Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
Bút
Chủ đề:
30T4Đ
Tác giả:
Nguyễn Quốc Đống,
K13/VBQGVN
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Lúc này đã là giữa tháng tư, 2024, thời điểm mà người Việt, cả
trong nước lẫn hải ngoại đều “trở về quá khứ”, để sống lại với
nhiều kỷ niệm đau thương của ngày 30 tháng 4, 1975, ngày lịch sử
sang trang. Vào ngày này, một nửa nước Việt (miền Bắc) “say men
chiến thắng” sau khi công cuộc “giải phóng miền Nam” của họ hoàn
thành, nhưng một nửa nước Việt (miền Nam) lại đau đớn, phẫn hận,
vì “nước mất, nhà tan”. Bên nào cũng có lý do để “vui”, hay
“buồn”. Họ không chia sẻ cùng tình cảm, suy nghĩ, vì khác lý
tưởng, khác mục tiêu tranh đấu. Đất nước ngưng tiếng súng, người
Việt thôi giết nhau ngoài trận địa, nhưng lòng người Việt miền
Nam không hưởng được vị ngọt của “hoà bình”, mà chỉ có vị đắng
của “thua cuộc”.
49 năm, nửa thế kỷ, gần trọn một đời
người, cũng là một thời gian khá dài, và nhiều ý nghĩa; để chúng
ta nhìn lại quãng đời mà nhiều người vẫn là những nhân chứng
sống.
Các diễn
biến quan trọng của lịch sử năm 1945 dồn dập xảy ra trên chính
trường quốc tế, ảnh hưởng trực tiếp đến quê hương VN của chúng
ta, một trong 3 nước Đông Dương Việt, Miên, Lào, đều là các thuộc
địa của thực dân Pháp. Thời gian này, Việt Nam (VN) đang chịu sự
thống trị của cả thực dân Pháp, và phát xít Nhật; một cổ hai
tròng, chịu muôn vàn khổ cực, cao điểm là nạn đói cuối năm 1945,
lấy đi mạng sống của gần 1 triệu người dân miền Bắc. Biết được kế
hoạch của Pháp là muốn chiếm lại quyền lực tại Đông Dương, Nhật
đã làm cuộc đảo chánh chớp nhoáng ngày 9 tháng 3, 1945, hất cẳng
Pháp, nắm trọn quyền cai trị tại Đông Dương. Nhật bất ngờ trả lại
nền độc lập của VN cho hoàng đế Bảo Đại triều Nguyễn. Nhưng Nhật
thua trận khi thế chiến thứ hai chấm dứt (tháng 8, 1945), nên
chính phủ Trần Trọng Kim do Vua Bảo Đại thành lập còn non yếu, đã
bị Việt Minh (cộng sản trá hình) cướp mất chính quyền ngày
19/8/1945, rồi thành lập nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ngày
2/9/1945, sau khi áp lực Vua Bảo Đại phải thoái vị, và trao quyền
lãnh đạo đất nước cho họ.
Thời gian cuối 1945, lực lượng Việt
Minh (VM) chưa đủ mạnh, nên phải “thỏa hiệp”, đầu tiên là mua
chuộc quân Tàu Tưởng (quốc gia, không cộng sản) để họ rút về Tàu;
sau đó là ký hiệp định sơ bộ 6/3/1946 với Pháp, đồng ý cho Pháp
trở lại VN, giải giới quân đội viễn chinh Nhật tại Đông Dương.
Mục đích của VM là để có thời gian củng cố lực lượng, và rảnh tay
tiêu diệt các lực lượng quốc gia (chống Pháp, nhưng không theo
đường lối cộng sản của Hồ Chí Minh, người mà họ nhận diện chỉ là
tay sai của đệ tam quốc tế cộng sản).
Nhận thấy Việt Minh chính là cộng sản
trá hình, không thể cộng tác với họ được, Pháp đã tìm giải pháp
thay thế, đề nghị cựu hoàng Bảo Đại đứng ra đại diện VN điều đình
với Pháp về một nước VN độc lập, không cộng sản trong Liên Hiệp
Pháp. Việt Minh bị hất cẳng, bị Pháp đàn áp mạnh, phải rút khỏi
Hà Nội, và thành lập chiến khu tại Việt Bắc, kêu gọi toàn quốc
kháng chiến chống thực dân Pháp, mở đầu cuộc chiến tranh Đông
Dương lần 1 (Việt–Pháp, 1946–1954). Sau nhiều nỗ lực thương
thuyết giữa Pháp và Vua Bảo Đại,”Quốc gia Việt Nam” được thành
lập năm 1949, với cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng, quy tụ các
đảng phái quốc gia, chống Pháp nhưng không chấp nhận đường lối
cộng sản của Hồ Chí Minh.
Kể từ 1948, cuộc chiến Việt Nam đã từ
từ thay đổi bản chất, không thuần túy chỉ là “cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp”, mà còn cuộc chiến của người Việt quốc gia
“chống ý thức hệ cộng sản, chống chủ thuyết Mác–Lê” do Hồ Chi
Minh (HCM) du nhập vào VN, một chủ thuyết mà ông ta tin là con
đường cứu quốc duy nhất bấy giờ.
Cuộc chiến Đông Dương lần 1 (1946–1954)
giữa hai phe “cộng sản” và “quốc gia” chấm dứt với chiến thắng
Điện Biên Phủ (7/5/1954) của phe cộng sản. Hiệp định Geneve được
ký kết (20/7/1954), chấm dứt chiến tranh; nhưng nước VN bị chia
đôi ở vĩ tuyến 17, miền Bắc thiết lập chế độ cộng sản do Hồ Chí
Minh lãnh đạo; miền Nam thành lập quốc gia Việt Nam Cộng Hoà do
Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo, được thế giới tự do hỗ trợ.
Một đất nước, hai quốc gia, hai chế độ; khởi đầu cho một cuộc
chiến tranh mới, chiến tranh “quốc–cộng” giữa 2 miền Nam–Bắc, kéo
dài thêm 20 năm nữa (1956–1975). Cuộc chiến này là cuộc chiến
tranh Đông Dương lần 2, còn được gọi là “chiến tranh Việt Nam”.
Theo Hiệp định Geneve, 2 phe “quốc gia”
và “cộng sản” phải đưa lực lượng của mình về 2 vùng: bắc cho phe
cộng sản, và nam cho phe quốc gia; nhưng CS đã để lại nhiều cán
bộ và chôn giấu các kho vũ khí tại miền Nam, chuẩn bị cho việc
xâm lăng miền Nam sau này, mục đích là hoàn thành “cách mạng xã
hội chủ nghĩa” trên toàn lãnh thổ VN. Hoa Kỳ và các đồng minh
trong thế giới tự do nỗ lực giúp VNCH ngăn chặn làn sóng đỏ từ
miền bắc, nhưng đến đầu thập niên 70, vì quyền lợi quốc gia (Hoa
Kỳ bắt tay được với Tàu cộng, muốn chia rẽ hai nước cs Nga và
Tàu...), Hoa Kỳ đã thu xếp để các bên tham chiến phải ngồi vào
bàn hội nghị để chấm dứt chiến tranh. Hiệp định Paris ký ngày 27
tháng 1, 1973, Hoa Kỳ từ từ rút quân khỏi Nam VN, khiến quốc gia
VNCH rơi vào tay cộng sản Bắc việt ngày 30/4/1975, sau 2 năm
chiến đấu đơn độc chống lại cộng sản bắc việt được cả khối cs yểm
trợ.
Lịch sử
sang trang, miền Nam rơi vào cảnh điêu linh, quân và dân đều hứng
chịu sự trả thù tàn bạo của “đoàn quân giải phóng”: nhà cửa, của
cải, tiền bạc của người dân bị chiếm đoạt qua các đợt đánh tư
sản, đổi tiền, dân bị đuổi đi kinh tế mới; “ngụy quân, ngụy
quyền” đi “học tập cải tạo” nhiều năm.... Nước mắt và máu người
dân lại tiếp tục đổ trong các chuyến vượt biên, vượt biển hãi
hùng, chạy trốn chế độ sắt máu của cộng sản. Những người tỵ nạn
cộng sản (TNCS) này sống lưu vong tại nhiều quốc gia trong thế
giới tự do, nhiều nhất là tại Hoa Kỳ, Canada, Úc, và một số quốc
gia Âu châu như Pháp, Đức.... Với hai bàn tay trắng, họ xây dựng
lại đời sống mới tại quê hương thứ hai, nuôi dạy con cái theo lý
tưởng mà quốc gia VNCH đã dạy dỗ họ: yêu tự do, dân chủ, nhân
quyền, bảo tồn văn hoá dân tộc... Các cộng đồng người Việt TNCS
được thành lập tại nhiều quốc gia, họ coi lá cờ vàng ba sọc đỏ
VNCH là biểu tượng của cộng đồng; và người Việt TNCS vẫn tiếp tục
cuộc tranh đấu chống cộng sản, tại hải ngoại, “vì một đất nước VN
tự do, dân chủ; và một cuộc sống hạnh phúc cho người dân Việt”.
Chúng ta rút ra được những bài học nào
từ biến cố lịch sử 30/4/1975?
1. Vai trò của Hồ Chi Minh (HCM) trong
chiến tranh chống thực dân Pháp (từ 1920 đến 1954 tại VN), và
chống Mỹ tại Nam VN (1954–1975):
Sách báo cộng sản mô tả ông ta là một
người yêu nước, muốn tìm đường cứu VN thoát khỏi ách thống trị
của thực dân Pháp, một giấc mơ mà mọi người VN yêu nước đều mong
muốn, nhưng các cuộc khởi nghĩa chống Pháp giành độc lập đều thất
bại. HCM xuống tàu Pháp Amiral La Touche Treville năm 1911, làm
phụ bếp; không phải để “tìm đường cứu nước”, mà để “tìm kế sinh
nhai”, do hoàn cảnh khó khăn của gia đình (cha bị bãi chức quan
vì phạm tội đánh chết người). Tại Pháp, ông ta đã từng làm đơn
xin học Trường Thuộc Địa tại Pháp, hy vọng sau này sẽ làm “quan”,
phục vụ cho chính quyền thực dân Pháp tại VN; nhưng không được
thu nhận. Một người “yêu nước” không thể có hành động như vậy.
Thời gian đầu lưu lạc tại Pháp, HCM được tiếp cận những nhà ái
quốc như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền...
nên chịu ảnh hưởng của họ và chú tâm đến các vấn đề hệ trọng của
đất nước lúc bấy giờ: độc lập nước nhà, giải phóng dân tộc....
Tuy nhiên, sau này HCM không đồng ý với đường lối tranh đấu của
các nhà ái quốc đương thời, cho là không có hiệu quả. HCM (lúc đó
còn mang tên Nguyễn Ái Quốc) gia nhập đảng cộng sản Pháp năm
1920, sau đó được đảng cộng sản Nga đào tạo thành một đảng viên
cộng sản đắc lực của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản năm 1923.
Kể từ khi tuyên thệ gia nhập QTCS, HCM
không còn hoạt động như một “nhà ái quốc dân tộc” nữa. Ông ta
phải tuyên thệ trung thành với QTCS, mà đường lối của CS không
chấp nhận ý niệm “quốc gia”; đảng viên cs hoạt động vì quyền lợi
“quốc gia” bị coi là “phản đảng”, là có tội. Nhưng để có thể hoạt
động tại VN, và quy tụ toàn dân theo mình, HCM phải che giấu thân
phận cộng sản, đội lốt “người yêu nước”, dùng chiêu bài “giải
phóng dân tộc” để thực hiện mục tiêu của QTCS là “nhuộm đỏ” các
nước Đông Dương sau này. Cuộc chiến tranh xâm lược Nam VN, khởi
đầu năm 1956 nằm trong chính sách này. Lê Duẩn, tổng bí thư đảng
CSVN đã thẳng thắn tuyên bố “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho
Trung quốc”. Chúng ta phải xoá bỏ huyền thoại “HCM là nhà cách
mạng dân tộc, là người yêu nước, là cha già dân tộc”.
2. Các chính sách mà đảng cộng sản thực
hiện tại Nam VN sau ngày 30/4/1975 chứng tỏ họ đi đúng đường lối
“cách mạng xã hội chủ nghĩa”, theo chủ nghĩa Mác–Lê. Họ phải thực
hiện “đấu tranh giai cấp”, tiêu diệt giới tư sản, đưa giới “vô
sản” (đại diện là đảng cộng sản VN) lên nắm quyền. Không có vấn
đề “hòa hợp, hòa giải” với những người đã từng cầm vũ khí chống
lại họ, nên họ mới gọi dân miền Nam là “ngụy quân, ngụy quyền,
ngụy dân”. Tất cả những ai không tin theo họ đều bị coi là “kẻ
thù”, cần bị tiêu diệt. Điều đó vẫn đúng cho đến ngày nay, dù
cuộc chiến “giải phóng miền Nam” đã chấm dứt gần 50 năm rồi. Sau
30/4/1975, một số người đã lạc quan, xem đây là cơ hội “đoàn kết
dân tộc” để xây dựng lại quê hương sau bao năm dài chinh chiến.
Không bao giờ chúng ta tin được là người cộng sản thực tâm muốn
“hòa hợp, hòa giải” với người Việt yêu tự do, dân chủ, đang sống
trong nước, hay đang sống lưu vong tại hải ngoại. Chúng ta với họ
như “nước với lửa”, không có được một mẫu số chung nào.
3. Hàng năm, người Việt TNCS tại hải
ngoại đều làm lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4 với các mục đích chính
sau:
a. Ghi
nhớ công ơn các anh hùng, chiến sĩ trong Quân Lực VNCH đã hy sinh
trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam (1954–1975) chống cộng sản xâm
lăng.
b. Tưởng
niệm các nạn nhân của cộng sản chết trong chiến tranh và sau cuộc
chiến (tại các vùng kinh tế mới, trong các trại tù cải tạo, trên
đường vượt biên, vượt biển tìm tự do...)
c. Tố cáo tội ác của cộng sản đối với
đất nước và người dân Việt, bán nước cho Tàu, bần cùng hóa người
dân, buôn dân Việt đi khắp thế giới....
d. Giáo dục thế hệ trẻ ý thức trách
nhiệm phải tiếp nối công việc chưa hoàn thành của cha, ông.
Chúng ta làm lễ “tưởng niệm” Ngày Quốc
Hận 30/4 hàng năm, không phải vì “oán thù”, không phải để “đau
buồn, than khóc” vì đã mất nhà cửa, địa vị, tài sản, chức
quyền... mà vì người Việt yêu nước chưa hoàn thành “trách nhiệm”
với “tổ quốc” VN, vì giới “lãnh đạo” VN hiện nay đang đưa đất
nước vào tình trạng “bế tắc và diệt vong”.
4. Chúng ta có thể làm được gì trong
cuộc tranh đấu trường kỳ chống cộng vẫn tiếp diễn trong nhiều
thập niên qua (từ 1975 đến nay):
Trước tiên hãy “bảo vệ căn cước tỵ nạn
chính trị” của mình, nếu mình có mặt tại hải ngoại với tính cách
là người “tỵ nạn cộng sản” (cụ thể là các cựu quân nhân của
QL–VNCH, các người dân miền Nam có mặt tại hải ngoại do di tản,
vượt biên, được thân nhân vượt biên bảo lãnh đoàn tụ gia đình,
hay được chính phủ sở tại cho định cư lánh nạn cs qua chương
trình cựu tù nhân chính trị). Người TNCS đừng bao giờ làm hoen ố
căn cước “tỵ nạn chính trị” của mình, vì chúng ta phải đổi nó
bằng máu, mồ hôi, nước mắt của chính bản thân ngoài mặt trận
trong thời chiến, trong trại tù cs sau ngày 30/4/1975. Người TNCS
cũng không thể vô tình “tô hồng, chuốt lục” cho chế độ hiện hữu
tại VN, bằng cách về VN, vì như vậy mặc nhiên công nhận chế độ cs
hiện hữu đã “lành hóa”, không còn là “mối đe dọa, một cái nạn”,
để chúng ta phải đi “tỵ nạn” nữa! Đây là nhận định sai lầm, vì cs
chẳng bao giờ thay đổi, chỉ có một số đông người TNCS đã thay đổi
lòng dạ, nên thoải mái về VN, với nhiều lý do: cưới xin, giỗ
chạp, buôn bán, làm từ thiện, du lịch, nhớ nước, thăm gia đình...
Thực ra chẳng có lý do nào “đủ mạnh” có thể biện minh cho việc
“làm mất căn cước tỵ nạn chính trị” như thế cả; khi chế độ cầm
quyền trong nước vẫn “hèn với giặc, ác với dân”; khi đồng bào và
chiến hữu vẫn đang nhọc nhằn chiến đấu với tà quyền cộng sản tại
quê nhà, và với bọn tay sai tại hải ngoại.
Người TNCS tại hải ngoại cũng đừng “thờ
ơ” với chính trị, vì nghĩ rằng “tham gia chính trị” là dính vào
tranh cãi, là mất thì giờ, là tốn công sức, là mất “tình anh em”
trong tập thể. Không có gì sai lầm hơn suy nghĩ này, nhất là đối
với những cựu quân nhân đã từng được đào tạo tại các quân trường
danh tiếng của miền Nam VN. Ngại sinh hoạt chính trị, chỉ muốn
tập thể của mình sinh hoạt như một hội “ái hữu”, thì khác gì tự
nguyện buông bỏ “lý tưởng quốc gia”, bỏ căn cước “tỵ nạn chính
trị”, nhường sân chơi hoàn toàn cho kẻ thù cộng sản chiếm lãnh!
Đừng quên chúng ta đã “thua” kẻ thù cộng sản trên trận địa do
thiếu vũ khí, đạn dược, chỉ còn “thắng” được họ nhờ có “lý tưởng
quốc gia” cao đẹp. Nay bỏ cả “lý tưởng quốc gia”, thì chúng ta
trắng tay, còn lại cái gì để mà “tự hào”, và để làm gương cho hậu
duệ? Cộng sản sẽ mừng lắm, nếu những người TNCS gốc cựu quân nhân
không tha thiết với lý tưởng ngày xưa,”thôi” không hoạt động
chính trị, “thôi” chống phá chúng tại hải ngoại nữa. Chúng chỉ
mong có thế thôi!
Mùa Quốc Hận năm nay đến, 30/4/2024,
thì các cựu quân nhân QL–VNCH tham dự cuộc chiến ngày xưa đã bước
vào lứa tuổi 70, 80, hay 90 cả rồi. Chúng ta không còn tuổi trẻ
và sức lực như xưa, nên chẳng cáng đáng được những việc to lớn
như ước muốn. Tuy nhiên, nếu còn nhiệt huyết, chúng ta vẫn có thể
làm được những việc nho nhỏ trong tầm tay. Cái gì “có lợi” cho kẻ
thù cộng sản, chúng ta nhất quyết không làm (làm mất danh dự của
tập thể, làm suy yếu lực lượng chống cộng, gây chia rẽ nội bộ, về
VN làm từ thiện, đầu tư, du lịch, làm lợi cho kinh tế VC...) Tất
cả những việc này đều “có lợi” cho cộng sản, và làm “tổn hại” cho
công cuộc tranh đấu chung của cộng đồng TNCS. Chúng ta hãy dành
nhiều thì giờ để giáo dục giới trẻ trong cộng đồng, gần gũi các
em để tạo nhịp cầu thông cảm giữa các thế hệ cha, chú và con,
cháu. Chính các em, các cháu sẽ tiếp nối thế hệ cha, anh đi tiếp
con đường mà chúng ta đã chọn. Hãy giúp thế hệ trẻ giữ vững niềm
tin vào chính nghĩa quốc gia, duy trì ngọn lửa đấu tranh cho đến
ngày Việt Nam thành một nước “độc lập, tự do, hạnh phúc” thực sự.
Đó chính là lúc giấc mơ của người lính
VNCH năm xưa thành hiện thực, chúng ta sẽ không còn ân hận điều
gì khi rời xa thế giới này; và những lần tưởng niệm 30 tháng tư
trong tương lai sẽ mang một ý nghĩa hoàn toàn mới!
Mùa Quốc Hận Tháng Tư, 2024
Nguyễn Quốc Đống,
Cựu SVSQ K. 13/TVBQGVN
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by nguyễn quốc đống chuyển
Đăng ngày Thứ Sáu, April 19,
2024
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư:
Liên lạc
Trở lại đầu trang