân tôi và ngọn đồi sừng
sững hướng Tây. Từ những năm 1968, 1969 khi còn giữ chức đại đội
trưởng ở Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân, tôi đã nhiều lần nhận nhiệm
vụ mở đường và giữ đường từ Ðức Lập tới Nghi Xuân, do đó địa thế
vùng này không phải là xa lạ đối với tôi. Khắp khu vực Nam Ðức
Lập và Bắc Gia Nghĩa toàn là đồi có cao độ từ 800 tới 900 mét sàn
sàn nhau. Nếu nhìn trên bản đồ, ta chỉ thấy những vùng loang lổ
mầu trắng xen với màu xanh lá cây. Màu trắng là khu vực cỏ tranh
cao cỡ đầu gối, màu xanh lá cây là những cụm rừng số 3, cây không
cao lắm. Vùng này suối không sâu và cạn kiệt vào mùa khô. Thời
gian này đang là mùa khô.
Thiếu tá Bùi Ngọc Long đã chỉ cho tôi
biết vị trí những cây súng cộng đồng của địch đều tập trung dọc
theo con đường xe be cắt ngang đỉnh ngọn đồi có cao độ 898 mét.
Chắc chắn hiện thời địch đang có mặt trên đồi này, chúng ngang
nhiên đốt lửa giữa ban ngày, nơi bìa rừng từng lọn khói đen cứ
lừng lững vươn lên cao rồi tan đi thật bình yên vô tư.
Ngọn đồi này nằm cách chỗ tôi đóng quân
đúng 2 cây số về hướng Tây–Nam. Xe cộ đi ngang qua đoạn đường yên
ngựa hướng chính Nam của Căn cứ Ðạo Trung thường là mục tiêu cho
các loại súng cộng đồng đặt trên Đồi 898 nhắm bắn. Ðiểm chiến
thuật thứ hai là ngọn đồi có cao độ 880 mét nằm ngay trên Liên
tỉnh lộ 8B, cách lều của tôi đúng một cây số rưỡi. Nếu địch gài
được một cái chốt cấp đại đội trên đỉnh đồi này thì cái cua chữ
“C” hướng Nam Căn cứ Ðạo Trung biến thành tử địa.
Cũng từ ngọn đồi này, hằng ngày các tay
bắn tỉa của Việt cộng liên tục nã súng vào các pháo thủ đóng
trong căn cứ. Muốn giải tỏa áp lực địch trên Liên tỉnh lộ 8B bắt
buộc phải chiếm cho kỳ được Đồi 898 và Đồi 880.
Ðồi 898 sẽ là Mục Tiêu 1, Đồi 880 sẽ là
Mục Tiêu 2. Tôi dự trù sẽ bứng Mục Tiêu 1 trước, kế đó mới là Mục
Tiêu 2.
Thoạt
nhìn vào bản đồ thì bất cứ cấp chỉ huy nào cũng chọn con đường xe
be từ Liên tỉnh lộ 8B rồi theo hướng Tây–Nam để làm trục tiến tới
Mục Tiêu 1.
Nếu có chiến xa tăng phái, chắc chắn tôi sẽ dùng trục lộ này.
Nhưng ngặt nghèo là thời gian này các đơn vị thiết giáp của ta
còn kẹt ở mặt trận Pleiku, có làm đơn xin cũng còn lâu mới được
thỏa mãn.
Tôi
đã được Thiếu tá Bùi Ngọc Long kể lại, trước khi chúng tôi được
lệnh vào vùng thì một đơn vị bộ binh đã dùng trục tiến này để
đánh địch nhưng thất bại. Quân bạn đã phải bỏ xác người chết trên
đường lui vì không kéo ra được.
Tôi thấy lý do thất bại của đơn vị bạn
rất dễ nhìn ra. Chỉ vì đoạn đường từ khu tập trung tới mục tiêu
quá xa, nếu ta dùng đội hình hàng dọc thì không đủ quân xung
phong ở chạm tuyến; nếu sử dụng đội hình hàng ngang thì quân ta
sẽ chết rất nhiều trước khi tới tuyến xung phong. Vậy là trục
tiến này không thể dùng được, tôi phải bày kế khác.
Tôi cũng nghĩ tới kế sách tiếp theo là
liều mạng dàn quân hàng ngang dưới suối, rồi leo nhanh lên dốc,
tấn công trực diện, nhưng cách đánh này đòi hỏi một hỏa lực yểm
trợ tiếp cận thật mạnh, giống như hỏa lực của trực thăng vũ trang
Hoa Kỳ thời 1966–1972.
Nhưng sau Hòa Ðàm Paris mà đánh nhau
kiểu này thì không khác gì tự sát dưới hỏa lực hùng hậu của địch.
Suy đi, tính lại mãi, cuối cùng, tôi quyết định sẽ áp dụng chiến
thuật đánh đêm.
Dạ chiến có lợi thế bất ngờ, vì trong
bóng đêm, ta có thể bí mật áp sát mục tiêu, tới sát bên địch rồi,
ta mới khai hỏa. Muốn thực hiện điều này phải có những tay súng
tinh nhuệ và gan lỳ. Trận này bắt buộc tôi phải dùng tới 18 Viễn
Thám viên và 12 anh lính cận vệ. Thời gian này Thiếu úy Trần Văn
Phước kiêm nhiệm chỉ huy 12 anh cận vệ, vì Thiếu úy Lý Ngọc Châu
còn đang theo học khoá Chiến Tranh Chính Trị trên Ðà Lạt.
Với quân số này, tôi có thể chiếm lĩnh một tuyến có chiều dài
trên dưới một trăm thước để làm đầu cầu cho Ðại Ðội 3/82 phía sau
bò lên theo.
Nhưng trước khi ra quân, ta
phải biết:
“Lực lượng địch cỡ nào? Ðịch dàn quân ra làm sao? Nơi nào nên
đánh? Ðánh như thế nào?” Muốn trả lời những câu hỏi ở trên thì
cấp chỉ huy phải đích thân thám sát địa thế, tìm hiểu địch tình.
Tôi đã biết, mỗi khi thực hành một trận
đánh, các cấp chỉ huy Việt cộng đều đích thân đi thám sát trận
địa để nắm vững chính xác tình hình của quân ta. Trong khi đó thì
đa số chỉ huy của ta lại cứ đòi phải có trực thăng hay L19 mới
chịu bay quan sát.
Tôi xuất thân là đầu lãnh của những
toán Viễn Thám Biệt Ðộng Quân một thời ngang dọc Vùng 2, chẳng lẽ
lại thua gan mấy tay chỉ huy Việt cộng?
Thế là ngay tối 28 tháng 9 tôi đã đích thân chỉ huy tiểu đội cận
vệ cùng hai toán Viễn Thám 821 và 824 xuống núi thi hành một cuộc
hành quân xâm nhập.
Ðêm 28 tháng 9 trên trời có trăng nhưng
dưới thung lũng thì sương mù trắng xóa. Toán 821 do Hạ sĩ 1 Mom
Sol dẫn đầu, tiếp đó là 824 do Binh 1 Yang chỉ huy, tôi là người
đi kế tiếp, theo tôi là Thiếu úy Trần Văn Phước, người đoạn hậu
tiểu đội cận vệ là Trung sĩ Y Thon Nier với khẩu M79 bắn đạn
chài.
Chúng
tôi tiến thật êm trên thảm cỏ tranh nằm giữa hàng cây xanh sát bờ
suối và đỉnh ngọn đồi trọc bên hướng Tây. Tới khu đồng cỏ hướng
Ðông của Đồi 898 tôi cho quân dừng lại. Tiểu đội cận vệ dưới
quyền Thiếu úy Phước trải thành một hàng ngang, vừa bảo vệ cho
tôi, vừa sẵn sàng tiếp cứu hai toán Viễn Thám. Viễn Thám 821 dẫn
đầu, 824 theo sau, hàng một leo lên dốc. Ðêm lạnh, chỉ có tiếng
gió lay cành lá hòa với tiếng ếch nhái dưới thung lũng nghe thật
là ảm đạm, thê lương. Thời gian hai toán Viễn Thám vượt khoảng
đất trống từ triền Ðông của Đồi 898 tới mặt đường xe be là thời
gian nín thở của những người ngồi dưới khe. Tôi đã từng nhiều lần
đi toán, vậy mà kỳ đi thám sát này tôi cũng thấy lòng hồi hộp
không yên.
*****
Mười
phút sau khi 821 và 824 xuất phát, trong máy PRC25 của tôi có 2
tiếng “Xẹc! Xẹc!” đó là dấu hiệu quân trinh sát của tôi đã tới
sát bìa rừng. Cũng mười phút sau nữa, tôi nghe tiếp 3 tiếng “Xẹc!
Xẹc! Xẹc” đó là dấu hiệu báo rằng 824 ngừng lại vì thấy địch, còn
821 vẫn tiếp tục tiến lên. Bẵng đi hai mươi phút sau, tôi mới
nghe được 4 tiếng “Xẹc!Xẹc!Xẹc!Xẹc!” đó là tín hiệu của Mom Sol
báo rằng 821 đã đi qua hết tuyến dàn quân của địch.
Tôi với tay cầm ống liên hợp, bóp ba
cái, “Xẹc!Xẹc!Xẹc!” sau đó ba giây đồng hồ, tôi lại bóp tiếp ba
tiếng nữa, “Xẹc!Xẹc!Xẹc!”. Tín hiệu này là lệnh rút lui ban ra
cho 821 và 824. Sau đó, tôi bò lên dốc, đưa tay vỗ nhẹ một cái
lên vai chú Phước, Phước tiếp tục vỗ lên lưng người bên cạnh, cứ
thế người được báo tin cuối cùng là Trung sĩ Thon. Như vậy, tất
cả anh em trong tiểu đội cận vệ đều đã được thông báo tránh ngộ
nhận. Chúng tôi chuẩn bị đón quân bạn tụt xuống đồi bất cứ lúc
nào.
Tôi hồi
hộp, bồn chồn. Từng giây đi qua, từng phút trôi qua, trăng lên đã
cao, dưới thung lũng vẫn chỉ có tiếng dế kêu, xen lẫn tiếng gió
lùa. Rồi từ hướng Nam của con thông thủy vọng lại tiếng “Xoẹt!
Xoẹt! Xoẹt!”. Ðó là âm thanh tạo thành bởi những vật nặng vừa lao
từ trên đồi xuống, chạm phải bụi cỏ lau dưới thung lũng.
Toán 824 của Binh 1 Yang đã về! Ba ông
Viễn Thám này xuống đồi bằng cách nằm ngửa, chong súng lên trời,
xuống đồi bằng lưng! Xuống dốc bằng lưng nhanh gấp mười lần xuống
dốc bằng bụng! Ngày xưa, tôi học được kỹ thuật này của Việt cộng!
Trong một lần tiếp viện cho quân bạn, tôi đứng bên này suối, thấy
Việt cộng “chém vè” bằng cách nằm ngửa, ôm súng tụt xuống dốc,
vừa nhanh lại vừa an toàn.
Về hậu cứ, tôi đem quân ra Biển Hồ tập
thử, thì thấy cách xuống núi này quả thực là hay, nhất là cho các
ông Viễn Thám. Ông lính Viễn Thám nào dưới quyền tôi cũng rành
cách xuống núi thoát hiểm này.
Gần 2:00g sáng ngày 29 tháng 9 tôi mới
có tin tức của 821. Khi bóng trăng đã xế, toán 821 của Hạ sĩ 1
Mom Sol mới về tới ngã ba thông thủy, đầu nguồn suối Dak Boun
Bring. Tôi ra lệnh đạp lau sậy xuống để đánh dấu điểm chạm suối
của Binh 1 Yang và điểm chạm suối của Hạ sĩ 1 Mom Sol. Khoảng
cách của hai dấu mốc này sẽ là tuyến dàn quân của tôi ngày tiến
công.
Tình
hình địch trên Mục Tiêu 1 đã được Mom Sol mô tả một cách thật
chính xác như sau:
Sau khi rời vị trí của toán 824, thì
821 tiếp tục men theo bìa rừng, đi về hướng Ðông Nam. Ðịch rải
quân thành một tuyến dài, trong bụi, đằng sau lề đường. Tuyến dàn
quân này dài khoảng gần hai trăm thước. Mom Sol không biết chiều
sâu của trận địa ra sao. Nhưng điều chắc chắn là trên đỉnh đồi
không có địch. Ðịch canh gác rất ơ hờ, có nhiều tên còn đốt lửa
sưởi ấm và cất tiếng ca hát giữa đêm khuya. Mom Sol cũng ngửi
được cả mùi khói bùi nhùi bay ra từ các hố cá nhân. Ðịch đốt bùi
nhùi để chống muỗi rừng.
Sáng sớm ngày 29 tháng 9 tôi cùng tiểu
đội cận vệ đi cùng Ðại Ðội 1/82 của Thiếu úy Ðặng Thành Học, len
lỏi trong rừng theo bờ Ðông của con thông thủy lên chiếm ngọn đồi
có hình hạt đậu hướng Nam. Ngọn đồi này nằm bên bờ Ðông con suối,
đối diện với Đồi 898 và cách Mục Tiêu 2 chừng tám trăm mét. Ðồi
này có nhiều cây thân mộc, khá cao, từ đây với cái ống nhòm, tôi
nhìn rõ mồn một từng hố cá nhân, từng tấm vải nhựa che mưa của
địch trên Mục Tiêu 2.
Tôi đưa cái ống nhòm cho Học:
– Chú nhìn cho rõ nhé! Theo anh thì chỉ
cần một trung đội hàng ngang tiến thật nhanh rồi đánh bằng lựu
đạn là tụi nó chạy có cờ!
Trưa ngày 29 tháng 9 tôi đã có trong
tay bản ghi chép chi tiết tình hình địch và kế hoạch tiến quân.
Chiều 29 tháng 9 tôi đang ngủ say trên
võng thì Ðại tá Vấn tới lều, dựng tôi dậy.
Giọng nói của ông Liên đoàn trưởng rất
nhẹ nhàng, nhưng có vẻ không vui:
– Sắp hết thời hạn rồi mà sao anh không
thấy chú có động tĩnh gì cả? Chú bị bịnh hay sao mà ngủ giữa ban
ngày?
Tôi ngáp
một cái rồi dụi mắt:
– Niên trưởng để tôi ngủ chút đi! Còn
tới bốn ngày nữa mới hết kỳ hạn, tôi đã hứa là tôi sẽ hoàn thành
công tác trước 7 ngày, hôm nay mới là ngày thứ ba.
Nói xong, tôi nằm xuống võng ngủ tiếp.
Ðại tá Vấn ra chiều thất vọng. Tôi nghe
ông thở dài, rồi chui ra khỏi lều, lững thững xuống đồi.
Kế đó tôi nghe dưới đường có tiếng léo
nhéo:
– Hai
ngày nay tôi thấy thằng Thái Sơn cứ ngủ li bì. Chắc nó sợ không
dám đánh rồi! Hay mình cho thằng Chí Tôn vào trận đi!
Người vừa nói là Ðại tá Vấn.
(Chí Tôn: là danh hiệu truyền tin của
Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng
Quân)
– Thì cứ
chờ xem! Tôi biết tính thằng Long, nó đã hứa thì thế nào nó cũng
giữ lời!
Ðó là
tiếng Trung tá Hoàng Kim Thanh.
Ngủ dậy, đánh răng, rửa mặt xong, tôi
ôm tấm bản đồ đi sang khu pháo binh để gặp mặt Ðại tá Vấn. Tôi
cho ông đại tá hay rằng đêm mai, 30 tháng 9 tôi sẽ bắt đầu khai
hỏa. Tôi hứa rằng sau hai ngày, tôi sẽ hoàn tất nhiệm vụ. Tôi nhờ
ông Liên đoàn trưởng, trong ngày 30 tháng 9 gắng xin cho tôi hai
phi tuần tiền oanh kích; sau đó là 100 viên đại bác 105ly trực xạ
từ Ðạo Trung đánh trên Mục Tiêu 1.
Ông đại tá vui mừng ra mặt, chấp thuận
tất cả những gì mà tôi yêu cầu. Trước khi về lều, tôi khẩn khoản
đề nghị với Ðại tá Vấn rằng xin ông giữ kín kế hoạch điều binh
của tôi, đừng cho thượng cấp biết vội, vì tôi e rằng hệ thống
truyền tin mà bị tiết lộ thì quân của tôi sẽ bị nguy to.
oOo
Tiến chiếm mục tiêu
Về tới lều, tôi gọi ông Ðại úy Tiểu
đoàn phó cùng ba ông Ðại đội trưởng 2, 3, và 4/82 tới họp bàn.
Kế hoạch hành quân đề ra là:
Chiều 30 tháng 9 tôi sẽ xin không quân
tiền oanh kích Mục Tiêu 1, tiếp theo là 100 trái đại bác 105ly sẽ
dội trên bìa rừng của Đồi 898. Cùng giờ đó, Ðại úy Tiểu đoàn phó
sẽ dẫn hai Ðại Ðội 2/82 và 4/82 len lỏi trong rừng, tới ém quân
trong vùng hai cây số hướng chính Tây vị trí hiện tại của các đơn
vị này. Chờ đêm xuống, hai đại đội này sẽ leo lên trải quân án
ngữ con đường xe be, cũng là đường rút của địch. Chắc chắn những
tên Việt cộng đang chạy về khu hướng Tây sẽ bị cánh quân của ông
Tiểu đoàn phó tóm hết.
Sau trận Pleime thì hai Ðại Ðội 1/82 và
4/82 chịu ít tổn thất hơn hai đại đội còn lại. Kỳ này Ðại Ðội
1/82 của Thiếu úy Học được tôi cho đi đơn độc. Còn Ðại Ðội 4/82
của Thiếu úy Thủy sẽ đi kèm Ðại Ðội 2/82 của Trung úy Danh. Tôi
dặn dò ông Tiểu đoàn phó phải ưu tiên cho Ðại Ðội 2/82 đi phía
sau. Ðại Ðội 3/82 có một nửa quân số là tân binh, nên tôi sẽ cho
đơn vị này nằm dưới quyền trực tiếp chỉ huy của tôi.
Ðúng tám giờ tối ngày mai tôi sẽ dẫn
quân xuống núi. Trong thời gian tôi dàn quân ở trạm tuyến, thì
khẩu cối 81ly của Thượng sĩ Năng và Trung sĩ Minh sẽ liên tục bắn
100 trái trên Mục Tiêu 1.
Ngày 30 tháng 9 năm 1974 trời nắng ráo.
10:00g sáng, tôi đang ngồi uống cà phê thì từ hướng Tây có tiếng
“ì ầm!” của đại bác bắn đi. Vài giây sau thì “Vèo! Vèo! Xè! Xè!
Oành! Oành!” những viên trái phá 105ly theo nhau bay qua đầu tôi,
rơi trên mặt Liên tỉnh lộ 8B và khu rừng thưa bên kia đường. Bụi
khói bắt đầu bốc cao. Không ai bảo ai, mọi người đều lao xuống hố
cá nhân.
Tôi
còn đứng trên đồi, miệng tôi la lớn:
– Anh em Ðại Ðội 3 và Viễn Thám nhớ mở
mắt cho to, thấy thằng Việt cộng nào xung phong thì phải bắn
ngay!
Nhìn qua
căn cứ hỏa lực, tôi không thấy bóng dáng ông lính nào trên mặt
đất, không thấy ai chuẩn bị phản pháo cả.
Hai phút sau khi pháo địch ngừng, tôi
nghe ông Ðại tá Vấn gọi:
– Thái Sơn đây Hai Lẻ Chín! Vừa rồi tụi
nó chọi đá có trúng đầu con cái của Thái Sơn không? Chú có bị
thiệt hại gì không?
Tôi ra dấu cho anh hiệu thính viên
không trả lời Ðại tá Vấn. Vì nếu tôi trả lời thì địch sẽ nghe
được, và sẽ truy ra vị trí đóng quân của tôi; trong tương lai
chúng sẽ không còn bắn trật nữa.
Tôi cất bước đi quanh ngọn đồi, những
anh lính cũ thấy tôi thì toét miệng ra cười, những anh lính mới
thấy thế cũng nhe răng cười theo. Tôi hỏi một tân binh:
– Chú em có sợ không!
– Dạ! Lúc đầu em cũng run, nhưng thấy
Thiếu tá còn đứng trên đồi, kêu tụi em coi chừng địch xung phong
thì bắn ngay, em không còn sợ nữa!
Sau cơn mưa pháo chừng mười phút, cây
đàn guitar Vọng Cổ của anh nhạc sĩ cận thị Lao Công Ðào Binh tên
là Phan Thành Hoàng đã bắt đầu “Tửng! Từng! Tưng!” trở lại. Ði
hành quân, các ông Lao Công Ðào Binh là sướng nhất, không canh
gác, không xung phong, không súng ống, chỉ loanh quanh bên hầm
khẩu 81ly, nằm giữa bộ chỉ huy tiểu đoàn.
2:00g chiều 30 tháng 9 trên trời có
chiếc thám thính cơ L19. Tôi vào tần số Không Lục, có tiếng ông
Thiếu úy Ðịa Phương Quân của Tiểu Khu đang bay trên trời:
– Thái Sơn cho tọa độ, chúng tôi đánh
ngay!
Lúc này
tôi và Ðại tá Vấn đang đứng bên ụ súng 105ly; ông Ðại tá vội cầm
máy:
– Yêu cầu
chú đánh ngay trái khói của pháo binh. Ðánh cho ngọn đồi đó tan
hoang thành bình địa cho tôi!
Tôi liền ghé tai ông Vấn:
– Ðánh sát các bìa rừng, không đánh
trên đỉnh. Ðịch không đóng trên đỉnh!
Ông Ðại tá vội lớn tiếng:
– Ðiều chỉnh lại, yêu cầu đánh sát bìa
rừng, không đánh trên đỉnh! Nghe rõ không trả lời!
Một trái khói từ khẩu 105 được bắn đi.
Ðạn nổ vừa xong, chiếc L19 cũng chúc xuống bắn thêm một trái khói
nữa. Phút sau, hai chiếc A37 sà xuống trút bom. Hôm đó tôi không
nghe tiếng phòng không của địch. Hai chiếc A37 thả bom thật là
chậm rãi, từng trái một, nhìn như đang thực tập. Cây cối gãy đổ,
cành lá đua nhau bay lên trời, đồng cỏ tranh bắt đầu bốc cháy.
Cạn bom rồi, hai con tàu còn bay vần vũ trên trời một hồi lâu,
rồi mới bay đi.
Ông Ðại tá quay qua tôi:
– Hết không yểm rồi! Mình xin hai phi
tuần, bốn phi xuất, nhưng họ chỉ cho một phi tuần thôi!
Vị sĩ quan pháo đội trưởng chui ra khỏi
lều hỏi tôi:
–
Tới giờ mình “chơi” chưa Thiếu tá?
Tôi nói:
– Mình chờ chừng năm phút nữa, đợi tụi
nó chui ra khỏi hầm mình đánh tiếp.
Năm phút sau, bốn khẩu 105ly đua nhau
giựt cò, cứ một viên chạm nổ, tiếp theo là một viên nổ cao, Đồi 898 hóa thành một cột bụi ngùn ngụt dâng cao.
Trời nóng quá, tôi cởi cái áo ngoài ra
vắt trên nóc hầm. Thấy thế, Ðại tá Vấn cũng theo tôi, cởi áo
ngoài, vắt trên nóc hầm.
Lúc này một ông Thiếu tá và một ông Ðại
tá mặc áo thun trắng, mặt mũi nhễ nhại mồ hôi, cứ chạy đi, chạy
lại, giúp các ông xạ thủ vác đạn, giựt cò.
Dưới giao thông hào, ông Liên đoàn phó
giơ máy ảnh lên chụp lia chụp lịa. Năm 2009 ở Mỹ, ông cựu Liên
đoàn phó có cho tôi biết rằng ông ấy mới tìm ra cuộn phim có cái
ảnh ngày đó tôi và ông Vấn mặc áo may–ô trắng, đứng trong đám
khói bụi mịt mù giữa bốn khẩu pháo. Ông nói sẽ sang tấm ảnh kỷ
niệm ấy ra, rồi gửi cho tôi, nhưng tôi chờ hoài mà không thấy thư
của ông.
Trong
lúc pháo binh đang bắn thì Ðại úy Nguyễn Hữu Tài báo cáo rằng
cánh quân chận địch của ông ta đã bắt đầu di chuyển. Từ đó qua
đêm, tới sáng 1 tháng 10 tôi không nghe được đài nào của cánh
quân này.
Nhá
nhem tối 30 tháng 9 tôi cho lệnh xuống đồi, Viễn Thám 821 dẫn
đường, rồi tới Ðại Ðội 3/82.
Tới chân dốc tôi ngạc nhiên ngừng lại,
vì thấy Thiếu úy Hổ đang bạt tai một tân binh, miệng la:
– Ðù mạ! Mi định trốn hả! Ði lên! Mau
lên!
Tôi hỏi:
– Gì đó Hổ?
– Dạ! Trình Thiếu tá! Thằng này cứ lủi
lủi lại đàng sau tính trốn!
Tôi vỗ vai Hổ:
– Chú cứ đi lên chỉ huy đại đội. Ðể
thằng này lại cho anh.
Nghe lệnh tôi, Thiếu úy Hổ lừ lừ nhìn
anh tân binh rồi quày quả bước đi.
Tôi gặng hỏi anh lính đang đứng trước
mặt:
– Em sợ
lắm hả!
– Dạ!
Trình Thiếu tá em sợ lắm!
Trước mắt tôi giờ đó, không phải là một
anh lính Biệt Ðộng Quân kiêu hùng, mà là một cậu bé rất đáng
thương. Thằng bé rõ ràng đang sợ hãi lắm! Hai vai nó run run như
đang lên cơn sốt rét.
Tôi ra lệnh:
– Thiếu úy Phước đem nó về bộ chỉ huy,
giao cho Thượng sĩ Năng!
Thiếu úy Phước hằm hè kéo cổ áo anh tân
binh lôi đi.
Chúng tôi an toàn tiến sát tới cọc mốc xa nhứt mà 821 đã đánh dấu
đêm hôm trước.
Thật nhanh chóng, 18 Viễn Thám viên và
tiểu đội cận vệ vào đội hình hàng ngang. Trong lúc tôi và Thiếu
úy Hổ lo trải quân cho Ðại Ðội 3/82 thì Thiếu úy Trần Văn Phước
quay trở lại, sau lưng Phước là anh chàng Trung sĩ Nguyễn Minh
của khẩu đội 81ly.
Tới sát bên tôi, Phước nói nhỏ:
– Em giao thằng lính chết nhát cho ông
Năng rồi, còn ông Minh này cứ kèo nài xin đi theo Thiếu tá.
Tôi nói:
– Cho nó theo nhóm cận vệ luôn!
Vương Mộng Long
(còn tiếp...)
Kỳ
4
Đường về Gia Nghĩa
Vương Mộng Long
Trong
thời gian 100 quả đạn cối 81ly của Thượng sĩ Năng theo nhau rơi
trên mục tiêu, tôi dàn quân và bắt đầu leo dốc. Sau trận oanh tạc
và pháo kích chiều nay, cánh đồng tranh đã cháy thành bãi đất
đen. Tôi đi sau lưng trung đội Viễn Thám, Thiếu úy Phước đi sau
tiểu đội cận vệ.
Không lâu sau chúng tôi đã tới con
đường xe be, bên kia đường là cánh rừng tả tơi vì bom đạn. Gió
đang thổi từ Ðông qua Tây, thật là thuận lợi cho chúng tôi vô
cùng.
Tôi chỉ
đem theo một khẩu Colt, không có súng dài, trận này trên dây ba
chạc của tôi treo tòn ten bốn quả lựu đạn lân tinh. Tôi rút chốt
quả lựu đạn sáng, ném thẳng tay qua hàng cây. Trái lựu đạn rơi
trên triền đồi. “Bóc!” một chùm sáng chói lòa phụt lên! Tiếp đó
là những tiếng “Ùm! Ùm! Ùm!” của lựu đạn M26 đua nhau nổ rền.
Trái sáng của tôi chính là hiệu lệnh
khai hỏa.
Ðợt
tiến công phủ đầu là lựu đạn M26. Nhờ có trái lựu đạn lân tinh mà
chúng tôi đang ở ngoài sáng mà hóa ra ở chỗ tối. Ðịch bị ánh sáng
lựu đạn làm chói mắt nên không nhìn thấy gì cả. Quả lựu đạn chiếu
sáng thứ hai vừa bùng lên thì quân của tôi đã nằm sát bìa rừng.
Theo đúng quy định, một khẩu súng chĩa về phải, còn khẩu kia chĩa
về trái cứ thế mà bóp cò. Bắn đã năm phút mà không nghe phát đạn
nào của địch đáp lại, tôi cho lệnh ngưng.
Lúc này Ðại Ðội 3/82 đã tiến tới đường
xe be. Tôi cho Ðại Ðội 3/82 tràn vào lập thêm một hàng rào thứ
hai. Sau đó, tôi cho Trung đội Viễn Thám và tiểu đội cận vệ quay
mặt ngược lại 180˚, hướng về con đường xe be để giữ lưng cho Ðại
Ðội 3/82. Từ ấy, dưới ánh hỏa châu của pháo binh, Ðại Ðội 3/82
chậm rãi thanh toán từng hầm cá nhân của địch. Mỗi cái hầm của
Việt cộng lãnh một trái lựu đạn M26. Ðến khi trăng lên tới đỉnh
đầu thì chúng tôi đã hoàn toàn làm chủ ngọn Đồi 898.
Làm chủ Mục Tiêu 1 xong, tôi gọi cho
Ðại úy Tiểu đoàn phó, ra lệnh cho ông ta đưa quân lên chận đường,
hốt gọn những tên địch vừa thoát chạy từ đây ra. Tôi gọi hoài mà
không có đài nào của cánh quân thứ nhì trả lời. Cùng lúc này
Thiếu úy Ðặng Thành Học báo cho tôi hay, trên Mục Tiêu 2 có ánh
đèn pin nhấp nháy. Tôi bước ra mặt đường xe be thì thấy trên Đồi
880 có một ánh đèn pin chớp rồi tắt như đang tìm cách truyền tín
hiệu với đồng bọn trên Đồi 898.
Tôi nghĩ, chắc tụi này đã thấy Đồi 898
bị đánh phá tơi bời, nên chúng dùng tín hiệu đèn để xin lệnh
chăng? Nhân cơ hội này mà mình tấn công chớp nhoáng, chắc chắn sẽ
thắng ngay. Ngặt một điều là cho Ðại Ðội 1/82 tham chiến thì tôi
không còn đơn vị nào trừ bị. Nếu dùng hỏa lực mà đuổi được chúng
nó thì công việc ngày mai của Ðại Ðội 1/82 sẽ nhẹ đi nhiều. Nghĩ
thế, tôi liền gọi máy cho liên đoàn xin thỏa mãn gấp 100 quả đạn
105ly trên Mục Tiêu 2. Hứng chịu 100 quả đạn đại bác chắc bọn
Việt cộng đóng chốt trên Đồi 880 cũng táng đởm, kinh hồn!
Một tiếng đồng hồ sau, trên mặt đường
xe be từ hướng Nam có nhiều tiếng chân rầm rập, cùng với tiếng
la: “Các đồng chí đừng bắn! Bạn đây!”
Hóa ra bọn này là đơn vị Việt cộng vừa thoát chạy từ Mục Tiêu 2!
Phút chốc, toán người này đã tới tuyến phòng ngự của tiểu đội cận
vệ.
“Bạn đây!
Bạn đây!” – “Ðùng! Ðùng! Ðùng! Rẹt! Rẹt! Rẹt! Cành! Cành!
Cành!...”
Trong bóng đêm, bỗng có hai người bên cạnh đưa tay đè vai tôi
xuống, rồi nhoài mình ra phía trước. Hình như hai người lính này
cố ý lấy thân mình để che chắn và bảo vệ người chỉ huy của họ.
Trước mặt tôi, hai anh này quỳ gối sát cánh nhau, tác xạ liên
tục, một người sử dụng súng M79 bắn đạn chài, người kia sử dụng
súng M16. Súng nổ liên thanh cùng với những thân người ngã xuống.
“Ối! Ối! Ðừng bắn! Bạn đây! Chết tôi!
Ối! Ối!...”
Cách tôi chỉ vài thước, trên mặt đường, có mấy cán binh cộng sản
đè lên nhau, quằn quại trên mặt đất. Cũng có những tên địch nhanh
chân phóng mất hút trong rừng đêm. Bất ngờ từ mặt lộ, một tên
Việt cộng đã bị thương bỗng ngồi dậy. Một băng AK47 nổ giòn. Tôi
nghe tiếng đạn bay sát mang tai. Hai Biệt Ðộng Quân che trước mặt
tôi bị trúng đạn, chỉ kịp la lên hai tiếng “Ối! Ối!” rồi nằm vật
sang bên. Quân ta lại bắn tiếp, thằng Việt cộng bị thương lại gục
xuống. Kỳ này thì y chết luôn! Tiếng súng ngừng, dưới ánh hỏa
châu, tôi thấy trước mặt mình có hai người chết. Một người là
Trung sĩ Y Thon Nier, người kia là Trung sĩ Nguyễn Minh!
Sáng 1 tháng 10 sau khi gọi mãi mà
không nghe ông Tiểu đoàn phó cùng hai Ðại Ðội 2/82 và 4/82 lên
tiếng, tôi liền ra lệnh cho khẩu 81ly bắn một trái đạn khói trên
khu đồng cỏ tranh nằm cách vị trí đóng quân cũ của ông Tài chừng
nửa cây số về hướng Tây. Tôi bắn trái khói này cốt ý để hù dọa
ông Tài, nếu ông ta có đem quân đi trốn thì cũng phải lòi mặt ra
vì sợ tôi nã pháo vào đầu!
Quả đúng như tôi dự liệu, tôi chưa thấy
khói bốc lên cao, ba cái máy chính của cánh quân này đã la lên
oai oái:
– Xin
ngưng tác xạ! Xin ngưng tác xạ! Các anh đã bắn vào đầu chúng tôi
rồi!
Giận quá,
tôi vội cầm ống liên hợp lên quát lớn:
– Rút ra đường! Kỳ này tụi mày sẽ ra
tòa, đi tù hết!
Sau đó, tôi cho Thiếu úy Hổ tung quân
ra lục soát toàn thể Mục Tiêu 1.
Triền Tây–Nam của Đồi 898 là vị trí chỉ
huy của một tiểu đoàn Việt cộng, với hệ thống giao thông hào hình
cánh cung. Có nhiều hầm hố đã bị bom và pháo binh đánh sập với
nhiều vũng máu chưa khô. Chúng tôi thu được 17 khẩu AK47, một bàn
tiếp hậu cối 82ly, một nòng đại bác 57ly còn tốt, cùng gần chục
khẩu AK và B40 gãy nát.
Thêm vào đó là vài chục viên đạn 57ly
cùng hàng trăm thủ pháo và bộc phá ném tay, chất đầy một căn hầm.
Trên tử thi của địch để lại, tôi tìm được một tờ giấy thấm máu,
ghi tên đơn vị Việt cộng này, nhưng đọc không rõ là Tiểu Ðoàn D
407 hay D 401 Ðặc Công? Sau khi kiểm
soát toàn bộ diện tích Đồi 898 và khu vực xung quanh, tôi cho
Toán Viễn Thám 823 và 825 men theo con đường xe be dẫn về
Tây–Bắc. Từ Đồi 898 tới điểm mà tôi đã ra lệnh cho hai Ðại Ðội 2
và 4/82 chận nút có chiều dài gần hai cây số. Viễn Thám báo cáo
rằng có nhiều dấu máu tươi trải dài trên mặt đường, cùng nhiều
bông băng rơi rớt. Nếu cánh quân thứ hai của tôi đã thi hành đúng
kế hoạch thì những tên địch rút chạy kia hết đường thoát.
Vì đêm trước tôi đã chứng kiến bọn Việt
cộng đóng chốt trên Mục Tiêu 2 bỏ chạy rồi, nên chiều 1 tháng 10
tôi xin pháo binh bắn thêm 100 trái đạn nữa lên Đồi 880, sau đó
Ðại Ðội 1/82 tiến lên chiếm ngọn đồi này.
Nửa giờ sau Ðại Ðội 1/82 đã làm chủ Mục
Tiêu 2. Trên mặt đất chỉ còn ba cái xác cán binh Việt cộng chết
không toàn thây, ba khẩu AK gãy nát cùng mấy cái nón cối thủng.
8:00g sáng ngày 2 tháng 10 Thiếu úy
Ðặng Thành Học bàn giao Đồi 880 cho tiền quân của Tiểu Ðoàn 81.
Ðoạn đường còn lại từ Đồi 880 tới Nghi
Xuân tuy dài, nhưng không còn bóng dáng tên Việt cộng nào, do đó
chưa tới 4:00g chiều ngày 2 tháng 10 quân ta đã tới cổng Ấp Chiến
Lược Nghi Xuân.
Xế chiều ngày 2 tháng 10, một chiếc
trực thăng đáp xuống mặt đường xe be, bên cạnh đống lửa của thầy
trò tôi. Trung tá Hoàng Kim Thanh Liên đoàn phó Liên Ðoàn 24 thả
xuống cho tôi một két La Ve Con Cọp và một cây nước đá. Trung tá
Thanh hét lên, át cả tiếng của động cơ máy bay:
– Ông Nghìn (Tỉnh trưởng) gửi cho chú
món quà này!
Tôi có cái tật khác người, thích uống bia cổ cao có hình Con Cọp
hơn là uống Bia 33 hay các thứ rượu Martell hoặc Hennessy.
Nhưng tối 2 tháng 10 năm 1974, tôi đã
không đụng tới những chai bia này, chỉ vì giờ đó cách chỗ tôi
ngồi không đầy mười thước là hai cái poncho gói xác hai thằng em,
một đứa người Kinh tên là Nguyễn Minh, đứa kia người Thượng tên
là Y Thon Nier. Nhìn cái poncho gói xác thằng Y Thon Nier, tôi
nhớ lại khuôn mặt nhạt nhòa nước mắt của nó ngày thầy trò tái
ngộ. Có lẽ những giọt nước mắt đó chưa khô mà nó đã vội vã bỏ tôi
mà ra đi rồi!
Bên cạnh nó là hình ảnh thằng em gốc Quảng Nam, vừa cười cầu tài,
vừa năn nỉ tôi cách đây không lâu:
– Nhà em ở Nghi Xuân, sau chuyến hành
quân này Thái Sơn du di cho em nghỉ vài ngày thăm nhà.
Tôi đã gật đầu và hứa với nó:
– Nơi này cách Nghi Xuân hơn mười cây
số thôi, nhưng đường lại bị Việt cộng đóng chốt. Chờ hôm nào bứng
xong mấy cái chốt, trên đường về Gia Nghĩa anh sẽ thả chú xuống,
cho chú ghé thăm gia đình mấy bữa.
Hôm nay Liên tỉnh lộ 8B đã khai thông,
ngày mai, hoặc ngày kia, chắc chắn thằng em tôi sẽ được về gặp mẹ
nó và các em nó. Nhưng nó sẽ trở về với cái áo quan bằng gỗ, có
lá cờ vàng ba sọc đỏ phủ bên trên, và có cả một Tiểu Ðội Chung Sự
của Tiểu Khu Quảng Ðức với kèn trống đưa chân nó tới tận bàn thờ
gia tiên.
Bao
năm sau chiến tranh, tôi vẫn thường tự hỏi, có phải ngày đó ông
Trời đã sai khiến hai thằng em Y Thon Nier và Nguyễn Minh về
trình diện Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân chỉ với sứ mạng là chết
thay cho ông thầy của chúng nó hay không?
Sáng 3 tháng 10 năm 1974 tôi rút quân
về vị trí cũ của tiểu đoàn nằm bên cạnh tỉnh lộ, rồi cho gọi ba
ông sĩ quan của cánh quân hướng Bắc về trình diện. Vừa chào kính
xong, Trung úy Võ Hữu Danh đã lớn tiếng tố cáo:
– Trình Thái Sơn, em và anh Thủy chỉ
nghe lệnh ông Ðại úy Tài, ổng bảo gì, tụi em làm vậy. Tụi em
không tự ý tắt máy rồi đi trốn đâu!
Thiếu úy Phạm Văn Thủy chỉ cúi mặt nhìn
xuống đất, không mở miệng nói gì.
Còn ông Tiểu đoàn phó thì mặt mày tái
mét lấm lét nhìn tôi ra chiều lo âu lắm.
Tôi ra lệnh:
– Ðại úy Tài ở lại đây gặp tôi, Trung
úy Danh và Thiếu úy Thủy đi về đơn vị!
Chờ cho hai anh đại đội trưởng đi khỏi,
tôi mới nhìn vào mặt ông Tiểu đoàn phó rồi gằn từng tiếng:
– Tôi sẽ đưa đại úy ra Tòa Án Binh vì
tội “Vi phạm huấn lệnh quân sự”.
Ðại úy Nguyễn Hữu Tài vội rối rít van
xin:
– Xin
Thái Sơn tha cho lần này! Chỉ vì tôi thấy cánh quân của tôi có
nhiều lính mới quá, sợ vừa nổ súng chúng nó đã chạy, nên tôi đành
cho tụi nó chui vào bụi trốn, chờ khi nào yên mới chui ra.
Không chờ tôi cật vấn nhiều lời, ông
Tiểu đoàn phó kể rằng, lúc nghe tiếng súng của Ðại Ðội 3/82 và
Viễn Thám bắn nhau với địch quân, có vài anh lính mới vì sợ quá,
nên rủ nhau bỏ vị trí, rồi ôm súng, tìm đường chạy ra liên tỉnh
lộ.
Vì thế mà
ông ta đành cho lệnh hai đại đội dưới quyền tắt máy truyền tin,
trốn mất tăm, mất tích. Câu trả lời thật lòng của ông Tiểu đoàn
phó làm tôi nhớ lại hình ảnh anh tân binh run rẩy cách nay vài
ngày.
Cơn giận
của tôi chợt nguôi ngoai, tôi giơ tay phất một cái ra lệnh:
– Ði đi!
Nghe thế, ông Tài vội lụp chụp đứng
nghiêm, vừa chào tôi xong là chạy biến đi ngay.
Sáng 4 tháng 10 năm 1974 Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân được lệnh lên xe để về vùng hành quân mới. Dọc
đường từ Nghi Xuân, qua Gia Nghĩa tới Kiến Ðức chúng tôi đã chứng
kiến cảnh dân chúng vui mừng đổ xô ra mặt lộ, vẫy tay reo mừng,
chào đón các chiến sĩ vừa khai thông xong Liên tỉnh lộ 8B. Con
đường Liên Tỉnh 8B này chính là mạch sống của toàn thể cư dân
Quảng Ðức.
o0o
Bên suối Dak Blao...
Trưa ngày 4 tháng 10 chúng tôi tới chân
Đồi Kiến Ðức. Ðoàn xe chở quân ngừng lại trên mặt Tỉnh lộ 344,
dưới chân một ngọn đồi có cái cây khô cao sừng sững. Phong cảnh ở
đây buồn quá, khiến cho tôi nhớ lại lời nói của ông Trung tá Nhu
trước ngày tôi dẫn quân rời Pleiku:
“Chắc đi khỏi đây rồi, chú sẽ nhớ
Pleiku lắm nhỉ?”
Nhẩm tính lại, nếu không bị cản đường,
chỉ cần một ngày di chuyển bằng xe chúng tôi đã có thể đi từ
Pleiku tới Gia Nghĩa. Vậy mà trải qua nửa tháng trời vất vả chúng
tôi mới có mặt ở chốn này. Tại đây chúng tôi sẽ thay thế hai tiểu
đoàn trực thuộc Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân giữ nhiệm vụ phòng
thủ Chi Khu Kiến Ðức và khu vực phụ cận.
Hướng Bắc vùng này do Tiểu Ðoàn 96 Biệt
Ðộng Quân bàn giao. Tôi cho Bộ chỉ huy nhẹ của Ðại úy Tiểu đoàn
phó và Ðại Ðội 4/82 trấn giữ khu vực này. Ðại Ðội 4/82 chiếm giữ
ngọn đồi có cao độ 700 mét nhìn xuống con suối lớn có tên là Dak
Blao.
Hướng
Nam là khu vực do Tiểu Ðoàn 72 Biệt Ðộng Quân bàn giao. Nơi đây
có ba ngọn đồi nằm giữa Ngã Ba Kiến Ðức. Tôi cho các đại đội còn
lại phòng thủ ba ngọn đồi này.
Bộ chỉ huy tiểu đoàn nằm với Ðại Ðội
3/82 trên đồi chính, cũng là khu có bốn khẩu pháo 105ly tăng
cường.
*****
Khi bàn giao, Trung tá Nguyễn Lang,
biệt danh là “Lang Trọc” Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng
Quân nói với tôi rằng vùng này yên tĩnh lắm, quân ta và quân địch
nằm cách nhau chỉ một con suối, uống chung dòng nước Dak Blao mà
không hề bắn nhau. Nghe chuyện này tôi vô cùng ngạc nhiên. Kể từ
khi Việt cộng vi phạm nghiêm trọng hiệp định ngưng bắn Paris, xua
quân đánh chiếm Lệ Minh và Bù Bông năm 1973, thì cái vụ hòa hợp
hòa giải này đã hết hiệu lực từ lâu.
Chắc chắn ông Lang đã biết tôi vừa
thoát chết ở Pleime, ông Thiếu tá Nguyễn Ngọc Di mất xác ở Dak
Pek, Thiếu tá Hà Văn Lầu tử trận ở Thường Ðức? Vậy mà không hiểu
vì lý do gì mà ông Lang dám cho lính dưới quyền ông ta sinh hoạt
chung với địch mà không sợ bị địch trở mặt bất ngờ, và ông ta
cũng không sợ bị thượng cấp trách phạt hay sao?
Tôi và Trung tá Nguyễn Lang là đôi bạn
vong niên, chúng tôi gặp nhau thời gian Ðại tá Lê Khắc Lý là Chỉ
Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2. Thời gian này
tôi là Trưởng Phòng 2, còn Thiếu tá Lang là Trưởng Khối Chiến
Tranh Chính Trị. Sau đó ông Lang ra thay ông Thiếu tá Quang giữ
chức Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 89 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng.
Mùa Hè năm 1972 Thiếu tá Lương Văn Ngọ
bị Tướng Trần Văn Hai truất quyền chỉ huy Chiến Ðoàn 21 Biệt Ðộng
Quân thay thế bằng Thiếu tá Nguyễn Lang. Dưới quyền Thiếu tá
Nguyễn Lang, Chiến Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân đã có công giải tỏa
Quốc lộ 14 tiếp cứu Kontum nên ông Lang được vinh thăng cấp trung
tá.
Sau một
thời gian, có lẽ đã hơn một năm rồi, tôi và ông Trung tá Lang mới
gặp lại nhau. Tôi nghĩ rằng chắc có ẩn tình gì đó, nên ông Lang
đã giấu giếm không cho tôi biết nguyên nhân vì sao ông ta dám cho
quân lính dưới quyền bắt tay giao du với giặc. Tôi chưa kịp tìm
hiểu tình hình thực sự của vùng này như thế nào thì sáng sớm hôm
sau, 5 tháng 10 năm 1974 tôi đã nghe Thiếu úy Thủy mật báo rằng
đêm qua Đại úy Tiểu đoàn phó đã ngồi nhậu cả giờ đồng hồ với một
tên cán bộ Việt cộng trong căn lều tranh “Hòa Hợp, Hòa Giải” trên
bờ Nam suối Dak Blao dưới chân Đồi 700. Căn lều này đã được Tiểu
Ðoàn 96 bàn giao lại!
Lập tức tôi cho Thiếu úy Phước xuống
đồi gọi ông Tài lên trình diện. Vài phút sau, trước mặt tôi, ông
Tiểu đoàn phó của tôi đã phân bua với tôi một cách thật ngây thơ:
– Tôi được Thiếu tá Hiển, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu Ðoàn 96 Biệt Ðộng Quân bàn giao rằng trong vùng này,
quân hai bên sẽ sống chung hòa bình, không bên nào xâm phạm bên
nào. Tối qua tôi có nói chuyện với thằng chỉ huy Việt cộng, y ta
đã đồng ý không tấn công mình trước. Tôi chưa kịp báo cáo với
Thái Sơn chuyện này thì ông đã biết rồi!
Tôi nhìn mặt ông phó của tôi mà chỉ
biết lắc đầu chán nản:
– Thôi! Ông khăn gói về nằm với thằng
Danh trên ngọn Đồi Tây. Tôi cấm ông bén mảng tới bờ suối! Cãi
lệnh, tôi xử tử đó!
Ngay trưa hôm ấy tôi cho Ðại Ðội 3/82
tràn xuống chiếm cái làng Thượng có tên Bu M’Bré đã bỏ hoang, nằm
bên hướng Tây Quốc lộ 14, đối diện với Đồi 700. Hai ông Ðại đội
trưởng 3/82 và 4/82 được mật lệnh tắt máy từ chiều hôm đó cho tới
khi kế hoạch hoàn thành. Kế hoạch đề ra là, đúng 10:00g đêm 5
tháng 10 pháo binh sẽ bắn 200 trái đạn 105ly trên một tuyến dài
theo hướng Ðông–Tây vùng Bắc suối Dak Blao. Tới lúc pháo binh
ngưng tác xạ, sẽ có những trái đạn 81ly chiếu sáng soi đường cho
Trung đội Viễn Thám vượt suối làm đầu cầu. Tiếp đó, Ðại Ðội 4/82
sẽ men theo cây cầu gãy, tiến chiếm cái làng Thượng đã bỏ hoang
nằm trên khúc quanh của Quốc lộ 14 cách suối Dak Blao hai trăm
thước. Ðại Ðội 3/82 sẽ làm trừ bị, sẵn sàng tiếp cứu Ðại Ðội 4/82
khi cần. Trong khi quân ta tiến chiếm mục tiêu thì khẩu cối 106ly
của tiểu đoàn cứ thủng thỉnh rót từng viên đạn nổ trên khúc đường
Quốc lộ 14 nằm dưới chân núi Bù Row để tiêu diệt và áp đảo tinh
thần những tên địch chạy khỏi vùng.
Tôi đã nghe ông Trung tá Lang cảnh cáo
rằng, nếu ta bắn 1 viên đạn pháo hay cối vào vùng địch, ta sẽ bị
địch đáp trả từ 10 tới 20 lần hơn. Nhưng hình như đêm 5 tháng 10
Việt cộng đã bị hoàn toàn bất ngờ trước vụ tấn kích của tôi. Tôi
không nghe tiếng súng lớn nhỏ nào của địch cả. Tuy vậy sáng ra,
chúng tôi cũng chỉ phát giác được năm cái xác Việt cộng chết
trong một chòi gác bên suối. Ta thu được vỏn vẹn ba cây AK47 và
một khẩu súng B40.
Chẳng lẽ lâu nay trong vùng này chỉ có
một cái tiền đồn với 5 tên Việt cộng mà ta đã phải huy động tới
hai tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân để trấn giữ hay sao?
Trời sáng rõ, tôi tiếp tục xua quân lên
tiến chiếm cao điểm Bù Row có cao độ 750 mét, nằm về hướng Tây,
sát mép Quốc lộ 14. Ðồi Bù Row là một cái đồn cũ từ thời Pháp, có
ba cái lô cốt và hàng rào mìn xung quanh. Tuy vậy, sau hơn một
năm làm chủ khu vực này, Việt cộng đã gỡ hết mìn bẫy trong vùng.
Xung quanh Bù Row giờ đây là những vạt vườn trồng khoai mì rộng
mênh mông. Vùng này đã trở thành khu vực canh tác sản xuất của
Trung Ðoàn 271 cộng sản.
Trưa 6 tháng 10 năm 1974 tôi đang ngồi
ôm cái ống nhòm, theo dõi hai đại đội tiền phương tiến quân, thì
có một chiếc xe Dodge 4×4 từ Nhơn Cơ chạy tới. Tới chân Đồi Kiến
Ðức, có vài người bước xuống. Một lúc sau, Trung úy Trần Dân Chủ
chạy ra khu pháo binh báo cho tôi biết có một ông trung tá của
tiểu khu muốn gặp mặt tôi. Tôi ra lệnh cho ông Chủ xuống đường,
dẫn ông trung tá lên đây nói chuyện, vì tôi đang bận điều quân.
Ông Trung tá Chỉ huy phó Tiểu Khu Quảng
Ðức bắt tay tôi, rồi dịu dàng:
– Anh Long có khoẻ không?
Tôi hớn hở khoe:
– Tôi khỏe như vâm! Tụi tôi đang đuổi
bọn Việt cộng chạy như vịt! Tôi tái chiếm Đồi Bù Row rồi! Nếu
tiểu khu yểm trợ pháo cho tôi, và cho tôi một tiểu đoàn trừ bị,
tôi lấy lại đồn Bu Bông trong vòng 24 giờ! (Đồn Bù Bông nằm về
hướng Bắc Quận Lỵ Kiến Đức khoảng 20 cây số, do Địa Phương Quân
phòng thủ. Đồn này đã bị Cộng quân chiếm giữ từ cuối năm 1973).
Ông tiểu khu phó lắc đầu thở dài:
– Ông Nghìn sai tôi ra đây để nói với
anh rằng, ngừng cái hành động lấn đất giành dân ngay đi! Ông ấy
sợ Sài Gòn mà nghe biết tình hình vùng này đột nhiên mất an ninh,
họ sẽ khiển trách ông tỉnh trưởng đấy!
Nghe ông tiểu khu phó nói, tự nhiên tôi
thấy cụt hứng, bao nhiêu hào khí phút chốc tan như hơi sương.
Nhưng tôi vẫn cương quyết:
– Nhờ Trung tá về nói với Ðại tá Nghìn
rằng, tôi đã lấn tới Bù Row. Vì từ đỉnh Bù Row địch có thể đặt
cối và súng không giựt bắn vào Kiến Ðức, nếu các ông mà bắt tôi
trả Bù Row cho Việt cộng thì tôi sẽ xin đem quân đi chỗ khác,
không trấn đóng vùng Tây Quảng Ðức nữa!
Ông trung tá già nhìn tôi buồn rầu:
– Em là một sĩ quan lý tưởng của quân
đội, tiếc rằng thời buổi này người ta không ưa những con người
như em!
Rồi
ông bắt tay tôi, từ giã.
Từ ấy cho tới ngày tàn chiến tranh, tôi
không còn dịp nào gặp mặt ông nữa. Hình như sau đó ít lâu ông
trung tá này đã thuyên chuyển đi nơi khác.
o0o
Ðêm 6 tháng 10 từ trong rừng hướng Bắc
suối Dak Blao có tiếng loa của Việt cộng oang oang:
– Ðả đảo Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân
Ngụy đã vi phạm cam kết hòa hợp hòa giải! Ðả đảo tên Tiểu đoàn
trưởng 82 Biệt Ðộng Quân khát máu!
Chỉ mười phút sau, tiếng loa tắt phụt
sau một loạt đạn M16 nổ giòn.
Sáng ngày 7 tháng 10 toán Viễn Thám 823
của Trung sĩ Nguyễn Chi tiến vào rừng khai thác kết quả, chỉ thấy
một thằng giặc nằm chết cong queo bên chiếc loa tay. Từ đêm 7
tháng 10 trở đi không còn cái loa nào léo nhéo nữa....
Sáng 8 tháng 10 tôi đưa cho Ðại úy
Nguyễn Hữu Tài cái sự vụ lệnh hoàn trả ông ta về liên đoàn, với
lý do kém khả năng. Tôi không còn kiên nhẫn để ông đại úy này
tiếp tục làm việc dưới quyền mình nữa. Ðại úy Nguyễn Hữu Tài là
người đầu tiên từ giã Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân mà không có
tiệc tiễn đưa.
Trước giờ Ðại úy Tài vào chào tôi để
giã từ, tôi đã tự tay xé cái giấy phạt 15 Trọng Cấm xin gia tăng
tối đa mà tôi đã phạt ông Tài với tội danh “Bắt tay với địch
quân”. Tôi làm chuyện này, vì tôi vừa hồi tâm, nhớ lại những lời
ông trung tá già, Tiểu khu phó Tiểu Khu Quảng Ðức: “Ông Nghìn sai
tôi ra đây để nói với anh rằng, ngừng cái hành động lấn đất giành
dân ngay đi! Ông ấy sợ Sài Gòn mà nghe biết tình hình vùng này
đột nhiên mất an ninh, họ sẽ khiển trách ông tỉnh trưởng đấy!”
Tôi không biết hành động sống chung hòa
bình với kẻ thù của Trung tá Lang đã có sự đồng tình của ông tỉnh
trưởng hay không? Tôi không biết ông Nghìn đã làm ngơ, hay ông
Nghìn đã ngầm ra lệnh cho ông Lang bắt tay với địch để cho Sài
Gòn yên trí rằng: “Mặt Trận Miền Tây Quảng Ðức vẫn bình yên” (?)
Tôi cũng không biết, nếu ngày đó người
nhận bàn giao vùng Bắc Kiến Ðức không phải là tôi, mà là Thiếu tá
Mẫn hay Thiếu tá Ðàng thì quân ta và quân địch có tiếp tục chung
sống hòa bình, uống chung một dòng nước suối Dak Blao hay không?
Mãi lâu lắm, sau này, tôi mới nghe biết
Trung tá Nguyễn Lang đã bị Tư Lệnh Quân Ðoàn II phạt 40 ngày
Trọng Cấm vì đã bắt tay với địch, nên bị buộc tội “Vi Phạm Huấn
Lệnh Quân Sự”.
Sau khi bị phạt, ông Trung tá Nguyễn
Lang đã bị giải ngũ, loại ra khỏi quân đội.
Còn Thiếu tá Huỳnh Công Hiển, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu Ðoàn 96 Biệt Ðộng Quân cũng bị phạt nặng không kém gì
ông Trung tá Lang, nhưng không bị giải ngũ.
Mãi tới năm 1979 tôi và ông Nguyễn Lang
mới gặp lại nhau trong Trại tù Cải tạo Nam Hà A, ngoài Bắc Việt.
Trong lúc ngồi ôn chuyện xưa ở Kiến Ðức, ông Lang không phiền
trách chuyện tôi đã xua quân qua suối Dak Blao phá vỡ hiệp ước
bất tương xâm mà ông Lang và Việt cộng đã giao ước với nhau. Ông
Lang chỉ bặm môi, chửi thề:
“Ðù má thằng Nghìn! Chơi xấu! Chạy tội!
Ðổ lỗi lên đầu moa!”
Nghe ông Lang nói thế, tôi cũng chẳng
thèm tìm hiểu thêm xem, ngày đó ông Lang và ông Nghìn đã có gì
vướng víu, khúc mắc với nhau không? Có phải chính ông Nghìn đã
làm ngơ trước lỗi lầm của Thiếu tá Hiển và Trung tá Lang không?
Có phải tới khi chuyện xấu vỡ lở, ông ta lại phủi tay, chạy tội
hay không?
Về
phần tôi, hiển nhiên, ngày đó tôi đã bị ông Nghìn khoá tay, không
cho đánh nhau nữa.
o0o
Đời lính, vui và buồn...
Ngày 9 tháng 10 năm 1974 tôi và ba quân
nhân khác đại diện Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân được trực thăng
chở về hậu cứ Pleiku chuẩn bị tham dự ngày lễ thành lập Quân Ðoàn
II.
Trong ba
ngày 9, 10, và 11 tháng 10 Trung tá Hoàng Kim Thanh thay thế tôi
chỉ huy Ngã Ba Kiến Ðức. Buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập Quân Ðoàn
II đã diễn ra thật đơn giản. Tổng thống đã không có mặt, các tỉnh
trưởng trực thuộc Quân Khu 2 cũng không có ai. Trên khán đài chỉ
có hai ông tướng, là Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân
Ðoàn II, và Thiếu tướng Phan Ðình Niệm, Tư lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ
Binh. Trong khi Tướng Toàn đang bận gắn cái huy chương Anh Dũng
Bội Tinh với Nhành Dương Liễu lên hiệu kỳ của Tiểu Ðoàn 82 Biệt
Ðộng Quân, thì Tướng Niệm nài nỉ Tướng Toàn:
– Biệt Ðộng Quân không dùng Thiếu tá
Long thì Trung tướng cho anh Long về làm việc với tôi đi!
Ông Toàn có vẻ bực mình, càu nhàu:
– Ông thích nó thì nói với nó, duyên cớ
gì mà phải năn nỉ tui?
Nghe ông Toàn cự nự, Tướng Niệm bèn
bước tới bắt tay tôi:
– Chúc mừng Tiểu Ðoàn 82 vừa được tuyên
dương công trạng trước quân đội! Chúc mừng Thiếu tá Long!
Sau đó ông Tư lệnh Sư Ðoàn 22 Bộ Binh
hạ giọng, vừa đủ cho tôi và mấy người đứng bên tôi nghe được.
Vương Mộng Long
(còn tiếp...)
Kỳ
5
Đường về Gia Nghĩa
Vương Mộng Long
–
Qua biết Biệt Ðộng Quân đối với em không tốt! Em xin về với qua,
qua sẽ trình với đại tướng duyệt xét lại chiến công trận Pleime
của em, điều chỉnh cho em lên trung tá, sau đó qua sẽ giao một
trung đoàn cho em chỉ huy.
Tôi đã được Tướng Toàn và Ðại tá Tất
hứa rằng tất cả quân nhân trực thuộc Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân
sẽ đương nhiên thăng một cấp đặc cách sau chiến thắng Pleime
1974, nên khi nghe Tướng Niệm nói những lời trên, tôi chẳng hiểu
gì cả. Tôi bèn cười cười, đáp lời Tướng Niệm:
– Cám ơn Thiếu tướng! Tôi còn yêu mến
binh chủng Biệt Ðộng Quân. Tôi chưa muốn đi đơn vị khác!
Bốn mươi sáu năm sau, tháng 10 năm
2020, tôi còn nhớ như in trong óc những lời Tướng Phan Ðình Niệm
nói với tôi lúc giữa trưa ngày 10 tháng 10 năm 1974, cũng là dịp
Kỷ Niệm 22 Năm Ngày Thành Lập Quân Ðoàn II.
Chiều 11 tháng 10 năm 1974 tôi về tới
Kiến Ðức thì được báo tin rằng trong thời gian tôi vắng nhà,
Trung úy Nguyễn Công Minh và Thiếu úy Trần Văn Phước đã được
thuyên chuyển lên làm việc ở Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng
Quân.
Trung úy
Minh được giữ chức Trưởng Ban Truyền Tin, và Thiếu úy Phước đảm
nhiệm chức vụ Trưởng Ban 2.
Cũng trong thời gian này Thiếu úy Lý
Ngọc Châu đã mãn khoá Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt. Vừa trở về
hôm trước, hôm sau chú Châu đã đôn đốc mấy ông Lao Công Ðào Binh
hoàn tất một ngôi nhà lá Câu Lạc Bộ rất khang trang. Ông Tàu Hỷ
đầu bếp, kiêm thủ quỹ của Câu Lạc Bộ đã liên lạc được với một cửa
hàng chạp phô dưới Nhơn Cơ cung ứng mọi thứ hàng cần dùng để bán
cho anh em. Chủ cửa hàng này là vợ chồng ông Lâm Văn Cáo người
gốc Hoa Chợ Lớn. Hiện thời, tình hình Tây Quảng Ðức hoàn toàn
lắng dịu, ta không thấy tên địch nào xuất hiện trong vùng, mà
địch cũng không dám bén mảng tới gần để quấy rối ta.
Bỗng một hôm, tôi đang ngồi trong hầm
hành quân chỉ dạy cho Thượng sĩ Nguyễn Phường, hạ sĩ quan Ban 2
cách điều hành công tác tham mưu tình báo tiểu đoàn thì Trung úy
Trần Dân Chủ, Ban 3 chạy vào báo cho tôi biết Chuẩn úy Trần
Quảng, vừa quá giang xe đò từ Gia Nghĩa tới Kiến Ðức và muốn gặp
mặt tôi để thông báo một tin quan trọng. Chuẩn úy Quảng đang đứng
dưới đường. Tôi cho phép chú Quảng vào Câu Lạc Bộ của tiểu đoàn
chờ gặp.
Thấy
tôi, Quảng liên tục phát ngôn:
– Anh Long ơi! Sáng nay ông Thiếu úy
Trần Văn Phước đã vác súng đuổi bắn Ðại tá Vấn và Trung úy Hạp
làm cho hai ông này chạy bán sống, bán chết!
Tôi ngạc nhiên:
– Vì lý do gì vậy? Chẳng lẽ thằng Phước
lại say rượu nữa hay sao?
– Dạ không! Anh Phước tỉnh táo lắm!
Sáng nay em trực hành quân, em thấy anh Phước mắt đỏ ngầu, tay
cầm khẩu Colt 45 bước vào phòng họp, miệng la oang oang, “Ðại tá
Vấn đâu? Ra đây! Tui cho ông biết thế nào là chạy! Thế nào là
chết!” Nghe tiếng hét của anh Phước, Ðại tá Liên đoàn trưởng sợ
quá, vội chạy ra khỏi phòng tránh mặt. Ông Trung úy Hạp, Trưởng
Ban 3 Liên đoàn, tiến tới khuyên can thì bị anh Phước bắn bốn
phát sượt qua vai. Ông Hạp phóng ra sân, anh Phước đuổi theo,
nhưng bị vấp ngã, khẩu súng văng khỏi tay. Lập tức, anh Phước bị
mấy người lính ôm vật rồi trói lại. Ðại tá đã chuyển anh Phước đi
Gia Nghĩa nhốt trong Ty An Ninh Quân Ðội. Biết chuyện này, em
phải chạy ngay về đây báo cho anh hay ngay.
Chuẩn úy Trần Quảng trước đây là trung
đội trưởng của Tiểu Ðoàn 82. Trong trận Căn cứ 711 tháng 4 năm
1974, Quảng bị thương, sau khi xuất viện, Quảng được chỉ định làm
sĩ quan Phụ tá Ban 3 của Liên Ðoàn 24.
Khác với những quân nhân trong đơn vị,
lúc nào gặp tôi, Quảng cứ gọi tôi bằng đại danh từ “Anh” vì Trần
Quảng là em của Trần Ðờn, một anh bạn cùng trường, cùng lớp của
tôi từ thời 1956 ở Hội An. Tôi biết Quảng từ ngày chú ấy còn mặc
quần thủng đít. Tôi nhìn Quảng gặng hỏi:
– Vậy chú có biết vì lý do gì mà thằng
Phước lại nổi điên như thế không?
– Em nghe nói anh Phước muốn giết ông
đại tá là vì trong thời gian Tiểu Ðoàn 82 bị vây ở Pleime, ông
Vấn có than phiền và “trù ẻo” cho Tiểu Ðoàn 82 sớm chết mất xác,
sớm bỏ đồn gì đó! Vì thế mà anh Phước muốn trả thù ông Vấn!
Nghe Quảng giải thích, tôi nhớ lại ngay
chuyện Ðại tá Từ Vấn đã “trù ẻo” chúng tôi như thế nào trong thời
gian ấy.
Số
là, hồi tháng 8 vừa qua, vòng vây của địch quanh Pleime càng lúc
càng siết chặt, số mệnh của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân lâm vào
tình trạng mong manh như ngàn cân treo sợi tóc, khiến cho ông Ðại
tá Liên đoàn trưởng phải vất vả, âu lo với nhiều đêm thức trắng.
Một hôm, quá nản lòng, thối chí, ông đã buột miệng than:
“Mẹ nó! Chết thì không chết! Chạy thì
không chạy! Cứ dở dở, ương ương, làm cho người ta mất ăn, mất
ngủ!”
Lúc mới
nghe được chuyện này tôi cũng bất mãn và tức giận lắm, sau này
tôi bỏ nó ra ngoài tai, vì tôi nghĩ rằng ông Ðại tá Từ Vấn là
người ăn nói vung vít, bụng để ngoài da, phát ngôn vô tội vạ, chứ
cũng chẳng có ác ý gì. Ðâu ngờ người đàn em của tôi cũng biết
chuyện này, nên ghìm nỗi uất hận trong ruột, nay có dịp là bùng
phát ra ngay. Thiếu úy Trần Văn Phước là một trong những đàn em
mà tôi đem theo từ ngày đầu nhận chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân. Tính tình của Phước rất là vui vẻ, dễ
thương, nhưng cũng không ai dễ dàng bắt nạt được chú ấy. Phước có
cái tật thích uống rượu, rượu vào rồi, dù có việc phải nhảy vào
lửa đỏ, chú ấy cũng không từ nan. Thêm vào đó, là cái lòng cương
trực thẳng băng như ruột ngựa, khiến cho những người quen chú ấy
đã thương thì thật là thương, đã ghét thì thật là ghét. Ở Bộ Chỉ
Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 chỉ có mình tôi là người độc nhất
chỉ huy được con ngựa bất kham này.
Cuối năm 1972, sau khi tốt nghiệp khoá
Tình Báo Căn Bản từ Trường Quân Báo Cây Mai, Chuẩn úy Trần Văn
Phước đáo nhậm Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 và theo chân
tôi từ đó. Thời gian ở Pleiku, Phước chỉ huy Biệt Ðội Biên Vụ, có
18 anh Viễn Thám trực thuộc Phòng 2 dưới quyền tôi. Có một tối
cuối năm 1973, trong quán bún bò cũng là nhà riêng của ông Ðại úy
Hải, sĩ quan Phòng vệ của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2,
Phước mở tiệc khoản đãi một toán Biên Vụ vừa thoát chết trở về.
Tới khuya mà bọn này còn cười nói oang oang, khiến cho ông Sĩ
quan Tổng trực, cũng là Thiếu tá Trưởng Phòng 3 của Bộ Chỉ Huy
Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 nghe được. Ông thiếu tá này bước vào
quán, ra lệnh cho mấy anh lính Phòng 2 giải tán.
Thiếu úy Phước và Ðại úy Hải chủ quán
vội vàng lên tiếng năn nỉ:
– Xin Thiếu tá cho phép anh em được
ngồi thêm vài phút nữa để ăn cho xong mỗi người một tô bún bò.
Nghe xong, ông sĩ quan Tổng trực tức
quá hét lên:
–
Không được! Phải dẹp ngay! Mai tôi sẽ làm phúc trình đề nghị đại
tá ra lệnh đóng cửa vĩnh viễn cái quán bún bò này của ông Hải!
Ngày nào cũng bán tới khuya, ồn ào, mất trật tự!
Cùng lúc đó, bà vợ Ðại úy Hải bưng ra
mâm bún bò bốc khói để trên bàn ăn.
Vị Sĩ quan Tổng trực thấy mấy chàng
lính Thượng râu ria xồm xoàm, tóc dài, ngổ ngáo, cứ giương mắt
nhìn ông, ông bèn ra oai, cầm tô bún bò nóng bốc hơi, đổ lên đầu
anh chàng Phước, miệng ông la:
– Ðủ mẻ! Tao ra lệnh cho tụi mi giải
tán mà tụi mi cứ trơ mắt ngó! Không thi hành lệnh của tao hả!
Kết quả hành động oai hùng của ông
thiếu tá đã đưa tới một kết cục không hay. Thiếu úy Trần Văn
Phước sau khi giơ hai tay vuốt cho sạch mớ bún trên đầu tóc, đã
thẳng tay đấm vào mặt ông thiếu tá một cú thôi sơn, khiến ông
thiếu tá lăn quay ra đất, nằm giãy đành đạch.
Bi hài kịch này xảy ra vào lúc khá
khuya, trong quán bún bò ông Hải, khán giả chỉ có trên dưới mười
người. Xóm giềng của ông Hải đã ngủ yên. Giờ đó gia đình tôi cũng
ngủ lâu rồi.
Sáng hôm sau, ông Thiếu tá Trưởng Phòng 3 mặt mày bầm tím, bước
vào Phòng 2 gặp mặt tôi:
– Tui biết Trường An (Ðại tá Tất)
thương Long, nhưng lính của Long kiêu binh quá! Ðêm qua lính của
Long mới đánh tôi đây!
Nhìn cái mặt bầm giập của ông Trưởng
Phòng 3, tôi tá hỏa, ngạc nhiên:
– Chuyện xảy ra làm sao? Anh cho tôi
biết để tôi trừng trị bọn hỗn hào, bá láp này!
– Tối qua tụi nó tụ tập nhậu nhẹt la
hét om sòm trong quán bún nhà ông Hải. Tôi tới ra lệnh cho tụi nó
giải tán, tụi nó xúm nhau vào đánh tôi! Cầm đầu là thằng Phước!
Tôi ra lệnh cho anh Viễn Thám gác cửa:
– Thằng Ba đi gọi Thiếu úy Phước lên
đây trình diện tao!
Ba mươi giây sau, Thiếu úy Phước lấm
lét đứng trước mặt tôi:
– Tối qua ông sĩ quan Tổng trực làm
nhục em, em chỉ phản ứng tự vệ!
Tôi nhìn thẳng vào mặt Thiếu úy Phước
rồi dõng dạc:
– Kể hết đầu đuôi câu chuyện cho tôi nghe! Sau đó phải có lời xin
lỗi ông Thiếu tá Sĩ quan Tổng trực!
Phước có vẻ nửa bất mãn, nửa sợ sệt, kể
lại toàn bộ diễn tiến sự việc xảy ra tối hôm trước cho tôi nghe,
cuối cùng Phước nhìn tôi buồn bã:
– Thái Sơn có thể đá đít, bạt tai em,
hay đem em đi nhốt, vì tội lỗ mãng, nhưng Thái Sơn đừng bắt em
phải xin lỗi ông thiếu tá này.
Nghe hiểu chuyện, tôi thấy nóng mặt,
giơ ngón tay trỏ, chỉ ngay trán Thiếu úy Phước rồi hét lên:
– Mi là thằng hèn! Mi là thằng hèn!
Phước giật mình thụt lui lại đằng sau
một bước run lẩy bẩy, miệng lắp bắp:
– Em... Em...
Tôi quát tiếp,
– Em! Em! Em
cái gì? Em là một thằng hèn! Người ta đổ bát bún lên đầu em mà em
chỉ dám đánh người ta! Em có súng mà không dám bắn người hạ nhục
em thì em không xứng đáng là em của Thái Sơn! Ðáng lý ra em phải
bắn vỡ đầu nó! Em là một thằng hèn! Nghe rõ chưa! Cút đi!
Lúc tôi quay mặt lại thì không còn thấy
bóng dáng ông Thiếu tá Trưởng Phòng 3 và anh Thiếu úy Trần Văn
Phước đâu cả. Ít ngày sau, tôi cho Thiếu úy Phước vào Pleime
trước chờ tôi. Gần hai tháng sau đó, tôi nhận chức chỉ huy căn cứ
này. Từ ấy tới nay chú Phước sống vào khuôn vào phép, không làm
mích lòng ai. Vậy mà mới sểnh tay tôi ra vài ngày là có chuyện!
Tôi chưa biết làm cách nào để cứu thằng em thì Trung sĩ 1 Lưu Ðức
Hoàn, Hạ sĩ quan Ban 3 tiểu đoàn xuống đồi tìm gặp:
– Hai Lẻ Chín mời Thái Sơn về liên đoàn
có việc cần.
Tôi tới bộ chỉ huy liên đoàn thì phòng hội đã đầy người. Trung tá
Hoàng Kim Thanh đứng giữa phòng họp, thấy tôi xuất hiện thì ông
vỗ hai tay vào nhau, rồi cao giọng, tuyên bố:
– Ðại tá Liên đoàn trưởng bận đi họp
trên tiểu khu, ủy quyền cho tôi chủ tọa buổi họp này. Tất cả anh
em đang chờ Thiếu tá Long, giờ này mình bắt đầu khai mạc hội đồng
kỷ luật được rồi!
Tôi ngồi xuống ghế thắc mắc:
– Kỷ luật ai vậy?
– Thì mình xử anh sĩ quan vô kỷ luật là
Thiếu úy Trần Văn Phước của Tiểu Ðoàn 82 chứ ai?
– Thiếu úy Phước không phải là sĩ quan
của Tiểu Ðoàn 82!
Trung tá Thanh nhìn sững ngay mặt tôi:
– Vậy chứ anh Phước là lính của ai?
– Thiếu úy Trần Văn Phước đã thuyên
chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn, không còn thuộc quân số của Tiểu
Ðoàn 82 nữa!
–
Sáng nay Thiếu úy Trần Văn Phước đã bắn phá lung tung ở đây,
nguyên nhân gây ra bắt nguồn từ Tiểu Ðoàn 82, Thiếu tá Long là
Tiểu đoàn trưởng nên liên đới chịu trách nhiệm!
Tôi đứng dậy, gằn từng tiếng:
– Tôi đã biết rồi! Chuyện này là thù
hằn riêng tư giữa Ðại tá Vấn và Thiếu úy Phước, không liên quan
gì tới tôi!
Dứt lời, tôi đứng dậy bước ra ngoài, trước con mắt ngạc nhiên của
mọi người có mặt. Nửa giờ sau tôi đã về tới Kiến Ðức, có vài lần
Trung tá Thanh gọi tôi vào máy để nói chuyện. Tôi bắt máy nhưng
chỉ ậm ừ vài tiếng rồi dứt khoát:
– Nếu không phải chuyện hành quân, tôi
sẽ không tiếp ai cả.
Hôm sau Trung tá Thanh lên Kiến Ðức tìm
gặp tôi, anh Thanh nói:
– Ông Hai Lẻ Chín ra lệnh cho chú tới
An Ninh Quân Ðội Quảng Ðức ký giấy lãnh thằng Phước ra.
Tôi lắc đầu:
– Ông Vấn nhốt nó thì ông Vấn phải ký
giấy thả nó! Tôi không rảnh mà làm chuyện này!
Thấy tôi nhất mực từ chối, Trung tá
Thanh bèn vào hầm truyền tin nói chuyện với Ðại tá Vấn một lúc
lâu rồi kéo tôi vào Câu Lạc Bộ.
– Nếu bây giờ liên đoàn hoàn trả nó cho
82 thì chú có lãnh nó không?
– Ông Vấn ký lệnh thuyên chuyển cho nó
về lại 82 thì tôi sẽ lãnh nó ngay!
– Chú có dám bảo đảm rằng được tha ra,
nó sẽ không làm loạn nữa chứ?
– Tôi bảo đảm, với điều kiện ông Vấn
không phạt nó, và bỏ qua chuyện vừa rồi.
– Thì ông Vấn hứa với anh rằng ông ấy
cũng có ý định như thế!
Tôi nhìn ngay mặt Trung tá Thanh:
– Mình là người lớn, nói phải giữ lời!
Anh nói với ông Hai Lẻ Chín đừng vi phạm cái giao kèo này đấy
nhé!
Vài phút
sau tôi lên xe cùng với ông Trung tá Hoàng Kim Thanh phóng như
bay ra Quảng Ðức. Chiều đó xe của tôi trở về Kiến Ðức chở theo
ông cao bồi bắn... dở như hạch, tên là Trần Văn Phước. Hai ngày
sau, ông Ðại tá Từ Vấn bàn giao chức vụ Liên đoàn trưởng Liên
Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân cho ông Trung tá Hoàng Kim Thanh. Buổi lễ
bàn giao liên đoàn diễn ra vô cùng giản dị. Trên cái bàn dài có
hai chai rượu Hennessy cùng mấy đĩa thịt gà luộc. Hiện diện quanh
bàn tiệc, ngoài năm vị cầm đầu liên đoàn ra, có chừng năm sáu sĩ
quan tham mưu.
Diễn văn từ biệt của Ðại tá Từ Vấn vỏn
vẹn ba câu ngắn gọn, mà bốn mươi sáu năm sau tôi vẫn còn nhớ nằm
lòng:
(1) Hôm
nay tôi gặp mặt từ giã anh em để lên đường nhận nhiệm vụ mới.
(2) Tôi chúc tất cả anh em luôn luôn mạnh khỏe, bình an.
(3) Chúc Thiếu tá Long vinh thăng trung tá để giữ chức Liên đoàn
trưởng!
Sau
khi ông Từ Vấn ra đi khá lâu, tôi mới hiểu ý nghĩa những lời giã
từ của ông ấy. Thì ra câu, “Chúc Thiếu tá Long vinh thăng trung
tá để giữ chức Liên đoàn trưởng!” chỉ là một câu nói móc lò. Ông
Vấn chắc chắn đã biết cái lon trung tá đặc cách tại mặt trận của
tôi đã bị người ta ém nhẹm mất tiêu rồi, nên ông ta cười vào mặt
tôi, mà tôi không hay!
Ông Ðại tá Từ Vấn thuyên chuyển, Trung
tá Hoàng Kim Thanh đương nhiên được đảm nhận chức vụ Xử Lý Thường
Vụ Liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân, và Trung tá
Trịnh Thanh Xuân từ Pleiku tới nhận chức Liên đoàn phó Liên Ðoàn
24.
Ông Trịnh
Thanh Xuân vốn dĩ là Tiểu đoàn trưởng của Tiểu Ðoàn 23 Biệt Ðộng
Quân. Trong thời gian Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân bị vây ở Pleime
thì đơn vị của ông Xuân trú quân vùng Tây Pleiku.
Một đêm tối trời, tiểu đoàn của ông
Xuân đã có công đánh lui một mũi Ðặc Công Việt cộng trong lúc
chúng đang cố gắng cắt rào, chui vào khu vực phòng thủ của pháo
binh ở Căn cứ 333 vùng Tây Pleiku. Sau khi thất bại, tụi Việt
cộng đã bỏ chạy và để lại chiến trường bốn cái xác mặc quần áo
đen, cùng mấy bánh thuốc nổ, nhưng không có khẩu súng nào. Thiếu
tá Trịnh Thanh Xuân được Ðại tá Phạm Duy Tất và Trung tướng
Nguyễn Văn Toàn cho đặc cách thăng cấp trung tá vì công trạng
này. Cùng đi với Trung tá Xuân là một đại úy, dự trù sẽ được bổ
sung cho Tiểu Ðoàn 82 thay chỗ Ðại úy Nguyễn Hữu Tài. Ông đại úy
này tên là Lê Bá Ngọ mới từ Sài Gòn thuyên chuyển tới.
Ðại úy Ngọ là “Cố nhân” đồng thời cũng
là người chỉ huy tôi ngày tôi mới ra trường. Ðầu năm 1966 ông Ngọ
là Trung úy Ðại đội trưởng Ðại Ðội 3/11 Biệt Ðộng Quân, tôi là
một thiếu úy trung đội trưởng dưới quyền ông Ngọ. Tôi với ông Ngọ
xa cách lâu rồi, nay ông ta xin về làm Tiểu đoàn phó cho tôi,
nhưng tôi đã thẳng thắn từ chối, không nhận Ðại úy Lê Bá Ngọ về
đơn vị mình.
Hôm sau, tôi lại bị gọi về liên đoàn để nhìn mặt một “Ứng Viên”
thứ nhì cho chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.
Lần này là một đại úy người Nam xuất thân khoá 10 Trừ Bị Thủ Ðức.
Vừa bắt tay nhau, ông đại úy đã toét miệng cười, để lộ hai, ba
cái răng bịt vàng:
– Tui mới từ Sài Gòn ra, được lệnh tới
Tiểu Ðoàn 95 giữ chức Tiểu đoàn phó. Nhưng tui nghe ông cần người
phụ tá, tui vội tình nguyện đi ngay.
– Làm phó 95 có khác gì làm phó 82 mà
ông lại xin về 82?
– Tui thích ông, phục ông, nên xin về
82. Vả lại tui biết ông từ năm 1966, ngày ông mới ra trường!
– Năm 1966 ông ở tiểu đoàn nào ngoài
Vùng 1 mà nói biết tôi?
– Tui ở Ban Ðại Diện Biệt Ðộng
Quân/Quân Khu 1 dưới quyền Thiếu tá Hoài. Tui là anh trung úy đã
lái xe ra đón mấy ông thiếu úy khoá 20 Ðà Lạt ở sân bay Ðà Nẵng,
rồi đem các ông phân phối cho ba tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân của
Quân Khu 1. Trong số mấy ông khoá 20 ngày đó tôi nhớ tên ông
nhất, vì tên ông vừa lạ lại vừa đẹp!
– Từ đó tới nay cũng 8 năm rồi, ông còn
nhớ tôi thì quả là ông giỏi lắm đó! Nếu có duyên thì mình sẽ có
dịp ở với nhau lâu. Tôi nhận ông về làm việc với tôi kể từ giờ
này.
Vài ngày
sau tôi nhận được công điện xác nhận của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng
Quân/Quân Khu 2 ghi rõ ràng việc bổ nhậm chức vụ của ba vị sĩ
quan có tên dưới đây:
1) Ðại úy Nguyễn Hữu Tài, khoá 10 Thủ
Ðức, giữ chức Tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân.
2) Ðại úy Ngũ Văn Hoàn, khoá 10 Thủ
Ðức, giữ chức Tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân.
3) Ðại úy Lê Bá Ngọ, khoá 12 Thủ Ðức,
giữ chức Tiểu đoàn phó Tiểu Ðoàn 95 Biệt Ðộng Quân.
Ông tân Tiểu đoàn phó của tôi đi đâu
cũng đem vợ con theo, tôi phải cho gia đình ông đại úy tá túc
trong một căn hầm khá rộng nằm sát vách hầm truyền tin của tiểu
đoàn. Gia đình này gồm một chồng, một vợ, một bé gái, và một con
chó Nhật bé tí teo.
oOo
Đời lính, vinh quang và cay đắng...
Hạ tuần tháng 10 năm 1974 tôi nhận được
danh sách những quân nhân được tưởng thưởng do chiến thắng Pleime
1974. Tôi ngạc nhiên khi thấy trên công điện thông báo thì Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân vỏn vẹn có tên ba người được thăng cấp là
ông Tiểu đoàn phó Nguyễn Hữu Tài lên thiếu tá, ông Trưởng Ban 3
Trần Dân Chủ lên đại úy, ông Trưởng Ban 2 Trần Văn Phước lên
trung úy. Những sĩ quan khác đều bị gạch tên, không huy chương,
không lên lon, kể cả Thiếu tá Vương Mộng Long và ba ông sĩ quan
đại đội trưởng tác chiến.
Vị đại đội trưởng tác chiến duy nhất
của tôi được thăng cấp đó là Thiếu úy Phạm Ðại Việt, Ðại đội
trưởng Ðại Ðội 3/82. Thiếu úy Phạm Ðại Việt đã được cấp trên gắn
cho cái lon Cố Trung úy. Thượng cấp không nỡ gạch tên ông ta, chỉ
vì ông ta đã bị trúng đạn pháo kích của địch quân ngày 16 tháng 8
năm 1974 và đã chết mất rồi! Tôi là người thay mặt Ðại tướng Tổng
Tham Mưu Trưởng gắn ba bông mai vàng lên ve áo của ông Trần Dân
Chủ. Ðại úy Ngũ Văn Hoàn thay mặt cho Ðại tướng Tổng Tham Mưu
Trưởng gắn hai bông mai vàng lên ve áo của ông Trần Văn Phước.
Vì Ðại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ
Tổng Tham Mưu không cho tôi biết lý do vì sao những quân nhân còn
lại của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã bị loại ra khỏi cái danh
sách thăng thưởng mà tôi đề nghị, nên tôi không thể đại diện cho
Ðại tướng Cao Văn Viên trả lời thắc mắc của những người lính dưới
quyền tôi. Trong cuộc đời 10 năm chinh chiến, tôi đã lên voi
xuống chó nhiều lần rồi, vấn đề lon lá tôi không coi trọng.
Nhưng những quân nhân dưới quyền tôi
thật là tội nghiệp, họ đã nghiêm chỉnh thi hành lệnh của Ðại tá
Chỉ huy trưởng Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2, Trung tướng Tư lệnh
Quân Ðoàn II, và Tổng thống nước Việt Nam Cộng Hòa là: “Chọn cái
chết chứ không di tản chiến thuật”. Họ đã quên mạng sống của
chính mình để “Tử Thủ” và sẵn sàng chết theo Pleime nếu tiền đồn
này rơi vào tay giặc.
Vì thế mà nghe được cái tin “Tất cả
quân nhân tham chiến trận Pleime 1974 sẽ được đặc cách thăng một
cấp” thì nhiều ông đã thủ sẵn trong túi cặp lon mới sáng chói,
chờ ngày “Rửa lon”. Ai ngờ cấp trên đã nói trước, quên sau, những
lời hứa chỉ còn là cái bánh vẽ!
Các ông Trung úy Nguyễn Công Minh,
Nguyễn Hữu Anh, Thiếu úy Lê Ðình Khay, Phạm Văn Thủy, Huỳnh Kim
Hoàng, Nguyễn Văn Hổ, Chuẩn úy Phan Quốc Thiều, Lê Hữu Ðức,
Nguyễn Hữu Ðức, Nguyễn Hữu Phước, Lê Văn Phước, Lê Hữu Bảo,
Thượng sĩ Nguyễn Văn Năng, Y Khăm Nier, Y Ngon Nier, Trần Văn
Sơn, Lê Hữu Phong, Trung sĩ 1 Lưu Ðức Hoàn, Hạ sĩ 1 Mom Sol...
cùng với ông Trung úy Pháo binh Biên Phòng tên là Nguyễn Như, khi
thấy mình lọt sổ trên danh sách thăng cấp đặc cách thì cũng buồn
năm phút, nhưng các vị này hết buồn ngay sau khi biết rằng con
chim đầu đàn là Thái Sơn mà còn bị người ta “quên” (!)
Tôi cũng được thông báo rằng, Trung úy
Nguyễn Văn Song, Ðại đội trưởng Ðại Ðội 2/81 là đơn vị tăng phái
cho tôi đã được đặc cách lên đại úy và ông trung úy Trưởng Ban 3
liên đoàn cũng được lên đại úy.
Khi nghe tin ông Trung úy Y sĩ trưởng
của liên đoàn được tưởng thưởng một huy chương Anh Dũng Bội Tinh
với Ngôi Sao Ðồng, tôi cũng mừng cho ông ấy, vì Quân Y mà có Anh
Dũng Bội Tinh thì hiếm lắm!
Nhưng tôi lại rất buồn khi nhìn thấy
anh Hạ sĩ nhứt Y tá tên là Chiến của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân
đã không được lên lon mà cũng chẳng nhận được một tờ giấy khen dù
là của cấp trung đoàn. Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân không có sĩ
quan trợ y, Hạ sĩ 1 Chiến chính là ông “Bác sĩ Vĩ Đại” của chúng
tôi trong 33 ngày đêm tử thủ. Từ chuyện chữa trị chứng nhức đầu,
sổ mũi của anh tân binh sau một đêm dầm mưa, tới chuyện băng bó
những vết thương gãy tay, lòi ruột của anh em trong chiến trận,
việc gì “Bác sĩ Chiến” cũng làm được cả. Ðặc biệt là lúc nào trên
môi Chiến cũng sẵn nụ cười hiền hoà, và lời an ủi vỗ về “Không
sao đâu! Không sao đâu!”
Sau khi kho thuốc của tiểu đoàn bị pháo
binh địch bắn cháy thì không còn chai thuốc đỏ, thuốc mê, thuốc
tê nào nữa. Nhiều thương binh Pleime ngày đó đã trải qua những ca
mổ bụng, ghép xương mà không được chích tê, mê. Nhờ những lời an
ủi dịu dàng và nụ cười của chú Chiến mà các thương binh đã quên
đau.
Dưới mắt
tôi, Hạ sĩ 1 Chiến là người thầy thuốc lành nghề, siêng năng, tận
tâm, và can đảm nhứt mà tôi đã thấy trong suốt cuộc đời mười năm
trận mạc.
Pleime 1974 là chiến công lớn nhất trong năm của Vùng 2 Chiến
Thuật, nên có vài ông sĩ quan văn phòng của Quân Ðoàn II cũng
được lên lon “ăn ké”.
Không biết bằng cách nào mà mấy vị sĩ
quan này có thể chen vai, luồn lách vào danh sách đề nghị thăng
thưởng do Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 thiết lập. Một anh
sĩ quan khoá 20 Thủ Ðức, từ ngày ra trường đã liên tục tá túc ở
Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II, kỳ này cũng “ké” được cái lon thiếu tá.
Anh ta là một trong vài sĩ quan siêng năng, vất vả nhất của quân
đoàn. Cuối tuần nào anh ta cũng phải đi làm thêm giờ ở nhà ông
đại tá, sau này là Chuẩn tướng Lê Trung Tường. Anh sĩ quan này là
chuyên viên chia Bài Tứ Sắc và Bài Xẹp cho bà Tường!
Thậm chí huy chương tưởng thưởng chiến
công Pleime 1974 còn bay tới tận Qui Nhơn, tới tay những vị có
công ký giấy chấp thuận những đơn xin cấp phát lương khô, gạo,
đạn, cho các chiến sĩ trú phòng Pleime.
Vì ông Tài đã thuyên chuyển, nên tiểu
đoàn chỉ tổ chức lễ “rửa lon” cho hai ông Phước và Chủ, bữa tiệc
này cũng là bữa tiệc tiễn đưa Ðại úy Trần Dân Chủ thuyên chuyển
lên liên đoàn đảm nhận chức vụ Trưởng Ban 3 liên đoàn thay chân
cho ông đại úy cựu trưởng ban mới được lên lon và xin thuyên
chuyển về Nam.
Thời gian này Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng
Quân đã đi Dục Mỹ tái bổ sung và huấn luyện, thay chân bằng Tiểu
Ðoàn 89 Biệt Ðộng Quân đóng quân ở Bù Binh, trong vùng Nam quận
Kiến Ðức.
Tiểu
đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 89 Biệt Ðộng Quân là Ðại úy Ðặng Xuân Tòng.
Ông Tòng là một đồ đệ của Ðại tá Phạm Duy Tất. Ðại úy Tòng còn có
biệt danh là “Tòng Xì Ke” vì có một thời gian ông ta vướng víu
vào con đường chích choác và hút xách.
Thời điểm này, quân của Liên Ðoàn 24
Biệt Ðộng Quân được phân phối trên ba vị trí:
(1) Ðại Ðội 24 Trinh Sát Biệt Ðộng Quân
do Ðại úy Nguyễn Văn Song chỉ huy, trú đóng ở Xã Nghi Xuân, vùng
Bắc Gia Nghĩa.
(2) Bộ chỉ huy Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng
Quân cùng một nửa Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân do Trung tá Hoàng
Kim Thanh, Trung tá Trịnh Thanh Xuân, và Thiếu tá Trần Ðình Ðàng
chỉ huy, trú quân trong khu rừng tre, nằm trên Tỉnh lộ 344 cách
Gia Nghĩa 4 cây số về hướng Tây, và cách Kiến Ðức 25 cây số.
(3) Phần còn lại của liên đoàn do Thiếu
tá Vương Mộng Long chỉ huy kéo dài từ Đồi Bù Row hướng Bắc, tới
ranh giới Phước Long hướng Nam, với các đơn vị tham chiến là Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, Tiểu Ðoàn 89 Biệt Ðộng Quân, và một nửa
Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân.
Nửa Tiểu Ðoàn 63 tăng phái thì có công
điện xác nhận, nên tôi cho một đại đội đóng chốt ngay Ngã Ba Mả
Thượng và kiểm soát cái cống nước hướng Bắc phi trường Nhơn Cơ,
trên Tỉnh lộ 344. Ðại đội thứ nhì nằm tại làng Bu M’Bré bên suối
Dak Blao.
Riêng Tiểu Ðoàn 89 thì tôi chỉ có nhiệm vụ “để mắt xem nó có cần
gì thì giúp nó!” như khẩu lệnh của ông Liên đoàn trưởng.
Vì không có lệnh xác nhận bằng công
văn, công điện, nên tôi cũng không thèm mua việc.
Từ ấy, mỗi ngày đơn vị này chỉ có hai
lần liên lạc với Tiểu Ðoàn 82, 5:00g tối là một công điện báo cáo
các điểm đóng quân đêm, 5:00g sáng là đoản văn “Tình hình trong
đêm vô sự!”. Tôi nghĩ rằng, dù gì thì sự có mặt của Tiểu Ðoàn 89
cũng là một điều tốt, cứ coi như hướng Nam của tôi có một cái
tiền đồn cấp tiểu đoàn. Nếu địch có đánh cái tiền đồn này thì
cũng cả giờ sau chúng mới có thể tiến tới chân Đồi Kiến Ðức.
Thực ra, với khả năng của tôi, công
việc chỉ huy hai hay ba tiểu đoàn đâu có gì là khó? Tôi đã từng
nhiều lần chỉ huy những cánh quân liên binh với quân số trên hai
tiểu đoàn rồi. Nhưng hiện nay, tôi không phải Liên đoàn trưởng,
mà cũng không phải Liên đoàn phó, tự dưng khoác lên cổ cái trách
nhiệm bá vơ, bá láp này làm gì cho khổ thân!
Ðường Liên tỉnh lộ 8B đã được khai
thông, Quảng Ðức không còn lo thiếu lương thực.
Vương Mộng Long
(còn tiếp...)
Kỳ
6
Đường về Gia Nghĩa
Vương Mộng Long
Nhưng
tiếp theo sau đó, chúng tôi được lệnh giữ đường để tiếp tế cho
Phước Long.
Ðợt tiếp tế này dự trù sẽ diễn ra liên tục năm ngày. Ông Tiểu
đoàn phó xin tôi cho ông 4 ngày phép để đưa vợ con về thăm bên
ngoại dưới Nha Trang, sau đó gia đình ông sẽ trở lại theo chuyến
tiếp tế sau cùng.
Trong năm ngày đêm, tôi không dám ngủ,
sợ quân của mình ơ hờ để địch len lỏi ra chận đường, hay bắn xe,
thì thế nào mình cũng bị khiển trách.
Kỳ này cấp trên đã huy động hàng trăm
xe vận tải GMC mười bánh của Tiếp Vận 2 và Tiếp Vận 5 để chuyển
hàng hóa tiếp tế cho Phước Long rồi chở mủ cao su từ Phước Long
ra biển.
Suốt
năm ngày, năm đêm, những chiếc GMC Quân Vận theo đuôi nhau chạy
đi, chạy về, rầm rầm mà không có phát súng nào của Việt cộng. Tôi
lấy làm ngạc nhiên, không hiểu tại sao địch lại làm ngơ trước
cảnh tượng khiêu khích xảy ra chình ình ngay trước mắt chúng. Tới
khi mất nước rồi, nằm trong nhà tù cải tạo, tôi mới được một vị
lớn tuổi hơn tôi, đi lính trước tôi, mang lon lớn hơn tôi, thủ
thỉ bên tai:
–
Anh nói, chắc chú không tin, ngày đó, tụi Tây chủ đồn điền đã chi
tiền (?) cho các ông lớn của ta (!) và chi tiền cho bọn Việt
cộng, để chúng nó được an toàn đem hết mấy ngàn tấn mủ cao su ra
Nha Trang, đưa xuống tàu chở qua Pháp!
Nếu biết sớm chuyện này, tôi đã yên tâm
nằm khoèo trên võng mà ngủ suốt năm ngày, năm đêm cho khỏe cái
thân, công đâu mà lõ mắt canh chừng bên máy truyền tin theo dõi
tình hình.
oOo
Ngày vui qua mau
Sau đợt tiếp tế Phước Long là những
ngày thật là nhàn rỗi, thảnh thơi...
Thời gian này, tôi thấy Trung tá Thanh,
Thiếu tá Ðàng, và các sĩ quan khác trực thuộc liên đoàn cứ thay
nhau nghỉ phép ngắn hạn, đi đi, về về, Sài Gòn hay Ban Mê Thuột
mà tôi thì không thể rời xa nơi này nửa bước, nên chạy về Gia
Nghĩa nêu thắc mắc với Trung tá Liên đoàn trưởng:
– Trung tá coi lại, tại sao gần hai năm
nay tôi không có phép thường niên, mà cứ gởi công điện lên liên
đoàn xin thì lại bị từ chối?
Trung tá Thanh nhướng mắt thật to:
– Ủa! Chứ cậu không hay rằng ông Toàn
có lệnh là chỉ có sự chấp thuận của ông ấy thì chú mới được phép
vắng mặt ở Kiến Ðức sao?
Tôi ngẩn người ra, chẳng hiểu gì cả! Vì
lý do gì mà ông Tướng Vùng phải quan tâm tới chuyện phép tắc, có
mặt, hay vắng mặt của một sĩ quan cấp thiếu tá là tôi, tôi bèn
thắc mắc:
– Ai
nói với Trung tá lệnh này là do ông Toàn?
– Thì ông Trường An (Ðại tá Tất) truyền
lại lệnh này chứ ai?
Tôi vừa ngạc nhiên vừa bực bội, chạy
vào phòng truyền tin, dùng máy PRC74 gọi cho Ðại tá Phạm Duy Tất.
Sau khi nghe tôi vặn hỏi, ông Chỉ huy
trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 cũng nói không khác
gì Trung tá Thanh:
– Thì ngay sau khi mở đường Ðức Lập
xong, ông Toàn có ra lệnh cho anh và ông Nghìn không cho phép chú
đi đâu nếu không có sự chấp thuận của ông ấy.
Ông Tất vừa dứt lời, tôi vội phóng lên
xe chạy vào Tiểu Khu Quảng Ðức. May thay, tôi gặp được Ðại tá
Phạm Văn Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Ðức đang đứng giữa sân Tiểu
Khu. Vừa giơ tay chào ông Nghìn, tôi vừa lớn tiếng hỏi:
– Niên trưởng ơi! Có phải ông Toàn ra
lệnh rằng tôi muốn đi đâu vài ngày thì tôi phải chờ sự đồng ý của
ông ấy có đúng không?
– Ừ! Anh có nghe ông Toàn ra lệnh như
thế!
Nghe ông
Nghìn trả lời, tôi vội nói:
– Niên trưởng cho tôi mượn cái trực
thăng của niên trưởng vài giờ. Tôi muốn bay về Pleiku gặp mặt ông
Toàn hỏi cho rõ trắng đen cái chuyện vô lý này mới được.
– Ừ! Lấy trực thăng của anh mà đi, nhớ
trả lại máy bay và phi hành đoàn cho anh ngay sau khi xong việc
đó!
Hơn một
tiếng đồng hồ sau tôi đã có mặt trên sân Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn II.
Tôi vào Phòng 2 gặp Ðại tá Trịnh Tiếu,
rồi nhờ ông Tiếu đưa tôi lên lầu hai để gặp mặt ông Tư Lệnh Quân
Ðoàn.
Anh Quân
Cảnh gác cầu thang không thèm tước vũ khí của tôi, vui vẻ dẫn tôi
vào văn phòng của ông Tướng.
Thấy tôi, Tướng Nguyễn Văn Toàn từ tốn
hỏi:
– Chi đó
mi?
– Trình
Trung tướng! Trong Liên Ðoàn 24 các ông chỉ huy liên đoàn và tiểu
đoàn muốn đi đâu thì đi. Các ông ấy đi đi, về về Sài Gòn như đi
chợ. Tôi đánh hết trận này tới trận khác, muốn có vài ngày phép
thường niên về thăm vợ con mà không được. Tôi nộp đơn xin nghỉ
phép thì ông Tất với ông Nghìn nói rằng tôi phải chờ sự chấp
thuận của Tư Lệnh Quân Ðoàn! Sao có chuyện vô lý như thế?
Tôi nói một mạch, không ngừng. Vừa nghe
xong, ông Toàn vội đập hai bàn tay hộ pháp của ông ta xuống mặt
bàn rồi quát lên:
– Ðù mạ! Tau có ra lệnh này hồi nào
đâu? Chuyện phép tắc của mi thì thằng Nghìn, thằng Tất phải giải
quyết. Tau còn phải lo bao nhiêu công chuyện lớn lao, hơi đâu mà
để ý tới chuyện phép tắc của tụi mi?
Nói xong, Tướng Toàn phẩy tay hai, ba
cái để đuổi tôi ra khỏi phòng. Tôi đứng nghiêm, chào ông Tướng Tư
Lệnh Quân Ðoàn rồi quay gót. Lúc tôi ra tới cửa thì ông Toàn gọi
giựt lại:
– Ê!
Mi có đi phép thì đi chừng năm ngày thôi! Không được đi lâu hơn
đó nhe!
Trên
đường bay về Quảng Ðức tôi cứ bấm bụng cười thầm, ông Tướng Vùng
vừa nói rằng ông ta phải lo bao chuyện quan trọng, hơi sức đâu mà
để ý tới vấn đề đi phép, đi tắc của tôi, vậy mà sau khi đuổi tôi
đi, ông ta lại nhắc nhở tôi rằng “không được vắng mặt lâu hơn năm
ngày đó nhe!”
Cuối tháng 10 năm 1974 vợ chồng tôi và ba đứa con, tới đóng đô
năm ngày trong một căn phòng nơi từng hai của Khách Sạn Mộng Ðiệp
nằm sát bên cầu thang dẫn xuống tầng trệt của chợ Hòa Bình, Ðà
Lạt. Khách sạn này trước đây có tên là Maxim, sau đổi thành Mộng
Ðiệp. Những tấm ảnh màu mà gia đình tôi chụp ở Vườn hoa Ðà Lạt,
Thác Prenn hay Hồ Xuân Hương còn giữ được cho tới sau này chính
là những ảnh được chụp trong thời gian cuối tháng 10 năm đó. Ngày
vui thời buổi nào cũng ngắn, sau năm ngày hạnh phúc ở Ðà Lạt, tôi
trở về Kiến Ðức.
Xe tôi đi qua khúc quanh Mả Thượng thì
gặp xe của ông trung tá Liên đoàn phó đi ngược chiều, ông ta được
lệnh chấm dứt nhiệm vụ thay tôi chỉ huy mặt trận Tây Quảng Ðức
vào lúc tôi bước chân vào trình diện Trung tá Thanh để báo cho
ông Liên đoàn trưởng biết rằng tôi đã về.
Trong thời gian sáu ngày tôi vắng mặt,
mọi lệnh truyền ra cho các cánh quân của ông Liên đoàn phó đều
qua giọng nói của Trung úy Nguyễn Văn Trâm sĩ quan Truyền Tin của
tiểu đoàn. Do vậy, cả địch và ta đều không biết rằng tôi đã không
ở đây trong một thời gian gần tuần lễ. Tôi bước vào phòng hành
quân thì Ðại úy Hoàn, Trung úy Trâm, cùng mấy ông hạ sĩ quan tíu
tít vây quanh mừng rỡ. Ông Hoàn nói:
– Mấy ngày rồi anh em tụi tôi ăn không
ngon, ngủ không yên. Chỉ sợ địch biết không có mặt ông, chúng nó
đánh úp thì chết!
Tôi cười:
– Có ông Liên đoàn phó ở đây, duyên cớ
chi mà các cha lại lo sợ dữ vậy!
Ðại úy Hoàn vừa cười, vừa lắc đầu:
– Nói thực với ông, những ngày sống
dưới quyền ông Liên đoàn phó chúng tôi không yên tâm chút nào.
Ông Ðại úy Hoàn là bạn của ông Trung tá
Xuân. Ông Hoàn tốt nghiệp khoá 10 Thủ Ðức cùng ngày với ông trung
tá, đi Biệt Ðộng Quân cùng ngày với ông trung tá, nhưng hiện thời
hai ông này đang ở hai vị trí khác nhau.
Ðêm đó tôi và Trung úy Trâm đi một vòng
quanh chiến hào, quan sát tình hình, tới một căn lều đôi của một
khẩu đại liên, tôi nghe tiếng hai người lính nói chuyện với nhau.
Một anh lớn tuổi nói:
– Không biết Thiếu tá đi phép tới bao
giờ mới về? Thiếu tá vắng nhà, tao lo quá!
Tiếng nói thứ nhì của anh lính có vẻ
trẻ hơn:
– Em
cũng lo! Không có Thiếu tá mà bọn nó tấn công, chẳng biết tụi
mình sẽ chống đỡ ra làm sao đây?
Trung úy Trâm vỗ mạnh vào nóc căn lều
rồi cười lớn:
– Thiếu tá về rồi! Tụi mày yên chí đi!
Hai anh lính nghe Trung úy Trâm nói vậy
liền nhào khỏi lều, thấy tôi đang đứng nhìn thì chúng nó ào vào
ôm tôi chặt cứng, rồi reo lên:
– Thái Sơn về rồi! Thái Sơn về rồi!
Anh Trung úy Pháo đội trưởng 105ly đóng
dưới sườn Bắc Đồi Kiến Ðức biết tin tôi vừa hết phép, cũng chạy
lên kéo tay tôi và Trung úy Trâm xuống hầm tác xạ của anh ta.
Tiệc mừng tôi hết phép của anh bạn pháo binh là một chai Hennessy
và hai con khô mực.
oOo
Chuyện thường ngày ở huyện Kiến Đức...
Sau kỳ lãnh lương tháng 10 năm 1974 vợ
con binh sĩ từ Pleiku kéo nhau lên thăm chồng, cha càng ngày càng
đông.
Tôi thấy
để đàn bà con nít sống chen chúc trong các hầm hào phòng thủ vừa
bất tiện, vừa mất vệ sinh, nên tôi ra lệnh cho tiểu đội Lao Công
Ðào Binh cắt tranh, đốn cây, cấp tốc dựng lên hai dãy nhà có sạp
tre thay giường nằm. Hai dãy nhà này tọa lạc dưới chân ngọn đồi
chính, bên lề của Tỉnh lộ 344, đối diện với Câu Lạc Bộ tiểu đoàn
và Trung đội Pháo Binh Biệt Ðộng Quân Biên Phòng. Ở đây, hai căn
gia binh được ba ngọn đồi che chắn, các cháu bé cũng không sợ bị
gió lùa gây bịnh cảm mạo, phong hàn. Vị trí này cũng rất an toàn,
không sợ vũ khí bắn thẳng của địch. Tôi còn cho lệnh đục vách núi
thành hai cái hầm cho vợ con binh sĩ trú ẩn nếu có pháo kích.
Cũng trong thời gian này, Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân tiếp nhận đợt bổ sung mới, gồm có một sĩ quan là
Thiếu úy Nguyễn Nhơn, và một ông Trung sĩ 1 già người Bắc tên là
Ngô Thái Bình cùng với năm hay sáu tân binh. Tôi quá bận bịu với
những buổi họp hành trên liên đoàn, nên giao cho Ðại úy Hoàn công
việc phỏng vấn mấy ông tân binh. Còn ông thiếu úy và ông trung sĩ
thì tôi sẽ đích thân tiếp xúc.
Thiếu úy Nguyễn Nhơn là người Huế, bạn
đồng khoá của Cố Trung úy Phạm Ðại Việt cựu Ðại đội trưởng Ðại
Ðội 3/82.
Sau
khi lễ phép chào tôi, anh Nhơn móc túi trao cho tôi cái thư giới
thiệu, viết bởi anh bạn tôi là Ðại úy Nguyễn Lạn, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu Ðoàn 11 Biệt Ðộng Quân. Trong thư bạn tôi nói rằng
Thiếu úy Nhơn là người đồng hương của Lạn đã từng là đại đội
trưởng ở Tiểu Ðoàn 11 vừa mãn khoá Rừng Núi Sình Lầy trở về.
Nhưng hiện thời Tiểu Ðoàn 11 đã có dư sĩ quan đại đội trưởng, Lạn
bèn đề nghị anh ta về Pleiku năn nỉ ông Thiếu tá Nguyễn Giáp,
Trưởng Phòng 1 của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2 cho anh
ta về Tiểu Ðoàn 82 với tôi.
Tôi đang có ý định kiếm người thay cho
Thiếu úy Hổ để chú Hổ đi học lớp Tổng Quản Trị, khi trở về sẽ đảm
nhận công việc này của đơn vị. Ngặt vì Ðại Ðội 3/82 có nhiều tân
binh, nên tôi cho Thiếu úy Phạm Văn Thủy thay Thiếu úy Nguyễn Văn
Hổ, và cho Thiếu úy Nhơn giữ chức đại đội trưởng Ðại Ðội 4/82.
Sau khi sắp xếp cho vị sĩ quan mới đáo nhậm, tôi cho phép ông hạ
sĩ quan vào trình diện.
Nhìn ông già Trung sĩ 1 Ngô Thái Bình,
người Bắc Di Cư, vừa bước vào, tôi nảy ra ý nghĩ sẽ để cho ông hạ
sĩ quan lớn tuổi này giữ công tác an ninh phòng thủ thay chỗ ông
Thượng sĩ Y Khăm Nier mới chết cách đây vài bữa do vướng mìn. Bắt
tay ông trung sĩ xong, tôi nhẹ giọng:
– Trước khi tới 82 Trung sĩ ở đơn vị
nào?
Tôi vừa
dứt lời, ông già Bắc Kỳ Di Cư đã đốp chát ngay:
– Quân lao!
– Quân lao nào?
– Nha Trang!
Tôi ngạc nhiên hỏi tiếp:
– Lý do gì mà ông bị nhốt trong quân
lao?
Giơ cả
hai cánh tay lên trời, hai bàn tay xòe rộng, ông Bình trợn mắt
nhìn tôi rồi lớn tiếng:
– Sáu tháng trước, tôi bắn thằng Đại úy
Tiểu đoàn trưởng, may mà, nó bị thương, không chết, nên tôi chỉ
bị kêu án ba năm, ở được nửa năm, có người tới chiêu dụ tôi đi
đơn vị tác chiến thì được hưởng án treo thời gian hai năm rưỡi
còn lại. Tôi tình nguyện ngay! Vậy là người ta còng tay chở tôi
ra đơn vị. Tôi tới liên đoàn chiều hôm trước, sáng hôm sau tôi
giáp mặt ông đây! Ông muốn tôi làm công việc gì thì cứ ra lệnh,
đừng chất vấn lôi thôi cho mất thời giờ!
Nghe ông già Bắc Kỳ bạt mạng, lỗ mãng
này đối đáp, tôi cũng thấy tò mò, thích thú nên hỏi tiếp:
– Trung sĩ cũng lớn tuổi rồi, chắc ông
đi lính đã lâu? Ông có thể kể sơ lược cuộc đời lính của ông cho
tôi nghe được không?
Hình như được gãi đúng chỗ ngứa, ông
Trung sĩ già nói một hơi như nước tuôn qua ống cống giữa cơn
giông, khiến tôi đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Sau
đây là lý lịch cuộc đời của ông trung sĩ 1.
Ông Trung sĩ 1 Ngô Thái Bình lớn hơn
tôi một giáp, ông ta là con một địa chủ ở Thái Bình. Mười tám
tuổi ông Bình thi đậu bằng “Bắc Ðơ” tức là bằng Tú Tài 2, rồi
tình nguyện theo học khoá 1 Nam Ðịnh. Còn một tuần lễ nữa thì tốt
nghiệp, trong cơn say, ông Sinh viên Sĩ quan Ngô Thái Bình đã
đánh gãy hai cái răng cửa của viên sĩ quan cán bộ người Tây nên
bị ra trường với cấp bậc trung sĩ. Ông bị đưa ra đơn vị tác chiến
có tên là Commando đóng quân trong vùng Bạch Mai, ngoại ô Thủ Ðô
Hà Nội. Ở Hà Nội Trung sĩ Bình lại dính líu vào một cuộc ẩu đả
giữa Commando và lính Nhảy Dù của Pháp. Sau vụ này Trung sĩ Bình
bị lột lon trung sĩ, xuống binh nhì, tống sang một đơn vị Bảo
Chính Ðoàn của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam. Ông Binh nhì Ngô Thái
Bình ở yên đơn vị Bảo Chính Ðoàn này một thời gian thì tới Hiệp
Ðịnh Geneve. Ðầu năm 1955 đơn vị của ông lên tàu há mồm vào Ðà
Nẵng. Tới Ðà Nẵng Binh nhì Ngô Thái Bình làm đơn tình nguyện
thuyên chuyển sang Nhảy Dù.
****
Qua những chiến dịch dẹp loạn Bình
Xuyên, dẹp loạn Ba Cụt, người chiến sĩ xuất sắc có tên Ngô Thái
Bình được thượng cấp cứu xét cho phục hồi cấp bậc trung sĩ. Năm
1960 Trung sĩ Ngô Thái Bình tình nguyện sang đơn vị mới thành lập
có tên Biệt Ðộng Ðội, tức là Biệt Ðộng Quân sau này. Không lâu
sau ông Bình được thăng cấp trung sĩ nhất. Chỉ vì cái tật ngày
nào cũng say mèm, say khướt, ông trung sĩ 1 đã bị đá đít lăn từ
tiểu đoàn này tới tiểu đoàn khác, đi từ binh chủng này sang binh
chủng khác, rồi dừng chân ở một tiểu đoàn Ðịa Phương Quân vùng
Bắc Bình Ðịnh. Sau một thời gian mưa thuận gió hòa ở Qui Nhơn,
con ma men lại cầm tay ông Bình nã súng vào chân ông Tiểu đoàn
trưởng của ông. Ngay lập tức, ông đáo nhậm đơn vị sau cùng là
Quân Lao Nha Trang.
Tôi đã ngồi im, chú tâm theo dõi câu
chuyện kể lại cuộc đời ly kỳ của một cựu Sinh viên Sĩ quan khoá 1
Nam Ðịnh. Tôi thấy thành tích quậy phá mấy chục năm nay của ông
già này quả là có một không hai. Kết thúc bản tóm lược tiểu sử,
Trung sĩ 1 Ngô Thái Bình vừa cười, vừa nói với tôi:
– Tôi hy vọng sẽ được ông chỉ huy mới
để yên cho tới ngày đáo hạn giải ngũ.
Ðể trả lời câu hăm dọa của ông ma men,
tôi từ tốn nói:
– Tôi để Trung sĩ ở tạm với Thiếu úy
Hoàng, Ðại đội trưởng Ðại Ðội Chỉ Huy trong thời gian một tuần
cho quen với không khí của đơn vị. Sau đó ông muốn ra đại đội
nào, tôi sẽ cho ông đi.
Ba ngày sau ông Bình tới cửa lều của
tôi gõ cửa xin vào.
– Tôi muốn xin Thiếu tá cho ra đại đội.
Ở đây tù túng quá!
Nghe vậy, tôi cũng cười:
– Ở đây còn thấy dân chúng đi qua, đi
lại, xuống đại đội thì chỉ thấy núi, thấy rừng, còn buồn hơn. Ông
đã đi rồi thì đừng có xin xỏ quay trở lại đó nhé!
– Một đi! Không trở lại! Tôi muốn ra
đại đội của Thiếu úy Nhơn.
– Ðược! Ði đi!
Mấy bữa nay tôi thấy ông già này cứ
thậm thụt lên xuống con dốc từ đồi chính xuống cây cầu sập trên
suối Blao, tôi tưởng ông ta đi tắm rửa hay đi múc nước, hóa ra
ông ta xuống thăm Thiếu úy Nhơn. Giữa trưa ngày hôm sau, đứng
trên ụ pháo binh, tôi nghe tiếng súng M16 bắn “Lóc chóc! Lóc
chóc!” dưới chân đồi, rồi thấy mấy anh lính nhào vào nhau mà vật
lộn. Tiếp đó, Chuẩn úy Lê Văn Phước, sĩ quan Ban 3, từ hầm truyền
tin chạy tới báo cáo:
– Trình Thái Sơn, ông Nhơn vừa cho hay
Trung sĩ Bình say rượu bắn lung tung dưới Ðại Ðội 4. Ông Nhơn đã
cho người bắt trói ông Bình đem lên cho Thiếu tá xử phạt.
Mười phút sau, có hai Biệt Ðộng Quân ì
ạch leo dốc, trên vai khiêng một cái đòn treo tòn ten một ông
Biệt Ðộng Quân hai tay, hai chân đều bị trói. Thoạt nhìn, tôi cứ
tưởng hai ông lính kia đang khiêng trên vai một con heo tổ nái!
Tới trước lều của tôi, sau khi đếm,
“Hai! Ba!”
Hai
anh lính thả cái đòn ra, “con heo người” rơi xuống đất, miệng la
oai oái, “Ối! Ðau! Ối! Ðau!”
Tôi ra dấu cho hai chú lính vác đòn trở
về đơn vị, rồi ra lệnh cho Thiếu úy Huỳnh Kim Hoàng:
– Cho nó gáo nước để tỉnh rượu!
Sau khi hứng ba mũ sắt nước tạt vào
mặt, con sâu rượu Ngô Thái Bình mới tỉnh hẳn. Tôi hất hàm ra lệnh
cho chú Hoàng:
– Tống nó vào chuồng cọp!
Ở đâu, nếu đóng quân lâu, tôi đều có
một cái hầm lộ thiên rào kẽm gai xung quanh, gọi là chuồng cọp.
Chuồng cọp của tôi mục đích là nhốt những tay nghiện ma túy, xì
ke. Mấy con ma xì ke bị nhốt ở đây, ngày ngày chỉ có ly nước
đường thay cơm, lâu nhất là mười ngày hay hai tuần thì khỏi bệnh.
Từ khi chúng tôi tới Kiến Ðức, cái chuồng cọp này được dựng lên
nhưng chưa có ai đặt chân vào. Con ma men Ngô Thái Bình là khách
hàng đầu tiên của căn hầm này. Ba ngày sau, tôi cho ông già Bình
xuống suối tắm rửa rồi vào trình diện.
Cái ngang tàng, hỗn xược vô kỷ luật của
ông cựu Sinh viên Sĩ quan khoá 1 Nam Ðịnh đã không còn. Trước mắt
tôi, là hiện thân của một ông già thảm hại, râu tóc đã ngả màu
hoa râm. Ông Bình đưa tay chùi nước mắt rồi sụt sịt:
– Tôi xin lỗi Thiếu tá! Tôi sai!
– Tốt! Biết sai thì tốt! Nhưng biết sửa
sai mới tốt hơn! Qua Đồi Tây ở với Trung úy Danh, Ðại Ðội 2!
Sóng lặng, gió yên được ít lâu, một hôm
tôi đang ngồi trong hầm truyền tin thì nghe tiếng súng M16 nổ
“Lốp! Bốp! Lốp! Bốp!” dưới đường. Tôi đưa mắt tìm Trung úy Trần
Văn Phước thì được biết Phước có chuyện vắng nhà. Tôi ra lệnh cho
Thiếu úy Huỳnh Kim Hoàng chạy xuống xem có chuyện gì, chỉ hai
phút sau chú Hoàng đã chạy vào, mặt tái mét:
– Trình Thái Sơn! Ông Bình lại say! Ông
ta đang tìm ông Trung úy Danh để bắn cho chết!
Tôi chỉ thị cho đại úy Tiểu đoàn phó:
– Ông Hoàng ra giải quyết vụ này cho
tôi!
Cũng hai
phút sau, cùng với tiếng M16 “Chíu! Chíu!” là tiếng kêu cứu của
ông Tiểu đoàn phó:
– Không xong rồi Thái Sơn ơi! Thằng này
điên rồi! Nó bắn cả tui!
Tôi với cái dây ba chạc khoác vào vai
rồi bước ra khỏi hầm, đứng trên bờ đất nhìn xuống đường. Tay tôi
để trên báng súng sẵn sàng. Khẩu Colt của tôi lúc nào cũng có đạn
lên nòng. Ðang giơ súng lên trời, bất thình lình nhìn thấy tôi,
Trung sĩ 1 Bình vội vàng bóp cò cho những viên đạn sau cùng bay
lên không. Ông ta vừa bấm chốt cho băng đạn rỗng rơi ra để thay
băng đạn mới. Kẹp đạn mới của ông ta chưa kịp nằm vào ổ súng thì
tôi đã quát lên:
“Bình!... ìng!... ìng!... ìng!...”
Tiếng hét của tôi lớn lắm. Tiếng hét đã
khiến con ma men tỉnh táo hẳn, ông ta đứng đờ người như phỗng đá.
Tôi quát tiếp:
– Bỏ súng xuống! Quay lưng lại!
Như cái máy, ông Bình lảo đảo quay
người 180˚. Khẩu súng rời tay ông ta, rơi trên mặt lộ. Nhân lúc
ông ta vứt vũ khí, ông Tàu Hỷ, đầu bếp của Câu Lạc Bộ chạy ra
nhặt vội khẩu M16 rồi chui vào căn gia binh.
Tôi lại hét:
– Nằm xuống! Dang hai tay ra!
Ông Bình riu ríu thi hành lệnh. Thiếu
úy Huỳnh Kim Hoàng liền chạy xuống lục soát hết người ông Bình để
xem có vũ khí gì nữa hay không. Tôi ra lệnh tiếp:
– Lên đây!
Trung sĩ Bình ngồi dậy, rồi loạng
choạng leo lên tam cấp. Cái đầu ông trung sĩ vừa nhô lên bực
thang cao nhất đã bị tôi đá một phát như búa bổ trúng cằm. Ông
Bình ngã lăn xuống chân đồi.
– Lên đây!
Miệng đầy máu, nhưng ông trung sĩ vẫn
phải tiếp tục khật khưỡng leo. Hai mắt ông Bình trợn lên nhìn
tôi, đôi mắt có vẻ như đã đờ đẫn, mất hồn. Cái đầu ông Bình vừa
nhô lên bực thang cuối cùng, tôi lại đá thêm một phát nữa, con ma
men lại lăn xuống đường, nhưng đã nằm im, không cục cựa. Ngay sau
đó, chiếc xe GMC của tiểu đoàn được trưng dụng để giải giao tên
lính côn đồ cho Ty An Ninh Quân Ðội Quảng Ðức. Nhìn chiếc xe lao
đi, tôi buông một tiếng thở dài. Thực tình, tôi không nhẫn tâm
tuyệt tình, tận nghĩa, ra tay giết Trung sĩ 1 Ngô Thái Bình. Dù
gì thì ông ta cũng không phải là một tên Việt cộng. Nếu tôi muốn
giết người lính vô kỷ luật này thì tôi chỉ cần nhẫn nại, chờ một
giây đồng hồ, sau khi nó nạp xong băng đạn, với một phát Colt 45
tôi đã lấy mạng nó rồi. Giết nó trong tư thế nó giương súng tấn
công mình, mình sẽ được coi là tự vệ chính đáng. Còn bắn nó chết
sau khi nó chịu đầu hàng, thì mình sẽ can tội sát nhân. Ðây là
lần đầu tiên tôi nặng tay như thế đối với một thuộc cấp vô kỷ
luật. Và tôi biết rằng, từ đây tôi đã có một kẻ thù phải đề
phòng. Vì cứ cái đà tuyển quân vô trách nhiệm như hiện nay của
quân đội, thì có khi, chỉ năm bữa, nửa tháng sau, ông Bình sẽ
quay lại đây.
Nhưng chuyện đời đã không diễn ra như những điều mà ta dự đoán.
Chỉ vài tháng sau ngày ấy, Nha Trang thất thủ, Quân Lao Nha Trang
mở rộng cửa cho tù tự do thoát ly. Tôi vừa rút quân từ Xuân Lộc
về tới Long Bình thì đã thấy ông trung sĩ ma men xuất hiện trong
toán quân nhân di tản của Vùng 2, cùng vài anh quân phạm vừa
thoát khỏi quân lao, rồi tình nguyện về bổ sung cho tiểu đoàn
tôi. Có điều, ông Trung sĩ 1 Bình đã thay da, đổi thịt. Ông ta
mặc bộ quần áo hoa mới tinh, ủi hồ thẳng nếp. Mái tóc hoa râm của
ông ấy đã được húi cao như mái tóc của Cố Ðại tướng Ðỗ Cao Trí.
Gương mặt nhẵn nhụi mày râu của ông Trung sĩ 1 Bình giờ đó, nếu
đem so sánh, có lẽ còn sáng sủa hơn mặt của những người đồng lứa
tuổi của ông, đã từng một thời là thanh niên Hà Nội, như Hoàng
Thọ Nhu và Hoàng Kim Thanh. Ông trung sĩ 1 mạnh dạn bước tới
trước mặt tôi rồi nói:
– Trình Thiếu tá, tôi biết, gia đình
Thiếu tá còn kẹt ở Ban Mê Thuột. Vợ con tôi cũng còn kẹt ở Qui
Nhơn.
Bao
nhiêu năm qua tôi đã mang tội với tổ quốc, với gia đình. Tôi biết
Thiếu tá sẽ chiến đấu cho tới chết, tôi cầu xin Thiếu tá cho phép
tôi được chết cùng ông! Tôi van xin ông!
Nói tới đây, ông Bình khóc lên thành
tiếng:
– Tôi
chỉ biết đem cái chết để chuộc những lầm lỗi mà tôi đã gây nên
trong suốt cuộc đời này! Hu! Hu! Hu!
Thế là trước mắt tôi, không còn bóng
dáng một con ma men đầu trâu, mặt ngựa nữa.
Thay vào đó, là một người, từ thời Pháp
Thuộc, đã là một công tử con nhà giàu nứt đố, đổ vách, của tỉnh
Thái Bình, một thanh niên Việt Nam nói tiếng Tây như gió, có bằng
“Bắc Ðơ” tức là bằng Tú Tài 2 của Pháp, và đã là bạn đồng môn,
đồng khoá, của những ông tướng, những ông lãnh đạo quốc gia thời
Ðệ Nhị Cộng Hòa.
Ngày 24 tháng 4 năm 1975, những ông
lãnh đạo quốc gia, những ông tướng cùng lớp, cùng thời với ông
Ngô Thái Bình, cựu Sinh viên Sĩ quan khoá 1 Nam Ðịnh, đang chen
lấn nhau, dắt díu vợ con tìm đường đào thoát khỏi Việt Nam, thì
ông Bình lại đi tìm cái chết ở chiến trường.
Ðêm 28 tháng 4 năm 1975 Trung sĩ 1 Ngô
Thái Bình của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã bị chiến xa cộng sản
nghiền nát thây trên đỉnh một ngọn đồi trọc nằm về hướng Nam của
cây cầu gãy bắc ngang sông Lá Buông sau lưng Trường Bộ Binh Long
Thành.
Trước
khi chết, ông Bình đã tự tay bắn cháy một chiếc tank T54 bằng
khẩu súng M72 mà ông ấy cứ mang kè kè bên hông từ chiều 24 tháng
4 năm 1975.
Từ
chuyện say sưa của ông Trung sĩ 1 Ngô Thái Bình mà tôi phát giác
ra cái tài kinh doanh, buôn bán của hai ông đại đội trưởng Nguyễn
Nhơn và Võ Hữu Danh. Tôi được báo cáo rằng, ngày nào chuyến xe đò
Gia Nghĩa đi Bù Binh cũng đậu lại ít phút dưới chân Ðồi Nam. Anh
phụ tài xế lanh tay bỏ những cái can bằng nhựa xuống lề đường để
cho ông Thượng sĩ Nguyễn Ðả, Hạ sĩ quan Thường vụ của Ðại Ðội
2/82 tiếp nhận. Những cái can 20 lít bằng nhựa này chứa toàn rượu
đế. Từ ngày nhận chức chỉ huy Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, tôi đã
ra lệnh cấm bán rượu đế trong Câu Lạc Bộ của tiểu đoàn. Biết thế,
nên hai ông Danh và Nhơn đã có sáng kiến kinh doanh món hàng hiếm
này để kiếm lời. Rượu đế mà hai ông Danh và Nhơn có được là do
một nhà nấu rượu ở dưới Gia Nghĩa sản xuất. Ông Nhơn và ông Danh
chỉ cần bỏ ra một vốn thì có thể thu vào tới bốn lời, đôi khi còn
lời hơn thế nữa. Tôi đã gọi hai ông đại đội trưởng vào lều, bắt
hai vị này hứa sẽ không được tái phạm nữa. Tuy hai ông sĩ quan
này đã lớn lời hứa hẹn nhưng tôi vẫn không thấy yên lòng chút
nào.
Giữa
tháng 11 năm 1974, tôi hoàn trả Thiếu úy Nhơn cho liên đoàn.
Thiếu úy Phạm Văn Thủy quay trở lại chỉ huy Ðại Ðội 4/82. Còn
Trung úy Võ Hữu Danh bỗng nhiên khai có bệnh sốt rét kinh niên, ở
Kiến Ðức vài ngày, lại xin về nằm bệnh xá liên đoàn vài ngày, tôi
đành miễn cưỡng để cho Chuẩn úy Gấm chỉ huy Ðại Ðội 2/82. Tiếp đó
Thiếu úy Nguyễn Văn Hổ phải lên đường theo học khoá Tổng Quản
Trị, tôi liền cho Trung úy Trần Văn Phước thay thế chức vụ Ðại
đội trưởng Ðại Ðội 3/82.
Vì đã có thời gian gần hai năm đảm nhận
chức vụ Trung đội trưởng Trung Ðội Viễn Thám của Phòng 2 Bộ Chỉ
Huy Biệt Ðộng Quân/Quân Khu 2, nên chú Phước không ngỡ ngàng gì
với nhiệm vụ mới. Ngày lãnh lương cuối tháng 11 năm 1974 cũng là
ngày có tiếp tế định kỳ. Hai đại đội tăng phái của Tiểu Ðoàn 63
cũng được tiếp tế cùng lúc. Thực phẩm của Tiểu Ðoàn 82 được vận
chuyển bằng xe GMC, thực phẩm của Tiểu Ðoàn 63 được vận chuyển
bằng một xe Dodge 4×4. Hai bãi nhận hàng cách nhau không xa. Tôi
cho lệnh Ðại Ðội 4/82 được ưu tiên nhận tiếp tế trước, rồi lên Bù
Row thay quân cho Ðại Ðội 3/82.
Vương Mộng Long
(còn tiếp...)
Kỳ
7
Đường về Gia Nghĩa
Vương Mộng Long
Trong
Câu Lạc Bộ tiểu đoàn, tôi đang ngồi nghe ông Trung úy Ðăng, sĩ
quan tiếp liệu trình báo hồ sơ chứng minh ẩm thực thì thấy Thiếu
úy Thủy thò đầu vào:
– Trình Thiếu tá! Lính của Tiểu Ðoàn 63
đang gom súng giữa đường, ngồi biểu tình, đòi Thiếu tá ra giải
quyết vấn đề nuôi ăn.
Tôi đứng dậy, vừa bước khỏi cửa, đã
chạm mặt ông Ðại úy Ðại đội trưởng của Tiểu Ðoàn 63 tăng phái.
Ông đại úy mặt đỏ tía tai, không thèm
chào kính, giơ ngón tay trỏ chỉ vào mặt tôi rồi giận dữ, quát
lớn:
– Thiếu
tá có tham nhũng thì cũng vừa vừa thôi! Nếu có ăn bớt, ăn xén thì
cũng phải che đậy, đừng lộ liễu quá! Ông mà làm quá, chúng tôi
không còn nể nang ông nữa đâu!
Bất ngờ đối mặt với một sĩ quan cấp
dưới dám vô cớ lớn tiếng sỉ nhục mình, tôi định ra lệnh cho mấy
anh cận vệ xông vào trói ông đại úy lại để hỏi chuyện, nhưng mắt
tôi bất chợt nhìn thấy trên mặt Quốc lộ 14 có một đống súng cá
nhân và cộng đồng chất xung quanh những phần thực phẩm tươi mới
chia. Cách đó không xa, là những Biệt Ðộng Quân vừa quan, vừa
lính, ngồi bệt thành từng hàng trên mặt đất.
Tôi nghiêm giọng hỏi ông đại úy:
– Các anh muốn gì?
Ông đại đội trưởng 63 bước ra giữa
đường, vừa nhảy tưng tưng, vừa giơ tay chỉ vào một đống thực phẩm
tươi đang nằm trên tấm poncho, miệng la toáng lên:
– Chúng tôi muốn Thiếu tá giải thích rõ
ràng, nguyên nhân vì sao một phần thực phẩm tươi của 63 lại không
bằng một nửa của các bạn 82?
Sau đó anh ta đưa tay vẫy tôi với thái
độ vô cùng hỗn xược:
– Ra đây! Thiếu tá ra đây để thấy hai
phần tiếp tế của 82 và 63 cách biệt như thế nào?
Những quân nhân trong đoàn người ngồi
tụ họp nơi ngã ba cũng phụ họa theo:
– Bất công! Bất công!
Thì ra, quân nhân đơn vị này đang biểu
tình ngồi. Họ chờ tôi xuất hiện để họ xử tội “chận bớt tiền ăn
của lính!”
Tôi
nén cơn giận, vừa bước tới quan sát những vật nằm trên mặt cái
poncho, vừa lớn tiếng gọi:
– Trung úy Ðăng! Ra đây cho tôi hỏi!
Ông sĩ quan tiếp liệu của Tiểu Ðoàn 82
vội vàng chạy tới. Tôi chỉ vào hai phần thực phẩm tươi vừa tiếp
tế, một lớn, một nhỏ, quả là có sự chênh lệch rất xa:
– Chú có nhận tiếp tế cho hai đại đội
của 63 tăng phái không? Sao có sự chênh lệch lạ kỳ thế này?
Trung úy Ðăng chưa kịp mở miệng, ông
đại úy đã phang ngang:
– Thày trò ông còn bày trò giải thích,
giải nghĩa dài dòng. Ðối xử bên trọng, bên khinh chình ình như
thế này mà còn giả mù sa mưa gì nữa!
Thấy ông đại úy này hỗn hào quá, tôi
tức mình quát lớn:
– Châu! Khoá mõm thằng này lại!
– Dạ!
Ông Thiếu úy Lý Ngọc Châu từ nãy tới
giờ cứ hằm hằm chờ, nay được lệnh của tôi, lập tức khoát tay, bốn
anh cận vệ lập tức xông vào khoá tay ghịt đầu ông đại úy bắt chúi
mũi xuống đất.
Trung úy Ðăng bực bội hét lên:
– Ðù mạ tụi mi! Sĩ quan tiếp liệu 63
tiếp tế cho tụi mi chứ 82 có dính dáng gì tới chuyện này đâu mà
tụi mi đòi biểu tình, đòi khởi nghĩa, đòi chống đối?
Nghe thế, tôi hất hàm hỏi ông đại úy:
– Nghe hiểu chưa? Hai đại đội của 63
chỉ tăng phái hành quân cho 82 thôi! Tiểu Ðoàn 82 không nuôi ăn
các anh! Các anh muốn kiện tụng thì về gặp ông Thiếu tá Ðàng.
Lúc này ông đại úy mới vỡ lẽ ra, mặt
ông ta hiện rõ vẻ ngượng ngập, sượng sùng. Ông ta ấp úng:
– Trình thiếu tá! Em xin lỗi Thiếu tá!
Tới khi đó tôi mới để ý nhìn kỹ, trên
mặt Quốc lộ 14 có hai phần tiếp tế mười ngày thực phẩm tươi nằm
cạnh nhau. Phần ăn của một người lính 82 gồm có một cái bắp cải,
một chai xì dầu, mười con cá khô, một gói mắm ruốc, một con gà
còn sống, cùng một phần sẽ được chia từ hai con heo to đang bị
trói nằm kêu “Eng! Éc!” ở đầu hồi của Câu Lạc Bộ.
Bên cạnh đó là phần tiếp tế cũng mười
ngày ăn cho một Biệt Ðộng Quân 63 gồm có mười con cá khô, một
chai xì dầu, một gói mắm ruốc, một cái bắp cải, một gói muối mè,
không có miếng thịt nào cả.
Sự chênh lệch quá đáng này đã là nguyên
nhân làm mờ mắt ông đại úy nóng tính. Tôi nói nhỏ:
– Chú Châu thả ông đại úy ra!
Lúc này mặt mày ông đại úy đại đội
trưởng tăng phái trông thật là thảm hại, ông ta cứ cúi đầu, liên
tục nói một câu hối lỗi:
– Em xin lỗi Thiếu tá! Em xin lỗi Thiếu
tá!
Tôi cũng
thấy tội nghiệp cho cái ông sĩ quan ruột ngựa này, nên ôn tồn:
– Thôi! Bỏ qua đi! Chú cho anh em lấy
súng ống rồi trở về vị trí! Anh sẽ nói chuyện với Thiếu tá Ðàng
về chuyện này.
Không cần vòi rồng, không cần hơi cay,
đoàn người biểu tình ngồi tự động giải tán.
Ngay trưa hôm đó anh sĩ quan tiếp liệu
của Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng Quân đã có mặt ở Ngã Ba Kiến Ðức, trên
tay anh ta là tờ cam kết chỉ tính tiền tiếp tế kỳ này cho các
Biệt Ðộng Quân 63 tăng phái với cái giá là ba ngày. Hôm sau,
Thiếu tá Trần Ðình Ðàng, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 63 Biệt Ðộng
Quân chạy lên Kiến Ðức năn nỉ tôi cho phép các quân nhân tăng
phái của ông được tiếp tế chung với Tiểu Ðoàn 82 suốt thời gian
họ ở với tôi. Hai sĩ quan tiếp liệu tiểu đoàn sẽ thanh toán tiền
bạc với nhau.
Trước lễ Giáng sinh năm 1974 tôi nhận được cái đơn xin thuyên
chuyển tập thể của hơn một trăm quân nhân của Tiểu Ðoàn 63 Biệt
Ðộng Quân tăng phái xin về phục vụ dưới quyền Thái Sơn. Ðọc cái
đơn đó tôi chỉ mỉm cười, vì tôi biết, dù tôi có dang đôi tay chào
đón họ, thì cấp trên cũng chẳng bao giờ đồng ý cả. Tôi đã được
Thiếu tá Trần Ðình Ðàng tâm sự về nỗi khổ tâm mà anh ấy đang gánh
chịu. Nguyên nhân của sự tiếp tế thiếu hụt này xảy ra chỉ vì ông
sĩ quan tiếp liệu 63 đã lỡ đốt cháy hết tiền ăn tháng đó trên
chiếu bạc!
Anh
Ðàng mới từ Vùng 3 thuyên chuyển ra đây, lạ nước, lạ cái, nên bị
bọn tham nhũng thâm căn, cố đế của vùng này qua mặt. Chúng nó ăn
tới cái khố của người lính mà anh Ðàng không hay! Mỗi khi tiếp
tế, chúng nó mua đủ thứ ngon ngọt, thơm tho cho ông Tiểu đoàn
trưởng, trong khi đó thì lính tráng bị bóp hầu, bóp họng, ăn
chận, ăn bớt mà không dám kêu ca. Anh Ðàng hỏi tôi làm sao chấm
dứt tình trạng này? Tôi chỉ cố vấn cho anh một câu thật ngắn:
– Hãy trừ tiền ăn tất cả mọi người
trong tiểu đoàn, từ ông thiếu tá cho tới anh binh nhì, không
ngoại trừ ai.
Hãy chia đều khẩu phần cho tất cả mọi người giống nhau, kể cả
Tiểu đoàn trưởng. Có như thế, khi nhìn vào phần ăn của chính
mình, ông chỉ huy mới biết kỳ tiếp tế đó, người lính được nuôi ăn
ra làm sao. Nghe rồi, anh Trần Ðình Ðàng mới hiểu nguyên nhân vì
sao cũng đồng thời là người chỉ huy, mà có người được lính hết
lòng thương yêu, quý mến, lại có người bị lính ghét cay, ghét
đắng.
Anh gật
gù:
– Chuyện
này thực là giản dị, vậy mà bao lâu nay anh đã ơ hờ, không chịu
để ý.
Tôi còn
chỉ cho ông đàn anh cách thức khước từ lời mời chào của các nhà
thầu, bất kỳ người đó là ai.
Ngày đó, năm 1973–1974, ở Pleiku, người
đứng thầu cung cấp thực phẩm tươi cho các đơn vị Biệt Ðộng Quân
là cựu Ðại tá Nguyễn Văn Huy, Nguyên chỉ huy phó Bộ Chỉ Huy Biệt
Ðộng Quân/Quân Khu 2 đã giải ngũ. Không qua tay nhà thầu, thực
phẩm sẽ tươi ngon hơn, và dễ thay đổi tùy theo ý thích của anh
em. Ðiều chắc chắn giá hàng sẽ rẻ hơn là nhận của nhà thầu. Vì lý
do đó mà lúc nào phần ăn của quân nhân 82 cũng nhỉnh hơn phần ăn
của các bạn ở đơn vị khác.
oOo
Ngọc bất trác bất thành khí...
Từ khi về Kiến Ðức, tôi giao chú bé
chết nhát, đứng khóc lúc xuất quân bên Đồi Ðạo Trung ngày nào cho
hai anh lính đã trưởng thành trong khói lửa Pleime 1974 kềm kẹp.
Hai anh này là Binh 1 Liêu Chí Cường và Binh 1 Ðức Ðiếc. Ba chàng
này có vẻ hợp nhau lắm.
Trung đội trưởng của ba chú này là
Chuẩn úy Nguyễn Hữu Phước người đã kéo lá quốc kỳ lên ngọn cột cờ
trên đỉnh núi Chư Hô, ở Pleime vào lúc nửa đêm mùng 2 tháng 9 năm
1974 sau khi tái chiếm ngọn đồi này.
Ngày tiếp tế định kỳ tháng 11 cũng là
ngày hoán đổi vị trí trú quân của các đại đội. Ðại đội thượng
phiên sẽ lãnh thực phẩm trước, đại đội hạ phiên sẽ nhận hàng trễ
hơn. Nhận tiếp tế xong, Ðại Ðội 4/82 rời Kiến Ðức lên thay quân
cho Ðại Ðội 3/82 ở làng Bù M’Bré. Riêng Trung đội 3/4/82 của
Chuẩn úy Phước sẽ tách ra khỏi đại đội để lên thay thế cho một
trung đội của Ðại Ðội 3 trấn giữ tiền đồn Bù Row. Ðại úy Ngũ Văn
Hoàn là người theo dõi vụ đổi quân, chờ mãi mà vẫn chưa thấy
trung đội của Chuẩn úy Phước tới mục tiêu. Ông Hoàn cứ đi ra, đi
vào không yên, rồi chạy tới lều của tôi:
– Trình Thiếu tá, Ðại Ðội 3 về tới Ðồi
Tây rồi mà thằng Phước còn chưa tới Bù Row, khiến cho tôi lo quá!
Tôi lấy làm lạ, từ Bù M’Bré tới Bù Row
chỉ cần hai mươi phút di chuyển bình thường thôi, vậy mà cả giờ
đồng hồ rồi mà Phước chưa tới không biết vì sao? Cũng lúc đó
trung đội của Ðại Ðội 3/82 trên đỉnh Bù Row báo cáo có tiếng súng
bắn nhau vùng hướng Bắc Bù Row.
Tôi cho lệnh Thiếu úy Thủy đem thành
phần còn lại của Ðại Ðội 4/82 cấp tốc di chuyển tới Bù Row để
tiếp cứu cho Chuẩn úy Phước. Từ Đồi Kiến Ðức tới Bù Row xa gần
bốn cây số, không nghe được tiếng súng giao tranh, nên tôi đem
theo toán Viễn Thám 821 chạy xuống vị trí của Ðại Ðội 2/63 bên
suối Dak Blao để theo dõi tình hình.
Nếu Ðại Ðội 4/82 đụng lớn tôi sẽ mang
Ðại Ðội 2/63 lên tăng cường. Tôi tới chân cầu Dak Blao thì có tin
Chuẩn úy Phước đã về tới chân Đồi Bù Row, tất cả anh em đều có
mặt, chỉ một người bị thương đó là ông Chuẩn úy Trung đội trưởng.
Biết tin này, tôi cho pháo binh bắn hai chục tràng đạn nổ trên
vùng một cây số Bắc Bù Row, nếu địch còn lẩn quất. Sau đó, tôi
cho Ðại Ðội 4/82 cắt cử một trung đội khác làm nhiệm vụ giữ Bù
Row; Trung đội của Chuẩn úy Phước cùng thành phần còn lại của Ðại
Ðội 4 thì rút về tuyến phòng thủ Bắc Kiến Ðức.
Gần một giờ sau, Chuẩn úy Nguyễn Hữu
Phước về tới chân cầu Dak Blao. Vừa thấy cái mặt sưng vù của chú
Phước, tôi vội vàng hỏi:
– Có đau lắm không? Chuyện đầu đuôi ra
sao? Kể cho anh nghe đi!
Miệng bị nhét một cục bông gòn tổ
chảng, nhưng ông Chuẩn úy Trung đội trưởng cũng cố gắng kể cho
tôi hay toàn bộ sự kiện. Ðây không phải là lần đầu Phước dẫn quân
lên điểm Bù Row. Vậy mà kỳ này chú ấy đi lạc! Cách Bù Row gần nửa
cây số thì Quốc lộ 14 tẻ ra hai nhánh, một nhánh đi chếch về Tây
tới chân Bù Row, nhánh thứ nhì đâm thẳng về hướng Bắc. Quân ta
nhắm mắt đi về Bắc! Tới khi nghe có tiếng hô “Ðứng lại!” mới biết
mình đã lạc vào vùng địch.
Trung đội trưởng Nguyễn Hữu Phước chưa
kịp gỡ khẩu M16 ra khỏi vai thì ba tay khinh binh đi đầu đã nhanh
như máy, bóp cò. “Ðùng! Ðùng! Ðùng!” đạn nổ. Tên Việt cộng gác
trên chòi canh bị bắn chết ngay. Quân ta quay đầu chạy. Vài phút
sau, địch từ trong rừng túa ra, bắn như mưa. Cùng với tiếng AK
réo là tiếng la: “Hàng sống! Chống chết!”
Phước nói:
– Kỳ này đi tiền đồn, sợ bị địch tấn
công bất ngờ nên em cho đem theo nhiều lựu đạn lắm! Khi biết mình
bị lạc, lại thấy địch ào ra đông quá, em bèn cho hai tiểu đội
chạy trước, em và tiểu đội còn lại, luân phiên đánh lựu đạn cản
địch, rồi nhanh chóng rút lui theo chiến thuật sâu đo. Mấy thằng
Việt cộng này cũng nhát lắm, không dám xung phong, chỉ mạnh miệng
la hét thôi! Kỳ lạ là, chú Phước không bị bắn trúng mặt, trúng
đầu, trúng má, nhưng lại bị gãy một cái răng! (?) Chẳng biết cái
răng đã bị gãy vì trúng đạn hay trúng mảnh lựu đạn?
Phước ôm cái má sưng vều:
– Trong khi súng đạn nổ ầm ầm, bụi khói
mù mịt, em bỗng cảm như có cái búa đập vào hàm, rồi máu tuôn ra
miệng. Em cũng chẳng biết vì sao mà em bị bể mất một cái răng?
Phước đưa tay chỉ cho tôi ba anh lính
đi sát sau lưng:
– Em có ba thằng đồ đệ giỏi lắm! Ðánh
giặc như ciné! Kỳ này Thái Sơn nhớ khen thưởng tụi nó nhe!
Thì ra ba thằng đồ đệ của chú Phước
chính là Binh 1 Liêu Chí Cường, Binh 1 Ðức Ðiếc, và anh chàng
lính chết nhát.
Trong lúc súng nổ ran, nhìn thấy miệng
ông trung đội trưởng đầy máu thì ba anh này la lên:
– Chuẩn úy chạy đi! Tụi em đoạn hậu!
Hôm đó ba anh lính trẻ được dịp trổ tài
thao lược, bằng cách luân phiên nhau, vừa bắn vừa lui, hộ tống
ông trung đội trưởng, an toàn về tới chân Đồi Bù Row. Nghe chú
Phước kể lại chuyện này, tôi thích quá, bèn kêu “Ba Chàng Ngự Lâm
Pháo Thủ” lên Câu Lạc Bộ cùng tôi cụng ly, mỗi người một chai cổ
cao. Anh chàng Biệt Ðộng Quân chết nhát uống chưa hết nửa chai
bia Con Cọp, mặt mày đã đỏ gay, giơ hai tay lên trời, “Em xin
chịu thua!”
Người xưa nói rằng “Ngọc bất trác bất thành khí: Ngọc mà không
mài giũa thì cũng chẳng có giá trị gì!”
Nhìn thằng em, tôi thấy ấm áp trong
lòng. Thế là, chỉ sau hai tháng mài giũa, cục đá thô kia đã thành
một viên ngọc quý.
***
Chính vì có mài, có giũa, có bạn bè tốt
đi kèm, mà chỉ ít lâu sau khi tới Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân,
những tân binh mặt búng ra sữa, đã thành những tay súng thiện
nghệ, gan lỳ. Những ngày cuối năm 1974 tôi phải lo tăng cường an
ninh tối đa, vì cứ tới dịp Lễ, Tết, thế nào Việt cộng cũng quậy
phá. Gần tới Giáng Sinh tin tức tình báo tới tấp gửi tới. Nào là
địch sẽ đánh Quảng Ðức, sẽ đánh Kiến Ðức, nên ông Liên đoàn
trưởng ra lệnh cấm quân, không cho ai đi phép. Ðể yên tâm, tôi
liên tiếp tung các toán Viễn Thám thăm dò địch trong bán kính tối
thiểu là bốn cây số từ Kiến Ðức, khoảng cách đó là tầm bắn trung
bình của cối 82ly và 75ly mà địch hay sử dụng.
Một buổi trưa, toán 825 của Hạ sĩ 1
Nguyễn Tuấn báo cáo có địch. Tôi đích thân cầm máy:
– Mô tả mục tiêu!
– Em thấy có người đang leo lên dốc! Em
tính gài Claymore nhưng tụi nó tới gần quá rồi!
– Bắn như bài đã học!
– Dạ!
“Bài đã học” là, khi chạm trận, người ở
giữa sẽ bắn 30˚ trái, rồi bắn 30˚ phải, còn hai tay súng bên cạnh
thì người bên trái bắn về bên phải, người bên phải bắn về bên
trái, hai lằn đạn sẽ giao nhau. Những tên địch xuất hiện trong xạ
trường trước mặt chắc chắn sẽ chết.
Máy truyền tin của tôi có cần ăng–ten
cao nên dễ dàng liên lạc với 825 và trung đội đóng trên Bù Row,
nhưng tai tôi không nghe được tiếng súng nổ.
Bẵng đi mười phút, là tiếng Hạ sĩ Tuấn
vừa thở hổn hển vừa nói:
– Trình Thái Sơn! Em hạ được ba con!
Thu ba AK47! Em đã về tới chân Bù Row!
– Tới Bù Row thì hết lo rồi! Ði chậm
lại cho đỡ mệt!
Chiều đó tôi đãi mỗi chú của toán 825
một tô mì ăn liền Vị Hương và một chai la ve. Ba chàng Viễn Thám
này đều ở cùng quê Bình Ðịnh nên thân thiết với nhau lắm. Ông Tàu
Hỷ chủ Câu Lạc Bộ tiểu đoàn lục ngăn kéo lấy ra 15 nghìn đưa cho
Thiếu úy Lý Ngọc Châu. Chú Châu thay mặt tôi trao cho mỗi Viễn
Thám viên 5 ngàn. Ðây là thông lệ, tôi đề ra, cho mỗi khẩu súng
chiến lợi phẩm là 5 ngàn, bất kể súng lớn hay súng nhỏ.
Ngày đánh Ðạo Trung, tiểu đoàn thu được
nhiều chiến lợi phẩm hơn, nhưng do công của đồng đội, nên tôi chỉ
cho lệnh ông Tàu Hỷ mua cho mỗi người một bao thuốc lá Quân Tiếp
Vụ gọi là hút cho “lấy hương lấy hoa” chứ thưởng theo cái giá 5
nghìn một khẩu súng thì Câu Lạc Bộ bị lủng vốn mất.
Thời gian này Tiểu Ðoàn 82 có nhiều
người trùng tên lắm. Ông Ðại úy Ngũ Văn Hoàn cầm quyển sổ điểm
danh vừa cười vừa nói với tôi:
– Tui đố ông biết trong tiểu đoàn này
tên gì là nhiều nhất?
Tôi đáp liền:
– Tuấn! Mình có bốn thằng Tuấn!
– Sai rồi! Tên Hoàng (Hoàn)! Mình có
năm tên Hoàng! Tui đọc tên cho ông nghe nhé: Ngũ Văn Hoàn, Huỳnh
Kim Hoàng, Nguyễn Phượng Hoàng, Lưu Ðức Hoàn, và Phan Thành
Hoàng...
– Ông
lầm rồi! Hoàng có “G” khác với Hoàn không có “G”. Như vậy mình
chỉ có ba “Hoàng” và hai “Hoàn” thôi.
– Vậy tui đố ông, mình có mấy tên
Phước.
Tôi trả
lời không cần suy nghĩ:
– Mình có ba ông tên Phước là, Trần Văn
Phước, Lê Văn Phước, và Nguyễn Hữu Phước!
– Ông sai rồi! Còn thằng Binh nhì Phan
Phước nấu cơm cho tui!
Lâu lâu, có dịp ngồi chuyện gẫu, tôi
với ông Ðại úy Hoàn hay trao đổi với nhau những đề tài chẳng đâu
vào đâu, chẳng ăn nhậu gì với nhau, nhưng cũng vì thế mà vài chục
năm sau, tôi còn có thể hình dung ra mặt thằng Tuấn Nhí ở Ðại Ðội
4/82 như thế nào, mặt thằng Triệu Tân ra làm sao, và trên cổ
thằng Liêu Chí Cường có cái khăn màu gì, ai đã cho nó?
oOo
Cuối năm, đầu năm...
Hai ngày lễ quan trọng đi qua, tình
hình thật là yên. Sáng sớm 26 tháng 12 tôi lên xe phóng về Ban Mê
Thuột. Ngày mai, 27 tháng 12 là kỷ niệm 4 năm ngày cưới của vợ
chồng tôi, nhưng tôi lại không dám giao đơn vị cho người khác
trông coi, nên tôi báo cho vợ tôi biết rằng tôi sẽ về đón nàng và
hai đứa con gái lớn lên Kiến Ðức chơi vài bữa.
Xế chiều 26 tháng 12 năm 1974 xe của
tôi về tới tiểu đoàn. Hai đứa bé thấy mấy bụi hoa móng tay ở
trước cái lều tranh thì thích lắm, cứ quanh quẩn bên các chậu
hoa. Các chú lính trong đội cận vệ cũng thích hai đứa bé, cứ tíu
tít hỏi han:
“Hai cháu có thích kẹo không? Hai cháu có thích bông móng tay
không?” – “Cháu lớn mấy tuổi rồi? Cháu bé mấy tuổi rồi?”
Chắc nhìn thấy hai đứa con tôi, mấy chú
lính cũng thấy nhớ con của họ, gia đình họ còn ở Pleiku! Chúng
tôi xa Pleiku đã hơn ba tháng rồi!
Chiều 27 tháng 12 tôi chở vợ và hai đứa
con đi thăm cái đập đá nằm cách quận Nhơn Cơ nửa cây số về hướng
Ðông. Mấy cô gái Thượng giặt áo quần dưới suối thật là hiếu
khách, giơ tay vẫy chào hai cô du khách tí hon. Hai cháu bé thấy
thế cũng giơ tay cười đáp lại. Cảnh đang vui thì cái loa truyền
tin trên xe oang oang tiếng của đài Tam Quái đặt trên núi lửa Ðức
Lập:
– Thái
Sơn đây Tam Quái!
– Thái Sơn nghe!
– Trình Thái Sơn! Ông cụ Trung tá Bố vợ
của Thái Sơn vừa vào tiền cứ gọi cho tụi em để thông báo cho Thái
Sơn một câu nhắn nguyên văn như sau: “Tụi mày mau báo cho vợ
chồng nó biết, đứa con gái út của chúng nó bị ỉa chảy cả ngày, cả
đêm! Nếu vợ nó mà không về thì chắc con bé chết mất đấy!”
Thế là hết vui. Chúng tôi quay về đồn.
Ðêm đó pháo binh và súng cối không bắn phát nào nên hai cháu bé
ngủ ngon. Vợ chồng tôi lại lo lắng, thức trắng, chỉ mong trời mau
sáng. Cháu bé Tiên Giao đang ở nhà với ông bà ngoại, nó vừa dứt
sữa mẹ, tập uống sữa bột SMA. Chắc nó chưa quen uống sữa bột nên
bị đau bụng.
Trưa 28 tháng 12 vợ chồng tôi và hai đứa con về tới nhà. Bé Tiên
Giao vừa thấy mẹ đã khóc oà, rồi rúc vào ngực mẹ. Vợ chồng tôi
vội chở cháu Tiên Giao vào hậu cứ Liên Ðoàn 21 Biệt Ðộng Quân để
nhờ Bác sĩ Thại chữa trị cho cháu. Hôm đó chỉ với một liều thuốc
Cloramphenicol cháu Tiên Giao đã qua cơn nguy kịch. Từ ấy, vợ tôi
không dám để bé Tiên Giao rời xa mẹ nữa.
Sau khi tái huấn luyện, Tiểu Ðoàn 81
Biệt Ðộng Quân trở về thay thế cho Tiểu Ðoàn 89, tôi không còn lo
theo dõi tình hình hướng Nam nữa. Ông Thiếu tá Hoàng Ðình Mẫn,
Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 81 Biệt Ðộng Quân nhận lệnh trực tiếp
từ liên đoàn và chỉ giữ liên lạc hàng ngang với tôi thôi.
Những ngày đầu năm 1975 tôi cứ thấy bồn
chồn lo lắng vô cớ.
Tôi liên tục xin Tiểu Khu Quảng Ðức ưu
tiên cho tôi mỗi ngày một chiếc L19 để tôi đích thân quan sát
vùng trách nhiệm, thay vì giao việc này cho sĩ quan điều không
tiền tuyến của tiểu khu. Tôi đã bay liên tục nhiều ngày trên trời
Bù Binh, Kiến Ðức, Bù Bông mà không thấy gì nghi ngờ. Nhưng tôi
lấy làm lạ là, mỗi khi tôi bay chếch về hướng Tây, giáp ranh Cam
Bốt, hay hướng Nam, giáp ranh Vùng 3 Chiến Thuật thì máy bay của
tôi chạm phải phòng không của địch ngay.
Tôi báo cáo chuyện này cho liên đoàn,
liên đoàn chuyển tiếp tin này cho tiểu khu. Vì chuyện này, tôi bị
thượng cấp khuyến cáo rằng đừng dính dáng tới chuyện của Vùng 3
làm gì, hãy lo hoàn thành nhiệm vụ của mình trước đã. Ðâu ngờ,
chỉ một tuần lễ sau, tôi nghe tin Phước Long thất thủ. Nhiều
Quân, Cán, Chính của tỉnh Phước Long đã lẩn trốn trong rừng, rồi
chui ra Quốc lộ 14 để tìm về với đơn vị bạn. Trong số những người
mà tôi đã tiếp cứu ngày đó có ông Thiếu tá Nguyễn Văn Tư, Trưởng
ty Cảnh Sát tỉnh Phước Long.
Sau khi Phước Long rơi vào tay Cộng
quân, tôi bị đưa vào thế lưỡng đầu thọ địch, hướng Bắc là Trung
Ðoàn 271 Việt cộng đã hiện diện từ lâu, hướng Nam lực lượng địch
chắc chắn lớn hơn nhiều. Ðịch bắt đầu chuyển binh bao quanh vùng
Tây Quảng Ðức với tốc độ thực là nhanh. Từ đỉnh những ngọn đồi
vùng Tây–Bắc, chính Bắc, và Ðông–Bắc của tiền đồn Bù Row đã xuất
hiện ít nhứt là mười vị trí 12.7ly. Thời gian này tình hình vùng
Ðức Lập và Tây Ban Mê Thuột lại rất yên tĩnh.
Bỗng một hôm Ðại tá Vũ Thế Quang, Tư
lệnh phó Sư Ðoàn 23 Bộ Binh đã ghé Kiến Ðức thăm tôi. Ðại tá
Quang nói rằng, ngày nào ông cũng có một phi tuần A37 hoặc F5 dự
trù, nếu tôi cần thì ông sẵn sàng chia sẻ.
Tôi thắc mắc:
– Ðại tá yểm trợ thẳng cho tôi có làm
phật lòng Ðại tá Nghìn không?
Ðại tá Quang lắc đầu:
– Không sao đâu! Anh cho chú toàn
quyền, muốn đánh đâu thì đánh! Nhưng đừng cho thằng Nghìn biết!
Sau này tôi tìm hiểu được lý do vì sao
Ðại tá Vũ Thế Quang lại cho tôi những phi tuần oanh tạc mà không
thông báo cho Ðại tá Phạm Văn Nghìn. Chỉ vì thời gian này Ðại tá
Quang có một cánh quân nằm trong Chi Khu Ðức Lập, đó là một nửa
Trung Ðoàn 53 của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh. Xung quanh Ðức Lập chưa có
chỉ dấu nào của địch, nhưng ông Ðại tá Tư lệnh phó Sư Ðoàn 23 Bộ
Binh có đầy đủ tin tức kỹ thuật trong tay. Ông đã biết địch đang
tăng cường quân số vùng Bắc Kiến Ðức. Lực lượng địch tập trung ở
đây càng nhiều thì quân của Sư Ðoàn 23 Bộ Binh càng bị đe dọa.
Chỉ sau vài giờ động binh, chúng có thể có mặt ở Ðức Lập rồi. Kẹt
một điều là vùng Bắc Kiến Ðức lại nằm trong tay Ðại tá Phạm Văn
Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Ðức. Ông Nghìn không thích đánh nhau,
nếu ông Quang có giao những phi tuần oanh tạc cho ông Nghìn, thì
chưa chắc ông Nghìn đã chịu nhận. Vì thế ông Quang đành lén giao
bom đạn cho tôi. Có bom đạn trong tay, tôi sẵn sàng, vui vẻ, thay
quân của Ðại tá Quang ngăn cản quân địch từ xa, không cho chúng
tiến về Ðức Lập.
Trung tuần tháng Giêng năm 1975, ròng
rã suốt một tuần lễ, trưa nào tôi cũng ngồi sau lưng ông phi công
thám thính, bay trên trời cả tiếng đồng hồ. Hầu như ngày nào
chúng tôi cũng bị phòng không bắn. Ông phi công hình như không
nghe tiếng đạn réo, hoặc là ông ta quá lỳ?
Ðại liên phòng không nổ liên tục mà ông
ta cứ tỉnh bơ! Tôi thì cứ nghe “Choác! Choác! Choác!” là thấy
lạnh gáy. Chiếc máy bay thì nhẹ tênh, nếu trúng một viên phòng
không chắc nó rách toang thành từng mảnh?
Sau năm ngày, với năm phi tuần, mười
phi xuất, chúng tôi đã khoá mõm được vài khẩu 12.7ly. Nghỉ khỏe
được hai ngày, chúng tôi bay trở lại. Hôm đó trời trong xanh, tôi
nhìn thấy trên đường Quốc lộ 14, cách Kiến Ðức chừng mười cây số
về hướng Bắc có một vật lạ, với cành lá ngụy trang. Tôi chỉ cho
ông trung úy phi công:
– Ðánh theo hướng Bắc–Nam thì dễ trúng
mục tiêu hơn, nhưng đánh theo hướng Ðông–Tây thì an toàn hơn!
Ông pilot chọn hướng đánh Bắc–Nam, “Ùm!
Ùm!” hai quả bom đánh trật! Bụi đất bay lên cao. Phút sau, hai
chiếc F5 lại lao xuống! “Ùm! Ùm!” Một quả bom rơi trúng mục tiêu!
Ðó là một xe Molotova chở đạn. Xe bốc cháy, đạn trên xe phát nổ,
lửa khói chói lòa. Bỗng đâu, tôi tối tăm mặt mũi, hoa đăng nổ rợp
trời trên đầu tôi! Từ vùng rừng cây hướng Tây, đạn phòng không
37ly của địch đua nhau nở hoa “Bụp! Bụp! Bụp!”
Hai chiếc oanh tạc cơ bay vút lên cao
rồi biến mất trong vùng mây trắng hướng Bắc. Chiếc L19 dạt về Nam
rồi đáp xuống phi trường Nhơn Cơ, chiếc xe Jeep của tiểu đoàn
đang chờ ở đây để đưa tôi về đồn Kiến Ðức. Bẵng đi mấy ngày không
có không yểm, một hôm, tôi đang ngồi trên lô cốt theo dõi Ðại Ðội
1/82 thực tập tác xạ súng chống tank XM202 thì được anh phi công
L19 báo cho biết sẽ có hai phi xuất F5 tới yểm trợ cho Kiến Ðức.
Tôi yêu cầu:
– Target (mục tiêu) là khe suối nằm sát
Quốc lộ 14 cách đỉnh Bù Row 1 cây số về hướng Bắc. Phòng không
của địch di động dọc Quốc lộ 14. Trục đánh an toàn là từ Tây sang
Ðông.
Tiền đồn
Bù Row vừa thả một trái khói vàng theo yêu cầu của Không Quân thì
phòng không của Việt cộng đã nổ rền trời. Chiếc L19 đã thấy vị
trí chính xác của những cây 12.7ly đang nhả đạn, nên lập tức, nó
phóng ra một trái rocket. Khói trắng bốc lên! Hai chiếc F5 theo
nhau chúc xuống khu rừng cây xanh. Từ xa, tôi nhìn rõ những cột
khói của những trái bom mới nổ. Bất ngờ, tôi thấy những tia đạn
lửa 12.7ly đan nhau, rồi một chiếc dù bung ra từ một chiếc F5!
Chiếc máy bay bốc cháy trước khi đâm đầu xuống đất.
Giờ này gió đang thổi từ Ðông–Bắc xuống
Tây–Nam. Chiếc dù lững lờ bay. Vài phút sau, cánh dù hạ xuống khu
đồng tranh và bãi sậy, vùng hướng Tây, cách Kiến Ðức chừng năm
cây số. Tôi vội ra lệnh cho Trung úy Trần Văn Phước đem Ðại Ðội
3/82 và một toán Viễn Thám xuống núi trực chỉ hướng Tây để cứu
bạn. Cũng lúc này có tiếng trực thăng từ Nhơn Cơ. Tôi được thông
báo rằng Trung tá Hoàng Kim Thanh đang trên đường bay tới chỗ
tôi. Trực thăng đáp trên Tỉnh lộ 344, tôi xách cái máy PRC25 leo
lên đứng sau ghế của người hoa tiêu chính.
Tôi chỉ cho ông phi công vùng chiếc dù
mới đáp xuống. Chiếc L19 và chiếc C&C bay vòng vòng hồi lâu mà
không thấy dấu vết gì của anh phi công lâm nạn. Khoảng nửa giờ
sau một hợp đoàn gồm 2 chiếc UH1 và hai trực thăng võ trang xuất
hiện. Trong đó có một chiếc là trực thăng tản thương.
Vương Mộng Long
(còn tiếp...)
Kỳ
8 & Hết
Đường về Gia Nghĩa
Vương Mộng Long
Sau
khi chiếc L19 đảo cánh trên một khu rừng tranh ra dấu, lập tức
chiếc tải thương hạ xuống khẩn cấp. Biệt Ðội Trực Thăng 259–B Tản
Thương và Tìm Cứu đã hoàn thành công tác một cách vô cùng nhanh
nhẹn và gọn gàng. Không rõ do lệnh của giới chức nào, mà anh
pilot lâm nạn không được chở đi luôn, mà lại bị thả xuống phi
trường Gia Nghĩa. Tôi và Trung tá Hoàng Kim Thanh cũng đáp xuống
đây.
Anh trung
úy phi công F5 chỉ bị sây sát nhẹ, máy móc truyền tin dùng để
phát tín hiệu kêu cứu của anh đã bị hư, nhưng nhờ tấm banner màu
da cam mà L19 đã phát hiện ra anh ta. Chiếc C&C của tôi không
được biết chuyện này, vì ông phi công L19 sợ rằng chúng tôi sẽ
bay vòng vòng trên đầu, làm lộ vị trí của người bị nạn.
Ở phi trường có sẵn chiếc Jeep của
Trung tá Hoàng Kim Thanh. Tôi mượn chiếc xe này để chở anh pilot
F5 ra quán hủ tiếu của bà già người Tàu, ngoài chợ Gia Nghĩa. Ăn
uống xong, chúng tôi chia tay, anh bạn Không Quân trở lại phi
trường, tôi về Kiến Ðức.
Từ ngày đó tôi không còn được Ðại tá
Quang chia sẻ những phi tuần dự trù nữa. Bẵng đi ít bữa, ông
trung tá Liên đoàn trưởng cho tôi hay, ông nghe đồn rằng, tháng
trước anh pilot F5 này đã bị phòng không Việt cộng bắn hạ ở Phước
Long, nên An Ninh Quân Ðội nghi ngờ anh ta đã “phá tàu” vì lạnh
cẳng, chứ không phải máy bay của anh ta bị địch bắn trúng.
Vài ngày kế đó tôi bị gọi về Gia Nghĩa
để gặp mặt người thiết lập bản tường trình ủy khúc vụ chiếc F5
lâm nạn. Ông ta đưa cho tôi một tờ phụ bản. Trên đó có cái tiêu
đề được đánh máy dòng chữ: Ý kiến của nhân chứng Vương Mộng Long.
Cuối tờ giấy cũng có dòng chữ: Chữ ký
và ngày tháng.
Nhìn vào bản phúc trình, tôi thấy những
nhân chứng khác đều có ý kiến và chữ ký ngay trong hồ sơ. Tôi là
nhân chứng quan trọng nhất, tại sao người ta bắt tôi phải ký phụ
bản? Tôi biết chắc chắn rằng, nếu tôi ký tên vào cái phụ bản ấy,
thì nó sẽ bị người ta vứt đi mất tăm, mất tích.
Cái lon trung úy của anh phi công sẽ bị
người ta lột mất vì tội “phá tàu”. Lương tâm đã không cho phép
tôi toa rập với những mưu đồ ti tiện như thế! Tôi có nhiệm vụ
phải bảo vệ đồng ngũ của tôi! Tôi nói với ông Thiếu tá Sĩ Quan An
Ninh:
– Tôi
muốn ghi ý kiến và ký tên trên chính bản, không phải trên phụ bản
đính kèm.
Kèo
nài vài phút, thấy tôi nhất mực giữ vững lập trường, ông ta đành
nhượng bộ, cho tôi ghi vào khoảng trống dưới tên nhân chứng cuối
cùng. Tôi đã viết:
“Thiếu tá Vương Mộng Long xác nhận
rằng: Tôi đã tận mắt nhìn thấy chiếc F5 bị phòng không 12.7ly của
Việt cộng bắn cháy và rơi tại tiền đồn Kiến Ðức”
Lời khai của tôi hoàn toàn trái ngược
với những lời khai của những nhân chứng khác. Những nhân chứng
này làm việc ở văn phòng và trong hầm của Trung Tâm Hành Quân của
Tiểu Khu, họ nhìn thấy chiếc F5 rơi theo cách nhìn riêng của họ.
Tôi thừa hiểu rằng ở Sài Gòn người ta
không tin có chuyện phòng không địch “dám” bắn hạ một cái oanh
tạc cơ F5 trong vùng trời Quảng Ðức đang thời kỳ “hoàn toàn yên
tĩnh” như những bản tin hàng ngày được ông tỉnh trưởng báo về.
Nếu anh bạn phi công F5 ngày đó còn sống, nếu anh ấy đọc được
những dòng chữ này, chắc anh ta sẽ nhớ lại câu chuyện cổ tích xảy
ra ở Kiến Ðức năm nào. Cũng nhân dịp viết hồi ký này, tôi gửi lời
cám ơn tới các bạn Không Quân đã giúp tôi cứu mạng anh bạn F5 lâm
nạn trong lúc bay yểm trợ cho tôi. Cám ơn ông Biệt đội trưởng,
Ðại úy Trịnh Viết Hảo, và các ông Ðại úy Mai Văn Khánh, Ðại úy
Nguyễn Văn Ninh, Ðại úy Cát Mad (Mad=Ðiên) cùng các bạn khác
trong Biệt Ðội 259B Tản Thương và Tìm Cứu.
oOo
Hạ tuần tháng 1 năm 1975 khi màn đêm
buông xuống, thì sương mù cũng giăng kín núi đồi, vầng trăng
khuyết cũng ẩn vào trong mây. Tôi cứ lo địch lợi dụng bóng đêm để
chuyển quân từ Bắc xuống Nam rồi cắt đứt Tỉnh lộ 344, cô lập Kiến
Ðức. Ðêm nào tôi cũng cho tiểu đoàn thức giấc, báo động nửa
khuya. Tôi căn dặn đàn em, mỗi lúc hỏa châu soi thì mình chỉ nhìn
ra một hướng cố định, gắng sức ghi nhớ hình ảnh trước mắt mình,
tới lúc trái châu kế tiếp soi sáng, mình sẽ nhận ra những đổi
thay nếu có.
Thói thường, khi trái hỏa châu vừa kích hỏa trên trời cao, nghe
tiếng “Bóc!” địch sẽ dừng lại, ngồi im. Khi hỏa châu vừa tàn,
chúng sẽ tiếp tục di chuyển. Bởi vậy, trong thị trường của ta sẽ
thấy rõ những thay đổi xảy ra trong khoảng thời gian giữa hai
trái hỏa châu. Hai giờ khuya, tôi và Trung úy Trâm đứng bên hố
đại liên của Ðại Ðội 3/82. “Bóc!” một hỏa châu vừa tỏa sáng. Anh
xạ thủ đại liên nắm chân Trung úy Trâm rồi chỉ về hướng trước
mặt:
– Trung
úy ơi! Lúc trái hỏa châu trước soi sáng, em thấy bên gốc cây có
cái gì giống như một bó rơm. Tới lúc trái hỏa châu này sáng lên
thì bó rơm biến mất!
Tôi ra lệnh:
– Bắn!
Thế là khẩu M60 nhả đạn, súng từ bên
trái, bên phải cũng nổ rền theo. Hỏa châu tiếp tục soi sáng. Pháo
binh Diện Ðịa ở Nhơn Cơ cũng bị tôi đánh thức, bắn mười tràng
trên hỏa tập dự trù nằm dưới thung lũng. Tôi ra lệnh bắn, chỉ vì
“bó rơm” làm gì có chân mà biết đi? Sáng hôm sau tôi cho người
vào khu đồng tranh sát rào Ðông của căn cứ để kiểm tra trận địa.
Kết quả, không có khẩu súng nào bỏ lại,
trên mặt đất có ba tên Việt cộng chết, thân mình được phủ bằng
những tấm vải dù. Dưới ánh trăng hay dưới ánh sáng hỏa châu, thì
màu của vải dù cũng đồng màu với cỏ tranh, cỏ lau. Hóa ra, bó rơm
mà anh xạ thủ đại liên nhìn thấy đêm qua lại là một thằng Việt
cộng! Những ngày sau, tình hình mặt trận Tây Quảng Ðức hoàn toàn
yên tĩnh. Tình hình yên tĩnh không có nghĩa là ta cứ yên trí nằm
khoèo mà ngáy ro ro hay ngồi nhâm nhi trước bàn tiệc rượu hằng
giờ.
Tôi đã
biết rằng trong trận Phước Long, chiến xa Việt cộng đã đóng một
vai trò rất quan trọng. Do đó, việc huấn luyện các toán chống
tank đã được tôi coi như mối ưu tư hàng đầu. Anh bạn Ðại úy Hoàng
Kinh Ngữ, sĩ quan tiếp liệu, tiếp vận của tiểu khu thấy tôi vét
hết số hỏa tiễn XM202 và M72 tồn kho của tiểu khu mang về Kiến
Ðức huấn luyện cho lính, nên đã càm ràm:
– Ông thầu hết XM202, và M72, không
chừa cho ai khẩu nào, nếu chiến xa Việt cộng mà chạy vào đây, thì
tụi tôi lấy gì mà bắn?
Nghe vậy, tôi bèn trấn an anh bạn:
– Ðừng có lo! Trước khi xe tank Việt
cộng có mặt trước cửa văn phòng của ông thì chúng nó phải đi qua
Kiến Ðức.
T54
có thể làm mưa, làm gió ở Phước Long, nhưng không thể qua nổi cửa
ải Kiến Ðức đâu!
oOo
Xuân Ất Mão ở Quảng Đức
Thời gian cuối năm Giáp Dần, thành phố
Gia Nghĩa vui nhộn hẳn lên. Hết hội hè này tới đình đám khác. Ðêm
nào anh em sĩ quan của Tiểu Khu Quảng Ðức và của Bộ Chỉ Huy Liên
Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân cũng mở tiệc vui chơi, nhảy đầm cho tới
khuya. Sĩ quan của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân nghe nói người ta
vui quá, nên cũng ngứa chân, ngứa cẳng, cứ nài nỉ tôi cho phép
các chú ấy về Gia Nghĩa nhập cuộc thi tài, lả lướt, Rumba, Mambo,
Cha Cha Cha, Tango, Slow... Tôi cũng thông cảm, nên cho các ông
sĩ quan trẻ luân phiên nhau về phố, nhưng mỗi anh chỉ được một
đêm thôi.
Thấy
cù rủ mãi, mà tôi không chuyển lòng tham gia hội hè, ông Trung úy
Trâm và ông Trung úy Pháo đội trưởng bèn đem xe ra phố chở về đồn
một tiểu đội nữ sinh trung học đẹp như hoa. Các cô yêu lính lắm,
nên tình nguyện ra tiền đồn hát cho lính nghe. Tôi còn nhớ, ngày
đó bản Pop Rock “Beautiful Sunday” của Daniel Boone đang rất
thịnh hành:
Hi
hi hi, beautiful Sunday
This is my my my
beautiful day
When you said said said
said that you loved me
Oh my, my, my
it’s a beautiful day...
Tạm dịch:
Xin chào một ngày Chủ Nhật tuyệt vời.
Ðây là ngày đẹp của tôi.
Khi em nói với
tôi rằng em yêu tôi.
Ôi trời! Một ngày
đẹp tuyệt vời...
Các cô nữ sinh cứ đua nhau, hát đi, hát
lại bài này cả chục lần... Các cô chia nhau ra từng toán nhỏ, đi
tới tận đỉnh đồi, cuối dốc, để hát cho lính tiền đồn nghe. Tôi
thấy cả tiểu đoàn mà chỉ có hai cây guitar theo chân hai tốp ca
đã xuống núi tới Ðại Ðội 4/82. Trên đồi còn hai tốp ca khác không
có nhạc đệm, nên tôi ra khu súng cối kiếm ông nhạc sĩ cận thị
Phan Thành Hoàng:
– Ê! Hoàng! Chú mi mau mau đem guitar
ra đệm cho tốp ca của cô áo tím đang hát cho khu gia binh! Lẹ
lên!
Anh chàng
nhạc sĩ cận thị đỏ mặt, ấp úng:
– Trình Thiếu tá! Em là dân guitar Vọng
Cổ. Em có biết tân nhạc đâu mà đệm cho mấy cô?
Nghe chú Hoàng trả lời tôi cũng ngẩn
người ra:
“Ồ!...”
Nào
ngờ những câu đối đáp của tôi và chú Hoàng lọt vào tai các cô ca
sĩ, thế là các cô vội vàng bu quanh hầm súng cối, rồi nhao nhao
lên,
– Thiếu
tá nói với anh này ca cho tụi em nghe vài bài Vọng Cổ đi! Thiếu
tá!
Tôi ra
lệnh cho anh chàng nhạc sĩ Vọng Cổ của đơn vị:
– Các cô em gái hậu phương đã hát cho
Biệt Ðộng Quân nghe rồi, giờ này tới phiên chú Hoàng phải đáp lễ
cho các cô!
Ngay khi ông nhạc sĩ cận thị vừa dạo đầu hai tiếng “Tưng!Tưng!”
là tôi tìm đường lui, chạy vào hầm hành quân ngay.
Tôi sợ Vọng Cổ lắm!
Tới chiều hôm đó phái đoàn ủy lạo chiến
sĩ mới lên xe về phố, hẹn sang năm sẽ tới thăm chúng tôi lần nữa.
Thế là Tết này các chú tân binh được một ngày vui, hết nhớ nhà,
vì được người hậu phương tới tận chiến hào hát cho nghe. Tôi
thấy, ở tiền đồn biên giới thì ngày nào cũng giống nhau, không
phân biệt Chủ Nhật hay Thứ Hai, ngày nghỉ hay ngày thường. Bất cứ
ngày nào không có đạn bom rơi, thì ngày đó cũng coi như là
“Beautiful Sunday”
Ðầu tháng 2 năm 1975 Ðại úy Ngũ Văn
Hoàn và Trung úy Trần Văn Phước xin phép tôi về Sài Gòn ít ngày
để sắm Tết và thăm nhà. Ðây là dịp để ông Hoàn thăm ông cụ thân
sinh. Còn ông Phước thì về khoe cái lon trung úy tân thăng với bà
con, đồng thời đi coi mắt mấy cô nữ sinh hàng xóm. Bố của chú
Phước là ông Chiêm Tinh Gia Trần Cẩm, một thân hào, nhân sĩ rất
có uy tín trong khu Phố An Bình, Chợ Lớn.
Sau ngày Ông Táo về trời thì ông Hoàn
và ông Phước cũng trở về tiền đồn. Quà của ông Hoàn mang về biếu
tôi là một hộp thiệp chúc Tết in hoa hòe, hoa sói, hoa mai, hoa
đào, dùng để gửi cho bất cứ ai mà tôi ưa. Những tấm thiệp này
được cung cấp từ nhà in trong Chợ Lớn của cụ Ngũ Văn Bằng, thân
phụ của Ðại úy Ngũ Văn Hoàn.
Trung úy Phước trình diện tôi với vẻ
mặt lo lắng, không tươi:
– Thái Sơn vào lều, em có chuyện muốn
nói riêng với Thái Sơn.
Tôi dắt Phước vào căn lều tranh, rồi
nói với anh lính đứng gác:
– Thằng Ba Rỗ canh cửa, không cho ai
vào lều để tao với Trung úy Phước nói chuyện.
Phước mở cái cặp da, kéo ra một tấm bản
đồ loại có tỷ lệ 1 trên 150 nghìn (1/150,000) đưa cho tôi rồi
hỏi:
– Thái
Sơn có quen dùng loại bản đồ này không?
Tôi hơi ngạc nhiên nhưng vẫn trả lời:
– Bản đồ này thường dùng lúc đi bay.
Anh không lạ thứ bản đồ này. Nhưng mình đâu cần nó?
Phước móc túi đưa cho tôi một cái bì
thư:
– Thái
Sơn coi cái này!
Trong bì thư là tờ giấy đánh máy một
lệnh thuyên chuyển, với chữ ký của Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai, Chỉ
Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Lệnh thuyên chuyển đó cho phép Trung úy
Trần Văn Phước đáo nhậm đơn vị mới là Phòng 2 Bộ Chỉ Huy Biệt
Ðộng Quân/Trung Ương. Lệnh này có hiệu lực ngay ngày ký.
Chú Phước nhìn tôi rồi hạ giọng:
– Ba em quen thân với Thiếu tướng Giai.
Ba em vừa xin, ông Giai chấp thuận liền. Ổng cho phép em về làm
việc với Trung tá Sáu ngay sau khi hết phép, không cần quay lại
tiểu đoàn nữa.
– Sao Phước không ở trong đó luôn, còn
về lại đây làm gì?
Phước lắc đầu:
– Em đâu phải phường vong ân bội nghĩa?
Mặt mũi nào mà em bỏ Thái Sơn được?
– Thế còn cái bản đồ tỷ lệ 1 trên 150
ngàn thì để làm gì?
Tới đây Phước ra dấu cho tôi đừng nói
nữa, rồi kéo tay tôi xuống căn hầm mà tôi dùng làm phòng riêng
của Tiểu đoàn trưởng.
Phước cho tôi hay một tin tức mà tôi
không thể tưởng tượng đó là chuyện thật.
Phước có một người anh làm việc trong
Tòa Ðại Sứ Mỹ.
Ông ta nghe nói Phước nhất định không
chịu ở lại Sài Gòn sau khi hết phép, thì tới nhà trao cho Phước
cái bản đồ này, cùng với lời khuyên:
– Nếu em không nỡ bỏ ông Long, thì em
nói với ông Long rằng sắp tới đây, người ta sẽ bỏ Vùng 2. Thày
trò em phải chuẩn bị lương khô trên lưng, và có sẵn một cái bản
đồ để đi từ Vùng 2 tới Vùng 3.
Tôi tin những chuyện mà Phước đã trải
qua trong mấy ngày nghỉ phép là có thật. Nhưng tôi cứ thắc mắc về
cái vụ ông nhân viên CIA của Tòa Ðại Sứ Mỹ nói rằng quân ta sẽ bỏ
Vùng 2, sao nghe mơ hồ và vô căn cứ quá!
***
Nghe chuyện này, tuy bụng tôi không
tin, nhưng tôi cũng không dám hoàn toàn phủ nhận. Việc quốc gia
đại sự quả là quá lớn lao, quá rắc rối và quá bí mật, ngoài tầm
nhìn và tưởng tượng của một sĩ quan cấp thiếu tá như tôi. Tôi dặn
chú Phước phải kín miệng không cho ai biết tin này, vì nói cho
nhiều người biết, thì anh em trong đơn vị sẽ hoang mang ngay. Tôi
đưa trả lại cho Trung úy Phước cái bì thư chứa tờ lệnh thuyên
chuyển có chữ ký của Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai, rồi hỏi:
– Cám ơn Phước đã cho anh biết tin này.
Bao giờ thì chú lên đường đáo nhậm đơn vị mới?
Phước trố mắt nhìn tôi:
– Ủa! Anh Hai nói cái gì lạ vậy?
– Anh muốn biết ngày nào chú từ biệt
Tiểu Ðoàn 82 để anh cho lệnh Câu Lạc Bộ mở tiệc tiễn chân chú!
Nghe tôi hỏi, Phước vội giơ cái bì thư
lên, rồi xé nhỏ nó thành nhiều mảnh trước mắt tôi:
– Ðã có lần em nghe Anh Hai chửi, “Em
là một thằng hèn!” rồi. Từ đó cho tới chết, em không muốn nghe
Anh Hai lặp lại câu đó lần thứ hai!
Tôi nhìn thấy hai mắt thằng em tôi đang
đỏ lên dần dần, nó sắp khóc!
“Anh Hai” là biệt danh của tôi thời
gian tôi chỉ huy những tay súng yêng hùng của Viễn Thám Biệt Ðộng
Quân/Quân Khu 2 tung hoành khắp núi rừng Vùng 2. Chỉ có những
người mà tôi thân thiết lắm mới được phép gọi tôi là “Anh Hai”.
Tôi cười, vỗ vỗ nhè nhẹ lên vai Phước:
– Ðừng khóc! Anh biết thế nào chú cũng
không bỏ anh!
Rồi tôi kéo tay Phước xuống Câu Lạc Bộ, tại đây chú Ðặng Thành
Học đang ngồi chờ tôi xuống thưởng thức món thịt nai xào lăn.
Toán tuần tra hướng Nam của Ðại Ðội 1/82 vừa bắn được một con nai
khá lớn đang đi ngu ngơ trên đường. Kỳ tiếp tế này, anh em trong
đơn vị đề nghị không mua gà, mà dồn tất cả tiền thực phẩm tươi
mua bốn con heo thật to để ăn Tết.
Khu nhà bếp trở thành cái chợ, với
những tiếng người nói chuyện om sòm cùng tiếng heo kêu inh ỏi.
Bên khu gia binh, các bà vợ lính cũng đang vây quanh một cái
poncho, trên đó là một con heo nhỏ vừa bị xẻ thịt. Con heo nhỏ
này do ông Tiểu đoàn trưởng xuất tiền của Câu Lạc Bộ mua tặng vợ
con binh sĩ đã từ Pleiku, Ban Mê Thuột lên đây ăn Tết. Chiều cuối
năm Giáp Dần, ngồi trên bờ đất của tiền đồn Kiến Ðức dõi mắt về
phương Bắc, tôi tưởng tượng ra một căn nhà nhỏ ở đường Hàm Nghi,
Ban Mê Thuột, trong đó có người vợ tôi yêu, cùng ba đứa con tôi.
Giờ này chắc vợ con tôi cũng nhớ tôi
lắm? Giao Thừa tới chầm chậm... Có tiếng kinh cầu nguyện của các
bà vợ lính vọng lên từ dưới đường Tỉnh lộ 344. Năm Ất Mão 1975
tôi đã đón chúa Xuân về trên một tiền đồn biên giới cực Nam của
Vùng 2 Chiến Thuật. Hướng Bắc của tiền đồn này là một trung đoàn
địch, hướng Nam còn có cả một sư đoàn của Cộng Quân. Nhưng tôi an
tâm vô cùng, vì dưới tay tôi hiện thời có hàng trăm tay súng dũng
mãnh, can trường.
Chuẩn úy Lê Văn Phước từ dưới Câu Lạc
Bộ đi lên, trao cho tôi một tờ báo Xuân và một bó hoa của ông Cha
Xứ gửi tặng đơn vị. Cầm bó hoa trên tay, quay mặt về hướng thành
phố Gia Nghĩa, tôi thì thầm cho gió mang về hậu phương lời chúc
đầu Xuân:
“Chúc
đồng bào một năm mới an khang và thịnh vượng!”
Vương Mộng Long
Seattle tháng 12 năm 2020
nguồn: hội quán phi dũng
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tqh chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, March 8, 2025
Ban Kỹ Thuật
Khoá 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang