Gia
Đình Mũ Đỏ Việt Nam
Vùng Thủ đô Hoa Thịnh Đốn và Phụ cận
Tùy
bút
Chủ đề:
QH30–T4Đ
Tác giả:
Nguyễn thị Thêm
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
Hôm nay 29/4/2023 tôi ngồi một mình trong phòng,
trước mặt là màn hình computer. Ngày mai là ngày mà ai là người VN
lưu vong đều phải nhớ. Trong tôi ngập tràn nỗi nhớ chồng. Thật tếu
và mắc cỡ khi mình lại nói ra điều đó khi tuổi không còn trẻ. Hình
bóng người lính đã bị bào mòn và không thể xuất hiện 48 năm rồi. Anh
chàng đại úy phong sương ngày xưa của tôi đã chết. Chết cả nghĩa đen
lẫn nghĩa bóng. Cái áo lính của chồng tôi mặc mỗi khi đi chăn trâu,
cắt cỏ, cấy lúa trồng khoai ngoài đồng cũng đã rách nát không còn.
Người lính đã tan hàng đã bị xóa sổ một cách bi đát, còn những người
vợ lính thì sao? Nếu trẻ nhất họ cũng đã trên 65 tuổi, thời gian quá
dài để thương đau đọng lại làm những tì vết không thể xóa mờ. Nước
mắt không còn bao nhiêu để khóc cho cuộc đời còn lại.
Tôi lại nhớ đến những người phụ nữ của phe
thắng cuộc. Chứng nhân có thật là những người trong gia đình chồng
tôi. Họ được gì và mất gì sau khi tàn cuộc chiến.
*****
Tôi đi theo mẹ chồng đến đốt hương bên
ngoại. Ông bà ngoại của chồng tôi có 5 cô con gái và một người con
trai út. Mẹ chồng tôi là đứa con gái thứ hai trong gia đình. Cả 5
người con gái bây giờ đều đã già, con cháu thật đông, cuộc sống
không giàu có lắm nhưng đều khá giả hoặc đủ ăn đủ mặc. Người con
trai út của ông bà ngoại chồng tôi đi theo Cách Mạng chống Tây hiện
là bộ đội phục viên mang cấp bậc thượng úy.
Chồng tôi đại úy ngụy, cậu chồng thượng úy
cách mạng. Hai chức ngang nhau ở hai chiến tuyến đối nghịch. Thật sự
tôi chưa từng gặp mặt ông thượng úy này chỉ nghe mẹ chồng mừng vui
báo tin ông còn sống và vội vã thu xếp về quê theo lời nhắn gửi của
ông.
– Mụ yên tâm
về làng, mọi việc có bầy choa lo. Không răng mô.
Tôi về quê chồng, chưa quen khí hậu nơi
này, chưa biết tắm sông, chưa quen giặt đồ ở bến, chưa biết nấu cơm
bằng rơm, chưa quen ăn nước ruốc, hai vai còn sưng to vì tập gánh
nước từ dưới sông về nhà. Chỉ mới mấy ngày để tập tành mọi thứ, mẹ
chồng tôi đã dẫn tôi đến lạy bàn thờ bên ngoại. Nhà bên ngoại cách
nhà bên nội chỉ qua một con đường, ngăn cách bởi cái ao hồ. Cho nên
muốn qua ngoại phải đi con đường vòng, qua mấy nương vườn nhà người
khác, cái chợ, cây đa, đình làng, ra đường lộ đi một lúc mới tới
nhà. Nếu đứng ở bên nhà ngoại kêu to, ới một tiếng lớn là nhà bên
nội có thể nghe.
Khi cha chồng tôi xin hỏi
cưới mẹ chồng. Lễ hỏi đã xong mà cha chồng tôi phải đến nhà vợ làm
rể ba năm mới được cho cưới. Làm rể ngày xưa không dễ, phải làm như
việc nhà mình, tận tụy và siêng năng mới cưới được vợ. Cha chồng tôi
là con con trai đích tôn, là con cầu con khẩn của dòng họ hiếm hoi
con cái. Được cái cha chồng tôi rất hiền, bên đàng gái muốn gì ông
cũng chiều để cưới được vợ. Mẹ chồng tôi giỏi giang, buôn bán tháo
vát lo cho gia đình nên bên ngoại không muốn gả liền để còn nhờ cậy.
Thật không may, cưới được mấy năm cha chồng tôi mất sớm. Dù tuổi đời
còn trẻ, mẹ chồng vẫn ở vậy lo cho ba đứa con và hết lòng phụng
dưỡng cha mẹ chồng.
Nghe kể lại, mùa xuân năm nào đó ghe tàu
của Tây chạy tuần tra dưới con sông Ô Lâu trước nhà bên nội, du kích
quân núp ở nhà dân xả súng bắn tàu. Lính Tây nổi giận đổ bộ lên bờ
đốt sạch nhà cửa, ruồng bố du kích. Lửa cháy khắp làng. Mẹ chồng tôi
chỉ kịp lôi ba đứa con chạy núp dưới ao hồ, tính chạy lên dẫn cha mẹ
chồng chạy trốn nhưng ngọn lửa đã bùng lên dữ đội, lính Tây cầm súng
ruồng bố la hét om trời. Mẹ chồng tôi ôm con không dám khóc, bụm
miệng các con không cho la. Căn nhà của gia đình và những nhà lân
cận cháy phừng phừng trước mặt. Tây rút đi, xác ông bà nội chồng tôi
cháy co rút tội tình. Năm đó mùi thây người khét lẹt bao trùm không
gian, ngày đại tang của cả làng. Nhà nào cũng có mất mát cũng có
người chết thật thê lương. Đó là ngày 12 tháng giêng năm nào tôi
không biết. Chỉ biết đó là ngày kỵ giỗ ông bà nội chồng.
Tôi đến đây để ra mắt tổ tiên bên chồng
nên tôi đảo mắt tìm bàn thờ. Nơi thờ phụng tổ tiên nhà miền Trung
không giống miền Nam. Miền Nam ngay gian giữa nhà trang trọng đặt
bàn thờ, bước vào nhà là thấy ngay như muốn nhắc nhở khách tới nhà
phải biết lịch sự, phải tôn trọng tổ tiên gia chủ. Bàn thờ là một bộ
tủ thờ rất đẹp chạm khắc tinh xảo (hoa văn và phẩm chất gỗ tùy theo
kinh tế của gia chủ). Tủ thờ cao khỏi đầu người, trên bàn thờ bộ lư
đồng để giữa, bát nhang để phía sau, hai chân đèn bằng đồng để hai
bên. Dĩa đựng trái cây khá to được đặt trên một cái giá ba chân thật
đẹp. Hai bên là hai bình bông để cúng. Tủ thờ phía trước chạm trổ,
cửa mở ở hai bên hông dùng để chứa những vật trang trọng quý giá.
Ngày lễ hay Tết bàn thờ rực rỡ hoa trái, hương đèn.
Nhà người miền trung khác hẳn, vị trí bàn
thờ cũng ở giữa nhà nhưng được được che bằng một tấm màn ngăn cách.
Phía trước đặt một bộ bàn ghế dài dùng để tiếp khách. Chỉ trong
những ngày kỵ giỗ tấm màn mới được kéo ra để gia đình làm lễ. Bàn
thờ hơi thấp được đặt phía trong với nhiều bát hương đặt cao thấp
khác nhau theo thứ tự vai vế gia phả trong gia đình. Bàn thờ miền
Nam chỉ có một bát hương để cắm nhang, bàn thờ miền Trung có rất
nhiều bát hương nên trông có vẻ âm u và hơi... dễ sợ.
Tôi vén màn đi vào và đốt hương. Không
biết bát hương nào là của ông bà ngoại. Thôi thì cắm hết và... thật
vô duyên không biết phải khấn gì với ai, tên họ gì. Tôi hồi hộp và
lúng túng chỉ biết niệm lâm râm Nam Mô A Di Đà Phật.
Mẹ chồng tôi giới thiệu tôi chào Mợ Tuấn.
Mợ thấp người, khắc khổ và nhìn rất lam lũ. Hai người đàn bà có
chồng ở hai phía Quốc – Cộng chào nhau. Mợ Tuấn là một người phụ nữ
xứng đáng được mẹ chồng tôi trân trọng. Mặc dù cậu là con trai độc
nhất trong gia đình được cha mẹ và các chị thương yêu bảo bọc, nhưng
cậu bỏ tất cả gia nhập hàng ngũ kháng chiến chống Pháp lúc mợ vừa
cấn bầu đứa con trai đầu lòng. Mợ ở nhà làm ruộng, phụng dưỡng cha
mẹ chồng cho đến ngày ông bà ngoại chồng tôi mất. Con trai mợ hiện
giờ đã cưới vợ sắp sửa sinh con thì được tin chồng vẫn còn sống và
chuẩn bị trở về đoàn tụ. Mợ vui vẻ tươi cười với những tin vui chiến
thắng. Ngồi nghe mợ nói chuyện, niềm vui chờ sum họp với chồng, tôi
chạnh lòng nghĩ đến thân phận của mình. Đây cũng là gia đình nhưng
người phụ nữ trước mặt chờ tin vui. Tôi và chồng là những người đối
lập sẽ nhận những bất trắc, trả thù vì mình là Ngụy.
Gia đình thứ hai tôi đến để đốt hương và
ra mắt là nhà của chú Minh, chú họ của chồng tôi. Ông cố chồng sinh
được hai người con trai. Ba chồng tôi là con nối dõi của người anh,
chú Minh là con nối dõi người em. Nghe thì xa nhưng với gia phả
trong họ tộc thì rất gần. Vì cha chồng tôi và hiện giờ chồng tôi
đang là trưởng tộc. Người chú họ này cũng bỏ nhà đi kháng chiến,
người vợ mới cưới phải ở nhà phụng dưỡng cha mẹ chồng và cũng sinh
được một con trai độc nhất. Điều khác giữa mợ Tuấn và thím Minh là
mẹ chú Minh vẫn còn sống nhưng hai mắt đã mờ. Con dâu của thím Minh
vừa sinh đôi hai đứa cháu trai cực kỳ kháu khỉnh dễ thương. Bà cố
đang đong đưa hai cái nôi mà người ở đây gọi là dứng. Đó là cái nôi
trẻ con nhưng có bốn sợi dây được móc lên cao, muốn ru người ta nắm
bốn sợi dây và lắc. Nghe tiếng má chồng tôi, mụ nghiêng người lắng
nghe:
– Mụ Thi về
khi mô rứa? Có vợ thằng Trai về khôn?
Tôi lên tiếng chào và bước tới nắm tay mụ.
Bàn tay nhăn nheo của những người già lao động quanh năm. Mụ chỉ bàn
thờ cho mẹ con tôi vào thắp hương và báo tin chú Minh đã liên lạc
nhưng chưa về đến nhà. Tôi ngồi nhìn hai thằng bé, cưng quá là cưng
với gương mặt bụ bẫm. Mẹ chồng tôi còn mê chúng hơn vì tôi chỉ sinh
được con gái, còn đây là hai đứa cháu trai.
Quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô” đúng vô cùng ở những gia đình này. Con trai cưới vợ đẻ con, con
dâu mặc dù không có chồng bên cạnh vẫn chăm sóc cha mẹ chồng, nuôi
con duy trì huyết mạch nối dõi tông đường.
Những người như mợ Tuấn, thím Minh hay mẹ
chồng tôi là những người đàn bà điển hình trong xã hội VN. Khi đã
lấy chồng họ sống và hy sinh cả đời cho gia đình nhà chồng. Đối với
họ chăm sóc mồ mả gia nương nhà chồng, đẻ con trai và duy trì nòi
giống là nhiệm vụ mà họ phải tuyệt đối làm tròn.
Vì gia đình bên chồng tôi chuyên về nghề
mộc, nên dựng lại căn nhà với đầy đủ vật liệu là chuyện dễ dàng. Chỉ
một tuần lễ trên nền nhà bỏ hoang ngôi nhà tôi đã được thành hình.
Dựng lại căn nhà xong, chưa kịp xếp đặt mọi thứ, chồng tôi được lệnh
khăn gói đi học tập cải tạo. Từ đó không có tin tức, không thấy trở
về để biết mặt và chào hỏi hai người thân cách mạng đã kêu gọi anh
về đây: “Không răng mô, về làng có bầy choa lo”.
Chú Minh về làng trước, chú ra dáng là một
bộ đội Bác Hồ. Chú không nói về cấp bậc trong quân đội nhưng để trả
lời cho câu hỏi vì sao mấy chục năm chú không liên lạc với gia đình
thì thím Minh được nghe sự thật đau lòng: “Chú đã lập gia đình với
một nữ đồng chí bộ đội và lễ tuyên bố được đảng đứng ra tổ chức.”
Chú Minh về thăm mẹ, thăm gia đình rồi vội
vã về lại Bắc. Chú không thể can thiệp hay giúp đỡ gì thằng cháu sĩ
quan Ngụy đang không biết được giam giữ ở đâu. Hành trang chú mang
về Bắc là một số vật dụng của gia đình tôi khi chú ỉ ôi với mẹ chồng
tôi: “Mụ về đây không có điện thì để lại làm gì, mụ cho lại các cháu
của Mụ ngoài ấy.”
Từ lúc chú Minh về rồi đi, thím Minh như
một người khác, thím gầy rạc đi trông thấy. Sự uất ức oán hận khiến
người phụ nữ hiền lành, chịu thương chịu khó thay đổi. Chỉ cần ai
đến nhà, hỏi thăm chú Minh thì cơn giận trong thím trỗi dậy, sự ghen
tức khiến thím nói những điều không tốt về người chồng thím từng tôn
trọng. Người mẹ chồng tội nghiệp của Thím không thể làm gì hơn chỉ
biết khóc và chịu đựng những cơn giận dữ của con dâu. Gia đình ngày
trước sống bình yên hạnh phúc bao nhiêu bây giờ chìm đắm trong bầu
không khí oán hờn thiếu đi sức sống.
*****
Rồi cậu Tuấn cũng về làng. Người con trai
sinh ra cậu chưa một lần gặp mặt giống cậu như khuôn đúc. Hai cha
con ôm nhau mừng rỡ. Mợ Tuấn được chồng chiều chuộng hết lòng. Mợ
sống những ngày hạnh phúc nhất sau mấy chục năm vò võ nhớ mong. Mợ
trẻ ra, tươi tắn và chăm chút bản thân hơn. Tôi đã thấy nụ cười và
ánh mắt rạng ngời của mợ mà thật thương cho thân phận đàn bà. Mẹ
chồng tôi và các người chị của cậu Tuấn dành cho cậu những đón tiếp
yêu thương và long trọng nhất. Người em trai quý tử của gia đình đã
trở về, chức lớn trong chế độ mới làm họ thấy mình hạnh phúc hẳn ra.
Rồi thì những ngày về thăm quê cũng hết, như bong bóng lên cao sẽ
vỡ, cậu Tuấn trước khi về lại miền Bắc, thú nhận với các chị mình đã
có một gia đình ấm êm với ba đứa con đã trưởng thành cả trai lẫn
gái. Cậu chỉ về đây để thăm còn gia đình chính thức đang ở ngoài
kia.
Ôi những
người đàn ông bội bạc đã làm tan nát trái tim của những người vợ
thủy chung son sắt. Mợ Tuấn ngất xỉu khi nghe sự thật. Mợ không hung
hăng hờn giận như thím Minh, mợ chỉ khóc và lặng lẽ sống trong câm
nín tủi thân. Mẹ chồng tôi và các dì, dượng không biết phải nói gì.
Sự thật bây giờ cũng không thể làm gì khác. Những đứa cháu dù sao
cũng ruột thịt, mấy chục năm xa nhà cậu cũng phải có người chăm sóc.
Và thế các mụ đồng ý chấp nhận gia đình bên kia, cậu về tay không
nhưng khi cậu đi ê hề là quà cáp các mụ gửi về cho em dâu, cho cháu.
Cậu Tuấn thành công đại thành công.
Khi mẹ chồng tôi nhắc đến đứa con trai tội
nghiệp không biết bây giờ ra thế nào. Cậu Tuấn khuyên mẹ chồng tôi
nên chờ đợi. Những người có tội với nhân dân phải nhận hình phạt.
Nếu học tập tốt, thông suốt đường lối cách mang sẽ được khoan hồng
về sớm.
Từ ngày
cậu Tuấn ra Bắc lại, mợ Tuấn và các chị bên chồng không còn khắng
khít như xưa. Đối với mợ, các chị chồng chấp nhận bên kia là không
công bằng với mợ. Những gì mợ đã cống hiến cho gia đình coi như
không còn giá trị. Gần như cả cuộc đời của mợ đã chờ đợi hoang uổng.
Bây giờ mợ đã thật sự mất chồng, chỉ toàn tâm toàn ý lo cho con trai
và các cháu.
Hòa
bình đã trở về trên mảnh đất chịu nhiều thương tổn của chiến tranh.
Người lính của hai bên đã rời xa chiến trường. Người vợ của phe
thắng cuộc cũng như bên thua được gì và mất gì? Như Mợ Tuấn hay thím
Minh đoàn tụ với chồng trong u uất, oán hờn. Như tôi chia ly chồng
trong nước mắt. Bao nhiêu bi ai đều đè nặng trên đôi vai bé nhỏ của
người phụ nữ VN.
Chiến tranh tàn khốc đã chấm dứt nhưng những dư chấn cho cuộc chiến
ý thức hệ mãi mãi vẫn còn. Tôi đã sống trọn vẹn những ngày tháng vất
vả gian lao chờ chồng trong chế độ mới. Những nhân vật chính tôi kể
trên đây đều là thật và đã thành những người muôn năm cũ. Không ai
đúng hoặc sai hoàn toàn. Mỗi người đều bị ràng buộc bởi vòng xoay
của chiến tranh ý thức hệ và vô thường trong cuộc sống.
Đàn bà chúng tôi luôn luôn là nạn nhân
trong cuộc chiến. Người đàn ông không thể nào hiểu được sự kiên trì
chịu đựng của phụ nữ khi hy sinh cho người mình yêu thương. Trái tim
phụ nữ cũng bằng thịt nhưng sự dũng cảm nhiều khi sắt đá cũng phải
chịu thua.
Nguyễn thị Thêm
29/4/2023
Bấm vào đây để in ra giấy (Print PDF)
THIÊN SỨ MICAE – BỔN MẠNG SĐND VNCH
|
Hình nền: thắng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ. Để xem được trang web này một cách hoàn hảo, máy của bạn cần được trang bị chương trình Microsoft Internet Explorer (MSIE) Ấn bản 9 hay cao hơn hoặc những chương trình Web Browsers làm việc được với HTML–5 hay cao hơn.
Nguồn: Internet eMail by Lang Phạm chuyển
Đăng ngày Thứ Ba,
May 2, 2023
Ban Kỹ Thuật
Khóa 10A–72/SQTB/ĐĐ, ĐĐ11/TĐ1ND, QLVNCH
GĐMĐVN/Chi Hội Hoa Thịnh Đốn & Phụ cận
P.O.Box 5345 Springfield, Virginia, VA 22150
Điện thoại & Điện thư: Liên lạc
Trở lại đầu trang