Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Bút
Ký
Chủ đề:
lính bcd
Tác giả:
BCD Lê Đắc Lực
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
“Nhân
sinh từ cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hản thanh”
Trước
năm 1975, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là một lực lượng Quân Đội
được
coi là hùng mạnh nhất vùng Đông Nam Á. Quân số có lúc đã lên
đến một triệu ba trăm năm mươi mốt ngàn chiến sĩ (1,351,000).
Nhiệm vụ chính yếu của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa là bảo vệ Miền Nam Việt Nam trước hiểm họa bành
trướng, xâm lăng của cộng sản. Đối đầu trực diện với giặc Cộng
trên khắp các chiến trường dầu sôi lửa bỏng là các đơn vị tổng
trừ bị tác chiến nổi danh, đã từng xông pha chiến đấu anh dũng,
lập được nhiều chiến công hiển hách, gây cho kẻ thù những tổn hại
nặng nề trên khắp 4 vùng chiến thuật. Đó là các: Sư Đoàn Nhảy Dù,
Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến và 17 Liên Đoàn Biệt Động Quân đặt
trực thuộc các Vùng Chiến Thuật.
Tuy nhiên trong số đó vẫn còn có một
đơn vị tổng trừ bị mà hiệu năng tác chiến, công trạng ít có ai
biết đến, nhưng giặc Cộng thì khi nghe đến danh xưng, cũng phải
kinh hồn khiếp sợ mà né tránh đụng độ và thường truyền khẩu cùng
nhau câu nhật tụng:
“Bất cứ ‘giặc ngụy’ nào cũng đánh.
Nhưng phải tránh đánh Biệt Cách Dù.”
Vâng, đúng vậy. Đơn vị đó là “Liên Đoàn
81 Biệt Cách Nhảy Dù”, thường được gọi tắt là “Biệt Cách Dù”.
*
Trong năm 1970, các hoạt động thả các
Toán Biệt Kích thâm nhập ra miền Bắc hoặc các vùng dọc theo biên
giới Việt–Miên–Lào, không còn mang lại những hiệu quả thích đáng.
Cùng lúc, Liên Đoàn 5 Special Force của Quân Đội Hoa Kỳ theo lệnh
đã triệt thoái ra khỏi Việt Nam. Binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt
thiếu hụt ngân sách, khí tài để hoạt động nên đã bị giải tán. Các
sĩ quan và binh lính đa số được thuyên chuyển sang Biệt Động
Quân, số ít còn lại thì về Nha Kỹ Thuật, Nhảy Dù. Riêng hai đơn
vị tác chiến của Binh chủng là Trung Tâm Hành Quân Delta và Tiểu
Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được sáp nhập lại, với danh xưng là
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, có phù hiệu mới, nhưng vẫn được
giữ nguyên chiếc nón xanh (Green Beret) và phù hiệu của Binh
chủng LLĐB. Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn là Trung tá Phan Văn Huấn.
Đến năm 1972, ông được thăng cấp đặc cách đại tá tại mặt trận
Bình Long, An Lộc.
*
Đại tá Phan Văn Huấn, sinh trưởng tại
tỉnh Thừa Thiên, Huế. Xuất thân Khóa 10 Trần Bình Trọng (1954),
trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, ông là một cấp chỉ huy tài trí,
mưu lược, đạo đức, và liêm chính. Ông sống rất bình dân, giản dị,
và gần gũi với thuộc cấp. Ông coi trọng tính mạng của binh sĩ còn
hơn tính mạng của bản thân.
Lúc còn là Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm
Hành Quân Delta (1967–1970), một đơn vị được xem là tình báo
chiến thuật, phối hợp hoạt động chung với Lực Lượng Đặc Biệt Hoa
Kỳ, cung cấp các Toán Thám Sát Lôi Vũ thâm nhập len lỏi trong
rừng sâu, dọc theo biên giới Việt–Miên–Lào trên dãy núi Trường
Sơn, để thu lượm tin tức, khám phá các mật khu, căn cứ địa của
địch quân, hay phục kích bắt sống tù binh để đem về khai thác
địch tình. Trước khi thâm nhập, Ông rất chu đáo kỹ càng theo dõi
buổi trình bày kế hoạch hành quân của các Toán. Ông đặt ra từng
câu hỏi cho từng biến cố có thể xảy ra để các Toán Trưởng giải
trình đối phó hợp lý. Trong suốt 7 ngày các Toán di hành là 7
ngày Ông có mặt tại Trung Tâm Hành Quân để theo dõi. Trường hợp
các Toán bất ngờ đụng độ với địch quân, bị tổn thất nhân mạng,
hay bị phân tán là coi như Ông ăn ngủ không yên, một mặt Ông đưa
các Đại Đội Myke Force xung kích gấp rút vào tải thương, lấy xác
về, một mặt Ông dùng L–19 hoặc trực thăng UH–1B bay lượn bao vùng
suốt ngày, để tìm kiếm các Toán viên đang thất lạc, cho đến khi
tìm kiếm được, hướng dẫn họ đến các bãi trống an toàn, rồi điều
động trực thăng đến bốc trở về căn cứ hành quân. Lúc đó, Ông mới
thở phào nhẹ nhõm.
Kể từ sau biến cố Tết Mậu Thân (1968),
tình hình chiến sự đã trở lại sôi động. Giặc Cộng vẫn nuôi dưỡng
ý định xảo trá, tái diễn cái trò lấn đất giành dân, nên ồ ạt
chuyển quân qua biên giới, ém quân trong các mật khu, căn cứ địa,
ngõ hầu mở các đợt tấn công qui mô vào các quận lỵ hay thị xã lân
cận, để làm áp lực trong cuộc Hội Đàm 4 bên tại Paris, Pháp Quốc.
Trong cương vị Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn
81 Biệt Cách Nhảy Dù (1970–1975), để đối phó với sự gian manh,
thủ đoạn của giặc cộng, cũng như để binh sĩ thuộc quyền luôn duy
trì, củng cố khả năng tác chiến, đề cao cảnh giác trước mọi tình
huống có thể xảy ra, Đại tá Phan Văn Huấn chỉ thị cho mỗi Biệt
Đội Xung Kích, ứng chiến tại căn cứ hành quân ở Căn cứ Suối Máu,
Biên Hòa hay nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ ở ngã tư An Sương, Hốc
Môn, phải thường xuyên được huấn luyện và rèn luyện:
– Võ thuật Vovinam.
– Chiến thuật du kích và phản du kích.
–
Mưu sinh thoát hiểm.
– Đổ bộ, triệt xuất
bằng trực thăng UH–1B.
– Điều chỉnh phi
cơ, pháo binh oanh kích tác xạ các mục tiêu.
– Theo học các khóa nhảy dù tại Sư Đoàn Dù.
Ngoài ra, Khối CTCT còn tổ chức huấn
luyện về thái độ tác phong đối với dân chúng tại những nơi đồn
trú, trong các vùng hành quân, ngõ hầu thu phục nhân tâm, để họ
đứng về phía Quốc Gia, không để Việt cộng tuyên truyền, dụ dỗ đi
theo bọn chúng.
Chính nhờ vào tài lãnh đạo chỉ huy tài
ba, năng động, khắt khe: “Văn ôn võ luyện” như đã nêu trên của
đại tá mà Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đánh giặc giỏi, áp dụng
nhiều chiến thuật thích ứng với chiến trường Việt Nam, như: “gậy
ông đập lưng ông”, có nghĩa là dùng chiến thuật du kích của địch
để đánh du kích với địch, và đầy sáng tạo như áp dụng chiến thuật
tác xạ súng cối, trọng pháo 7/3 để đánh lừa địch hay xử dụng mìn
tự chế để tiêu diệt chiến xa, đục tường, xử dụng dao găm, lựu đạn
và võ thuật Vovinam để bắt sống tù binh, diệt chốt, gặt hái được
nhiều chiến công hiển hách. Điển hình là các trận:
– Mậu Thân–Nha Trang và Ngã Ba Cây Thị,
Cây Quéo–Gia Định (1968).
– Tiêu diệt
đoàn xe Molotova tại Mật Khu Ashau (1969).
– Tiêu diệt đoàn xe Molotova tại chiến trường Tam Biên, Kontum
(2/1971).
– Tái chiếm Bình Long, An Lộc
(6/1972).
– Tái chiếm Cổ Thành, Quảng
Trị (9/1972).
– Giải tỏa Bến Thế, Bình
Dương (1/1973).
– Giải tỏa Tha La Xóm
Đạo, Trảng Bàng, Tây Ninh (3/1973).
–
Giải tỏa QL–1, Tân Phú Trung, Hốc Môn (1/1974).
– Tịch thu nhiều kho vũ khí tại Chiến Khu D (3/1974).
– Giải tỏa QL–1 tại Rừng Lá – Mật Khu Mây Tào (6/1974).
– Tiếp cứu Phước Long (2/1975).
Dù bộn bề quân hành vạn nẻo, đại tá rất
quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần, tôn trọng và bảo vệ
quyền lợi của quân nhân các cấp, nhất là các thương binh, liệt sĩ
và gia đình Cô Nhi Quả Phụ, Tử Sĩ. Ông chỉ thị cho Chỉ Huy Hậu
Cứ, Khối CTCT, thường xuyên thăm viếng và phải tìm đủ mọi cách để
giúp cho họ có một cuộc sống đầy đủ, lành mạnh vui tươi, bù đắp
những mất mát lớn lao mà các Cô Nhi Quả Phụ phải gánh chịu. Hay
sau mỗi cuộc hành quân, binh sĩ phải được nghỉ ngơi thoải mái,
lành mạnh, ngõ hầu quên đi bao gian khổ, hiểm nguy, cận kề cái
chết trên các chiến trường trận địa thập tử nhất sinh.
Không những thế, Đại tá Phan Văn Huấn
là một con người đầy nhân bản, trung hậu, chí tình chí nghĩa. Đề
cao và tri ơn thâm sâu sự hy sinh xương máu của đồng đội chiến
hữu. Trong mặt trận Bình Long, An Lộc (6/1972). Ông đã chỉ thị
các đơn vị trưởng thuộc quyền, dẫu dù dưới làn mưa đạn, bất cứ
giá nào cũng phải tải thương, đưa xác Tử sĩ về tập trung chôn cất
tại bãi đất trống trước mặt Chợ Bình Long. Kể từ đó Nghĩa Trang
Biệt Cách Dù đã đi vào Quân Sử với hai câu thơ bất tử:
“An Lộc địa sử lưu chiến tích.
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân.”
Đại tá Huấn sống hòa đồng, thân thiện
và cởi mở với mọi thuộc cấp, nhưng rất nghiêm khắc, và cứng rắn
trong quân phong quân kỷ. Không thiên vị mà rất bình đẳng trước
công tội, từ sĩ quan cấp tá cho đến binh nhì của đơn vị. Vui chơi
là vui chơi, quân hành là quân hành, không thể lẫn lộn, nhập
nhằng với nhau được.
Đại tá Huấn là một con người quả cảm,
khí khái, quang minh chính trực và đại trượng phu, không trốn
tránh trách nhiệm để đổ lỗi, qui tội cho thuộc cấp hay đơn vị bạn
tăng phái, đã cùng đổ máu sống chết với mình trong lửa đạn đao
binh. Điển hình, sau khi Phước Long thất thủ, Không Đoàn 43 Chiến
Thuật bị đưa ra điều trần trước Hội Đồng Tướng Lãnh, về sự chậm
trễ đổ quân giải cứu Phước Long. Đại tá Phan Văn Huấn đã đích
thân đến trước Hội Đồng, xin được phát biểu trước, với những lời
lẽ đầy cương quyết, thẳng thắn:
– “Mất Phước Long, lý do tại sao, quý
vị đều biết nhưng không ai nói ra. Phần 81 Biệt Cách Dù chúng tôi
vào chỗ chết đã đành, bởi nghề nghiệp chúng tôi là chọn chỗ chết
để đi vào. Riêng với anh em Không Quân, các phi hành đoàn trực
thăng đã làm quá bổn phận của họ, chết lây với chúng tôi thật tội
nghiệp. Nay đưa họ ra tòa là điều tôi cho là vô lý. Nếu có lỗi
làm mất Phước Long, tôi nhận lỗi. Xin quý vị ở lại tiếp tục họp
và cho tôi biết kết quả. Tôi xin phép ra về vì còn nhiều việc
phải làm.”
Hành động nêu trên của Đại tá Huấn, có thể dẫn đến một hậu quả
nghiêm trọng, ảnh hưởng đến con đường binh nghiệp, nhưng dễ có
mấy ai đã làm được như Ông. Chính vì thế mà Đại tá Huấn chiếm
được hầu hết cảm tình, sự tôn kính, khâm phục, không những của
thuộc cấp trong mà cả ngoài đơn vị cho mãi tới tận bây giờ trong
cuộc sống tha phương nơi đất khách quê người.
Ngoài tài thao lược, Đại tá Huấn còn là
một đơn vị trưởng liêm khiết, trong sạch. Không tài sản, không tư
gia. Cũng giống như binh sĩ, gia đình của ông gồm một vợ và tám
người con, cũng ở trong 3 căn nhà Khu Gia Binh của Liên Đoàn 81
Biệt Cách Nhảy Dù, ngay góc Quốc Lộ 1 và Ngã Tư An Sương, Hốc
Môn. (Xa lộ Đại Hàn).
*
Vào những ngày cuối cùng trước khi tàn
cuộc chiến tháng 4 năm 1975, tại căn cứ hành quân ở Suối Máu,
Biên Hòa, với một BCH Hành Quân của Liên Đoàn, cộng thêm 2 BCH
Chiến Thuật 1 và 2, quân số lên đến 2,000 quân, Đại tá Huấn vẫn
đưa các Biệt Đội xung kích, rải quân phòng thủ ở hướng Bắc phi
trường Biên Hòa, để sẵn sàng chiến đấu, và thả các Toán Thám Sát,
tiếp tục thâm nhập vào chiến khu D, để thu lượm tin tức, theo dõi
các hoạt động của địch quân.
Trong lúc tình thế đang nhiễu nhương
nguy biến, bất thần có một vài chiếc trực thăng UH–1B, do Bộ Tổng
Tham Mưu đã sắp đặt sẵn kế hoạch, bay đến các BCH Hành Quân, các
căn cứ địa, tiền đồn, nhằm để đón các vị chỉ huy cao cấp di tản
khỏi Việt Nam. Nhưng với Đại tá Huấn, như đã nói, là một người
khí phách, dũng cảm, kiên cường và đầy trung nghĩa, cho dù bất cứ
hoàn cảnh nào, cũng không rời bỏ binh sĩ, quyết cùng sống chết có
nhau. Ông đã dứt khoát tuyên bố:
– “Tôi có một vợ và tám con. Tôi có thể
bỏ lại Gia Đình, nhưng không thể bỏ lại hai ngàn Chiến Sĩ của
tôi, để mà ra đi trong hoàn cảnh như thế này được.”
Sau đó Ông đã ở lại chiến đấu cùng đơn
vị đến giây phút cuối cùng, cho đến khi nghe lệnh của Đại tướng
Dương Văn Minh, Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
(lúc đó) kêu gọi toàn thể quân nhân buông súng đầu hàng.
Về sau này, khi ra định cư tại Hoa Kỳ,
đã có lần Ông tâm sự trong xúc động, về giây phút có quyết định
sinh tử tối hậu, sau khi nghe lệnh truyền buông súng đầu hàng,
trong khi các Chiến sĩ Biệt Cách Dù vẫn ngay hàng thẳng lối đứng
bao quanh chờ lệnh, trong một khu đất trống gần ngã tư Thủ Đức và
Xa lộ Đại Hàn:
– “Lúc này trên đầu tôi không còn ai
nữa, một quyết định sai lầm sẽ làm biết bao sinh mạng phải bỏ đi.
Chúng tôi đã sát cánh với nhau đến giờ phút cuối cùng. Nhìn anh
em, tôi không cầm được nước mắt...”
Cuối cùng, sau khi đã họp các cấp Chỉ
Huy trong Liên Đoàn, tất cả đều đành phải chấp hành mệnh lệnh,
trong nỗi uất hận, đớn đau, ê chề bất tận.
Sau ngày Nước mất Nhà tan, Đại tá Phan
Văn Huấn phải bị 13 năm trong ngục tù cộng sản, lưu đày khổ sai,
sống dở chết dở, ở các trại tập trung, mang xảo từ “cải tạo”, nơi
những vùng đất hoang vu, xa xăm, khỉ ho cò gáy ở Việt Bắc trong
mịt mù tăm tối thê lương.
Suốt 13 năm trong vòng lao lý, trải qua
các trại tù từ miền Nam ra đến miền Bắc, trên núi rừng Hoàng Liên
Sơn, Yên Báy, Nam Hà và cuối cùng là trại Z–30 Khu A, gần Núi
Chứa Chan, Tỉnh Long Khánh, Đại tá Huấn vẫn luôn giữ vững tư cách
và nhân cách, vẫn biểu lộ tính khí khái, kiêu hùng không khiếp
nhược, vẫn bảo toàn danh dự, giá trị duy nhất của một chiến sĩ,
một cấp Chỉ Huy của một đơn vị lừng danh 81 Biệt Cách Nhảy Dù.
Ông đã được anh em đồng tù kính phục, như nhà báo Vũ Ánh với bài
viết: “Anh Cả Gia Đình 81 BCND”, hay nhà văn Hoàng Khởi Phong ca
tụng qua tác phẩm “Cây Tùng Trước Bão” với một trích đoạn sau
đây:
“Trong
ánh sáng và bóng tối của một ngày vừa tàn và đêm đang tới, tôi mơ
hồ nhìn thấy Ông trong bộ quân phục với cái mũ kết trên đầu có
một cái khiên. Trong cái khiên này, tôi nhớ có in hình chạm nổi
của một con chim đại bàng và một hàng chữ: ‘Tổ Quốc – Danh Dự –
Trách Nhiệm’. Đó là 3 tín niệm mà một sĩ quan phải đội ở trên
đầu. Không hiểu xưa kia và bây giờ, trong chúng ta đã có bao
nhiêu người còn nhớ? Bao nhiêu người đã quên? Qua kính chiếu hậu
tôi nhìn thấy Ông trở vào trong nhà. Lưng thật thẳng, mặt ngước
cao, Ông có dáng của một Cây Tùng chẳng bao giờ cong lưng trước
bão.”
Vào năm
1988 ra khỏi trại tù, Ông sống cùng vợ và 8 người con rất cơ cực,
thiếu thốn với tấm thân bệnh tật vì những thương tích chiến trận,
vì lao tù hành hạ, trong một căn nhà gỗ, mái tôn vách ván cũ kỹ
tạm bợ, tại Ấp Tân Thái Sơn, cạnh Tân Phú, Quận Tân Bình.
Nếu không có những người lính Biệt Cách
Dù năm xưa, những người đồng tù, vẫn tồn tại gìn giữ mãi trong
lòng sự tôn phục, nể vì về tài năng, khí tiết và yêu thương về
nhân cách, đức độ, để hết lòng thường xuyên thăm viếng, chia xẻ
tinh thần, vật chất và tận tụy chăm sóc thương tật cho Ông, chắc
chắn Ông sẽ không còn sống đến ngày hôm nay, trên đất khách quê
người trong cuộc sống lưu vong.
Là một cựu Toán Trưởng Thám Sát Delta,
một Biệt Đội Trưởng, Trưởng Khối CTCT của Liên Đoàn 81 Biệt Cách
Nhảy Dù, tôi đã từng sống và làm việc dưới quyền chỉ huy của Đại
tá Phan Văn Huấn, trong suốt 9 năm làm lính trận, ít nhiều tôi
cũng hiểu rõ về nhân cách, biệt tài lãnh đạo chỉ huy của Ông.
Cũng nhờ đó mà Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đánh đâu thắng đó,
mang lại nhiều chiến thắng vẻ vang, được ghi vào Quân Sử, được
đồng bào hoan hô, mến mộ và ngưỡng phục từ đó cho tới ngày nay
hay luôn cả mai sau vẫn mãi tồn tại...
Sự kiện minh chứng hùng hồn sáng giá
nhất về tài năng điều binh thao lược của đại tá, đó là vào tháng
6 năm 1972, tại chiến trường Bình Long, An Lộc. Trung tướng
Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đã thừa lệnh Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng
Quân Lực VNCH, gắn vinh thăng đặc cách tại mặt trận cấp bậc đại
tá cho Trung tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt
Cách Nhảy Dù.
Tôi cảm thấy rất vinh hạnh và may mắn vì trong suốt quãng đời
Binh Nghiệp, đã được phục vụ dưới quyền của ông, trong một đơn vị
kiêu hùng, thiện chiến của Quân Lực VNCH, đó là: “Liên Đoàn 81
Biệt Cách Nhảy Dù”.
*
Mỗi người chúng ta khi được sinh ra và
lớn lên trên thế gian này đều có một thần tượng để ngưỡng mộ, tôn
sùng. Tuy nhiên tùy thuộc vào bản tính, sở năng từng người mà có
sự chọn lựa về thần tượng của họ. Riêng tôi có lẽ từ thuở thiếu
thời, đã tiềm ẩn dòng máu nhà binh trong người, nên sau khi vào
lính, theo đơn vị rày đây mai đó trên các trận mạc, để tiêu diệt
giặc thù cộng sản, bảo vệ Tổ Quốc, thì thần tượng của tôi không
ai khác, chính là vị Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy
Dù: Đại tá Phan Văn Huấn, một cựu SVSQ Khóa 10 Trần Bình Trọng,
Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. “Đại
tá Phan Văn Huấn chính là niềm hãnh diện tự hào chung cho Trường
Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt và các Chiến Sĩ 81 Biệt Cách Nhảy Dù, Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa.”
BCD LÊ ĐẮC LỰC
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by tony nguyen chuyển
Đăng ngày Thứ Bảy, March 23,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang